Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

TIỂU LUẬN hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư và ý nghĩa của việc phát huy hai phương pháp đó trong nền kinh tế thị trường ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.62 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




TIỂU LUẬN MƠN HỌC KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN (Mã
học phần SSH 1121)
Đề tài: Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư và ý nghĩa của việc
phát huy hai phương pháp đó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Điểm

NHẬN XÉT VÀ CHỮ KÝ CỦA GIẢNG VIÊN

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Hùng
MSSV: 20200258
Lớp: 126334
GVHD: Ths. Nguyễn Thị Phương Dung


Hà Nội, tháng 8 năm 2021

MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................

1.Sự cần thiết của đề tài:................................................................

2.Mục đích nghiên cứu:...................................................................

3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:...............................................


4.Phương pháp nghiên cứu:...........................................................

5.Giới thiệu nội dung nghiên cứu:.................................................

B. PHẦN NỘI DUNG................................................................................................
1. Lý luận của học thuyết kinh tế Mác-Lênin về hai phương pháp
thặng dư..................................................................................................................
1.1

Tư bản và giá trị thặng dư.................

1.2

Phương pháp sản xuất giá trị thặng d

1.3
Phương pháp sản xuất giá trị thặng d
2. Sự hoạt động của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tr
Việt Nam................................................................................................................
3. Một số khuyến nghị nhằm phát huy tác dụng tích cực và hạn c
tiêu cực của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tại Việt Nam.................
3.1

Mục tiêu...........................................

3.2

Một số khuyến nghị..........................

C. PHẦN KẾT LUẬN.............................................................................................

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ CHÚ THÍCH...............................


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài:
Trải qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội, kể từ Ðại hội VI
(năm 1986), và hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (năm 1991) đến nay, Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn, hết sức quan
trọng: Trong vòng 20 năm (1991 - 2011), tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 7,34%/năm, thuộc
loại cao ở khu vực Đơng Nam Á nói riêng, ở châu Á và trên thế giới nói chung; quy mơ kinh tế
năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990, gấp trên 2,1 lần năm 2000 (thời kỳ 2001 - 2011 bình quân
đạt 7,14%/năm); Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn
90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan
trọng về kinh tế đối ngoại (1); Mặc dù chịu những ảnh hưởng kinh tế từ dịch bệnh COVID – 19,
đất nước ta vẫn có mức độ tăng trưởng dương, là điểm sáng về kinh tế trên thế giới lúc bấy giờ.
Thực hiện đường lối đổi mới, với mơ hình kinh tế tổng qt là xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo
được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Những kết quả trên đã chứng minh rằng những học thuyết trong kinh tế của C.Mác là hồn
tồn chính xác. Mà trong đó giá trị thặng dư là một trong những phát hiện vĩ đại của C.Mác và
theo như V.I.Lênin nhận xét thì “Học thuyết giá trị thặng dư là viên đá tảng của học thuyết kinh tế
của Mác” Gia trị thặng dư đã mang lại những bước phát triển cho nước ta trong giai đoạn hiện
nay. Tính tất yếu khách quan về việc vận dụng giá trị thặng dư vào Việt Nam đã được thông qua
trong các văn kiện Đại hội của Đảng nhưng trong một chừng mực nào đó vẫn cịn tồn tại các
thành kiến với các thành phần kinh tế tư nhân, tư bản coi thành phần kinh tế này là bốc lột và
nhận thức này không chỉ xảy ra với một số cán bộ là Đảng viên làm công tác quản lý mà còn xảy
ra ngay trong những người trực tiếp làm kinh tế tư nhân ở nước ta.
Trong bối cảnh đó, cần phải nghiên cứu rõ lý luận của học thuyết kinh tế Mác-Lênin về hai
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư cũng như sự hoạt động của hai phương pháp đó tại Việt

Nam hiện tại, sẽ góp phần giải quyết những vướng mắc trong q trình phát triển các thành phần
kinh tế. Đồng thời đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát huy tác dụng tích cực và hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tại Việt Nam. Từ đó, có thể khắc
phục sự lạc hậu về lý luận trong kinh tế, sự giáo điều, tách rời lý luận và cuộc sống và góp phần
hình thành tư duy kinh tế mới, tạo điều kiện thuận lợi nhằm thúc đẩy nhanh q trình cơng
nghiếp hóa – hiện đại hóa.
2. Mục đích nghiên cứu:
Về mục đích lý luận: Hiểu rõ nguồn gốc, bản chất, công thức và ý nghĩa của những khái niệm
như tư bản và giá trị thặng dư. Sau đó đi sâu vào hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư.


Hiểu rõ cách thức, tác dụng và đặc điểm, những mặt tích cực và ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh
tế.
Về mục đích thực tiễn: Phân tích sự hoạt động của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
tại Việt Nam qua các thời kì: Từ trước 1986 và từ 1986 đến nay. Từ đó hiểu được giá trị thực tiễn
của những lý luận cũng như học thuyết GTTD của C.MÁC và có thể đưa ra một số khuyến nghị
nhằm phát huy tác dụng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của hai phương pháp sản xuất giá
trị thặng dư tại Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
a.
Về đối tượng nghiên cứu:
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Nền kinh tế Việt Nam
b.
Về phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu ở Việt Nam trong khoảng thời gian từ
khi thành lập nền kinh tế tập trung, bao cấp đến nay (2021).
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu chung là vận dụng phép biện chứng duy vật để thấy được các hiện
tượng và quá trình kinh tế hình thành, phát triển, chuyển hóa khơng ngừng, giữa chúng có mối
liên hệ tác động biện chứng với nhau, các quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi ứng với từng

điều kiện cụ thể nhất định luôn thuộc về một chỉnh thể những mối liên hệ trong nền sản xuất xã
hội tương ứng với những trình độ phát triển, trong những điều kiện lịch sử nhất định.(2)
Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
- Sử dụng kết hợp các phương pháp: trừu tượng hoá khoa học kết hợp quy nạp diễn dịch, phân
tích tổng hợp để nghiên cứu những quan điêm toan diêṇ cua hoc thuyêt kinh tê Mac – Lê-nin, cac
khai niêṃ va tac đôngg̣ cua nên kinh tê thi trương.
- Sử dụng các phương pháp: trừu tượng hoá khoa học, tổng kết thực tiễn để nghiên cưu vê nên
kinh tê thi trương cua ViêṭNam, thông qua viêcg̣ thu thâpg̣ thông tin vê vân đê nghiên cưu, xư li,
phân tich cac sô liêụ va kiêm tra trong thưc tiên.
5. Giới thiệu nội dung nghiên cứu:
Để làm rõ các vấn đề liên quan đến chủ đề, chúng ta phải tìm hiểu những nội dung cơ bản sau:
- Lý luận của học thuyết kinh tế Mác-Lênin về hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư. Trong
đó tập trung vào tìm hiểu tư bản và giá trị thặng dư, hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
tuyệt đối và tương đối về nguồn gốc, bản chất, công thức, ý nghĩa…
- Sự hoạt động của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế Việt Nam. Tìm
hiểu nền kinh tế Việt Nam trước đổi mới (1986) và sau đổi mới (1986 đến nay).
Từ đó có để đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát huy tác dụng tích cực và hạn chế ảnh hưởng
tiêu cực của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tại Việt Nam.


B. PHẦN NỘI DUNG
1. Lý luận của học thuyết kinh tế Mác-Lênin về hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
1.1 Tư bản và giá trị thặng dư
Theo Mác, tư bản phải nẩy sinh từ tiền vào đầu thế kỷ XVI. Điều này cũng giống như một
người nào đó nói rằng tiền kim loại đã sinh ra từ gia súc cách đây hơn ba ngàn năm, bởi vì trước
kia ngồi những vật khác làm chức năng tiền thì cịn có gia súc nữa. Khi phân tích những hình
thái kinh tế trong đó q trình lưu thơng hàng hố vận động, thì tiền là hình thái cuối cùng. "Sản
vật cuối cùng ấy của lưu thơng hàng hố là hình thái biểu hiện đầu tiên của tư bản. Xét về mặt
lịch sử thì đâu đâu tư bản cũng đối lập với sở hữu ruộng đất, trước tiên là dưới hình thái tiền, với
tư cách là tài sản bằng tiền, tư bản của thương nhân và tư bản cho vay nặng lãi... Lịch sử ấy hàng

ngày đang diễn ra trước mắt chúng ta. Khi mới xuất hiện lần đầu tiên trên vũ đài, tức là trên thị
trường, - thị trường hàng hoá, thị trường lao động hay thị trường tiền tệ, - thì mỗi một tư bản bao
giờ cũng xuất hiện dưới dạng tiền, số tiền này phải được chuyển hoá thành tư bản thơng qua
những q trình nhất định"(1).
Sau đó Mác tiếp tục nghiên cứu những quá trình nhờ chúng mà tiền biến thành tư bản, và
trước hết ông thấy rằng hình thức trong đó tiền lưu thơng với tư cách là tư bản (T H T’), và một
hình thức ngược lại với hình thức trên, tiền lưu thơng với tư cách là vật ngang giá chung của các
hàng hoá (H-T-H’). Một người chủ hàng hố giản đơn thì bán để mua; anh ta bán cái mà anh ta
không cần dùng, và với tiền thu được, anh ta mua cái mà anh ta cần dùng. Còn nhà tư bản bắt tay
vào cơng việc thì thoạt tiên mua cái mà bản thân hắn không cần đến; hắn mua để bán, hơn nữa
lại để bán đắt hơn, nhằm thu trở lại giá trị của số tiền đã bỏ ra lúc ban đầu để mua, cộng với số
tiền tăng thêm nào đó, Mác gọi là giá trị thặng dư(2). Mục đích của q trình lưu thơng là điểm
khác nhau cơ bản của hai hình thức nêu trên. Do vậy, tư bản vận động theo công thức: T-H-T’
hay đây là công thức chung của tư bản. Các hình thái tư bản đều vận động theo cơng thức này.
Trong đó: T’=T+t (t>0).
Số tiền trội ra lớn hơn được gọi là giá trị thặng dư, số tiền ứng ra ban đầu với mục đích thu được giá
trị thặng dư trở thành tư bản. Tiền biến thành tư bản khi được dùng để mang lại giá trị thặng dư. Tư
bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Vậy nguồn gốc của giá trị thặng dư từ đâu mà có?

Việc mua, bán hàng hóa thấp hơn hoặc bằng giá trị sẽ khơng có giá trị tăng thêm, nếu người mua
hàng hóa để rồi bán hàng hóa đó cao hơn giá trị thì chỉ được lợi xét về người bán, nhưng xét về
người mua thì lại bị thiệt. Trong nền kinh tế thị trường, mỗi người đều đóng vai trò là người bán
và đồng thời cũng là người mua. Cho nên, nếu được lợi khi bán thì lại bị thiệt khi mua. Lưu
thông (mua, bán thông thường) không tạo ra giá trị tăng thêm xét trên phạm vi xã hội.


Bí mật ở đây là nhà tư bản đã mua được một loại hàng hóa đặc biệt nào đó mà trong q
trình sử dụng loại hàng hóa này, giá trị của nó khơng những được bảo tồn mà cịn tạo ra được giá
trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Đó là hàng hóa sức lao động.
Hàng hóa sức lao động là loại hàng hóa đặc biệt, nó mang yếu tố tinh thần và lịch sử. Hơn

thế, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có tính năng đặc biệt mà khơng hàng hóa thơng
thường nào có được, đó là trọng khi sử dụng nó, khơng những giá trị của nó được bảo tồn mà cịn
tạo ra được lượng giá trị lớn hơn. Đây chính là chìa khóa chỉ rõ nguồn gốc của giá trị lớn hơn nêu
trên do đâu mà có(3).
Nguồn gốc của giá trị thặng dư là do hao phí sức lao động mà có, là bộ phận giá trị mới
dơi ra ngồi giá trị sức lao động do công nhân tạo ra, là kết quả lao động không công của công
nhân cho nhà tư bản. Do đó, nếu giả định xã hội chỉ có hai giai cấp, là giai cấp tư sản và giai
cấp cơng nhân, thì giá giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mang bản
chất kinh tế - xã hội là quan hệ giai cấp. Còn bản chất của tư bản là phản ánh quan hệ sản xuất
xã hội mà trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sáng tạo ra.

1.2 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ thuật cịn thấp,
tiến bộ cịn chậm chạp thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo dài ngày lao động
của công nhân.
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động vượt
quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian
lao động tất yếu không thay đổi(4).
Ví dụ: nếu ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao
động thặng dư là 4 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư là 100%.
Giả định nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa với mọi điều kiện khơng đổi thì giá trị
thặng dư tuyệt đối tăng từ 4 giờ lên 6 giờ và tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:
m' = 3 x 100% = 150%
Để có nhiều giá trị thặng dư, người mua hàng hóa sức lao động phải tìm mọi cách để kéo
dài ngày lao động và tăng cường độ lao động. Tuy nhiên, ngày lao động chịu giới hạn về mặt sinh
lý (cơng nhân phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí) nên khơng thể kéo dài bằng ngày tự
nhiên, cịn cường độ lao động cũng khơng thể tăng vơ hạn quá sức chịu đựng của con người.
Hơn nữa, công nhân sẽ kiến quyết đấu tranh đòi rút ngắn ngày lao động. Quyền lợi hai
bên có mâu thuẫn, thơng qua đấu tranh, tuỳ tương quan lực lượng mà tại các dân tộc trong từng
giai đoạn lịch sử cụ thể có thể quy định độ dài nhất định của ngày lao động. Tuy vậy, ngày lao



động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu và cũng không thể vượt giới hạn thể chất và tinh
thần của người lao động.
1.3 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động, vấp
phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt khác, khi sản xuất tư bản
chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại cơng nghiệp cơ khí, kỹ thuật đã tiến bộ làm cho năng suất
lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ
sở tăng năng suất lao động xã hội, tức là bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được nhờ rút ngắn thời gian lao động
tất yếu; do đó kéo dài thời gian lao động thặng dư trong khi độ dài ngày lao động không thay đổi
hoặc thậm chí rút ngắn. Điều này được thực hiện trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội.
Câu hỏi đặt ra: Làm sao để có thể rút ngắn thời gian lao động tất yếu? Thời gian lao động
tất yếu có quan hệ với giá trị sức lao động. Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu phải giảm
giá trị sức lao động, vì thế phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của
công nhân. Điều đó dẫn đến phải tăng năng suất lao động các ngành hàng sản xuất ra tư liệu sinh
hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân và phải tăng năng suất lao động những ngành hàng
sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó, tức là tăng năng suất lao
động xã hội.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp
với nhau để nâng cao trình độ bóc lột cơng nhân làm thuê trong quá trình phát triển của chủ nghĩa
tư bản(5).
2. Sự hoạt động của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế Việt Nam
2.1 Giai đoạn trước đổi mới 1986
a. Đặc điểm mô hình tổ chức kinh tế
Tại đại hội Đại biểu Tồn quốc của Đảng Lao động Việt Nam được tổ chức vào tháng 12
năm 1976. Tại đây, Đại hội quyết nghị đổi tên nước thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng định đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội
trên cả nước. Nội dung chính của đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội là:

Thứ nhất, thực hiện sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Sản xuất lớn có nghĩa là nền kinh tế
dựa vào những đơn vị có quy mô lớn, huyện trở thành pháo đài kinh tế-xã hội, các tỉnh được sáp
nhập lại còn 29 tỉnh. Còn sản xuất xã hội chủ nghĩa tức là nền kinh tế dựa vào 2 thành phần kinh
tế cơ bản: quốc doanh (trong công và thương nghiệp) và tập thể (trong nông nghiệp - với hợp tác
xã cấp cao là nòng cốt). Để thực hiện được sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, cần tiến hành đồng thời
3 cuộc cách mạng: quan hệ sản xuất, khoa học kỹ thuật, và văn hóa tư tưởng. Cách mạng quan hệ
sản xuất có nội dung cơ bản là cải tạo các thành phần kinh tế tư nhân, cá thể, biến chúng thành
các thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể - gọi chung là cải tạo xã hội chủ nghĩa (6).
Thứ hai, làm chủ tập thể (7).


Thứ ba, áp dụng chế độ kế hoạch hóa tập trung. Đây là mơ hình chung ở các nước xã hội
chủ nghĩa. Ở Việt Nam nó được thực hiện theo một cơng thức do Lê Duẩn sáng tạo, đó là: Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ. (8)
Thứ tư, công nghiệp nặng được lựa chọn làm ngành động lực chính của tăng
trưởng và phát triển kinh tế.
Thứ năm, Nhà nước độc quyền về kinh tế đối ngoại.
b. Sự hoạt động của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư:
Với việc Nhà nước kiểm soát toàn bộ hoạt động sản xuất, khiến cho kinh tế tư nhân
khơng có điều kiện phát triển, điều đó dẫn tới việc phương thức sản xuất giá trị thặng dư cơ bản
không tồn tại ở Việt Nam giai đoạn này.
c. Sự phát triển kinh tế trước năm 1986:
Thực hiện hai kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội là Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (19761980) và Kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981-1985), nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành
tựu quan trọng: Khắc phục từng bước những hậu quả nặng nề của chiến tranh; Khôi phục phần
lớn những cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, giao thông ở miền Bắc và xây dựng lại các vùng
nông thôn ở miền Nam bị chiến tranh tàn phá.
Tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm trong giai đoạn 1977-1985 tăng 4,65%,
trong đó: nơng, lâm nghiệp tăng 4,49%/năm; công nghiệp tăng 5,54%/năm và xây dựng tăng
2,18%/năm. Theo loại hình sở hữu, sở hữu quốc doanh tăng 4,29%; sở hữu tập thể tăng 10,26%
và sở hữu tư nhân, cá thể tăng 0,71%. Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ này thấp và

kém hiệu quả. Nông, lâm nghiệp là ngành kinh tế quan trọng (chiếm 38,92% GDP trong giai
đoạn này), nhưng chủ yếu dựa vào độc canh trồng lúa nước. Cơng nghiệp được dồn lực đầu tư
nên có mức tăng khá hơn nông nghiệp, nhưng tỷ trọng trong tồn nền kinh tế cịn thấp (chiếm
39,74% GDP), chưa là động lực để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng.
Thương nghiệp quốc doanh phát triển nhanh chóng, hợp tác xã tuy ở thời kỳ đầu xây
dựng, nhưng đã có những bước vươn lên chiếm lĩnh thị trường, nhờ đó hạn chế được nạn đầu cơ,
tích trữ và tình trạng hỗn loạn về giá cả. Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội bình quân thời kỳ này
tăng 61,6%/năm.
Kinh tế tăng trưởng chậm làm mất cân đối cung – cầu (thiếu hụt nguồn cung), đồng thời
do bị tác động bởi việc cải cách tiền lương vào năm 1985, là những nguyên nhân dẫn đến chỉ số
giá bán lẻ tăng rất cao, bình quân giai đoạn 1976-1985 chỉ số giá bán lẻ tăng 39,53%/năm.

miền Bắc, mặc dù thu nhập bình quân đầu người một tháng của gia đình cơng nhân
viên chức tăng từ 27,9 đồng năm 1976 lên đến 270 đồng năm 1984; thu nhập bình quân đầu
người một tháng của gia đình xã viên hợp tác xã nơng nghiệp tăng từ 18,7 đồng lên đến 505,7
đồng, nhưng do lạm phát cao, nên đời sống nhân dân hết sức khó khăn, thiếu thốn (9).
Trong giai đoạn 5 năm lần thứ nhất, kế hoạch có nhiều điểm duy ý chí nên phần lớn chỉ
tiêu đều khơng đạt. Sản xuất đình trệ, tăng trưởng chỉ đạt 0,4 %/ năm (kế hoạch là 13-14 %) trong


khi tỷ lệ tăng dân số hàng năm trên 2,3 %. Tình trạng thiếu lương thực diễn ra gay gắt, năm 1980
phải nhập 1,576 triệu tấn lương thực. Ngân sách thiếu hụt lớn, giá cả tăng hàng năm 20 %, nhập
khẩu nhiều gấp 4-5 lần xuất khẩu. Nhà nước thiếu vốn đầu tư cho nền kinh tế, nhiều cơng trình
phải bỏ dở, hàng tiêu dùng thiết yếu thiếu trầm trọng. Sau đó vào năm 1982, Đại hội V của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã thừa nhận kinh tế Việt Nam trong thời kỳ 1976-1980 là: "Kết quả sản xuất
không tương xứng với sức lao động và vốn đầu tư bỏ ra, những mất cân đối lớn của nền kinh tế
vẫn trầm trọng, thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng của xã hội trong khi dân số tăng
nhanh; thị trường, vật giá, tài chính, tiền tệ khơng ổn định, đời sống của nhân dân lao động cịn
nhiều khó khăn"
Do các mục tiêu đề ra quá lớn nên trong kế hoạch 5 năm lần thứ II (1981-1985) nền kinh

tế vẫn thiếu cân đối và lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Sản xuất đình trệ thể hiện trên tất cả các
lĩnh vực. Nạn lạm phát tăng nhanh, đầu những năm 80 tăng khoảng 30-50 % hàng năm, cuối năm
1985 lên đến 587,2 % và siêu lạm phát đạt đến đỉnh cao vào năm 1986, với 774,7 %.(10)
Nhìn chung, nền kinh tế cịn hết sức khó khăn trì trệ, đời sống nhân dân khổ cực,
năng suốt lao động thấp do thiếu động lực phát triển.
2.2 Giai đoạn đổi mới từ 1986 đến nay (03 – 04 trang)
a. Đặc điểm mơ hình tổ chức kinh tế
Thực hiện đổi mới về kinh tế bắt đầu từ 1987, nhằm đạt được mục tiêu tổng quát là: Giải
phóng mọi năng lực sản xuất của xã hội; xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dần dần hòa nhập vào thị trường
khu vực và quốc tế; ổn định, phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội, sớm đưa đất
nước ra khỏi khủng hoảng về kinh tế - xã hội; ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân,
tạo tiền đề cho đất nước phát triển nhanh vào đầu thế kỷ XXI.
Đổi mới về kinh tế bao gồm các nội dung cơ bản sau đây:
- Thực hiện mạnh mẽ chính sách dân chủ hố về kinh tế trên cơ sở các nguyên tắc hiến định là tự
do kinh doanh, tự do khế ước trong khuôn khổ pháp luật. Mọi cơng dân Việt Nam có đủ điều kiện
theo luật định đều có quyền tự mình hoặc liên kết với những người khác thành lập doanh nghiệp
hoặc kinh doanh trên mọi lĩnh vực, ngành nghề mà pháp luật khơng cấm. Trên cơ sở đó, một nền
kinh tế nhiều thành phần, khơng chỉ có quốc doanh và tập thể như trước đây đã hình thành; nhiều
loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất đã ra đời, trong đó có các loại hình sở hữu hỗn hợp đan xen
nhau giữa các thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, được tự
do cạnh tranh với nhau theo một “luật chơi’’ chung của kinh tế thị trường. Tuy nhiên, để bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế quốc dân, Nhà nước sẽ định ra một số ngành nghề
then chốt mà kinh tế quốc doanh nắm độc quyền giữ vai trị chủ đạo.
- Từng bước xố bỏ, đi đến xố bỏ hoàn toàn cơ chế quản lý kinh tế cũ theo lối hành chính, mệnh
lệnh và kế hoạch hố tập trung cao độ trên cơ sở thiết lập từng bước vững chắc cơ chế thị trường, Nhà
nước vẫn giữ vai trị điều tiết vĩ mơ nền kinh tế quốc dân bằng các chính sách và cơng cụ kinh tế,
chấm dứt sự can thiệp theo lối mệnh lệnh hành chính vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp, ngay cả đối với các doanh nghiệp nhà nước. Bằng việc tăng cường ban hành pháp luật,
Nhà nước dần dần tạo ra một hành lang pháp lý an toàn cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh.

Trong khuôn khổ hành lang pháp lý đó, Nhà nước thừa nhận và tơn trọng đầy đủ


quyền tự chủ của các doanh nghiệp, của các nhà kinh doanh và thực hiện sự bảo hộ cần thiết đối
với mọi quyền lợi hợp pháp của họ.
- Xây dựng nền kinh tế vừa mở bên trong, vừa mở với bên ngồi, đưa nền kinh tế Việt Nam hịa
nhập vào thị trường và đời sống kinh tế của khu vực và thế giới.(11)
b. Sự hoạt động của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Khi chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, nền kinh tế Việt Nam dần trở nên sơi động nhờ
sự góp mặt của nhiều thành phần kinh tế.
Các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi dần hình thành và
tăng trưởng nhanh chóng. Hàng hóa được trao đổi mua bán mạnh mẽ trong và ngoài nước đem về
lơi nhuận cho các nhà sản xuất. Ở giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, khi tất cả còn mới mẻ,
các cơ chế pháp lý chưa đủ chặt chẽ thì các doanh nghiệp tư nhân đã tận dụng, kéo dài thời gian
lao động nhằm đem lại nhiều lợi nhuận. Ngay sau đó, Đảng và Nhà nước đã có những biện pháp
để bảo vệ người lao động với những chính sách về tuyển dụng, sử dụng lao động. Luật lao động
được ra đời và liên tục được sửa đổi để phù hợp với thực tiễn, xoá bỏ những lỗ hổng, bảo vệ
người lao động, đảm bảo về giờ làm việc. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng sử dụng phương pháp
tăng ca tăng kíp, vừa tối đa thời gian sử dụng công cụ lao động vừa kéo dài thời gian lao động
không công khi trả tiền cho thời gian tăng ca không tương xứng. Vì thế, lại có những quy định
mới hơn về số giờ tăng ca, làm thêm giờ và quy định tính tiền lương cho thời gian tăng ca đó (12)
Khi Việt Nam bước vào cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố, cùng cơ chế chính sách
ngày càng thắt chặt việc đảm bảo sức khoẻ và đời sống của người lao động thì phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư tuyệt đối ít khi được sử dụng; Thay vào đó những thành tựu về Khoa học và
kĩ thuật được áp dụng ngày một nhiều, năng xuất lao động xã hội ngày một tăng. Cùng với đó là
dịng vốn cùng xưởng sản xuất có xu hướng di chuyển về các địa phương như Nghệ An, Bắc
Giang,… Tận dụng nguồn tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất sức lao động giá thấp của địa phương
từ đó có thể giảm giá trị sức lao động.
Nói chung, phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp được áp
dụng chủ yếu và đem lại nhiều giá trị nhất, bằng cách tận dụng công nghệ và kĩ thuật cùng việc

đào tạo nhân cơng; Nhà nước với những chính sách hỗ trợ, bảo vệ quyền của người lao động, do
đó ở hiện tại, đất nước vẫn đạt được mức tăng trưởng kinh tế mà đời sống của người lao động
liên tục được cải thiện ngày càng ấm no, hạnh phúc. Những thành quả về kinh tế nhiều năm gần
đây với sự góp sức rất lớn của doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là
động lực to lớn để Việt Nam tham gia các hoạt động kinh tế quốc tế, hoạt động kinh tế đối ngoại
ngày một phát triển sâu rộng đem lại nhiều giá trị đáng kể.
c. Thành tựu của sự phát triển
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối đang có xu hướng biến mất ở quy mô lẫn
ngành nghề, gần như chỉ tồn tại ở một số hoạt động sản xuất nhỏ lẻ như thủ cơng và một số hoạt
động sản xuất có sức lao động thấp. Một số nơi có biểu hiện khác như tăng ca, giao việc ngoài
giờ nhưng trả lương cho thời gian tăng ca đó ít hơn giá trị thặng dư mà người lao động tạo ra
trong thời gian đó. Nhưng đó cũng chỉ
Lý thuyết phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối ngày được áp dụng rộng rãi ở
mặt nâng cao năng suất lao động bằng việc cải thiện cơ sở vật chất kĩ thuật, cải tiến công nghệ.
Gần như ở tất cả các ngành nghề, với những quy mô khác nhau đều ra sức cải tiến kĩ thuật – công
nghệ, nhất là ở các ngành như công nghiệp và xây dựng, dịch vụ giao thông vận tải, tài chính


ngân hàng, chế biến – chế tạo, linh kiện điện tử,… Qua đó, đạt được những thành tựu quan trọng,
làm chuyển dịch mạnh cơ cấu nền kinh tế nước nhà.
Giai đoạn 1986-2000, tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm tăng 6,51%; trong
đó: khu vực nơng, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,72%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng
9,06%; khu vực dịch vụ tăng 6,66%. Cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hố. Năm 2000, tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm
24,53% GDP, giảm 13,53 điểm phần trăm so với năm 1986; khu vực công nghiệp và xây dựng
chiếm 36,73%, tăng 7,85 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ chiếm 38,74%, tăng 5,68 điểm phần
trăm. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế là đúng hướng và phù hợp với yêu cầu đẩy mạnh tiến trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Sản xuất cơng nghiệp đi dần vào thế phát triển ổn định với tốc độ tăng bình quân mỗi năm trong
thời kỳ 1986-2000 đạt 11,09%. Những sản phẩm công nghiệp quan trọng phục vụ sản xuất và tiêu

dùng của dân cư đều tăng cả về số lượng và chất lượng. Sản lượng xi măng gấp 8,7 lần; thép cán
gấp 25,6 lần; thiếc gấp 3,6 lần. Sản lượng dầu thô đã tăng từ 41 nghìn tấn năm 1986 lên gần 7,1
triệu tấn năm 1994 và 16,3 triệu tấn năm 2000. Các cơ sở sản xuất công nghiệp đã quan tâm hơn
đến chất lượng sản phẩm, không ngừng cải tiến mẫu mã, áp dụng công nghệ tiên tiến và thay đổi
phương án sản xuất theo yêu cầu của thị trường.
Quy mô nền kinh tế ngày càng mở rộng, GDP năm 2019 gấp 12,5 lần năm 2001. Tốc độ
tăng GDP tương đối cao, bình quân năm trong giai đoạn 2001-2010 tăng 7,26%, đạt xấp xỉ tốc độ
tăng 7,56%/năm của Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội 1991-2000, đây là một
thành tựu phát triển kinh tế rất quan trọng của đất nước ta trong giai đoạn này. Trong giai đoạn
2011-2019, GDP tăng 6,3%/năm, trong đó năm 2018 tăng 7,08% và là mức tăng cao nhất kể từ
năm 2008.
Năm 2008, nước ta đã ra khỏi nhóm nước và vùng lãnh thổ thu nhập thấp để gia nhập
nhóm nước và vùng lãnh thổ thu nhập trung bình thấp, đất nước thốt khỏi tình trạng kém phát
triển, đó là thành tựu nổi bật nhất trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ
này. GDP bình quân đầu người năm 2019 đạt 2.715 USD, gấp 15 lần năm 1990; thu nhập bình
quân đầu người 1 tháng đạt 4.294,5 nghìn đồng, gấp 12 lần năm 2002.
Tỷ trọng trong GDP của khu vực kinh tế tư nhân, bao gồm cả kinh tế cá thể ln duy trì
ổn định trong khoảng 39-40%. Bước đầu đã hình thành được một số tập đồn kinh tế tư nhân có
quy mơ lớn, hoạt động đa ngành, có khả năng cạnh tranh tốt hơn trên thị trường trong nước và
quốc tế; đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh. Số lượng DN của tư nhân tăng nhanh với nhiều
loại hình đa dạng; phong trào khởi nghiệp được đẩy mạnh…Mức độ đóng góp vào tổng sản phẩm
trong nước của kinh tế tư nhân luôn chiếm tỷ trọng lớn và tăng liên tục trong những năm qua.
Tính đến nay, cả nước có khoảng trên 500.000 DN tư nhân đang hoạt động và mỗi năm có thêm
hàng vạn DN được thành lập mới; Thu hút khoảng 51% lực lượng lao động cả nước và tạo
khoảng 1,2 triệu việc làm cho người lao động mỗi năm, góp phần quan trọng vào q trình tái cấu
trúc nền kinh tế, tăng thu nhập cho người dân…(13).
Tuy nhiên, sự phát triển còn một số hạn chế như: cơng nghệ đã được cải tiến song cịn lạc
hậu so với thế giới, phát triển nhanh về kĩ thuật cơng nghệ nhưng cịn thiếu lao động có trình độ
cao, việc đầu tư để nghiên cứu kĩ thuật mới còn hạn chế mà chủ yếu dựa vào cơng nghệ nước
ngồi, trong quản trị cịn nhiều thiếu sót. Nhiều doanh nghiệp chưa chú trọng bảo hiểm, phúc lợi



bị chiếm đoạt dẫn đến công nhân khi bị tai nạn lao động, ơm đau… doanh nghiệp chưa có mặt
kịp thời để chia sẻ khó khăn.
3. Một số khuyến nghị nhằm phát huy tác dụng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của hai
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tại Việt Nam
3.1 Mục tiêu
-

Về phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:
Nước ta có nguồn lao động dồi dào, cần phát huy khả năng tạo việc làm cho người lao động.
Tận dụng lợi thế này để sử dụng hiệu quả sức lao động trong sản xuất thúc đẩy kinh tế phát triển.
Tuy nhiên, nhà nước phải có biện pháp mạnh mẽ và khéo léo để đảm bảo sức khoẻ người lao
động và đồng thời người lao động cũng phải tìm hiểu các biện pháp và cơ chế để tự bảo vệ bản
thân tránh bị lạm dụng sức lao động.
-Về phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối:

những doanh nghiệp lớn của Việt Nam đã có những cơng nghệ tiên tiến và hiện đại, có
năng lực cạnh tranh lớn trên thị trường trong và ngồi nước. Tuy nhiên, Việt Nam hiện có khoảng
trên 800 nghìn DN, Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) chiếm tỷ trọng 98%, đóng góp tới 45%
trong GDP, khu vực này cũng đóng góp khoảng trên 31% tổng số thu ngân sách nhà nước và thu
hút hơn 5 triệu lao động. DNNVV đã có mặt ở hầu hết các vùng, địa phương tận dụng và khai
thác tốt các nguồn lực tại chỗ. Tuy nhiên, những doanh nghiệp này chưa có đủ khả năng đầu tư
khoa học công nghệ cùng phương pháp quản trị hiện đại. Khơng ít doanh nghiệp nhỏ có sự năng
động, ham học hỏi và có động lực phát triển rõ ràng nhưng gặp phải những rào cản trong chính
sách, thủ tục hành chính.
Trong vài năm qua, Nhà nước khơng ngừng tối giản thủ tục hành chính, khuyến khích
phát triển và đầu tư cơng nghệ, tổ chức nhiều diễn đàn để doanh nghiệp vừa và nhỏ học hỏi kinh
nghiệm quản trị, giao lưu hợp tác.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho rằng cần thẳng thắn nhìn nhận nhiều nơi, nhiều lúc,

trong chỉ đạo thực hiện chưa thực sự coi khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu: “Luật quy
định chúng ta phải chi 2% ngân sách cho khoa học, công nghệ nhưng từ năm 2001 đến nay năm
cao nhất mới được 1,8% và có xu hướng giảm dần. Nhiều cơ chế chính sách dành cho khoa học
cơng nghệ thực hiện chưa được mong muốn”(14).
Đi với phát triển kinh tế là đời sống vật chất và tinh thần của người lao động phải được
đảm bảo. Các doanh nghiệp đều phải tạo điều kiện cho lao động được tham gia bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm an toàn lao động nếu cơng việc nguy hiểm đến sức khoẻ và tính mạng của lao động.
Hạn chế sự phân phối bất bình đẳng, sự chiếm đoạt phúc lợi…
3.2 Một số khuyến nghị
a. Đối với Nhà nước
Trong sự phát triển ngày một nhanh, nhiều doanh nghiệp chạy đua về kinh tế, nhà nước cần
có những biện pháp bảo vệ người lao động tránh những mặt tiêu cực của phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư, phân bổ các phúc lợi, hoàn thiện Bộ luật lao động. Có những chính sách xây nhà
giá rẻ cho người có thu nhập thấp, phối hợp với Cơng đoàn tuyên truyền và phổ biến luật lao
động cho người lao động được biết và có ý thức tự bảo vệ quyền lợi của bản thân, dám lên án
những hành vi coi rẻ sức lao động, trả lương không đúng với số ca số kíp. Ngồi ra, Nhà nước


cũng cần có những biện pháp thúc đẩy doanh nghiệp phát triển từ năng lực quản trị đến công
nghệ - kĩ thuật, tạo ra nhiều giá trị thặng dư hơn.
Thứ nhất, rà sốt, bổ sung và hồn thiện thể chế, khẩn trương cắt giảm thực chất điều kiện
kinh doanh đang là rào cản đối với hoạt động của doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh cá thể; đẩy
mạnh cải cách hành chính, thực thi hiệu quả thủ tục một cửa tạo môi trường kinh doanh thuận lợi
cho doanh nghiệp thành lập và phát triển; cần có chính sách và giải pháp phù hợp để khuyến
khích các cơ sở kinh doanh cá thể chuyển thành doanh nghiệp; tạo dựng điều kiện kinh doanh
thuận lợi cho các cơ sở cá thể kinh doanh ổn định, tuân thủ pháp luật và lâu dài.
Thứ hai, nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp trong nước bằng thực hiện
đồng bộ các giải pháp trong đó tập trung trước mặt vào đầu tư xây dựng hạ tầng góp phần giảm
chi phí cho doanh nghiệp; đẩy mạnh nghiên cứu khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, hình
thành các trung tâm nghiên cứu và đổi mới sáng tạo để chuyển giao công nghệ cho khu vực

doanh nghiệp.
Thứ ba, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận tài chính, tín dụng, có chính sách thuế
khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào cơng nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng sản
phẩm và sức cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp trong nước.
Thứ tư, với tầm quan trọng và hiệu quả của doanh nghiệp FDI, trong bối cảnh trỗi dậy của
chủ nghĩa bảo hộ và tác động mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp 4.0 làm thay đổi phương
thức và chuyển đổi địa điểm sản xuất trở lại các quốc gia sản sinh ra công nghệ, cần khai thác cơ
hội của Cách mạng công nghiệp 4.0, xu hướng chuyển dịch dòng vốn quốc tế, các hình thức đầu
tư mới để tạo dựng tối đa lợi thế của Việt Nam chủ động thu hút các nhà đầu tư nước ngoài hàng
đầu thế giới, từ các nước nắm giữ cơng nghệ nguồn, có năng lực quản trị hiện đại, năng lực cạnh
tranh cao để đầu tư vào Việt Nam. Chính phủ có chiến lược và giải pháp khuyến khích, thúc đẩy
và hỗ trợ doanh nghiệp trong nước liên doanh, liên kết, chuyển giao công nghệ với doanh nghiệp
FDI, đẩy mạnh công nghiệp phụ trợ để doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi liên kết của
doanh nghiệp FDI.
Thứ năm, nền kinh tế có đứng vững, phát triển thành công trong xu thế của Cách mạng công
nghiệp 4.0 phụ thuộc vào chất lượng nguồn nhân lực và đội ngũ lao động có trình độ, biết đổi
mới sáng tạo, biết đưa ra ý tưởng mới. Vì vậy, cần đổi mới phương thức, chương trình đào tạo,
kết hợp giữa lý thuyết và thực hành gắn với Cách mạng công nghiệp 4.0. Đây cũng là nhiệm vụ
để thực hiện 3 khâu then chốt của nền kinh tế: Đổi mới thể chế; xây dựng cơ sở hạ tầng và phát
triển nguồn nhân lực.(15)
b. Đối với doanh nghiệp
Doanh nghiệp nhận được quan tâm của nhà nước phải tận dụng cơ hội để phát triển, tăng
cường giao lưu học hỏi trong và ngoài nước, nâng cao khả năng quản trị, nghiên cứu để cải tiến
công nghệ phù hợp thực tiễn Cách mạng công nghiệp 4.0.
Chê đô g̣đai ngô g̣la qua trinh chăm lo đơi sông vâṭchât va tinh thân cua ngươi lao đông đê ho co
thê hoan thanh tôt nhiêṃ vu đươc giao va qua đo gop phân hoan thanh muc tiêu cua doanh nghiêpg̣.
Chê đô g̣đai ngô g̣nhân sư đong vai tro không thê thiêu cho cac doanh nghiêpg̣ vi no la điêu kiêṇ đu đê
nâng cao chât lương va hiêụ qua kinh doanh cua doanh nghiêpg̣. Chinh sach đai ngô g̣ con giup nâng
cao đơi sông công nhân, gop phân tao đôngg̣ lưc kich thich ngươi lao đôngg̣ lao đôngg̣ lam viêcg̣ hiêụ
qua, tư đo giup cho cac doanh nghiêpg̣ co thê duy tri nguôn nhân lưc ôn đinh va co chât lương. Cac

doanh nghiêpg̣ cân phai hương đên chinh sach đai ngô g̣tai diêṇ hơn. Ngoai nhưng hinh thưc đai ngô
g̣qua con đương tai chinh như bên canh lương cơ ban con co cac khoan trưc tiêp phu câp lương, tiên
thương hay gian tiêp như bao hiêm, trơ câp xa hôi,g̣ phuc lơi; doanh nghiêpg̣


cân phai cai thiêṇ chinh sach đai ngô g̣phi tai như môi trương lam viêcg̣ an toan va lanh manh, cơ
hôịthăng tiên trong công viêc,g̣... Thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội, hỗ trợ kịp thời khi người lao
động ốm đau, bệnh tật.
Các doanh nghiệp phải có tổ chức cơng đoàn bảo vệ quyền lợi người lao động. Tổ chức cơng
đồn bảo đảm cho cơng nhân lao động trong điều kiện tốt và giảm sự nặng nề trong bóc lột của
nhà tư bản với công nhân.
c. Đối với người lao động
Thực hiện hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể và thỏa thuận hợp pháp khác;
Chấp hành kỷ luật lao động, nội quy lao động; tuân theo sự quản lý, điều hành, giám sát của
người sử dụng lao động; Thực hiện quy định của pháp luật về lao động, việc làm, giáo dục nghề
nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và an tồn, vệ sinh lao động.
Người lao động có các quyền cơ bản như: Làm việc; tự do lựa chọn việc làm, nơi làm
việc, nghề nghiệp, học nghề, nâng cao trình độ nghề nghiệp; không bị phân biệt đối xử, cưỡng
bức lao động, quấy rối tình dục tại nơi làm việc; Hưởng lương phù hợp với trình độ, kỹ năng
nghề trên cơ sở thỏa thuận với người sử dụng lao động; được bảo hộ lao động, làm việc trong
điều kiện bảo đảm về an toàn, vệ sinh lao động; nghỉ theo chế độ, nghỉ hằng năm có hưởng
lương và được hưởng phúc lợi tập thể; Thành lập, gia nhập, hoạt động trong tổ chức đại diện
người lao động, tổ chức nghề nghiệp và tổ chức khác theo quy định của pháp luật; yêu cầu và
tham gia đối thoại, thực hiện quy chế dân chủ, thương lượng tập thể với người sử dụng lao động
và được tham vấn tại nơi làm việc để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình;
tham gia quản lý theo nội quy của người sử dụng lao động; Từ chối làm việc nếu có nguy cơ rõ
ràng đe dọa trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe trong q trình thực hiện cơng việc; Đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động; Đình cơng; (16)
Người lao động cũng cần tìm hiểu và hiểu rõ pháp luật, có ý thức bảo về quyền lợi chính
đáng của bản thân mình, sẵn sàng lên án, đấu tranh chống các hành vi ngược đãi lao động, coi rẻ

sức lao động, đoàn kết cùng những người lao động khác để có tiếng nói chung, từ đó đạt được
những điều kiện tốt hơn mà bản thân xứng đáng nhận được từ người sử dụng lao động.

C. PHẦN KẾT LUẬN
Thông qua việc nghiên cứu bản chất của tư bản và giá trị thặng dư, tiếp tục nghiên cứu hai
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư cho thấy những mặt tiêu cực và hạn chế của các phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư nhưng cũng cho thấy những yếu tố tích cực từ việc tăng năng suất
lao động nhờ cải tiến máy móc, khoa học kĩ thuật. Tiến bộ về cơng nghệ để tạo ra nhiều giá trị
thặng dư hơn chứ khơng phải để bóc lột được nhiều sức lao động hơn.
Nền kinh tế tập trung và bao cấp đã phát huy hiệu quả trong thời kì chiến tranh nhưng ở
thời kì mới, cần có sự đổi mới để có thể hoà nhập với thế giới. Việc thực hiện nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN là một tất yếu khách quan: Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ
lực lượng sản xuất và Việt Nam cần hội nhập, phát triển nền kinh tế, thực hiện mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Sự hoạt động mạnh mẽ của doanh nghiệp tư
nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi đã giúp đất nước có nhiều bước tiến quan trọng
về kinh tế, là động lực to lớn để Việt Nam tham gia vào nền kinh tế thế giới. Trong quá trình hội
nhập và phát triển, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư cải tiến máy móc, cơng nghệ để có thể tăng sức
cạnh tranh. Nhà nước cũng rất quan tâm đến người lao động, thực hiện nhiều chính sách giúp đỡ,
cùng Bộ luật lao động bảo vệ người lao động khỏi tác dụng tiêu cực của phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư. Tuy nhiên, cần thúc đẩy hơn nữa các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư khoa học
công nghệ cao, tăng cường khả năng quản trị,… để tăng năng suất lao động xã hội chứ không
phải bỏ túi giá trị thặng dư để rồi lạc hậu về công nghệ và không bền vững về lâu dài.


Để tháo gỡ những khó khăn của doanh nghiệp, kích thích sự năng động của doanh nghiệp
vừa và nhỏ thì Nhà nước cần linh hoạt hơn trong các thủ tục hành chính, khuyến khích đầu tư
KHCN. Doanh nghiệp tận dụng cơ hội để phát triển toàn diện hơn nữa, phát triển kinh tế phát đi
đôi với phát triển đời sống vật chất và tinh thần của người lao động. Người lao động cũng phải tự
trau dồi bản thân về kĩ năng chuyên môn lẫn kiến thức pháp luật, hiểu rõ những quyền và nghĩa
vụ. Làm sao đôi bên đều đạt được những thoả thuận và cùng nhau tạo ra giá trị thặng dư làm giàu

cho đất nước, là bước tiền đề để Việt Nam tiến lên XHCN. Công cuộc xây dựng đất nước cịn
nhiều gian nan, khi mà tình hình dịch bệnh diễn biến căng thẳng, tất cả người dân đều phải có
trách nhiệm thực hiện các chỉ thị của Chính phủ, cả doanh nghiệp và người lao động đều gặp
những khó khăn, đơi bên cần có những cuộc đối thoại để cùng nhau vượt qua đại dịch đưa đất
nước tăng trưởng trở lại.

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ CHÚ THÍCH
A. Phần mở đầu:
(1) ThS. Đỗ T.Thảo và ThS. Nguyễn T.Phong Lan, 31/05/2013, Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh
tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay, Cổng thông tin Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, truy cập ngày 5/8/2021.
(2)
PGS.TS Ngơ Tuấn Nghĩa et al, 2019, Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin (Dành cho
bậc đại học
– khơng chun Lý luận chính trị), NXB Bộ GD&ĐT, trang 16.

B. Phần nội dung:
(1)(2) Ph.Ăngghen, 1877, Chống Duhring, trang 219-220.
(3) (4)PGS.TS Ngơ Tuấn Nghĩa et al, 2019, Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin (Dành cho bậc đại
học – khơng chun Lý luận chính trị), NXB Bộ GD&ĐT, trang 55, 64.
(5) PGS.TS Nguyễn Viết Thông et al, 2017, Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tái bản có sửa chữa, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, trang 240-242.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 37, trang 558 - 570, công khai tại Báo điện tử
Đảng Cộng sản Việt Nam: />(7) Đặng Phong, 2008, Tư duy kinh tế Việt Nam: Chặng đường gian nan và ngoạn mục 1975-1989, Nhà
xuất bản Tri thức Hà Nội, trang 79 – 84.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng tồn tập, tập 37, trang 671-676, cơng khai tại Báo điện tử
Đảng Cộng sản Việt Nam: />(9)(13) TS. N.T. Hương, 2/9/2020, Những dấu ấn quan trọng về Kinh tế - Xã hội trong hành trình 75 năm
thành lập và phát triển đất nước qua số liệu thống kê, theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 25/2020
truy cập ngày 8/8/2021.



(10) Trần Văn Thọ chủ biên (2000), Kinh tế Việt Nam 1955-2000: Tính tốn mới, phân tích mới, Nhà xuất
bản Thống kê, Hà Nội, Bảng 4.10, trang 273.
(11) TS. Nguyễn Đình Lộc, 1992, Bài phát biểu tại buổi gặp gỡ với các nhà doanh nghiệp Nhật Bản năm
1992, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật: truy cập ngày 8/8/2021.
(12) Điều 98 Bộ luật Lao động 2019, tiền lương làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm của người lao
động được hướng dẫn chi tiết tại Điều 55, Điều 56 và Điều 57 Nghị định 145/2020/NĐ-CP
(14) Phát biểu của PTT. Vũ Đức Đam tại buổi “Gặp mặt đại biểu trí thức khoa học và công nghệ tiêu biểu
năm 2019” do Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức sáng 14/5/2019.
(15) Theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại buổi họp báo công bố Bộ chỉ tiêu đánh giá mức độ phát
triển doanh nghiệp cả nước và các địa phương năm 2018, sáng 13/10.
(16)
Điều 5 Bộ luật lao động, 45/2019/QH14, do Quốc hội Ban hành ngày 20 tháng 11 năm 2019.



×