Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp “Cam kết về dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ và các giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả của Việt Nam” pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (910.35 KB, 98 trang )




LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


Cam kết về dịch vụ tài chính trong
Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ
và các giải pháp nhằm thực hiện
có hiệu quả của Việt Nam



Cam kết dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và các giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả của Việt Nam




Trang 1
LỜI MỞ ĐẦU
Một nhà sử học người Anh đã từng nói “Lịch sử là một chuỗi những thách thức
và đáp lại thách thức”. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, một
trong những thách thức lớn mà Việt Nam phải đối mặt, chấp nhận và giải quyết
một cách tốt nhất để tồn tại đó là mở cửa ngành dịch vụ tài chính, một ngành cơ sở
hạ t
ầng thiết yếu của nền kinh tế quốc dân.
Trong những năm gần đây, mặc dù bối cảnh tài chính- kinh tế thế giới nói
chung và khu vực châu Á nói riêng có nhiều biến động không thuận lợi, ngành dịch
vụ tài chính nước ta vẫn có những bước phát triển khá mạnh mẽ, khai thác và luân
chuyển có hiệu quả hơn các nguồn lực tài chính phục vụ phát triển nền kinh tế - xã


hội. Và như là một bước phát triển t
ất yếu, chúng ta đã chủ động tham gia hội nhập
và mở cửa thị trường trường dịch vụ tài chính quốc gia, trước tiên là thực hiện các
cam kết về dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ.
Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ mở ra nhiều cơ hội mới cho ngành dịch vụ tài
chính Việt Nam, nhưng đồng thời cũng đặt ngành dịch vụ
tài chính Việt Nam trước
những thách thức mới, và bản thân việc có thể thực hiện hiệu quả các cam kết về
dịch vụ tài chính trong Hiệp định hay không cũng là một thách thức đối với Việt
Nam.
Xuất phát từ mong muốn tìm kiếm các giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả
các cam kết của Việt Nam về dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt –
Mỹ trên cơ s
ở lý giải, phân tích những thuận lợi và khó khăn cũng như nguyên
nhân phát sinh các khó khăn đó, em đã lựa chọn đề tài “Cam kết về dịch vụ tài
chính trong Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ và các giải pháp nhằm thực hiện
có hiệu quả của Việt Nam” cho bài luận văn tốt nghiệp của mình. Do dịch vụ tài
chính là một lĩnh vực hết sức rộng nên trọng tâm phân tích và giải pháp đư
a ra
Cam kết dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và các giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả của Việt Nam




Trang 2
trong đề tài sẽ là hai loại hình dịch vụ tài chính chủ yếu và quan trọng đối với nền
kinh tế Việt Nam hiện nay đó là dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ ngân hàng.
Kết cấu của Đề tài gồm ba chương sau:
Chương I – Những vấn đề chung về dịch vụ tài chính và dịch vụ tài chính

trong Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ
Chương II – Thực trạng thị trường dị
ch vụ tài chính Việt Nam và một số
vấn đề trong việc thực hiện các kết về dịch vụ tài chính theo hiệp định thương
mại Việt – Mỹ của Việt Nam
Chương III – Định hướng và một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả
các cam kết của Việt Nam về dịch vụ tài chính trong hiệp định thương mại
Việt – Mỹ
Do những hạn chế v
ề thời gian, tài liệu và khả năng của người viết, nội dung
khóa luận khó tránh khỏi những sai sót và khiếm khuyết, em rất mong nhận được
sự chỉ dẫn tận tình của các thầy cô giáo trong trường và góp ý của đông đảo độc
giả. Em xin chân thành cảm ơn.

Cam kết dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và các giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả của Việt Nam




Trang 3
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DỊCH VỤ TÀI CHÍNH VÀ DỊCH VỤ TÀI
CHÍNH TRONG HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT – MỸ

1. Tổng quan về dịch vụ tài chính và tầm quan trọng của nó đối với nền kinh
tế quốc dân
1.1. Khái niệm dịch vụ tài chính và các loại hình dịch vụ tài chính
a) Khái niệm
Theo Tổ chức thương mại thế giới (WTO) “Dịch vụ tài chính là bất kỳ dịch vụ

nào có tính chất tài chính, được một nhà cung cấp dịch vụ tài chính cung cấp.
Dịch vụ tài chính bao gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan tới bảo hiểm,
mọi dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác”.
Theo Phụ lục GATS về dịch vụ tài chính, người cung cấp dịch vụ tài chính là
pháp nhân hoặc thể nhân của một Thành viên muốn cung cấp hoặc đang cung cấp
những dịch vụ tài chính nhưng thu
ật ngữ ’’người cung cấp dịch vụ tài chính’’
không bao gồm pháp nhân công cộng là :
(i) chính phủ, ngân hàng trung ương hoặc một tổ chức tài chính của một
Thành viên, hoặc một thực thể do một Thành viên sở hữu hoặc kiểm soát,
chủ yếu tiến hành chức năng chính phủ hoặc các hoạt động vì mục đích
của chính phủ, không bao gồm pháp nhân chủ yếu cung cấp những dịch
vụ tài chính trên cơ sở
những điều kiện thương mại; hoặc
(ii) một pháp nhân tư nhân, thực hiện các chức năng mà thông thường vẫn do
một Ngân hàng trung ương hoặc tổ chức tiền tệ, khi thực hiện các chức
năng này.
b) Các loại hình dịch vụ tài chính
Cam kết dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và các giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả của Việt Nam




Trang 4
Trong vòng đàm phán Uruguay (có hiệu lực từ 1-1-1995), các bên tham gia đã
nhất trí coi các hoạt động sau là dịch vụ tài chính trong GATS (Phụ lục GATS về
Dịch vụ tài chính):
Bảo hiểm và các dịch vụ liên quan tới bảo hiểm:
(i) Bảo hiểm trực tiếp (kể cả đồng bảo hiểm) :

(A) nhân thọ
(B) phi nhân thọ
(ii) Tái bảo hiểm và tái nhượng bảo hiểm ;
(iii) Bảo hiểm cho trung gian, như là môi gi
ới và đại lý ;
(iv) Dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, như là tư vấn, dịch vụ đánh giá xác xuất và rủi ro
và dịch vụ giải quyết khiếu nại.
Ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác (ngoại trừ bảo hiểm):
(v) Chấp nhận tiền gửi hoặc đặt cọc và các khoản quỹ có thể thanh toán khác
của công chúng ;
(vi) Mọi loại hình cho vay, kể cả tín dụng ng
ười tiêu dùng, tín dụng cầm đồ, cầm
cố, dịch vụ về hóa đơn và tài trợ các giao dịch thương mại ;
(vii) Thuê mua tài chính ;
(viii) Mọi dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, kể cả thẻ tín dụng, thẻ thanh toán và
tương tự, séc du lịch và hối phiếu ngân hàng ;
(ix) Bảo lãnh và cam kết ;
(x) Thương vụ tiến hành tự chịu chi phí hoặc nhân danh khách hàng, dù tại sở
giao dịch và trên thị trường không chính thức, ho
ặc các giao dịch khác về :
(A) công cụ thị trường tiền tệ (kể cả séc, hoá đơn, giấy chứng nhận tiền
gửi) ;
Cam kết dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và các giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả của Việt Nam




Trang 5
(B) ngoại hối ;

(C) các công cụ dẫn xuất nhưng không hạn chế bởi các giao dịch kỳ hạn
hoặc quyền giao dịch ;
(D) tỷ giá ngoại hối và các công cụ về lãi suất kể cả các công cụ như là giao
dịch swap, thoả thuận tỷ giá kỳ hạn ;
(E) chứng từ có thể chuyển nhượng ;
(F) các công cụ có thể chuyển nhượng khác và các tài sản tài chính, kể c

kim khí quý ;
(xi) Tham gia vào việc phát hành mọi loại chứng khoán, kể cả việc bảo hiểm
phát hành và với hoạt động đại lý (dù theo cách công hoặc tư nhân) và cung
cấp dịch vụ liên quan tới những vấn đề trên ;
(xii) Môi giới tiền tệ ;
(xiii) Quản lý tài sản có, như là tiền mặt hoặc quản lý danh mục đầu tư gián tiếp,
mọi hình thức quản lý đầu tư tập thể, qu
ản lý hưu trí, hùn vốn, góp vốn và
dịch vụ tín thác ;
(xiv) Dịch vụ thanh toán hoặc thanh toán bù trừ về tài sản tài chính, kể cả chứng
khoán, các công cụ dẫn xuất và các công cụ có thể chuyển nhượng khác ;
(xv) Cung cấp và chuyển thông tin về tài chính, và xử lý dữ liệu tài chính và phần
mềm liên quan do các người cung cấp dịch vụ tài chính thực hiện ;
(xvi) Các dịch vụ về tư vấn, trung gian và bổ trợ về tài chính về
mọi mặt hoạt
động nêu tại điểm (v) cho tới (xv), kể cả tham chiếu và phân tích tín dụng,
nghiên cứu và tư vấn về đầu tư và đầu tư gián tiếp, tư vấn mua sắm và về cơ
cấu lại hoặc chiến lược doanh nghiệp.
Cam kết dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và các giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả của Việt Nam





Trang 6
Kể từ khi GATS ra đời tới nay, hầu hết các cam kết song phương và đa phương
của các quốc gia trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đều sử dụng khái niệm và cách
phân loại như trên.
1.2. Tầm quan trọng của dịch vụ tài chính trong nền kinh tế quốc dân
Nhìn từ góc độ kinh tế, hoạt động thương mại dịch vụ tài chính cũng giống như
các hoạt động trao đổi mua bán các hàng hóa và dịch vụ
khác, có thể có những tác
động tích cực đến thu nhập và sự tăng trưởng của tất cả các đối tác tham gia. Tuy
nhiên, điểm khác biệt là ở chỗ thương mại dịch vụ tài chính là một ngành hạ tầng
cơ sở cho nền kinh tế đồng thời là một công cụ thực hiện chính sách xã hội của nhà
nước. Không thể có nền kinh tế phát triển cao và ổn định lại thiếu các dịch vụ tài
chính ch
ất lượng cao.
Trong cuốn ″Tài chính cho tăng trưởng″ do Ngân hàng thế giới (World Bank)
biên soạn, hệ thống dịch vụ tài chính thường thực hiện bốn chức năng kinh tế cơ
bản sau:
 Huy động tiền tiết kiệm
 Phân bổ vốn đầu tư, nhất là để tài trợ cho những dự án đầu tư hiệu quả
 Giám sát hoạt động quản lý, sao cho kinh phí đã phân bổ
được chi tiêu
đúng kế hoạch
 Chuyển dịch và phân bổ rủi ro thông qua sự tích tụ và cho phép những
người sẵn sàng chấp nhận rủi ro hơn được gánh chịu.
Với bốn chức năng kinh tế cơ bản như trên, ngành dịch vụ tài chính đóng một
vai trò hết sức quan trọng đối với các hoạt động trong nền kinh tế.
Trước hết, hiệu quả của ngành dịch vụ
tài chính góp phần không nhỏ trong việc
xác lập vị thế cạnh tranh về giá cả của các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ trong nền

kinh tế. Theo ước tính, tỷ lệ giá trị dịch vụ tài chính trong các giá thành các sản
Cam kết dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và các giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả của Việt Nam




Trang 7
phẩm thuộc ngành sản xuất chiếm khoảng 3 - 7%. Như vậy nếu như ngành dịch vụ
tài chính có hiệu quả thì các chi phí mà một công ty sản xuất phải bỏ ra cho các
dịch vụ tài chính sẽ giảm đi tương đối (tương đối theo nghĩa tỷ lệ ích lợi thu so với
chi phí bỏ ra sẽ tăng lên), và như vậy là giá thành sản phẩm cũng sẽ giảm đi tương
ứng, góp phần tăng nă
ng lực cạnh tranh.
Ngoài ra, ngành dịch vụ tài chính còn làm cho các khoản tiết kiệm được định
hướng và phân phối hiệu quả cho những khoản đầu tư hay tiêu thụ cần hỗ trợ tài
chính. Việc sử dụng không hiệu quả nguồn vốn khan hiếm trong một số ngành có
thể gây ra tình trạng thiếu vốn trầm trọng ở một số ngành khác. Do đó, một số
khoản đầu tư có tiềm nă
ng đem lại lợi nhuận lại không được tiến hành. Lúc này,
nhà đầu tư có thể tìm kiếm tài trợ từ nền kinh tế ngầm không qua hệ thống dịch vụ
tài chính chính thống, điều thường gây tốn kém và hạn chế nhiều phạm vi đầu tư.
Một ngành dịch vụ tài chính hiệu quả với cơ chế hoạt động của mình sẽ định
hướng và phân bố nguồn vốn
đầu tư một cách hợp lý.
Bên cạnh đó, hệ thống dịch vụ tài chính cũng có vai trò làm giảm bớt rủi ro,
đóng góp cho sự hoạt động ổn định của nền kinh tế nói chung. Đơn cử một ví dụ,
các sản phẩm phái sinh trên thị trường dịch vụ tài chính cho phép các thương nhân
tự bảo hiểm trưóc những rủi ro về lãi suất và tỷ giá. Hệ thống bảo hiểm xã hội tạo
ra sự ổn định không chỉ về mặt kinh tế mà còn cả về chính trị.

Trong thời đại ngày nay, dịch vụ tài chính ngày càng thể hiện là một ngành
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Tầm quan trọng của ngành dịch vụ tài chính
được phản ánh bằng tỷ lệ tạo việc làm và tỷ lệ đóng góp vào GDP.
Từ Bảng 1 dưới đây ta có thể thấy rằng trong những giai đoạn 1970-2000, tỷ lệ
lao
động trong ngành dịch vụ tài chính trong tổng lao động tăng khoảng 25% ở
nhiều nước. Cho đến năm 2000, lao động trong ngành dịch vụ tài chính chiếm từ
Cam kết dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và các giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả của Việt Nam




Trang 8
khoảng 3% tổng lực lượng lao động tại Pháp, Canađa và Nhật Bản tới 5% như tại
Singapore, Thụy Sỹ và Hoa Kỳ. Bảng 1 cũng cho thấy một quốc gia càng phát
triển thì quy mô lực lượng lao động trong ngành dịch vụ tài chính càng lớn.

Bảng 1:
Tỷ trọng lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực dịch vụ tài chính
(Đơn vị: % trên tổng lao động)
Quốc gia 1970 1980 1985 1990 1995 2000
Canada 2.4 2.7 2.9 3.0 3.2 3.5
Pháp 1.8 2.6 2.9 2.8 2.7 3.1
Đức 2.2 2.8 3.0 3.1 3.2 3.4
Nhật Bản 2.4 3.0 3.2 3.3 3.1 3.4
Singapore … 2.7 … … 5.0 5.8
Thụy Sĩ … … 4.6 4.8 4.7 5.1
Anh … 3.0 3.5 4.6 4.3 4.9
Mỹ 3.8 4.4 4.7 4.8 4.7 5.2

Nguồn: WTO (2001a); OECD (2001a)

Tỷ lệ lượng giá trị gia tăng do khu vực dịch vụ tài chính trên tổng GDP tại các
quốc gia được thể hiện trên Bảng 2 dưới đây cũng tăng lên đáng kể trong giai đoạn
1970-2000. Trong năm 1970, tỷ lệ lượng giá trị gia tăng của khu vực dịch vụ tài
chính trên GDP của các quốc gia phát triển nêu trong Bảng 2 vào khoảng từ 2-4%,
nhưng đến năm 2000 thì tỷ lệ này vào khoảng từ 3 - 15%. Tại các quố
c gia đang
phát triển, cho đến năm 2000, lượng giá trị gia tăng của khu vực dịch vụ tài chính
cũng chiếm từ 3 – 10% GDP của từng quốc gia. Trong các quốc gia trong Bảng 2,
Hồng Kông và Singapore là hai quốc gia mà ở đó dịch vụ tài chính có vai trò quan
trọng nhất. Như vậy, cũng có thể đưa ra nhận định rằng một quốc gia có nền kinh
Cam kết dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và các giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả của Việt Nam




Trang 9
tế phát triển hiện đại sẽ có ngành dịch vụ tài chính đóng góp nhiều giá trị gia tăng
cho GDP của quốc gia đó.


Bảng 2:
Giá trị gia tăng tạo ra từ khu vực dịch vụ tài chính
(Đơn vị: % trên GDP)
Quốc gia 1970 1980 1985 1990 1995 2000
Các quốc gia công nghiệp:
Canada 2.2 1.8 2.0 2.8 2.5 2.9
Pháp 3.5 4.4 4.8 4.4 4.6 4.7

Đức 3.2 4.5 5.5 4.8 5.8 6.2
Nhật Bản 4.3 4.5 5.5 4.8 5.8 6.0
Thụy Sĩ … … 10.4 10.3 13.3 15.2
Singapore … 5.0 … … 12.0 14.0
Hồng Kông … 6.9 6.1 6.6 9.4 10.0
Mỹ 4.0 4.8 5.5 6.1 7.3 8.1
Các quốc gia đang phát triển:
Columbia … … … 2.9 2.9 3.1
Ghana 5.5 … 8.7 9.2 … 9.3
Mauritus … … … 4.4 5.2 5.5
Sri Lanka … … … 4.6 6.8 6.9
Thái Lan … … … 4.0 7.8 8.2
Nguồn: WTO (2001a); OECD (20001a)

Tầm quan trọng của ngành dịch vụ tài chính đối với nền kinh tế quốc dân cũng
có thể được phản ánh thông qua hai chỉ số khác: tổng tài sản ngân hàng và tỷ lệ
tổng phí bảo hiểm trên GDP.
Biểu đồ 1 dưới đây cho thấy quy mô tài sản của khu vực ngân hàng tại một số
nền kinh tế phát triển, đang phát triển và chuyển đổi. Tổng tài sản trong ngành
Cam kết dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và các giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả của Việt Nam




Trang 10
ngân hàng tại Nhật Bản, Liên minh Châu Âu và Hoa Kỳ trong năm 2002 lên tới 10
nghìn tỷ đôla Mỹ cho mỗi khu vực. Nếu tính gộp cả ba khu vực này lại thì tổng tài
sản của ngành ngân hàng chiếm tới ba phần tư tổng tài sản trong ngành ngân hàng
của toàn cầu. Thêm vào đó, tại một số quốc gia như Thụy Sĩ, tổng tài sản trong

ngành ngân hàng lên tới gần 1.000 tỷ đôla Mỹ, tức là vượt xa GDP của quốc gia
này. Tại các quố
c gia đang phát triển, quy mô tài sản của khu vực ngân hàng vào
khoảng từ 10 tỷ cho đến 100 tỷ đôla Mỹ, ngoại trừ tại các quốc gia như Brazil, Hàn
Quốc, Mêxicô, Thái Lan, quy mô tài sản của khu vực ngân hàng vào khoảng từ
100 cho đến 1000 tỷ đôla Mỹ. Như vậy có thể thấy rằng xu hướng chung là quy mô
tài sản của khu vực ngân hàng tỷ lệ thuận với mức độ phát triển của nền kinh tế.













Biểu đồ 2 dưới đây cho thấy quy mô của ngành bảo hiểm tại các nền kinh tế
phát triển. Trong giai đoạn 1994 – 2000, tại các quốc gia OECD, tổng mức phí bảo
Biểu đồ 1: Tổng tài sản ngân hàng, năm 2002
(Đơn vị: tỷ đôla Mỹ)

Nguồn: IMF (2003)
Cam kết dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và các giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả của Việt Nam





Trang 11
hiểm bình quân chiếm khoảng 10% GDP. Tại Anh, cứ 9 bảng Anh thì có 1 bảng
được chi tiêu vào dịch vụ bảo hiểm nhân thọ hoặc phi nhân thọ. Con số này tại các
quốc gia như Mỹ, Ireland, Nhật Bản hay Thụy Sĩ chỉ thấp hơn đôi chút.













Như vậy có thể thấy thương mại dịch vụ tài chính trong những năm gần đây đã
đạt được mức tă
ng trưởng nhanh chóng cùng với sự chuyên sâu của các hoạt động
trong ngành tài chính quốc tế. Sự tăng trưởng này là do những nhân tố sau: Thứ
nhất, tiến bộ về mặt công nghệ đã làm tăng phạm vi hoạt động của dịch vụ tài
chính, với sự xuất hiện của công nghệ xử lý và chuyển giao số liệu điện tử, công
nghệ máy tính được nâng cao, các máy rút tiền tự động và nghiệp v
ụ ngân hàng từ
xa. Thêm vào đó, một kỷ nguyên dịch vụ internet đã bắt đầu, các công nghệ này đã
tạo ra một sức bật mới cho hoạt động của ngành tài chính. Chúng tạo ra cơ hội mới
để nâng cao hiệu quả và đạt ra những thách thức mới về mặt chính sách và quy

Biểu đồ 2: Tỷ lệ phí bảo hiểm trên GDP, bình quân giai đoạn 1994 – 2000
(Đơn vị: % trên GDP)

Nguồn: OECD (2001)
Cam kết dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và các giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả của Việt Nam




Trang 12
định. Những lợi ích tiềm tàng đi cùng với các công nghệ mới này có thể được khai
thác trong một cơ chế dịch vụ tài chính thông thoáng. Thứ hai, sự mở cửa của các
nền kinh tế đang chuyển đổi cùng với sự phát triển của thương mại thế giới đã mở
rộng thị trường và làm tăng nhu cầu về hoạt động tài trợ quốc tế cho hoạt động
thương mại và đầu tư. Thứ ba, tự do hoá thương mại dịch vụ tài chính và quá trình
toàn cầu hoá đã củng cố sức mạnh cho nhau vì một môi trường cạnh tranh gay gắt
hơn đã buộc các công ty phải tìm ra cách thức rẻ hơn và hiệu quả hơn để tài trợ cho
các hoạt động của mình.
Có thể nói rằng ngày nay ngành dịch vụ tài chính là xương sống của một nền
kinh tế hiện đạ
i. Các dịch vụ tài chính trên thực tế chính là các công cụ hỗ trợ đa
dạng hóa đầu tư và phân tán rủi ro kinh doanh, một động lực chính thúc đẩy sự
tăng trưởng kinh tế nhanh chóng.
2. Dịch vụ tài chính trong hiệp định thương mại Việt – Mỹ
2.1. Tổng quan về Thương mại dịch vụ trong Hiệp định Thương mại Việt –
Mỹ
Từ trước tới nay, trong số trên 70 Hiệp
định thương mại mà nước ta đã tham gia
ký kết, chưa có Hiệp định nào đề cập đến mảng thương mại dịch vụ rộng và chi tiết

như Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ.
Trong Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ, Hoa Kỳ dành cho các công dân và
công ty của Việt Nam sự tiếp cận như Hoa Kỳ dành cho các thành viên của Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) như
được thể hiện trong lộ trình của Hiệp định
GATS. Việt Nam lần đầu tiên đồng ý tự do hóa một loạt các ngành dịch vụ trong
đó bao gồm, cùng với các ngành dịch vụ khác, các dịch vụ viễn thông, kế toán,
ngân hàng và phân phối. Những cam kết này thể hiện việc Việt Nam cam kết hội
nhập vào nền kinh tế quốc tế và đích cuối cùng là WTO.
Cam kết dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và các giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả của Việt Nam




Trang 13
Chương Thương mại Dịch vụ trong Hiệp định (Chương III) được thiết kế theo
mô hình của Hiệp định về thương mại và dịch vụ của WTO (GATS), bao gồm 11
điều cùng với Phụ lục F, Phụ lục G Việt Nam và Phụ lục G Hoa Kỳ, trong đó quy
định về cơ bản các vấn đề thương mại dịch vụ giữa hai nước. Các quy định đó tập
trung quy định m
ột số vấn đề chính sau:
+ Định nghĩa về thương mại dịch vụ;
+ Biện pháp của các bên;
+ Đối tượng cho lĩnh vực thương mại dịch vụ;
+ Những nguyên tắc cơ bản của hoạt động thương mại dịch vụ;
+ Các quy định về hội nhập kinh tế;
+ Các quy định về Pháp luật quốc gia;
+ Các quy định về độc quyền trong thương mại d
ịch vụ;

+ Lộ trình cam kết cụ thể cho thương mại dịch vụ (được quy định tại hai phụ
lục F và G).
Giống như Hiệp định GATS, Hiệp định này định nghĩa thương mại dịch vụ theo
bốn “hình thức cung cấp” (modes of supply) mà dịch vụ được cung cấp như sau:
- “Cung cấp dịch vụ qua biên giới” (Cross-border supply) diễn ra khi một nhà
cung cấp dịch vụ ở một nướ
c cung cấp dịch vụ cho một khách hàng ở một
nước khác, ví dụ như một luật sư ở thủ đô Washington D.C gửi ý kiến bằng thư
điện tử cho một khách hàng ở Hà Nội.
- “Tiêu thụ dịch vụ ở nước ngoài” (Consumption abroad) diễn ra khi một công
dân của một nước đi đến một nước khác nơi mà ở đó anh a được cung cấp một
dịch vụ, ví d
ụ như một sinh viên Việt Nam đến học tại Hoa Kỳ.
- “Hiện diện thương mại” (Commercial presence) là phương thức cho phép các
công ty của một quốc gia thành viên thành lập một chi nhánh hoặc công ty con
Cam kết dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và các giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả của Việt Nam




Trang 14
hay văn phòng ở một nước khác để cung cấp một dịch vụ ở đó, ví dụ như một
ngân hàng Hoa Kỳ mở một chi nhánh tại Hà Nội.
- “Hiện diện thể nhân” (Presence of a natural person) là phương thức cho phép
công dân của một quốc gia thành viên được vào lãnh thổ của một quốc gia
khác để thực hiện cung cấp dịch vụ, ví dụ như các luật sư nước ngoài đến Hà
Nội để thự
c hiện cung cấp dịch vụ tài chính.
Cụm từ “Các dịch vụ” theo quy định của Hiệp định bao gồm bất kỳ dịch vụ nào

trong bất kỳ lĩnh vực nào, trừ các dịch vụ được cung cấp khi thi hành thẩm quyền
của Chính phủ (a service supplied in the exercise of governmental authority). Một
dịch vụ được xem là “dịch vụ cung cấp khi thi hành thẩm quyền của chính phủ” là
những dịch vụ được cung cấp không dựa trên m
ột cơ sở Thương mại, cũng không
có cạnh tranh với một hay nhiều nhà cung cấp dịch vụ khác.
Trong lộ trình cam kết cụ thể của mình (Phụ lục G – Hiệp định Thương mại
Việt – Mỹ), hai bên đã cam kết mở cửa thị trường cũng như thực hiện nguyên tắc
Đối xử quốc gia cho từng lĩnh vực, ngành dịch vụ, với các điều kiện, h
ạn chế nếu
có. Cam kết của Hoa Kỳ chính là Lộ trình cam kết cụ thể của Hoa Kỳ trong Hiệp
định chung về Thương mại dịch vụ (GATS) của WTO, được coi là cam kết thông
thoáng nhất trong các nước WTO. Như vậy Hoa Kỳ cam kết mở cửa thị 103 phân
ngành dịch vụ, không kèm theo điều kiện, hạn chế gì. Như vậy, các nhà cung cấp
dịch vụ thuộc hầu hết các lĩnh vực củ
a Việt Nam đều có thể cung cấp dịch vụ cho
phía Hoa Kỳ, ngay từ khi Hiệp định có hiệu lực, theo cả 4 phương thức mà không
bị hạn chế hay bị phân biệt đối xử so với dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ tương tự
ở Hoa Kỳ.
Về phía Việt Nam, theo phụ lục G, Việt Nam cam kết mở cửa cho Hoa Kỳ tham
gia từng bước vào kinh doanh 53 phân ngành dịch vụ trong số 155 phân ngành
Cam kết dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và các giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả của Việt Nam




Trang 15
dịch vụ theo phân loại của WTO. Ngoài các cam kết chung áp dụng cho tất cả các
ngành, lĩnh vực dịch vụ trong Lộ trình, ta còn cam kết về mở cửa thị trường và

thực hiện đối xử quốc gia cho từng lĩnh vực, ngành, phân ngành dịch vụ theo từng
phương thức cung cấp dịch vụ (1, 2, 4 hay 4) nhất định. Như có thể thấy trong
bảng Lộ trình cam kết cụ thể của Việt Nam, trong các cột
Các giới hạn về tiếp cận
thị trường và Các giới hạn về đối xử quốc gia, có chỗ chúng ta ghi là chưa cam
kết, có chỗ ghi là không hạn chế, có chỗ lại đưa ra một số điều kiện, hạn chế hay
thời hạn cho phép. Chưa cam kết có nghĩa là ngành đó, theo phương thức đó ta
chưa “mở cửa”. Không hạn chế là ngành đó theo ph
ương thức đó ta không hạn chế
về mở cửa thị trường hay đối xử quốc gia (thường là theo phương thức 1 hoặc 2).
Ngoài ra, theo một phương thức nào đó của một ngành dịch vụ nào đó ta vẫn mở
cửa hay vẫn thực hiện đối xử quốc gia nhưng kèm theo những điều kiện nhất định
hay sau một thời gian nhất định (thường là phương thứ
c 3 và 4).
Như vậy các khái niệm và nội dung cam kết về thương mại dịch vụ tài chính
trong Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ nhìn chung cơ bản là dựa vào và
gắn với các khái niệm và nội dung về thương mại dịch vụ tài chính mà Tổ chức
Thương mại Thế giới WTO đưa ra.
2.2 . Dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ
Trong Hiệp định, lĩnh v
ực dịch vụ tài chính được liệt kê bao gồm các lĩnh vực
dịch vụ sau:
- Các dịch vụ bảo hiểm, bao gồm:
 Bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm tai nạn
 Bảo hiểm phi nhân thọ
 Tái và nhượng tái bảo hiểm
Cam kết dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và các giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả của Việt Nam





Trang 16
 Các dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động bảo hiểm (bao gồm các dịch vụ môi giới
và đại lý)
- Các dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác, bao gồm:
 Nhận tiền gửi và các khoản tiền từ công chúng
 Cho vay dưới các hình thức, bao gồm tín dụng tiêu dùng, tín dụng thế chấp,
bao tiêu và các giao dịch thương mại khác
 Thuê mua tài chính
 Mọi giao dịch thanh toán và chuyển tiền, bao gồm các thẻ tín dụ
ng, ghi nợ,
báo nợ, séc du lịch và hối phiếu ngân hàng
 Bảo lãnh và cam kết
 Môi giới tiền tệ
 Quản lý tài sản như quản lý tiền mặt, quản lý danh mục đầu tư, mọi hình
thức quản lý đầu tư tập thể, quản lý quỹ hưu trí, các dịch vụ trong coi bảo
quản, lưu giữ và uỷ thác
 Các dịch vụ thanh toán và quyết toán các tài sản tài chính
 Cung c
ấp và chuyển thông tin tài chính và xử lý dữ liệu tài chính và các
phần mềm của các nhà cung cấp các dịch vụ khác
 Tư vấn, trung gian môi giới và các dịch vụ tài chính khác liên quan đến các
hoạt động nêu trên
 Buôn bán cho tài khoản của mình hay tài khoản của khách hàng tại sở giao
dịch chứng khoán, trên thị trường chứng khoán không chính thức OTC hay
trên các thị trường khác những tài sản sau:
(i) Các sản phẩm thị trường tiền tệ
(ii) Ngoại hố
i

(iii) Các sản phẩm tài chính phái sinh
Cam kết dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và các giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả của Việt Nam




Trang 17
(iv) Các sản phẩm dựa trên tỷ giá hối đoái và lãi suất
(v) Các chứng khoán có thể chuyển nhượng
(vi) Các công cụ có thể thanh toán và tài sản tài chính khác, kể cả vàng
nén
 Tham gia vào việc phát hành mọi loại chứng khoán, kể cả bảo lãnh phát
hành và chào bán như đại lý và cung cấp các dịch vụ liên quan đến việc
phát hành đó.
Các nguyên tắc và nghĩa vụ chung của cả hai phía Việt Nam và Hoa Kỳ là:
 Đối xử tối hệ
quốc (MFN): Hoa Kỳ và Việt Nam đồng ý dành đối xử Tối
hệ quốc cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của Bên kia. Điều này có
nghĩa là các Bên dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của Bên kia sự
đối xử tương tự hoặc tốt hơn sự đối xử họ dành cho dịch vụ và những nhà
cung cấp dịch vụ đặt tại hoặc cung cấp từ các nước khác mà các Bên có
quan hệ Tối huệ quốc. Nghĩa vụ này áp dụng cho tất cả các ngành dịch vụ
và tất cả các hình thức cung cấp trừ những trường hợp mà một Bên coi là
ngoại lệ. Những ngoại lệ này được liệt kê trong những Bảng cam kết riêng
của hai Bên.
 Tiếp cận thị trường: Trong mỗi ngành dịch vụ được xác định trong Lộ
trình, một Bên phải bảo đảm chung cấp cho bên kia s
ự tiếp cận thị trường
đối với các thị trường mà một Bên không được duy trì hoặc thông qua trong

các ngành đó. Cùng với các hạn chế khác, các hạn chế này bao gồm các hạn
chế về số lượng nhà cung cấp dịch vụ, các hạn chế về hình thức pháp nhân
hoặc liên doanh mà thông qua đó một dịch vụ có thể được cung cấp.
 Đối xử quốc gia: Hiệp định yêu cầu Việt Nam và Hoa Kỳ, phù hợ
p với các
cam kết tại mỗi ngành dịch vụ được xác định trong Lộ trình của mình, phải
Cam kết dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và các giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả của Việt Nam




Trang 18
dành đối xử quốc gia cho các nhà cung cấp dịch vụ của Bên kia. Điều này
có nghĩa là các Bên đồng ý đối xử với các dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ
của Bên kia một cách tương tự hoặc tốt hơn sự đối xử họ dành cho các dịch
vụ cung cấp bởi công dân của họ hoặc nhà cung cấp dịch vụ do công dân
của họ điều hành.
 Pháp luật quốc gia: M
ỗi Bên sẽ điều hành các luật và quy định ảnh hưởng
đến thương mại trong các ngành dịch vụ xác định tại Phụ lục một cách hợp
lý, khách quan và vô tư.
Đơn xin cấp phép để cung cấp dịch vụ cụ thể phải được xem xét trong một
khoảng thời gian hợp lý. Những quyết định liên quan đến những đơn đó có
thể được xem xét lại bởi các cơ quan tài phán trong nước. Những yêu cầu v

cấp phép hoặc tiêu chuẩn nghề nghiệp và tiêu chuẩn kỹ thuật cần đáp ứng để
được cung cấp một dịch vụ phải dựa trên tiêu chí khách quan, không phiền
hà hơn mức cần thiết, và bản thân những yêu cầu này không tạo ra sự hạn
chế đối với việc cung cấp dịch vụ.

 Độc quyền và nhà cung cấp dịch vụ độc quyền: Mỗi Bên bảo đả
m rằng các
nhà cung cấp dịch vụ độc quyền khi cạnh tranh ở những ngành kinh doanh
nằm ngoài phạm vi độc quyền của mình sẽ hành động phù hợp với các cam
kết về đối xử Tối huệ quốc hoặc theo các ngành cụ thể của Bên đó và không
lạm dụng vị trí độc quyền của mình.
 Phụ lục về Các dịch vụ Tài chính của GATS: Hiệp định đưa vào, bằng
cách dẫn chiếu, Phụ lục về các dịch vụ tài chính của GATS.
Như vậy nền tảng cho các quy định về dịch vụ tài chính trong Hiệp định
Thương mại Việt – Mỹ chính là các quy định về dịch vụ tài chính trong GATS và
cũng tuân theo các nguyên tắc, nghĩa vụ cốt lõi của WTO.
Cam kết dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và các giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả của Việt Nam




Trang 19



3. Kinh nghiệm các nước trong việc cam kết và thực hiện các cam kết về
dịch vụ tài chính
Năm 2000, một nhà nghiên cứu (Yang Qian) đã phân tích mức độ cam kết mở
cửa thị trường của các nước thành viên WTO trong khuôn khổ hiệp định GATT.
Một trong những kết luận đáng chú ý được rút ra là: Mức độ cam kết mở cửa thị
trường dịch vụ tài chính việc thực hiện các cam kế
t nhìn chung không phụ thuộc
vào trình độ phát triển kinh tế của các nước thành viên. Một số nước phát triển đưa
ra những cam kết không được cởi mở lắm, trong khi đó có những nước đang phát

triển hoặc kém phát triển vẫn cam kết mở cửa thị trường rộng rãi hơn. Quyết sách
để đưa ra mức độ mở cửa thị trường dường như phụ thuộc nhiều hơn vào nhữ
ng lợi
ích tiềm năng có thể mang lại và khả năng cạnh tranh của hệ thống dịch vụ tài
chính nội địa. Hay nói đúng hơn là nó phụ thuộc vào tính hiệu quả và những thành
tựu đã đạt được của công cnộc cải cách hệ thống tài chính ngân hàng của một nước
thành viên theo hướng hội nhập. Điều đó có nghĩa là sẽ không có một công thức
chung chuẩn xác nào áp dụng cho tất cả
các nước khi tiến hành mở cửa kinh tế.
Tuy nhiên, ở một chừng mực nhất định, việc tham khảo kinh nghiệm và những bài
học thực tế về việc mở cửa thị trường ở một số nước là cần thiết cho những nước đi
sau.
3.1. Trung Quốc
Trung Quốc bắt đầu chính sách mở cửa kinh tế vào năm 1979. Tuy nhiên, trong
5 năm đầu tiên của thời kỳ mở c
ửa, công cuộc cải cách dường như chưa chạm đến
hệ thống tài chính ngân hàng. Dấu hiệu cải cách trong hệ thống tài chính thực sự
Cam kết dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và các giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả của Việt Nam




Trang 20
mới xuất hiện vào năm 1984 khi hệ thống ngân hàng tách thành hai cấp: Ngân
hàng Nhà nước (Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc) và Ngân hàng Thương mại. Kể
từ đó mới xuất hiện dấu hiệu cạnh tranh giữa các ngân hàng và ở một mức độ thận
trọng, các ngân hàng nước ngoài bắt đầu được phép thành lập và hoạt động ở
Trung Quốc.
Nhìn chung cho đến trước khi chính thức gia nhập WTO, hệ thống dịch vụ tài

chính ở Trung Quốc vẫn b
ị chính phủ khống chế và kiểm soát chặt chẽ. Mức độ
mở cửa cho các ngân hàng nước ngoài hoạt động còn rất hạn chế. Gia nhập WTO,
Trung Quốc phải thực hiện hàng loạt các cam kết về dỡ bỏ thị trường dịch vụ tài
chính.
a) Dịch vụ bảo hiểm
Cho đến trước khi chính thức gia nhập WTO, thị trường bảo hiểm còn nhỏ bé
và thống trị bở
i các công ty bảo hiểm nhà nước. Nhà nước quyết định tỷ lệ hoa
hồng bảo hiểm. Đa số tiền bảo hiểm thu được được gửi tại tài khoản có tính lãi.
Công ty bảo hiểm nước ngoài muốn được cấp phép hoạt động đầy đủ phải chờ đợi
trong khoảng thời gian 3 năm thẩm định. Sở hữu vốn nước ngoài trong các công ty
liên doanh chỉ giới hạn đến 49%. Việc h
ồi hương vốn bị hạn chế nghiêm ngặt. Các
hãng bảo hiểm nước ngoài bị hạn chế trong việc cạnh tranh với các công ty bảo
hiểm thương mại của Nhà nước.
Trong cam kết gia nhập WTO, Trung Quốc đồng ý từng bước loại bỏ các hạn
chế về địa lý đối với các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài trong tất cả các lĩnh vực
bảo hiểm trong vòng 03 kể từ khi chính th
ức gia nhập. Về vấn đề hiện diện thương
mại, các nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm nước ngoài được phép thành lập liên
doanh với số cổ phần tối đa 50% ngay sau khi Trung Quốc chính thức gia nhập
WTO. Đối với các dịch vụ bảo hiểm tài sản người nước ngoài, bảo hiểm tổn thất
Cam kết dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và các giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả của Việt Nam




Trang 21

hay các loại bảo hiểm phi nhân thọ khác, các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài
được phép nắm giữ tới 51% cổ phần trong liên doanh ngay sau khi Trung Quốc gia
nhập, và sau đó hai năm thì có thể thành lập công ty 100% vốn nước ngoài. Đối với
các nghiệp vụ bảo hiểm thương mại có giá trị lớn, bảo hiểm hàng hải, hàng không,
vận tải và tái bảo hiểm, các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được phép thành lập
liên doanh với tối đa 50% c
ổ phần nắm giữ ngay sau khi gia nhập, 51% sau đó 3
năm và 100% sau đó 5 năm.Trung Quốc cũng cam kết cho phép các nhà cung cấp
dịch vụ nước ngoài bán các dịch vụ bảo hiểm sức khoẻ và hưu trí 5 năm sau khi gia
nhập.
Để thực hiện các cam kết của mình, Trung Quốc đã có những cải tổ mà theo
như đánh giá của Phòng Thương mại Hoa Kỳ là hết sức đáng khích lệ. Ngay sau
khi chính thức gia nhập WTO, Ủy ban Qu
ản lý Bảo hiểm Trung Quốc (CIRC –
China Insurance Regulatory Commission) đã đưa ra một vài quy định về kinh
doanh bảo hiểm mới nhằm thực hiện các cam kết của Trung Quốc. Ngay đầu năm
2002, Trung Quốc đã bãi bỏ những hạn chế địa lý đối với các nhà cung cấp dịch vụ
bảo hiểm nước ngoài tại các thành phố như Bắc Kinh, Quảng Đông, Thiên
Tân.Trung Quốc mới đây trong Bản sửa đổi Luật Kinh doanh B
ảo hiểm, đã cho
phép các công ty bảo hiểm phi nhân thọ của nước ngoài được phép cung cấp dịch
vụ bảo hiểm tai nạn và bảo hiểm y tế. Như vậy là trong nhiều lĩnh vực Trung Quốc
đã thực hiện sớm hơn các cam kết của mình.
Mặc dù nhanh chóng triển khai việc thực hiện các cam kết để mở cửa thị trường
dịch vụ tài chính, Trung Quốc vẫn tìm cách bảo hộ các doanh nghiệ
p bảo hiểm
trong nước nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp này trước khi mở
cửa thị trường hoàn toàn. Hiện nay, Trung Quốc vẫn áp đặt một tỷ lệ vốn đăng ký
cao đối với các liên doanh có yếu tố nước ngoài, điều này làm hạn chế khả năng
Cam kết dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và các giải pháp nhằm thực hiện có

hiệu quả của Việt Nam




Trang 22
thành lập liên doanh và do đó hạn chế sự tham gia của các nhà cung cấp dịch vụ
nước ngoài tại thị trường trong nước.
b) Dịch vụ ngân hàng
Trước khi gia nhập WTO, bốn ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước kiểm soát trên
80% thị phần và thực hiện việc phân phối tín dụng dựa trên kế hoạch tín dụng của
trung ương. Những ngân hàng này giữ một phần lớn các khoản tiền gửi nằm ngoài
kênh g
ửi tiền chính thức nhằm mục đích đầu cơ. Các ngân hàng thương mại thực
hiện hoạt động cho vay ngầm nhiều hơn hoạt động cho vay chính thức. Tỷ lệ đọng
vốn, không có khả năng thanh toán tại các doanh nghiệp nhà nước lớn. Các ngân
hàng nước ngoài chỉ được phép hoạt động ở một số vùng kinh tế đặc biệt. Chính
phủ Trung Quốc không cho phép các ngân hàng đầu tư nước ngoài mở chi nhánh.
Ngân hàng nước ngoài có th
ể hoạt động dưới dạng liên doanh hoặc 100% vốn
nước ngoài nếu được cơ quan có thẩm quyền cho phép và phải gửi 30% vốn tối
thiểu vào Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc. Hoạt động giao dịch của ngân hàng
nước ngoài chủ yếu hạn chế trong khuôn khổ các ngoại tệ mạnh (gần đây có cấp
phép cho một số ít ngân hàng nước ngoài được thực hiện giao dịch bằng đồng nhân
dân tệ). Ngân hàng nước ngoài chỉ được th
ực hiện các hoạt động dịch vụ bán buôn
(wholesale banking). Trước khi mở chi nhánh, ngân hàng nước ngoài phải có ít
nhất 3 năm hoạt động dưới dạng văn phòng đại diện vì phải có số vốn ít nhất 100
triệu nhân dân tệ (NDT). Cho đến năm 2000 Trung Quốc có vào khoảng 540 văn
phòng đại diện, 130 chi nhánh, 6 liên doanh và 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài.

Tuy nhiên, chỉ có 9 ngân hàng được phép kinh doanh bằng đồng Nhân dân tệ và
hoạt động kinh doanh dịch vụ cũng chỉ được phép thực hi
ện tại Thượng Hải và
Quảng Châu
1
.

1
Financial Services in Industry in China. US Trade Policy Review 3/2002.
Cam kết dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và các giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả của Việt Nam




Trang 23
Khi gia nhập WTO, Trung Quốc cam kết một lịch trình 05 năm cho việc mở
cửa thị trường ngân hàng của mình cho các nhà cung cấp nước ngoài. Ngay sau khi
gia nhập, Trung Quốc cho phép ngân hàng nước ngoài được thực hiện các hoạt
động kinh doanh bằng ngoại tệ đối với doanh nghiệp và cá nhân trên cả nước.
Trong vòng 05 năm sau khi gia nhập, tại một số khu vực địa lý hạn chế, nhà cung
cấp dịch vụ nước ngoài có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh b
ằng đồng nội
tệ và sau thời gian 05 năm thì tất cả các hạn chế về địa lý sẽ bị dỡ bỏ. Ngân hàng
nước ngoài cũng được phép cung cấp dịch vụ cho thuê tài chính ngay khi các ngân
hàng Trung Quốc được phép.
Để thực hiện các cam kết của mình, ngay sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc
đã đưa ra một số văn bản mới quy định hoạt động của các tổ chức tài chính có vốn
nước ngoài hoạt động trên
đất nước Trung Quốc. Mặc dù Trung Quốc luôn thực

hiện việc mở cửa thị trường theo đúng lịch trình cam kết nhưng việc thực hiện đó
luôn được thể hiện một cách cẩn trọng. Đặc biệt, Trung Quốc ấn định yêu cầu về
vốn lưu động rất cao so với tập quán quốc tế đối với cả trụ sở chính và chi nhánh
của các ngân hàng nước ngoài, do đ
ó hạn chế năng lực mở rộng hoạt động tại thị
trường Trung Quốc của các ngân hàng nước ngoài. Thêm vào đó, việc cấp phép
hoạt động kinh doanh bằng ngoại tệ cho các ngân hàng nước ngoài còn diễn ra hết
sức chậm, đây chính là một biện pháp cản trở gia nhập thị trường hợp lệ của Trung
Quốc.
Có thể thấy rằng Trung Quốc đã không hy sinh những lợi ích căn bả
n của mình
khi thực hiện các cam kết của mình và coi sự ổn định của mình là mục đích lớn
nhất khi tham gia hội nhập.
3.2. Canada
Cam kết dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và các giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả của Việt Nam




Trang 24
Canada là một trong những nước có trình độ phát triển kinh tế cao nhất thế giới
(là thành viên của khối G7) với tư cách thành viên lâu đời của OECD, GATT, và
gần đây là NAFTA. Vì vậy, lĩnh vực dịch vụ tài chính không những phát triển và
có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế Canada, mà còn có tính cạnh tranh
cao trên thị trường quốc tế. Năm 2000, khu vực dịch vụ tài chính ở Canada chiếm
tới 6,2% GDP và thu nạp 5,5% lao động của toàn bộ nề
n kinh tế. Do việc mở cửa
thị trường nên hoạt động dịch vụ tài chính ở Canada mang tính quốc tế hóa cao,
nhiều tổ chức, công ty nước ngoài thực hiện hoạt động kinh doanh tại Canada và

ngược lại, nhiều tổ chức, công ty của Canada thực hiện các hoạt động kinh doanh ở
nước ngoài. Hoa Kỳ là đối tác kinh doanh lớn nhất chiếm tới hơn 50% giá trị dịch
vụ kể cả nhập khẩ
u và xuất khẩu. Tuy mức độ mở cửa thị trường ngày càng trở nên
thông thoáng trong thời gian gần đây (đặc biệt kể từ khi ký kết hiệp định chung về
thương mại dịch vụ GATS nói chung và hiệp định về dịch vụ tài chính FSA –
Financial Services Agreement – nói riêng), song việc mở cửa thị trường dịch vụ tài
chính ở Canada cũng không có nghĩa là tự do hóa hoàn toàn
2
.
a) Dịch vụ bảo hiểm
Mức độ mở cửa thị trường bảo hiểm ở Canada tỏ ra thông thoáng nhất so với
các lĩnh vực khác trong hoạt động dịch vụ tài chính. Các hãng bảo hiểm nước
ngoài chiếm thị phần đáng kể. Chẳng hạn, theo số liệu báo cáo của WTO, tổng số
phí bảo hiểm y tế và nhân thọ của các hãng nước ngoài chiếm tới 27%. Tỷ lệ
này
trong hoạt động bảo hiểm thương tật và bảo hiểm tài sản là 65%. Trong tổng số
132 công ty bảo hiểm nhân thọ và y tế, 55 công ty là chi nhánh của các công ty bảo
hiểm nước ngoài. Trong tổng số 196 công ty bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thương
tật được thành lập theo luật liên bang thì 122 công ty là chi nhánh của các hãng
nước ngoài.

2
WTO Agreements on Financial Services. Financial Canada, 2000.

×