Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VỚI ý THỨC VÀ VẬN DỤNG VÀO CÔNG CUỘC đồi MỚI ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.37 KB, 15 trang )

lOMoARcPSD|11379211

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
-----***-----

TIỂU LUẬN
Mơn: Triết học Marx-Lenin
Đề tài:
QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
VẬT CHẤT VỚI Ý THỨC VÀ VẬN DỤNG VÀO CÔNG CUỘC ĐỒI
MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quỳnh Chi
Mã SV: 2112750012
Lớp hành chính: Nhật 01 – K60 TNTM CLC
Lớp tín chỉ: TRIH114.CLC.hocghep1
Giảng viên hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Tùng Lâm

Hải Phòng, 12/2021


lOMoARcPSD|11379211

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU........................................................................................................................... 3
PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................................... 4
CHƯƠNG I. QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT
CHẤT VỚI Ý THỨC ............................................................................................................... 4
I. Vật chất .................................................................................................................................. 4
1. Định nghĩa phạm trù vật chất ............................................................................................... 4


1.1 Quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước Marx về vật chất .................................................. 4
1.2 Định nghĩa vật chất của Lenin ............................................................................................. 4
2. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất.................................................................... 5
II. Ý thức ................................................................................................................................... 6
1. Nguồn gốc của ý thức ............................................................................................................ 6
1.1 Nguồn gốc tự nhiên............................................................................................................... 6
1.2 Nguồn gốc xã hội .................................................................................................................. 7
2. Bản chất và kết cấu của ý thức ............................................................................................. 7
2.1 Bản chất của ý thức .............................................................................................................. 7
2.2 Kết cấu của ý thức ................................................................................................................ 8
III. Mối quan hệ giữa vật chất với ý thức ............................................................................... 8
1. Vai trò của vật chất đối với ý thức ........................................................................................ 8
2. Vai trò của ý thức đối với vật chất ........................................................................................ 9
CHƯƠNG II. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ VẬN DỤNG TRONG CÔNG
CUỘC ĐỔI MỚI CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY .................................................................... 9
I. Ý nghĩa phương pháp luận................................................................................................... 9
II. Vận dụng lí luận trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay .................................. 10
KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................... 15

2


lOMoARcPSD|11379211

LỜI NĨI ĐẦU
Cách mạng khoa học và cơng nghệ phát triển ngày càng nhanh, kéo theo hệ quả thúc đẩy quá
trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế và đời sống xã hội một cách vô cùng mạnh mẽ. Các quốc
gia đều có cơ hội để phát triển và định hướng kinh tế. Tuy nhiên do ưu thế về nền công nghệ
thị trường nghiêng về các nước phát triển nhiều hơn, khiến cho các nước chậm phát triển và

đang phát triển đứng trước những thách thức to lớn, trong đó có Việt Nam.
Vậy chúng ta phải làm thế nào để thực hiện mục tiêu đổi mới trong thế kỉ XXI, mà theo cách
nói của Hồ Chí Minh là: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh”? Từ thực
tiễn hiện nay cùng với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, bỏ qua chế độ chủ nghĩa tư
bản, tại đại hội VII của Đảng ta lần đầu tiên đã khẳng định: Chủ nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng
Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng. Tức là, chúng ta
phải: dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Marx - Lenin mà tổng kết những
kinh nghiệm của Đảng, phân tích một cách đúng đắn những ưu điểm, khuyết điểm của nước ta
và có thể đưa ra được hướng giải quyết còn tồn đọng. Trong số các vấn đề về quan điểm duy
vật biện chứng, vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới ở nước ta
hiện nay là một đề tài cấp thiết bởi trong xu thế toàn cầu hố, hiện đại hóa nhanh chóng như
hiện nay, các quốc gia trên thế giới đều đang tiến hành và đẩy mạnh cơng cuộc đổi mới tồn
diện đất nước và Việt Nam khơng phải ngoại lệ.
Nhận thức rõ tính đúng đắn, quan trọng của vấn đề này, sau một thời gian nghiên cứu và học
tập môn học “Triết học Marx-Lenin”, tôi đã lựa chọn đề tài: "Quan điểm duy vật biện chứng về
mối quan hệ giữa vật chất với ý thức và vận dụng vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay"
để đưa vào bài luận của mình. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu chiến lược của bài luận được tôi
đề ra như sau:



Hiểu rõ nội dung, ý nghĩa của quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức.
Vận dụng phép duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc
đổi mới ở nước ta hiện nay

Điều này sẽ được thể hiện rõ ở phần nội dung của bài luận.

3



lOMoARcPSD|11379211

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI
QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VỚI Ý THỨC
I. Vật chất
1. Định nghĩa phạm trù vật chất
1.1 Quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước Marx về vật chất
Vật chất là phạm trù triết học đã có lịch sử phát triển trên 2500 năm. Đây là một phạm trù hết
sức phức tạp và cũng có rất nhiều quan niệm, tranh cãi xung quanh nó. Trước khi chủ nghĩa
duy vật biện chứng ra đời, các nhà triết học duy vật quan niệm rằng vật chất là một số chất tự
có, xuất hiện đầu tiên và cũng chính là cơ sở sinh ra toàn bộ thế giới chúng ta hiện tại.
Trước Marx, chủ nghĩa duy vật có vơ vàn định nghĩa về vật chất. Tuy vậy có một định nghĩa
điển hình: “Phạm trù vật chất là nền tảng của thế giới duy vật xác nhập trên cơ sở thừa nhận
bản chất của thế giới là duy vật”.
Thời kì cổ đại, các nhà triết học duy vật đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể, tức là những
vật thể hữu hình đang tồn tại ở thế giới xung quanh như: nước, lửa,… Đỉnh cao của tư tưởng
duy vật thời kì ấy là thuyết nguyên tử của Leucippus-Democritis: “nguyên tử là phần tử vật chất
bé nhỏ nhất, cứng, không thể phân chia, không thể nhận biết bằng tư duy”.
Thời kì cận đại, chủ nghĩa duy vật nói chung và phạm trù vật chất nói riêng tiếp tục phát triển
dựa trên những quan điểm đến từ thời kì cổ đại song cũng có nhiều bước tiến mới, chứa đựng
nhiều yếu tố biện chứng hơn. Tuy vậy, sự phát triển của khoa học tự nhiên đã bác bỏ phần nào
quan điểm của các nhà khoa học, từ đó dẫn tới cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong nghiên
cứu vật lí học. Mọi phân biệt vật chất giữa các vật thể đều bị quy về sự phân biệt về lượng, mọi
hiện tượng bị quy về cái đơn giản, mọi sự vận động đều quy về sự dịch chuyển vị trí trong
khơng gian, đồng nhất vật chất với thuộc tính của vật chất.
1.2 Định nghĩa vật chất của Lenin
V.I. Lênin đã tiến hành tổng kết những thành tựu khoa học tự nhiên cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ
XX và từ nhu cầu của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm. Người đã vạch rõ ý đồ xuyên

tạc những thành tựu khoa học tự nhiên của những nhà triết học duy tâm, khẳng định bản chất
vật chất của thế giới và đưa ra định nghĩa cực kỳ đúng đắn về bản chất của vật chất.
Lenin đã đưa ra định nghĩa về vật chất, một cách cốt lõi nhất: “Vật chất là phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác
của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Thứ nhất, khi định nghĩa: "Vật chất là một phạm trù triết học", Lenin muốn chỉ rõ vật chất là
một khái niệm rộng nhất, muốn phân biệt vật chất với tư cách là một phạm trù triết học khác
với khái niệm được sử dụng trong khoa học chuyên ngành. Định nghĩa vật chất đã khắc phục
được những quan niệm siêu hình của chủ nghĩa duy vật cũ, đồng nhất vật chất với hình thức
biểu hiện cụ thể của nó.
Thứ hai, Lenin đã cho rằng bản chất của vật chất là tự nó vốn có, khơng thể tiêu diệt, tồn tại
bên ngồi và khơng lệ thuộc vào cảm giác, ý thức con người. Vật chất là một thực tại khách
quan, khác với quan niệm “ý niệm tuyệt đối” mà chủ nghĩa duy tâm khách quan đề ra.
4


lOMoARcPSD|11379211

Thứ ba, hơn thế nữa Lenin còn khẳng định, cảm giác chép/chụp lại phản ánh vật chất chứ vật
chất tồn tại không hề lệ thuộc vào cảm giác. Khẳng định như vậy một mặt Lenin muốn nhất
mạnh tính thứ nhất, tính phân biệt của vật chất, vai trị quyết định của nó với ý thức, và mặt
khác khẳng định khả năng nhận thức thế giới khách quan vốn có của con người.
Định nghĩa vật chất của Lenin cũng giúp chúng ta nhân tố vật chất trong đời sống xã hội, đó là
tồn tại xã hội, và nó cũng có ý nghĩa định hướng trong nghiên cứu khoa học tự nhiên, giúp khoa
học tự nhiên ngày càng đi sâu vào nghiên cứu dạng cụ thể của vật chất trong giới vĩ mơ. Nó
cũng giúp chúng ta có thái độ khách quan và đòi hỏi chúng ta phải xuất phát từ thực tế khách
quan trong suy nghĩ và hành động.

2. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc

tính cố hữu của vật chất, diễn ra trong không gian và thời gian. Vì vậy, vận động, khơng gian,
thời gian là phương thức và hình thức tồn tại của vật chất.
* Vận động:
Theo quan điểm siêu hình, vận động là sự di chuyển vị trí cả vật thể trong thời gian, khơng gian,
nguồn gốc của sự vận động là ở bên ngoài của sự vật, hiện tượng. Còn theo Ph.Angghen định
nghĩa: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc
tính cố hữu của vật chất bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ,
kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho tới tư duy”. Thế giới vật chất bao giờ cũng ở trong quá
trình vận động không ngừng. Khoa học đã chứng minh rằng nếu một hình thức vận động nào
đó của sự vật nhất định mất đi thì việc nảy sinh ra một hình thức vận động khác thay thế nó là
điều tất yếu. Các hình thức vận động chuyển hố lẫn nhau, cịn vận động của vật chất nói chung
thì vĩnh viễn tồn tại cùng với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất. Cho tới nay có 5 phương thức
vận động của thế giới vật chất: cơ học, vật lí, hóa học, sinh học, và xã hội.
Các hình thức vận động đều có quan hệ chặt chẽ với nhau. Một hình thức vận động nào đó được
thực hiện là do sự tác động qua lại với các hình thức vận động khác trong đó những hình thức
vận động cao bao giờ cũng bao hàm những hình thức vận động thấp hơn, nhưng cũng khơng
thể coi hình thức vận động cao là tổng số đơn giản các hình thức vận động thấp. Mỗi sự vật,
hiện tượng có thể gắn với nhiều hình thức vận động nhưng bao giờ cũng được đặc trưng bằng
một hình thức vận động cơ bản nhất.
Mặc dù vật chất ln ở trong q trình vận động khơng ngừng nhưng điều đó khơng loại trừ mà
cịn bao hàm cả hiện tượng đứng im. Ph.Angghen khẳng định rằng khả năng đứng im tương đối
của các vật thể, khả năng cân bằng tạm thời là những điều kiện chủ yếu của sự phân hóa vật
chất. Nếu coi vận động là sự biến đổi của các sự vật, hiện tượng thì đứng im là sự ổn định, là
sự bảo tồn tính qui định của các sự vật hiện tượng, chưa làm biến đổi về chất, vị trí, hình dáng,
kết cấu của sự vật. Đứng im là một trạng thái đặc biệt của vận động, vận động trong thăng bằng,
trong sự ổn định tương đối.
* Không gian và thời gian:
Không gian phản ánh thuộc tính của các đối tượng vật chất có vị trí, hình thức kết cấu, có độ
qng tính (dài, ngắn, cao, thấp). Cịn thời gian phản ánh thuộc tính của các quá trình vật chất
diễn ra nhanh hay chậm, kế tiếp nhau theo một trật tự nhất định. Như vậy khơng gian và thời

gian là thuộc tính khách quan, nội tại của bản thân vật chất.
5


lOMoARcPSD|11379211

Khơng gian và thời gian là hình thái cơ bản của vật chất trong trạng thái vận động. Lenin đã chỉ
ra trong thế giới, khơng có gì ngồi vật chất đang vận động, và chúng không thể vận động ở
đâu khác ngồi khơng gian và thời gian. Khơng phải là hình thức chủ quan để xếp chặt các cảm
giác mà ta thu nhận một cách lộn xộn như chủ nghĩa duy tâm quan niệm, khơng thể đứng ngồi
vật chất. Khơng gian và thời gian không phải là bất biến, tuyệt đối, mà trái lại khơng gian và
thời gian có sự biến đổi phụ thuộc vật chất vận động. Bên cạnh đó khơng gian và thời gian có
những tính chất cơ bản sau đây:
-

-

-

Tính khách quan: khơng gian và thời gian là một thuộc tính của vật chất, tồn tại gắn liền
với vật chất vận động. Vật chất tồn tại khách quan, do đó khơng gian và thời gian cùng
tồn tại khách quan.
Tính ba chiều của khơng gian và một chiều của thời gian: tính ba chiều của khơng gian
là chiều dài, chiều rộng, chiều cao. Cịn tính một chiều của khơng gian là chiều từ q
khứ đến tương lai.
Tính vơ tận của không gian và vĩnh cửu của thời gian.

* Tính thống nhất của thế giới:
Chủ nghĩa duy tâm coi ý thức, tinh thần có trước, quyết định vật chất, do đó cũng cho rằng thế
giới thống nhất ở tinh thần. Còn chủ nghĩa duy vật biện chứng lại khẳng định rằng: tính thống

nhất chân chính của thế giới là ở tính vật chất của nó. Do đó thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn,
vô hạn, vô tận không do ai sinh ra và cũng không mất đi. Trong thế giới đó khơng có cái gì khác
ngồi những q trình vật chất đang biến đổi và chuyển hố lẫn nhau, là nguyên nhân và cũng
là kết quả của nhau.

II. Ý thức
1. Nguồn gốc của ý thức
1.1 Nguồn gốc tự nhiên
Nhân tố tạo nên nguồn gốc tự nhiên của ý thức là bộ óc của con người và hoạt động của cùng
mối quan hệ giữa con người với hoạt động của nó trong mối quan hệ giữa con người với thế
giới khách quan.
Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao - bộ óc người, vừa là chức năng, vừa
là kết quả của quá trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ óc càng hoàn thiện, hoạt động
sinh lý thần kinh của bộ óc càng hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu sắc. Sự
phụ thuộc của ý thức vào hoạt động của bộ não thể hiện ở chỗ khi bộ não bị tổn thương sẽ kéo
theo hệ quả hoạt động ý thức bị rối loạn. Vì vậy, không thể tách rời ý thức ra khỏi hoạt động
của bộ óc. Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc khơng thơi mà khơng có sự tác động của thế giới bên
ngồi để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng khơng thể có ý thức.
Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất, thuộc tính này được biểu
hiện ra trong sự liên hệ, tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau, năng lực giữ lại
và tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong quá
trình tác động qua lại của chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả vật tác động và vật
nhận tác động. Trong q trình phát triển lâu dài, thuộc tính phản ánh cũng phát triển từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện với nhiều hình thức khác
nhau.
6


lOMoARcPSD|11379211


1.2 Nguồn gốc xã hội
Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng, khơng thể thiếu được,
song điều đó là chưa đủ. Ý thức ra đời gắn liền với sự hình thành và phát triển của bộ óc con
người thơng qua lao động, ngôn ngữ và quan hệ xã hội.
Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ nhu
cầu của mình. Đây là phương thức tồn tại, là hoạt động đặc thù khiến chúng ta khác với các loài
động vật khác. Thông qua hoạt động lao động, ta đã cải tạo thế giới khách quan mà con người
có thể phản ánh được và có ý thức về thế giới đó. Lao động không xuất phát ở trạng thái đơn
nhất mà mang tính tập thể xã hội làm nảy sinh nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và trao đổi tư tưởng
cho nhau. Từ nhu cầu đó, ngơn ngữ hình thành.
Ngơn ngữ được coi là cái vỏ vật chất của tư duy. Với sự xuất hiện của ngôn ngữ, tư tưởng của
con người có khả năng biểu hiện thành hiện thực trực tiếp, trở thành tín hiệu vật chất tác động
đến giác quan con người và gây ra cảm giác. Nhờ có nó, con người có thể giao tiếp, trao đổi,
truyền đạt kinh nghiệm cho nhau, thơng qua đó mà ý thức cá nhân trở thành ý thức xã hội, và
ngược lại.
Ngôn ngữ gắn liền với lao động và nhờ lao động mà hình thành. Khơng có hệ thống tín hiệu
này, ý thức không thể tồn tại và thể hiện được.

2. Bản chất và kết cấu của ý thức
2.1 Bản chất của ý thức
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng: về bản chất, ý thức là sự phản ánh hiện
thực khách quan thơng qua bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Đó là hình ảnh về thế giới khách quan,
được thế giới khách quan quy định về cả nội dung và hình thức biểu hiện, được cải biến thơng
qua lăng kính chủ quan của con người. Theo C.Marx, ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được
đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn
liền với các hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối của các hoạt động tự nhiên và cả quy luật xã
hội. Ý thức sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
Quá trình ý thức là quá trình thống nhất của 3 mặt sau đây:

- Một là trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này thể hiện ở khả
năng hoạt động tâm sinh lí, có định hướng, chọn lọc, xử lí, lưu giữ các thơng tin cần thiết.
- Hai là mơ hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh. Thực chất đây là quá trình
“sáng tạo lại” hiện tượng của ý thức, tạo những thông tin mới.
- Ba là chuyển từ tư duy chủ quan ra hiện thực khách quan, tức quá trình hiện thực hóa tư tưởng,
thơng qua hoạt động thực tiễn mà cải biến vật chất.
Ý thức ngay từ đầu đã gắn liền với lao động, với hoạt động sáng tạo cải biến và thống trị tự
nhiên của con người mà trở thành mặt khơng thể thiếu được của hoạt động đó. Tính sáng tạo
của ý thức còn thể hiện ở khả năng gián tiếp khái quát thế giới khách quan, ở quá trình chủ động
tác động vào thế giới để phản ánh thế giới đó.

7


lOMoARcPSD|11379211

2.2 Kết cấu của ý thức
Tri thức, tình cảm và ý chí là những yếu tố cơ bản nhất hình thành nên ý thức:
- Tri thức là những hiểu biết của con người về thế giới khách quan, kết quả của quá trình nhận
thức và tái tạo hình ảnh dưới dạng ngơn ngữ. Tri thức càng được tích luỹ con người ngày càng
đi sâu vào bản chất sự vật và cải tạo sự vật một cách có hiệu quả, tính năng động của ý thức
cũng nhờ đó mà tăng cao.
- Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ của con người trong các mối quan hệ, được
hình thành từ cảm xúc cụ thể dưới tác động của ngoại cảnh.
- Ý chí là biểu hiện sức mạnh của bản thân mỗi người khi tự đấu tranh với chính mình và ngoại
cảnh để thực hiện đến cùng mục tiêu đã đề ra.
Ba yếu tố kết hợp, tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau, song tri thức là yếu tố
quan trọng nhất. Nó khơng chỉ là phương thức tồn tại của vật chất mà còn ảnh hưởng tới mức
độ biểu hiện của các nhân tố khác.


III. Mối quan hệ giữa vật chất với ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định trong mối quan hệ biện chứng, vật chất và ý thức
cùng tồn tại tác động qua lại; trong đó vật chất giữ vai trị quyết định. Biểu hiện của mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,
trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác
động trở lại xã hội.

1. Vai trò của vật chất đối với ý thức
Từ định nghĩa vật chất của Lenin nói lên một số nội dung cơ bản sau: Thứ nhất, vật chất là cái
tồn tại khách quan bên ngồi ý thức và khơng phụ thuộc vào ý thức. Thứ hai, vật chất là cái gây
lên cảm giác ở con người khi bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên các giác quan của
con người. Thứ ba, vật chất là cái mà cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của
nó. Qua đó, Lenin muốn khẳng định rằng, trong nhận thức luận, vật chất ln mang tính thứ
nhất, là cái quyết định: vật chất quyết định sự hình thành ý thức, quyết định nội dung phản ánh,
sự biến đổi của ý thức và còn là điều kiện để hiện thực hoá ý thức. Do vậy, vật chất quyết định
sự phát triển của ý thức, quyết định tính phong phú, đa dạng của ý thức.
Vận động của ý thức, tư duy trên thực tế cũng là sản phẩm của sự vận động của vật chất. Điều
này được xác minh một cách khá rõ ràng ở hình thức vận động xã hội của vật chất. Đó là sự
thay thế lẫn nhau giữa các hình thái kinh tế xã hội, từ đó sớm muộn cũng dẫn đến sự thay đổi
của ý thức, của cách nghĩ, bởi tồn tại xã hội bao giờ cũng quyết định ý thức xã hội.
Vai trò cơ sở, quyết định của vật chất còn được thể hiện ở chỗ nó quyết định nội dung phản ánh,
quyết định sự biến đổi của ý thức. Từ nội dung thứ hai trong định nghĩa vật chất của Lenin,
rằng: Vật chất là cái cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó, mà ta thấy
rằng nội dung phản ánh của ý thức là thế giới bên ngoài, là hiện thực khách quan. Nói cách
khác, nội dung phản ánh của ý thức phải lấy cái khách quan làm tiền đề và được cái khách quan
quy định. Vật chất quyết định sự biến đổi của ý thức, bởi ý thức là chức năng của bộ não người.

8



lOMoARcPSD|11379211

2. Vai trò của ý thức đối với vật chất
Giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng thể hiện qua vai trò quyết định của vật chất
đối với ý thức và tính độc lập tương ứng, nhưng ý thức sẽ tác động trở lại thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Trong quá trình phản ánh thế giới khách quan, ý thức là sự phản ánh
thế giới vật chất đó vào con người. Tuy nhiên, việc thực hiện ngun tắc khách quan khơng có
nghĩa là quan điểm chủ quan - tính năng động, sáng tạo của ý thức - sẽ bị xem nhẹ, mà còn địi
hỏi phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, của con người. Bản chất của ý thức không thể
tự nó thay đổi trong thế giới hiện thực.
Muốn thay đổi hiện thực, con người bắt buộc phải tiến hành hoạt động vật chất. Dù vậy, mọi
hoạt động của con người đều do ý thức chi phối. Mặc dù ý thức không trực tiếp tạo ra hay thay
đổi thế giới, nó lại trang bị cho con người tri thức về hiện tại khách quan để con người trên cơ
sở đó mà xác định được mục tiêu, đề ra phương hướng, biện pháp, cơng cụ, kế hoạch,...
Bởi vì q trình đạt tới tính khách quan địi hỏi chủ thể phải phát huy tính năng động, sáng tạo
trong việc tìm ra những biện pháp, những con đường để đi sâu vào bản chất của sự vật nên trên
cơ sở đó, con người thực hiện sự biến đổi từ cái “vật tự nó” (thực tại khách quan) thành cái
phục vụ cho nhu cầu của con người đồng thời sử dụng hiệu quả các điều kiện, sức mạnh vật
chất khách quan, sức mạnh của quy luật… để phục vụ cho các mục tiêu, mục đích khác nhau
của con người. Vì vậy, ý thức tác động trở lại vật chất theo hai hướng:
- Ý thức, tư tưởng có thể quyết định làm sao con người hoạt động đúng và thành cơng khi nó
phản ánh đúng và sâu sắc thế giới khách quan, đó là cơ sở quan trọng cho việc xác định mục
tiêu, phương hướng và biện pháp chính xác.
- Ngược lại ý thức, tư tưởng có thể làm cho con người hoạt động sai và thất bại khi con người
phản ánh sai thế giới khách quan, nó kìm hãm sự phát triển của thế giới vật chất.
Tuy vậy, sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với mức độ nhất định, nó khơng thể
sinh ra hay tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất. Từ quan điểm duy vật biện chứng về
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức; một nguyên tắc được rút ra, đó là nguyên tắc khách quan.
Đời sống con người là sự thống nhất không thể tách rời giữa đời sống vật chất và đời sống tinh
thần, trong đó những nhu cầu tinh thần ngày càng phong phú và đa dạng và những nhu cầu vật

chất cũng bị tinh thần hoá. Khẳng định tính tương đối của sự đối lập giữa vật chất và ý thức
khơng có ý nghĩa là khẳng định rằng cả hai nhân tố có vai trị như nhau trong đời sống và hoạt
động của con người. Trái lại, triết học Marx-Lenin khẳng định rằng, trong hoạt động của con
người, những nhân tố vật chất và ý thức có tác động qua lại, song sự tác động đó diễn ra trên
cơ sở tính thứ nhất của nhân tố vật chất so với tính thứ hai của nhân tố ý thức, có trật tự, ưu tiên
nhất định.

CHƯƠNG II. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ VẬN DỤNG
TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY
I. Ý nghĩa phương pháp luận
Vật chất quyết định ý thức nên trong mọi hoạt động thực tiễn con người phải xuất phát từ hiện
thực khách quan, không được xuất phát từ ý kiến chủ quan, tôn trọng và tuân theo quy luật
khách quan. Xem xét các sự vật, hiện tượng như nó tồn tại trên thực tế.
9


lOMoARcPSD|11379211

Ngược lại, ý thức tác động trở lại vật chất nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải chú ý
giáo dục và nâng cao nhận thức cho con người. Phát huy vai trị tích cực, năng động, sáng tạo
của ý thức.
Để phòng, chống và khắc phục quan điểm duy ý chí, cần phải tránh cái gọi là “sự mù quáng
chủ quan”, V.I.Lenin đã nhấn mạnh rằng không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính
sách, khơng được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho sách lược… Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn
chủ quan áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì dễ mắc phải bệnh chủ quan,
duy ý chí.

II. Vận dụng lí luận trong cơng cuộc đổi mới của nước ta hiện nay
Nguyên lý triết học Marx-Lenin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức giúp chúng
ta vận dụng để xem xét tình hình nền đất nước từ thực tế khách quan; tránh chủ quan, duy ý chí

và phát huy vai trị năng động sáng tạo của ý thức. Hay như Ph.Angghen đã viết trong tác phẩm
Chống Đuy-rinh: “Phép biện chứng là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận
động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”, “là chìa khóa để giúp con
người nhận thức và chinh phục thế giới”. Phép biện chứng duy vật chính là cơng cụ hữu hiệu
giúp Đảng ta giải quyết thấu đáo các vấn đề lớn liên quan đến đường lối đổi mới từ năm 1986
đến nay.
Về đất nước ta, Đảng đề cao yếu tố con người đồng thời chú trọng trong việc phát huy nỗ lực
chủ quan của con người. Đảng ta nâng cao ý thức người dân và ln truyền tải những chính
sách, chiến lược tới người dân về công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước.
Đại hội XII đã khẳng định mục tiêu: đặt ra mục tiêu tổng quát phát triển đất nước ta trong năm
năm tới là: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo,
cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức
mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi
mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hịa bình, ổn định để phát triển đất
nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”.
Tổng kết 30 năm qua đổi mới, Đảng ta đã nhận thức và giải quyết 8 mối quan hệ lớn, đó là:
quan hệ đổi mới, ổn định và phát triển; quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; quan
hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa phát triển lực lượng
sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; quan hệ giữa
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa độc lập, tự chủ và
hội nhập quốc tế; quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Từ một đất nước bị tàn phá do chiến tranh khốc liệt, nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, ta đã từng
bước trở thành một nước đang phát triển. Ta đã cải thiện căn bản đời sống người dân, các vấn
đề về an sinh xã hội, phát huy và ngày càng mở rộng hội nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Chính
trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Văn hóa - xã hội có những bước phát

triển tích cực. Cơng tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền nhà nước, củng cố khối đại đoàn
10


lOMoARcPSD|11379211

kết toàn dân tộc được đẩy mạnh. Quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế cũng ngày càng mở rộng
và đi vào chiều sâu. Những thành tựu to lớn và quan trọng đó là tiên đề khiến sức mạnh tổng
hợp cũng như uy tín và vị thế quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao, tạo cơ sở quan
trọng cho việc thực hiện thắng lợi đồng thời hai nhiệm vụ: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta cũng còn nhiều hạn chế, khuyết
điểm, đòi hỏi chúng ta phải tìm ra hướng đi hợp lý để đổi mới toàn diện
Đổi mới về kinh tế:
Trọng tâm là xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề đặt ra trước tiên là đổi mới tư duy về thể chế và mô hình phát triển kinh tế theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế tư bản tư nhân, kinh
tế thị trường ở Việt Nam có định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước. Nhà nước
ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, quản lý nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương
pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy
được mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của
người lao động, của tồn thể nhân dân.
Trước thực tế đó, Đảng và nhà nước cần có những biện pháp phân phối hợp lý, không chỉ phân
phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế mà cịn phân phối theo mức đóng góp vốn và các
nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thơng qua phúc lợi xã hội. Vì đó là cái khách quan
nên chúng ta phải chú ý không nên đi ngược lại, nếu khơng thì chẳng bao giờ có thể xây dựng
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Và vẫn cần phải kể đến những mặt
trái của nền kinh tế trong một vài năm trở lại đây vẫn còn khá nhiều tồn đọng như sự chênh
lệch thu nhập dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo trong lao động, tệ nạn quan liêu, tham nhũng,
suy thoái phẩm chất đạo đức của một số cán bộ, công chức nhà nước…

Hiện nay, khi mà xu thế chung của cả thế giới là hịa bình ổn định và hợp tác để cùng nhau phát
triển thì các hành động xuất phát từ quá trình nhận thức và cải tạo thực tiễn là phương châm chỉ
đạo và hoạt động của Đảng, Nhà nước. Mọi đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát từ
thực tế tôn trọng quy luật khách quan và hành động theo quy luật ấy, từ đó đề ra đường lối, chủ
trương, chính sách, mục tiêu…đúng đắn cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
hiện nay.
Muốn phát triển, chúng ta phải đẩy mạnh kinh tế trên cả quy mô bề rộng lẫn chiều sâu. Điều đó
tức là, phải xây dựng một phương án khả thi cho cả công nghiệp, nông nghiệp và các ngành
kinh tế khác, chú trọng cho phát triển nông nghiệp cho các vùng kinh tế – xã hội trọng điểm,
cho vùng sâu, vùng xa… Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt
trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ
ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn, đặc biệt là trong thời điểm đại
dịch COVID-19 đang gây ra nhiều thách thức vô cùng lớn.
Đổi mới về chính trị:
Đối với Đảng, cần “Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
có hiệu lực, hiệu quả;... nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với quy
luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đột phá để phát triển”. Để đạt được điều
đó, địi hỏi phải xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng tiên phong, trong sạch, vững mạnh; kiên quyết
11


lOMoARcPSD|11379211

loại ra khỏi Đảng những phần tử biến chất, như tham ơ, tham nhũng. Đồng thời, cần kiện tồn
lại hệ thống tổ chức, bộ máy của Đảng để bảo đảm tinh gọn, khoa học, hoạt động hiệu quả,
nâng cao chất lượng của các tổ chức cơ sở Đảng; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát,..
Nhà nước phải xây dựng Chính phủ theo hướng tinh gọn về tổ chức bộ máy, đồng thời nhanh
chóng hồn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với việc tiến hành đồng bộ trên cả ba
lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trước hết, cần tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống
pháp luật bảo đảm tính khoa học, tính thực tiễn, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân

dân, tạo hành lang pháp lý cho các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện để các quan hệ kinh tế phát
triển lành mạnh, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Đổi mới về văn hóa - giáo dục - an ninh quốc phịng:
Trong văn hóa, giá trị cao nhất, sâu nhất lại là con người. Đó là chỗ quy tụ của mọi đường lối,
chủ trương, chính sách, cơ chế, giải pháp. Chúng ta đặc biệt cần phát huy nguồn lực trí tuệ và
sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo là nền tảng và động
lực của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Một lần nữa ta lại khẳng định vai trò của con
người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì vậy nước ta phải đầu tư hơn
nữa cho việc phát triển con người mà cụ thể là sự nghiệp giáo dục - đào tạo phải được đổi mới,
cải thiện phương pháp giảng dạy ở tất cả các bậc. Chú trọng đến giáo dục đào tạo, bởi “vì lợi
ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
Bên cạnh đó, cần phải nâng cao năng suất chủ động hội nhập quốc tế theo hướng đẩy nhanh tốc
độ mà vẫn giữ được bản sắc Việt Nam, “hịa nhập nhưng khơng hịa tan”, chống sự sính ngoại.
Bởi vì khơng có bản lĩnh và khơng có bản sắc độc đáo riêng được giữ gìn, bảo vệ và phát huy
thì khơng thể đứng vững trong giao lưu hợp tác và hội nhập quốc tế. Phải làm cho văn hoá, bản
lĩnh, tinh thần dân tộc thấm sâu vào tâm lý, ý thức dân chúng.
Không những thế, việc mở rộng chính sách xã hội của Đảng được thể hiện trên tất cả các mặt
như sau: quan tâm chăm sóc đối với những người có cơng với cách mạng, chính sách đền ơn
đáp nghĩa, khơng phủ nhận những công lao to lớn của những vị anh hùng dân tộc trong sự
nghiệp đấu tranh giành lại nền độc lập cho dân tộc…
Hiện nay, các thế lực thù địch vẫn đang đe dọa hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Từ thực tế đó địi hỏi Đảng và nhà nước ta phải ra sức tăng cường an ninh quốc phịng, đổi mới
hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu phát triển của nhân đân, đất nước, mà vẫn theo kịp bước
của thời đại.
Tuy nhiên, vai trò thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội tiến nhanh và xa hơn cịn nằm
ở tính năng động, chủ quan, khơng chỉ là của khối đại đồn kết tồn dân và đó cịn là ý chí,
nhiệt tình, quyết tâm thực hiện cho được xã hội xã hội chủ nghĩa trên đất nước Việt Nam.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, việc nghiên cứu và vận dụng phép biện chứng duy vật của
Marx-Lenin vào giải quyết những vấn đề thực tiễn xã hội đặt ra vừa là một khoa học, cũng là
một nghệ thuật. Thực tiễn của hơn 30 năm đổi mới cho thấy, việc vận dụng sáng tạo phép biện

chứng duy vật của chủ nghĩa Marx-Lenin vào giải quyết những vấn đề mâu thuẫn nội tại nảy
sinh trong q trình đổi mới là hồn tồn phù hợp. Để triển khai một cách hiệu quả, đòi hỏi các
thế hệ cách mạng hiện nay phải nắm được bản chất của phép biện chứng duy vật, không ngừng
học tập và rèn luyện mới có thể vận dụng một cách đúng đắn phương pháp này vào giải quyết
12


lOMoARcPSD|11379211

những vấn đề thực tiễn đang đặt ra mà không rơi vào ngụy biện,… để thực hiện thắng lợi mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Khơng có ý chí, hồi bão lớn thì khơng thể hiện thực hóa được những mục tiêu trước mắt,
giải quyết được những trở ngại, khó khăn phức tạp. Khơng có khoa học, cơng nghệ, khơng có
sự đầu tư mạnh mẽ vào nguồn nhân lực, vào trí tuệ thì khơng thể đưa xã hội đi lên. Do đó, phải
quy tụ mọi tài năng của cơng dân, tập hợp trí tuệ và phát huy sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc
Việt Nam.

13


lOMoARcPSD|11379211

KẾT LUẬN
Công cuộc đổi mới là một sự nghiệp cần sự lâu bền, chiến lược cùng những tư duy thiết thực,
thơng minh. Những biến động trước tình hình kinh tế của nhiều nước trên thế giới đã đòi hỏi
Đảng và nhà nước ta kiên trì, bền bỉ, giữ vững lịng tin, sự quyết tâm để vươn lên trước khó
khăn, chiến thắng những thách thức trong thời đại mới. Đồng thời, Đảng và nhà nước ta cũng
cần phải nhạy bén, cảnh giác, thích ứng kịp thời với những đổi mới của thế giới.
Chúng ta hồn tồn có thể khẳng định tính đúng đắn của quan điểm chủ nghĩa Marx-Lenin và
tính cấp thiết của nó trong sự nghiệp phát triển đất nước. Nhờ có những triết lý đúng đắn ấy,

chúng ta đã và đang đi đúng đường, gặt hái được rất nhiều thành tựu lớn lao, rực rỡ.
Quan điểm về vật chất và ý thức cùng phép duy vật biện chứng và sự tác động qua lại giữa
chúng luôn gắn liền với thực tiễn cuộc sống nói chung và những đường lối chính sách của Đảng
nới riêng. Bên cạnh đó, vài trị của từng cá nhân cũng rất quan trọng, làm ảnh hưởng trực tiếp
đến mối quan hệ trên. Vì vậy, mỗi người cần ý thức chặt chẽ vai trị của mình và nhận thức
được những mối quan hệ trên gắn liền với thực tiễn cuộc sống áp dụng linh hoạt, tin tưởng vào
những chính sách mà Đảng và Nhà nước giao phó.

14


lOMoARcPSD|11379211

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, giáo trình: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin
(Nhà xuất bản chính trị Quốc Gia Hà Nội, năm 2010)
2. C.Mác và Ph. Ăngghen: Tồn tập, NXB Chính trị quốc gia năm 1993
3. Chủ nghĩa Lênin và công cuộc đổi mới trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới
5. Trang báo điện tử tcnn.vn (17/12/2019)
6. nhandan.com.vn/daihoidangtoangquocxii/daihoi_xii_gopy/item/27443802-muc-tieutong-quat-phat-trien-dat-nuoc-ta-nam-nam-toi.html

15



×