Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG SỰ NGHIỆP GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN 19301945 VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.16 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THƠNG VẬN TẢI TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ TÀI: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG SỰ NGHIỆP GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN 1930-1945 VÀ NHỮNG
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.

Giảng viên hướng dẫn:

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2021


MỤC LỤC
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ............................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG SỰ NGHIỆP GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC GIAI ĐOẠN 1930 – 1945. ..................................................... 2
1.1 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc. ........................................................................................................... 2
1.2 Vai trị lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc giai đoạn
1930-1945. .................................................................................................................. 2
1.2.1 Đảng ta có những sự đổi mới, tạo dựng niềm tin và chủ trương khôi
phục tổ chức Đảng và phong trào cách mạng giai đoạn 1930-1935. ................ 2
1.2.2 Sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc vận động dân chủ 1936-1939 ............. 4
1.2.3 Đảng có những sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và lãnh đạo cao
trào kháng chiến 1939-1945. ................................................................................ 5
1.2.3.1 Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng. .................................. 5
1.2.3.2 Phong trào chống Nhật-Pháp, cứu nước và đẩy mạng chuẩn bị lực
lượng cho khởi nghĩa vũ trang........................................................................... 6
1.2.3.3 Phát động cao trào kháng Nhật, đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần. .... 7


1.2.3.4 Chủ trương phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền................. 8
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG GIAI
ĐOẠN NGÀY NAY. ................................................................................................. 9
2.1 Vai trò của Đảng trong thời đại ngày nay. ....................................................... 9
2.2 Thực trạng vận dụng bài học kinh nghiệm trong tình hình dịch Covid - 19
hiện nay. ................................................................................................................... 11
2.2.1 Phương diện tích cực ................................................................................. 11
2.2.2 Những mặt hạn chế .................................................................................... 12
2.2.3 Đề xuất giải pháp. ....................................................................................... 13
2.3 Nhận xét và đánh giá. ....................................................................................... 13
2.4 Liên hệ bản thân ............................................................................................... 14
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………...…16


LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Từ nửa sau thế kỷ XIX, Việt Nam đã chịu ảnh hưởng bởi thực dân Pháp xâm
lược tấn công vào cảng Đà Nẵng, mở đầu cho cuộc chiến mới ở Việt Nam. Sau khi
tạm thời dập tắt được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp từng
bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam. Cái mà thực dân Pháp gọi là “khai sáng
văn minh” ở Việt Nam nhưng thật chất ra là đó chỉ là bình phong để họ áp đặt sự
thống trị, thực hiện công cuộc khai thác ở một nước thuộc địa nhằm vơ vét của cải tài
nguyên, bóc lột sức lao động rẻ mạt, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền, thực hiện
chính sách ngu dân.
Trải qua nhiều trận chiến lớn nhỏ của nhân dân ta với thực dân Pháp, nước ta
đã có bước chuyển mình mạnh mẽ với việc Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã lãnh
đạo nhân dân ta chiến đấu, giành độc lập tự do. Và đỉnh cao trong việc lãnh đạo của
Đảng chính là sự thành cơng của “Cách mạng tháng Tám”, khai sinh ra nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945).
Từ lúc ra đời Đảng đến lúc thành công của “Cách mạng tháng Tám” đã trải qua

một quá trình gian khổ, đầy thách thức. Vậy trong quá trình này, Đảng đã làm gì trong
quá trình lãnh đạo nhân dân? Và dựa vào đâu để có thể giành được chiến thắng?
Chúng ta cần phải có một cái nhìn sâu sắc trong quá trình lãnh đạo của Đảng trong
giai đoạn từ 1930 - 1945 để thấy được tầm quan trọng về vai trị lãnh đạo của Đảng,
từ đó đúc kết được các bài học thực tiễn áp dụng vào trong xã hội. Đó là lý do em
chọn đề tài: “Sự lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc trong giai
đoạn 1930-1945 và những bài học kinh nghiệm cho giai đoạn hiện nay.”

1


CHƯƠNG 1: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG SỰ NGHIỆP GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC GIAI ĐOẠN 1930 – 1945.
1.1 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc
và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trị lãnh đạo của giai cấp cơng nhân Việt
Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời là “một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng
Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo
cách mạng”1.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng chỉ rõ: “Đảng Cộng sản Việt
Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân trọn
vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc,
dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”2.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã xác
định đúng đắn con đường cách mạng cho dân tộc Việt Nam - con đường cách mạng
vô sản, giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, mở ra con
đường phát triển mới cho đất nước Việt Nam, trở thành nhân tố hàng đầu quyết định

đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
1.2 Vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc giai đoạn 19301945.
1.2.1 Đảng ta có những sự đổi mới, tạo dựng niềm tin và chủ trương khôi phục
tổ chức Đảng và phong trào cách mạng giai đoạn 1930-1935.
Vừa mới ra đời với hệ thống tổ chức thống nhất và cương lĩnh chính trị đúng
đắn, Đảng đã phát động ngay được cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô
Viết Nghệ Tĩnh. Cao trào đã thu hút đông đảo quần chúng công nông cả nước đấu
tranh chống ách thống trị của bọn đế quốc, phong kiến. Dù bị địch khủng bố ác liệt,

1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.10, tr.8.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.51, tr. 127128.
2

2


nhưng thành quả lớn nhất của cao trào cách mạng 1930-1931, mà cuộc khủng bố
trắng tàn khốc của đế quốc và phong kiến đã khơng thể nào xóa nổi là ở chỗ, nó khẳng
định trong thực tế quyền lãnh đạo duy nhất thuộc về Đảng ta; đem lại cho quần chúng
niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Qua cao trào cách mạng 1930-1931, Đảng đã
khẳng định đường lối cách mạng Việt Nam do Ðảng đề ra là đúng đắn và năng lực
lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam dù chỉ mới được
ra đời. Cao trào cách mạng 1930-1931 là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của cách mạng
Việt Nam để tiến tới giành chính quyền trên cả nước.
Luận cương chính trị (tháng 10 - 1930) ra đời là một bước phát triển của Đảng,
chỉ rõ: Cách mạng Việt Nam là cách mạng tư sản dân quyền có tính chất thổ địa và
phản đế, tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Nó
khẳng định lại những vấn đề căn bản mà Cương lĩnh nêu ra, có nhiều điểm sáng tạo,

đổi mới, phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên, vẫn cịn nhiều hạn chế như khơng xác định
được mâu thuẫn của quần chúng nhân dân và thực dân Pháp; không đặt nhiệm vụ
chống đế quốc lên hàng đầu, nặng về cách mạng ruộng đất và đấu tranh giai cấp.
Đầu năm 1932, Đảng ta đã tổ chức một số chương trình với mục đích khơi phục
tổ chức Đảng và phong trào cách mạng sau cao trào 1930-1931. Nổi bật nhất là
Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đơng Dương đề ra những u sách kinh
tế chính trị và xã hội phù hợp với thời điểm lúc bấy giờ cho các giai cấp, tầng lớp
nhân dân Đông Dương và con đường đấu tranh mà chương trình hành động đề ra là
gắn liền cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc, gắn cuộc đấu tranh đòi các quyền lợi kinh
tế, chính trị, những mục tiêu trước mắt và lâu dài. Hệ thống tổ chức Đảng ngày càng
hoàn thiện, minh chứng cho việc này là Đại hội đại biểu lần thứ nhất (tháng 3 - 1935).
Từ những phân tích trên trong giai đoạn 1930-1935, dù Đảng chỉ mới ra đời
nhưng với đường lối chính trị đúng đắn, Đảng đã tiến hành các cuộc lớn nhỏ tạo ra
niềm tin của quần tin về năng lực lãnh đạo. Ngoài ra Đảng ta cịn biết cách khơi phục
lại tổ chức Đảng, dựa vào những yêu cầu chung trước mắt của quần chúng nhân dân
mà vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng vào thực tiễn để hình thành, phát triển hồn
thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc.

3


1.2.2 Sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc vận động dân chủ 1936-1939
Trước tình hình thế giới diễn biến phức tạp, chủ nghĩa phát xít xuất hiện và
chiến thắng ở nhiều nơi và tình hình trong nước thay đổi, Đảng đã kịp thời chuyển
hướng về chính trị, tổ chức hình thức đấu tranh; xác định nhiệm vụ trước mắt là chống
phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do,
dân chủ, cơm áo và hịa bình. Do đó, Đảng quyết định thành lập Mặt trận nhân dân
phản đế gồm các giai cấp, dân tộc, đảng phái, tơn giáo khác nhau với nịng cốt là liên
minh cơng - nơng kết hợp với hình thức kỳ đấu tranh hợp pháp và nửa hợp pháp kết
hợp chặt chẽ với hoạt động bí mật, bất hợp pháp diễn ra ở nước ta để chống kẻ thù

trước mắt và bọn phản động ở thuộc địa Việt Nam để bảo vệ hịa bình, địi thực hiện
tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân.
Đảng ta có những thay đổi về nhận thức trong mối quan hệ của hai nhiệm vụ
dân tộc và dân chủ. Đảng đã chỉ ra trong văn kiện Chung quanh vấn đề chính sách
mới (tháng 10 - 1936): Cuộc cách mạng dân tộc không nhất thiết phải gắn chặt với
cuộc cách mạng điền địa. “Nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc
tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước.
Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực lượng của một dân
tộc mà đánh cho được toàn thắng”3. Qua văn kiện, Đảng đã rút ra nhiều bài học, kinh
nghiệm, thẳng thắn phê phán những quan điểm chưa đúng và khắc phục.
Cuộc vận động dân chủ 1936-1939 đã làm cho thực dân Pháp phải nhượng bộ
một số yêu sách về dân sinh, dân chủ. Đảng ta đang ngày một hoàn thiện hơn về
đường lối cũng như cuộc vận động dân chủ rộng lớn, uy tín và ảnh hưởng của Đảng
được mở rộng và nâng cao trong quần chúng, chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối của
Đảng được tuyên truyền rộng rãi trong khắp mọi tầng lớp nhân dân, tổ chức Đảng
được củng cố và mở rộng; các cán bộ được tập hợp và tiếp thu được nhiều bài học
sâu sắc; có thể nói đây là cuộc diễn tập thứ hai, chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa.
Qua đó, chúng ta có thể nhận thức được vai trị quan trọng của Đảng trong việc lãnh
đạo cũng như đưa ra những chính sách, đường lối mới phù hợp với thực tiễn, mở ra
một cao trào mới trong cả nước.

3

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, tr. 152

4


1.2.3 Đảng có những sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và lãnh đạo cao trào
kháng chiến 1939-1945.

1.2.3.1 Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng.
Tình hình thế giới có nhiều biến đổi, với việc chiến tranh thứ hai bùng nổ và
Pháp đầu hàng Đức. Tình hình ở Đơng Dương cũng có nhiều thay đổi, Thực dân Pháp
tiến hành phát xít hóa bộ máy thống trị, đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân.
Lợi dụng Pháp thua Đức, tháng 9 - 1940, Nhật Bản cho quân sang Đông Dương, Pháp
nhanh chóng đầu hàng Nhật. Trong bối cảnh ấy, Đảng đã kịp thời phân tích, đánh giá
nhận định tình hình, dự báo xu thế, triển vọng đối với cách mạng giải phóng dân tộc
ở nước ta, nhanh chóng đưa ra những quyết định kịp thời nhất. Ban Chấp hành Trung
ương Đảng họp Hội nghị lần thứ sáu (tháng 11-1939), Hội nghị lần thứ 7 (tháng 111940), Hội nghị lần thứ tám (tháng 5-1941) và quyết định các nội dung chỉ đạo chính:
Một là, phải đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Đảng
đã nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu và đòi hỏi phải giải quyết cấp bách mâu thuẫn giữa dân
tộc ta với bọn thực dân, phát xít Nhật-Pháp. Hội nghị chỉ rõ: “Trong lúc này nếu
không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, nếu khơng địi được độc lập tự do
cho tồn thể dân tộc, thì chẳng những tồn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp
ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng khơng địi lại được.”4
Hai là, động viên, tổ chức và đoàn kết lực lượng của toàn dân trong Mặt trận
dân tộc thống nhất và lựa chọn hình thức tổ chức Mặt trận Việt Minh. Đảng đã quyết
định thành lập Mặt trận Việt Minh, tổ chức Mặt trận trong khuôn khổ dân tộc Việt
Nam nhằm khơi dậy mạnh mẽ tinh thần dân tộc, yêu nước nhằm vào mục tiêu độc
lập dân tộc. Mặt trận được xây dựng hệ thống tổ chức chặt chẽ và bao gồm các đoàn
thể cứu quốc. Ðảng lãnh đạo Mặt trận bằng cách đưa quan điểm, chính sách vào các
đoàn thể và hoạt động của Mặt trận và thông qua các đảng viên tham gia Mặt trận và
đoàn thể.
Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm
của Đảng và nhân dân ta. Để khởi nghĩa vũ trang đi đến thắng lợi cần phải phát triển
lực lượng cách mạng, tiến hành xây dựng căn cứ địa cách mạng. Đảng cũng chú trọng

4

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.113


5


công tác đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh
công tác vận động quần chúng.
Chúng ta có thể thấy được thơng qua các cuộc Hội nghị đã làm hoàn chỉnh chủ
trương chiến lược được đề ra từ Hội nghị tháng 11-1939, giải quyết mục tiêu số một
của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương đúng đắn để thực hiện
mục tiêu đó, khắc phục triệt để những hạn chế của Luận cương chính trị tháng 101930, khẳng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn trong Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn
Ái Quốc. Qua đó, thể hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo nhạy bén, sáng suốt với tầm nhìn trí
tuệ đầy chiến lược, sự sáng tạo và bản lĩnh kiên cường của Đảng ta.
1.2.3.2 Phong trào chống Nhật-Pháp, cứu nước và đẩy mạng chuẩn bị lực lượng
cho khởi nghĩa vũ trang.
Các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam kỳ và binh biến Đô Lương là “những tiếng
súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng võ lực của
các dân tộc ở một nước Đông Dương”5[5]. Ngày 25-10-1941, Việt Minh công bố
Tuyên ngôn, nêu rõ: “Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) ra đời”. Mặt trận Việt
Minh đã trở thành ngọn cờ đoàn kết dân tộc, thu hút các giai cấp, tầng lớp, đảng phái
yêu nước làm nhiệm chống đế quốc, giành độc lập dân tộc. Thành lập Mặt trận Việt
Minh là một sáng tạo của Đảng, là mốc lịch sử quan trọng đã tạo cho cách mạng nước
ta có một đội qn chính trị hùng mạnh áp đảo các thế lực phản động. Đảng ta còn
vận động và giúp đỡ một số sinh viên, trí thức yêu nước thành lập Đảng Dân chủ Việt
Nam (6-1944). Đảng này tham gia Mặt trận Việt Minh và tích cực hoạt động, góp
phần mở rộng khối đại đồn kết dân tộc.
Về việc xây dựng lực lượng và căn cứ cách mạng: Thành lập Việt Nam Tuyên
truyền Giải phóng qn phát triển mau chóng, đẩy mạnh cơng tác tun truyền vũ
trang, đường lối, xây dựng cơ sở cách mạng, thúc đẩy và cổ vũ phong trào đấu tranh
cách mạng trong cả nước, và thành lập các căn cứ cách mạng tiêu biểu là căn cứ Bắc

Sơn - Vũ Nhai và căn cứ Cao Bằng.

5

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.109.

6


Ngồi ra, Đảng cịn xác định văn hóa cũng là một trận địa cách mạng, chủ trương
xây dựng một nền văn hóa mới theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng.
Thành lập Hội Văn hóa Cứu quốc Việt Nam ra đời, thu hút trí thức và các nhà hoạt
động văn hóa vào mặt trận đấu tranh giành độc lập, tự do.
Trong q trình này có thể thấy, Đảng đã dày công chuẩn bị lực lượng vũ trang,
lực lượng chính trị, căn cứ cách mạng để chờ cơ hội tiến tới cuộc Tổng khởi nghĩa,
qua đó làm bật lên tầm nhìn xa trơng rộng của Đảng ta, dự báo trước thời cơ cách
mạng, thể hiện năng lực lãnh đạo của Đảng ta.
1.2.3.3 Phát động cao trào kháng Nhật, đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần.
Trước tình hình Nhật đảo chính Pháp và Pháp đầu hàng. Dự báo đúng tình hình,
Đảng ta đã họp lại và đưa ra các chiến lược mới với chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và
hành động của chúng ta”, đổi khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp” bằng khẩu
hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”. Ngoài ra, Chỉ thị của Trung ương cũng phân tích thời
cơ cách mạng và cho rằng những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa
mau chín muồi.
Từ giữa tháng 3-1945 trở đi, Cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra rất sôi
nổi, mạnh mẽ và phong phú về nội dung, hình thức. Phương châm chiến đấu của
chúng ta là phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa.
Thành lập các “khu giải phóng”. Chọn Khu giải phóng Việt Bắc trở thành căn cứ địa
chính của cách mạng cả nước. Ngày 15-5-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
triệu chủ trương thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân

và xây dựng bảy chiến khu trong cả nước. Trong lúc diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ nhưng
nạn đói diễn ra do Nhật, Pháp vơ vét lúa gạo. Đảng kịp thời đưa ra khẩu hiệu “Phá
kho thóc, giải quyết nạn đói”. Đáp ứng nguyện vọng cấp bách của nhân dân ta, nên
trong thời gian ngắn, Đảng đã động viên hàng triệu quần chúng tiến lên trận tuyến
cách mạng.
Qua cao trào cách mạng kháng Nhật, có thể thấy sự lãnh đạo kiên quyết, kịp
thời của Đảng, phân tích thời cơ và vận dụng hợp lý. Đó là kim chỉ nam cho mọi hành
động của Đảng và Việt Minh trong cao trào chống Nhật cứu nước và có ý nghĩa quyết
định đối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa. Ðó là sự vận dụng tư tưởng của Mác
và Lênin về khởi nghĩa vũ trang phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
7


1.2.3.4 Chủ trương phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Nhật đang rệu rã đến cùng cực với việc
Liên Xô đánh bại Nhật tại Mãn Châu, cùng lúc đó Mỹ ném hai quả bom nguyên tử
vào hai thành phố lớn của Nhật. Trong giai đoạn này xuất hiện nguy cơ mới: Thứ
nhất, Pháp toan tính trở lại xâm lược Việt Nam với sự trợ giúp của Anh. Mỹ ủng hộ
Pháp trở lại Đơng Dương; thứ hai, một số người của Chính phủ Bảo Đại quay sang
tìm kiếm sự trợ giúp của một số cường quốc, với hy vọng giữ chế độ quân chủ.
Như vậy, thời cơ cách mạng chỉ đến trong một thời gian rất ngắn: từ sau khi
Nhật đầu hàng Đồng minh đến trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. “Theo
phân tích của nhiều chuyên gia, nếu khởi nghĩa sớm hơn, khi Nhật chưa đầu hàng, ta
sẽ gặp sự kháng cự quyết liệt, có thể tổn thất lớn và khó giành thắng lợi, chính quyền
cách mạng chưa thể thành lập trong tồn quốc. Cịn nếu để muộn hơn, khi Đồng minh
đã vào Đơng Dương, tình hình trở nên “vơ cùng nguy hiểm”6.
Nắm bắt được thời cơ cách mạng, Ủy ban khởi nghĩa đã ra Quân lệnh số 1, hạ
lệnh tổng khởi nghĩa và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng gửi thư tới đồng bào cả nước
kêu gọi Tổng khởi nghĩa giành chính quyền: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc
đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy. Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”7.

Trong đó, thắng lợi ở Hà Nội (ngày 19/8), Huế (ngày 23/8), Sài Gòn (ngày 25/8)
đập tan các cơ quan đầu não của kẻ thù, có ý nghĩa quyết định. Chỉ trong vịng 15
ngày (14 đến 28 tháng 8), cuộc tổng khởi nghĩa đã thành cơng, chính quyền thuộc về
tay nhân dân. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố trước quốc
dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa ra đời.
Thắng lợi vĩ đại của cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã khẳng định trên thực
tế đường lối đúng đắn, năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Đảng đã chuẩn bị được lực lượng vĩ đại của toàn dân đoàn kết trong Mặt trận Việt
Minh, dựa trên cơ sở liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng, nắm đúng thời
cơ, chỉ đạo kiên quyết, biết tạo nên sức mạnh tổng hợp để áp đảo kẻ thù .

6

/>7
Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, t.2, tr.225.

8


CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG GIAI
ĐOẠN NGÀY NAY.
2.1 Vai trò của Đảng trong thời đại ngày nay.
Đảng ta đã trải qua hơn 90 năm cuộc đời, từ thời chiến cho đến thời bình, từ
một nước thuộc địa thành một nước có nền độc lập, dân chủ. Đảng ta ngày càng hoàn
thiện hơn dựa vào nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.Vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng được khẳng định thông qua những
thành tựu mà Việt Nam đã đạt được trên các lĩnh vực kinh tế-xã hội cũng như nâng
cao uy tín trên trường quốc tế, mở rộng quan hệ ngoại giao. Đảng ta ngày càng hoàn
thiện hơn về đường lối, chủ trương chính sách trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc, vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Đảng
ta ngày càng phấn đấu, phát huy những bài học kinh nghiệm lịch sử mà Đảng đã tiếp
thu được trong quá trình thực tiễn cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và đường
lối lãnh đạo của Đảng ta.
Một là, Xây dựng một Đảng vững mạnh dựa vào nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin:
Đường lối chính trị của Đảng quyết định sinh mệnh của Đảng. Có đường lối, chủ
trương đúng, Đảng mới có phương hướng hành động đúng. Vì vậy cần phải xây dựng
một Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp cơng nhân và tồn dân tộc Việt Nam,
tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp và dân tộc; vận dụng và phát triển lý
luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào hồn cảnh cụ thể đề ra đường lối chính
trị đạo đức, vững mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức, liên hệ chặt chẽ với quần
chúng. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường
đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc trong
công tác xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo.
Hai là, nâng cao năng lực lãnh đạo hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN: Kiên trì phấn đấu hồn thiện cơ bản và đồng bộ hệ thống thể chế theo
các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Bảo
đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và
thị trường; bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát
triển con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, bảo
vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
9


quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; bảo đảm tính cơng khai, minh
bạch, tính dự báo được thể hiện trong xây dựng và thực thi thể chế kinh tế, tạo điều
kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
Ba là, xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết dân tộc dựa trên nền tảng liên
minh công – nông: Trên cơ sở khối liên minh công nông, cần khơi dậy tinh thần dân
tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi lực lượng yêu nước trong mặt trận dân

tộc thống nhất rộng rãi. Đại đoàn kết dân tộc đã trở thành quan điểm xuyên suốt của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong cách
mạng đã hội chủ nghĩa, tạo nên động lực chính trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Khối liên minh công - nông càng mạnh cùng với sự lãnh đạo vững chắc của
Đảng thì Mặt trận dân tộc thống nhất ngày càng mở rộng và sức mạnh của khối đại
đoàn kết ngày càng tăng lên. Đại hội XII của Đảng đã khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đồn thể nhân dân có đổi mới cả về nội dung lẫn phương thức hoạt
động; nhằm phát huy ngày càng tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc; cùng Đảng, Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của nhân dân; tham gia xây dựng Đảng, quản lý Nhà nước, quản lý xã hội; thường
xuyên tổ chức các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, góp phần tích cực
vào những thành tựu chung của đất nước”8[8].
Bốn là, nắm bắt thời cơ thuận lợi, quyết định kịp thời các chủ trương chính
sách: Theo quy luật vận động, phát triển của xã hội, đi liền với những cơ hội, vận hội
mới ln có những khó khăn, thách thức nảy sinh. Nếu biết vận dụng, nắm bắt tốt cơ
hội thì sẽ biến điều bất lợi thành có lợi. Trước tình hình thế giới đang có nhiều biến
đổi về kinh tế, chính trị, xã hội,...Vì vậy, Đảng ta cần phải biết theo dõi, bám sát
những biến đổi của tình hình thế giới, trong nước, chủ động, kịp thời chuyển hướng
chỉ đạo chiến lược cách mạng, chuẩn bị đón thời cơ, lãnh đạo và chỉ đạo quần chúng
nhân dân tận dụng thời cơ thuận lợi của tình hình trong nước và quốc tế để mà có
được những quyết định đúng đắn phù hợp với thực tiễn, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa để giúp đất nước phát triển, đời sống xã hội ổn định.

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2016, tr.159.
8

10



Năm là, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại: Đảng ta chưa bao giờ
xem nhẹ và tách rời sự kết kết hợp này nhất trong thời kỳ đổi mới. Trong đó dân tộc
giữ vai trị quyết định còn sức mạnh thời đại là sức mạnh bên ngoài, làm cho sức
mạnh dân tộc tăng lên. Để phát huy bài học kinh nghiệm về sự kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, đầu tiên phải đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên hàng đầu.
Đây là cơ sở hàng đầu để Đảng, Nhà nước và nhân dân có thể đưa ra quyết định về
vấn đề đối nội, đối ngoại của đất nước. Ngày nay, Đảng ta đang hoàn thiện hơn về sự
kết hợp này, đẩy mạnh mặt trận ngoại giao, tích cực chủ động hội nhập quốc tế, mở
rộng quan hệ đối ngoại, tạo môi trường thuận lợi để phát triển đất nước.
2.2 Thực trạng vận dụng bài học kinh nghiệm trong tình hình dịch Covid - 19
hiện nay.
2.2.1 Phương diện tích cực
Tình hình dịch Covid – 19 tại Việt Nam và trên toàn thế giới đang diễn biến rất
phức tạp và được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Kể từ khi nước ta ghi nhận ca
nhiễm Covid đầu tiên, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ đã nắm bắt được tình hình và đưa ra những quyết định kịp
thời với việc ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, công điện lãnh đạo, chỉ đạo các cấp,
các ngành tập trung triển khai các biện pháp phịng chống, ứng phó kịp thời, ngăn
chặn dịch bệnh lây lan.
Dựa vào từng tình hình cụ thể, thường xuyên chỉ đạo sát sao, quyết liệt, chủ
động, kịp thời thực hiện các biện pháp mạnh mẽ, quyết liệt để phòng, chống, ngăn
chặn dịch bệnh. Với tư tưởng nhất quán, xuyên suốt “chống dịch như chống giặc”,
kiên định thực hiện mục tiêu kép phòng chống dịch hiệu quả đồng thời phát triển kinh
tế, chăm lo đời sống, bảo vệ sức khỏe nhân dân. Khẳng định phòng chống dịch
Covid - 19 là nhiệm vụ và trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, tồn qn.
Sử dụng các phương tiện thơng tin đại chúng cập nhật tình hình, tin tức trên các
trang báo chí, truyền hình về đại dịch để mà cho người dân và các cán bộ nhận thức
được sự nguy hiểm của dịch Covid - 19, qua đó tuyên truyền những chủ trương, chính
sách trong cơng tác phịng chống đại dịch; Đưa ra các phương pháp, thông điệp như
“thông điệp 5k” (khoảng cách, khẩu trang, không tụ tập, khử khuẩn, khai báo y tế),

cài đặt ứng dụng bluezone,… để Đảng và Nhà nước ta dễ dàng trong việc quản lý
11


dịch bệnh và phịng tránh nhất có thể về sự lây lan của dịch bệnh. Và qua đó, nắm
được những tâm tư nguyện vọng của người dân để có những chỉ đạo kịp thời, quyết
liệt trong cơng tác phịng chống dịch Covid.
Vận động quần chúng nhân dân cùng nhau phấn đấu cùng nhau hợp tác để đẩy
lùi dịch bệnh. Nhân dân cả nước khơng chỉ đóng góp cơng sức mà cịn đóng góp thêm
cho cơng tác, phịng chống dịch: Một số cây ATM gạo, khẩu trang miễn phí ra đời,
nhiều người cịn dùng chính tiền bạc và cơng sức của mình để đi phân phát lương
thực, thực phẩm cho người dân và đỉnh cao của việc vận động và thể hiện tinh thần
đoàn kết dân tộc là từ khi Quỹ vắc-xin phịng, chống covid ra đời từ ngày 26-5-2021
tính đến ngày 24-11-2021, tổng số tiền của Quỹ là 8797,3 tỷ đồng9.
Kết hợp với sức mạnh của thời đại, Việt Nam ta đã được các nước trong khu
vực Đông Nam Á và ngoài thế giới trao tặng hàng triệu liều vắc-xin, điều đó thể hiện
mối quan hệ ngoại giao tốt của Việt Nam với các nước bạn. Tích lũy kinh nghiệm
chống dịch của các nước trên thế giới để vận dụng nó vào Việt Nam.
2.2.2 Những mặt hạn chế
Trong cơng tác phòng chống đại dịch Covid-19, Đảng và nhà nước ta đã có
những chủ trương chính sách kịp thời và quyết liệt và đại đa số quần chúng nhân dân
hưởng ứng lời kêu gọi chống dịch của Đảng và Nhà nước ta. Qua đó, cũng đã có
những thành cơng nhất định trong cơng tác phịng chống dịch nhưng bên cạnh đó
cũng có nhiều vấn đề bất cập và khó khăn, thách thức:
Một là, cơng tác phịng, chống dịch bệnh của một số địa phương, đơn vị còn
lỏng lẻo, thiếu sâu sát; việc điều tra dịch tễ, truy vết để sàng lọc tách F0, F1 ra khỏi
cộng đồng chưa thật sự chặt chẽ, còn chung chung, sai đối tượng nên tiềm ẩn các
trường hợp F1, F2 cịn sót lọt trong cộng đồng cao, chưa kiên quyết xử lý các hành
vi, vi phạm,…dẫn đến nguy cơ lây lan dịch bệnh.
Hai là, xuất hiện nhiều bài báo, nhiều thông tin sai sự thật về chủ trương chính

sách của Đảng và Nhà nước ta làm hoang mang lịng dân, ảnh hưởng đến cơng tác
phịng chống dịch của quốc gia.

9

Số liệu từ trang báo chính phủ. Link: />
12


Ba là, một số đối tượng cố tình khai báo y tế sai sự thật, che giấu thông tin ảnh
hưởng đến công tác tổ chức điều tra, truy vết của lực lượng chức năng.
Bốn là, một số ít quần chúng nhân dân còn lơ là, chủ quan, mất cảnh giác, khơng
chấp hành nghiêm những quy định phịng chống Covid mà Đảng, Nhà nước đề ra,
làm tăng nguy cơ lây lan ở dịch bệnh.
Năm là, việc tiêm vắc-xin còn chậm, một số địa phương còn gặp nhiều lúng
túng trong việc tổ chức tiêm vắc-xin.
Sáu là, cơng tác tun truyền về hình thức tổ chức, phương pháp phòng, chống
ở một số địa phương chưa thực sự hiệu quả.
2.2.3 Đề xuất giải pháp.
Đối diện những khó khăn thử thách, Đảng và Nhà nước cần phải có những biện
pháp khắc phục. Một số phương pháp đã đề ra để củng cố tư tưởng và phát huy sức
mạnh của “Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân”, ngăn ngừa sự lây lan của dịch bệnh:
Thứ nhất, tăng cường cảnh giác, không chủ quan, lơ là với nguy cơ dịch bệnh;
thể hiện trách nhiệm và quyết tâm cao hơn nữa, thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu
quả các biện pháp phịng, chống dịch đã đề ra. Trong đó các cán bộ, Đảng viên, công
chức, viên chức phải gương mẫu, đi đầu trong việc thực hiện.
Thứ hai, xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật trong phịng, chống bệnh
truyền nhiễm nói riêng và trước các vấn đề cấp bách của xã hội nói chung để tạo sự
đồng bộ, chặt chẽ và đủ răn đe để tạo cơ sở pháp lý nâng cao vai trò, trách nhiệm của
các tổ chức, cá nhân trong xã hội trước các vấn đề cấp bách của quốc gia.

Thứ ba, tăng cường công tác thông tin, truyền thông, tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật bằng nhiều hình thức mới, đa dạng có ứng dụng cơng nghệ thơng
tin để nâng cao nhận thức của người dân về pháp luật phòng, chống dịch bệnh cũng
như các biện pháp phòng, chống dịch bệnh.
Thứ tư, tổ chức các buổi tập huấn cho các cán bộ, các cơ quan nhà nước và cho
tất cả tầng lớp nhân dân có thêm nhận thức và kiến thức để ứng phó với dịch bệnh.
Thứ năm, tăng cường phủ vắc-xin trên toàn đất nước Việt Nam.
2.3 Nhận xét và đánh giá.
Từ thực tiễn cách mạng trong giai đoạn 1930-1945, chúng ta có thể thấy được
sự quan trọng của Đảng trong công cuộc chống quân xâm lược. Sự ra đời của Đảng
13


giúp đất nước có được thắng lợi này đến thắng lợi khác. Những đường lối, chủ trương
mà Đảng đề ra phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Đảng luôn sát
cánh cùng với nhân dân, động viên và kết nối các cán bộ, các tổ chức ngày càng hồn
thiện hơn, bám sát tình hình thực tiễn, chớp lấy cơ hội và để ra chiến lược nhiệm vụ
trong từng thời kỳ. Tuy có những khó khăn, thử thách nhưng Đảng vẫn đang hồn
thiện mình hơn. Qua từng thời kỳ, Đảng có thêm nhiều kinh nghiệm, bài học và đang
áp dụng nó vào giai đoạn hiện nay. Trong tình hình thực tế, Đảng đã vận dụng những
bài học kinh nghiệm để mà đổi mới về nhận thức và đường lối, chính sách phù hợp
với thực tiễn, đẩy mạnh phát triển kinh tế, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao
quan hệ quốc tế; nhất là trong tình hình dịch hiện nay, Đảng đã bám sát tình hình và
phân tích cụ thể, đề ra những chỉ đạo vơ cùng đúng đắn, phù hợp với đất nước. Từ
đó, mỗi cơng dân trên đất nước Việt Nam ngày càng nhận thức được tầm quan trọng
của Đảng, ngày càng phấn đấu đoàn kết để cùng Đảng xây dựng một đất nước phát
triển, dân chủ, văn minh.
2.4 Liên hệ bản thân
Trong quá trình thực hiện cách mạng chống quân xâm lược, nhiều kinh nghiệm
bài học đã được rút ra, mỗi người trong chúng ta cần phải tiếp thu được những bài

học kinh nghiệm đó và vận dụng vào đời sống xã hội, phấn đấu trở thành người cơng
dân tốt để góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đất nước. Đối với bản thân tôi:
Thứ nhất, về học tập và rèn luyện: Luôn luôn đổi mới phương pháp học tập và
rèn luyện cho phù hợp, nâng cao ý thức tự học tập tự rèn luyện bản thân, tích cực
tham gia các hoạt động của Hội sinh viên trường, lớp đề ra. Lấy tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho việc học tập và noi theo, chấp hành nghiêm những
quy định mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Thứ hai, về ý thức trách nhiệm: Hoàn thành tốt những công việc được giao,
không chia bè, kéo phái làm mất đồn kết nội bộ, có lối sống cần, kiệm, liêm, chính;
tránh xa các tệ nạn xã hội.
Thứ ba, về ý thức kỷ luật: Có ý thức phê phán những hành vi xấu và tuyên
dương những hành vi tích cực, thường xuyên tự kiểm điểm bản thân, luôn tuyên
truyền, nhắc nhở, động viên gia đình, hàng xóm, bạn bè tin vào sự lãnh đạo của Đảng,
giữ gìn đạo đức và lối sống lành mạnh.
14


KẾT LUẬN
Với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930) đã mở ra thời kì mới cho
cách mạng Việt Nam - thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Đảng đã lãnh đạo, tổ chức và huấn luyện quần chúng nhân dân trong giai đoạn
1930-1945. Với đỉnh cao là Cách mạng tháng 8 năm 1945, chúng ta nhận thức được
vai trò của Đảng, tầm quan trọng trong việc lãnh đạo, tổ chức kháng chiến, tận dụng
cơ hội để giành thắng lợi, chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hịa ra đời - Nhà nước cơng nơng đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ
quân chủ phong kiến ở Việt Nam; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành
người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Qua đó, cho ra nhiều bài
học kinh nghiệm để Đảng và Nhà nước phát huy những kinh nghiệm đó vào trong
thực tiễn làm cho dân giàu, nước mạnh; xây dựng một xã hội tiên tiến; đẩy mạnh phát
triển kinh tế, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Hiện nay, tình hình trong nước cũng như ngồi quốc tế đang có nhiều biến động,
vì vậy việc vận dụng những bài học kinh nghiệm vào thực tế có vai trị vơ cùng sâu
sắc và quan trọng, nắm bắt được thời cơ cũng như kịp thời đưa ra những chính sách
phù hợp, để tồn Đảng, tồn dân, tồn qn cùng nhau phát triển và phấn đấu xây
dựng đất nước để có thể sánh vai với các cường quốc năm châu.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo (2017), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 (18/08/2021 16:59): Thời cơ và những quyết sách
lịch sử.
[Truy cập ngày 26/11/2021]
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2007.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2000.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.
6. Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.
7. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.

16



×