Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

XAY DUNG CON NGUOI VIET NAM HIEN NAY THEO QUAN DIEM TRIET HOC MAC LENIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.47 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
Mở đầu: ...................................................................................................................................... 4
1.Lý do chọn đề tài ................................................................................................................. 4
2. Bố cục của đề tài ............................................................................................................... 5
B. Phần nội dung :................................................................................................................... 5
Chương 1: Quan điểm của triết học Mác - Lênin về con người .........................5
1.1: Những quan niệm cơ bản của triết học Mác-Lênin về con người............5
1.1.1: Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với m ặt xã
hội.................................................................................................................................................. 7
1.1.2 Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hồ nh ững
quan hệ xã hội........................................................................................................................ 10
1.1.3 Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử........................................12
1.2: Quan điểm của triết học Mác - Lênin về giải phóng con người .............13
Chương 2: Vấn đề Xây dựng con người của nhà nước ta trong giai đoạn
hiện nay. ................................................................................................................................... 18
2.2: Thực trạng con người Việt Nam hiện nay.......................................................20
2.2.1: Điểm mạnh của con người Việt Nam hiện nay...........................................21
2.2.2:Một số yếu kém trong con người Việt Nam hiện nay................................22
2.3: Mơ hình xây dựng con người Việt Nam hiện nay...........................................24
Kết luận.................................................................................................................................... 26
Danh mục tham khảo.......................................................................................................... 28

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài


Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học khác
nhau như Sinh Vật học, tâm lý học, đạo đức học, y học. Nghiên cứu v ề con
người là một vấn đề không mới lạ nhưng lại xoay quanh nhiều khía c ạnh
tuỳ thuộc vào đặc điểm của mỗi ngành khoa học. Con người cũng luôn là
chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ cổ đại đến trung đại.


Từ thời xa xưa cho đến thời đại ngày nay con người được xem là v ị trí
trung tâm và có vai trị quyết định đến sự tồn vong và phát triển của xã hội.
Con người được xem là chủ thể của lịch sử xã hội, con người làm ra lịch sử
xã hội. Vì vậy con người phải được tôn trọng, được sống tự do hạnh phúc
và được phát triển toàn diện. Song ngày nay con người vẫn đang trong tình
trạng bất cơng, địi hỏi xã hội phải quan tâm đến sự phát triển của con
người.
Con người cũng là mục tiêu cơ bản của sự phát triển xã hội. Để đảm
bào cho xã hội phát triển vấn đề xây dựng con người gi ữ một vai trò h ết
sức quan trọng và luôn thường trực. Đặc biệt là trong q trình tồn cầu
hố, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, vai trò của con người ngày càng
được khẳng định rõ nét.
Ở Việt Nam vấn đề con người cũng luôn là một vấn đề thời đ ại và
đang được nhiều ngành khoa học, nhiều cá nhân đặc biệt quan tâm, nhất là
vấn đề xây dựng con người mới trong thời đại mới.Chính vì những lí do về
mặt lí luận và thực tiễn mà em đã chọn đề tài: “Xây dựng con người Việt
Nam hiện nay theo quan điểm Triết học Mác - Lênin ”.
Những thiếu sót trong thời gian viết đề tài chắc chắn sẽ có. Em rất
mong nhận được nhận xét và những đóng góp của Cơ nhằm hồn thiện
hơn cho suy nghĩ của mình. Em xin chân thành cảm ơn.

2. Bố cục của đề tài


Đề tài gồm có hai chương:
Chương 1: Quan điểm triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin về con
người.
Chương 2: Vấn đề xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.
NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ
CON NGƯỜI:
1.1: Những quan niệm cơ bản của triết học Mác-Lênin về con
người
Con người là thực thể tự nhiên và cũng là thực thể xã hội. Con người
cũng chịu sự chi phối của tiến trình phát triển tự nhiện “sinh - lão - b ệnh –
tử”, sự chi phối của các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, con ng ười cũng có th ể
chi phối được xã hội, chinh phục tự nhiên để phục vụ cho lợi ích c ủa mình.
Vì vậy, con người được coi là một phạm trù tự nhiên Vả xã hội, nó cũng có
bản chất và quy luật riêng của nó. Do đó, phạm trù con người đã đ ược
nghiên cứu rất nhiều trong mỗi giai đoạn lịch sử phát triển của con người
kể từ khi nền triết học ra đời. Nhìn chung từ nền triết học phương Đông
(Ấn Độ, Trung Quốc) đến nền triết học phương Tây (Hy Lạp, triết học
Phương Tây thời phục hưng, triết học cổ điển Đức....) đầu có những nghiên
cứu và định nghĩa riêng về con người và bản chất con người. Chung quy lại,
tất cả đều đi tìm câu trả lời cho những vấn đề sau:
- Bản chất con người là gì? Bản chất con người là bản chất tự nhiên
hay xã hội.
- Con người từ đâu mà có? Vị trí, vai trị của con người trong dịng
chảy lịch sử tự nhiên, xã hội là gì?
- Tác động của con người đối với tự nhiên và xã hội? Giữa con người
và tự nhiên xã hội phải có mối quan hệ như thế nào để cùng tồn tại và phát
triển? Mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi vùng lãnh thổ mà các nhà tri ết h ọc có các


quan niệm khác nhau về con người, về bản chất con người và vấn đề giải
phóng con người.
Quan niệm con người trong triết học phương Đông thường đi sâu
vào các vấn đề nguồn gốc bản chất con người. Các nhà triết học, các h ọc
thuyết trong nền triết học này đa phần cho rằng bản chất con người là

tâm linh mang nặng tính duy tâm (con người bao gồm linh hồn và thể xác
trong đó linh hồn có trước thể xác và linh hồn quan trọng nhất), con người
là do thượng đế tạo ra. Tiêu biểu là các học thuyết của triết học Ấn Độ
như kinh Vêđa, kinh Upanihad, triết học phật giáo....) triết học Trung Qu ốc
thì đi tìm bản chất con người từ đó xây dựng và giải phóng con người trong
xã hội và trong tự nhiên tiêu biểu là các nền tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh
Tử, Tuân Tử, Dương Chu...
Quan niệm con người trong triết học Phương Tây thường tập trung
mọi cố gắng nghiên cứu con người một cách khá toàn diện và đặc bi ệt đ ề
cao con người coi “con người là trung tâm của vũ trụ” thước đo c ủa v ạn
vật. Quan niệm của nền triết học này thường mang tính duy vật chủ quan
hoặc vừa duy tâm, vừa duy vật. Chính quan điểm triết học v ề con ng ười
trong nền triết học Phương Tây đã giải phóng con người và đưa con người
lên tầm cao mới, con người là trung tâm của xã hội, con người có thể chinh
phục được tự nhiên. Từ đó đưa nên khoa học tri thức ngày càng phát tri ển
và cũng chính nền tri thức khoa học tự nhiên xã hội lại chỉ rõ ra những v ấn
đề quan trọng trong việc giải phóng con người làm con người ngày càng
phát triển cả về thể chất tự nhiên lẫn tinh thần.
Tuy nhiên, cả hai nền triết học trên vẫn còn nhiều mặt mâu thuẩn,
chủ yếu là mâu thuẩn giữa hai hệ tư tưởng tư duy là duy v ật và duy tâm,
vẫn còn lẫn quẫn khi cho rằng linh hồn con người là do đ ấng siêu nhiên
tạo thành. Những quan niệm cơ bản của triết học Mác-Lênin về con người.
Kế thừa có phê phán và phát triển trên những quan niệm trên cũng
như tránh các sai lầm về quan niệm của hai nền triết học trên, triết học


Mác - Lênin có những nghiên cứu và lý luận về con người một cách riêng và
cụ thể hơn. Điểm xuất phát để nghiên cứu về con người của triết học Mác
đó là con người trong hoạt động thực tiễn, trong hồn cảnh lịch sử cụ thể
của nó. Triết học Mác đã đưa ra các quan niệm khoa học về con người như

sau:
1.1.1: Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật
với mặt xã hội
Theo quan điểm duy vật lịch sử sự tồn tại và phát triển của con
người luôn luôn chịu sự chi phối tác động bởi ba loại qui lu ật sau: các qui
luật sinh học, các qui luật tâm lý ý thức, các qui luật xã hội. Trong tác ph ẩm
những luận cương về Phơbách, C.Mác đưa ra luận cương VI khẳng đ ịnh về
bản chất con người năm 1845. Nói tới bản chất con người ph ải dựa trên
một nền tảng sinh học xác định, đó là cơ thể sống, con người hi ện th ực.
Bản chất con người không phải là cái bất biến mà nó ln đ ược phát tri ển
theo sự tiến bộ của lịch sử vì vậy mỗi thời đại lịch sử khác nhau sẽ có
những kiểu mẫu người khác nhau. Sự đóng góp mới của triết học Mác v ề
vấn đề con người là xem xét con người mang tính lịch sử cụ thể, khẳng
định bản chất con người là do các quan hệ xã hội quy ết định. Con ng ười là
sản phẩm của sự tiến hoá lâu dài từ giới tự nhiên và giới sinh v ật. Do v ậy
nhiều quy luật sinh vật học cùng tồn tại và tác động đến con người. Để tồn
tại với tư cách là một con người trước hết con người cũng phải ăn, ph ải
uống ... Điều đó giải thích vì sao Mác cho rằng con người trước hết ph ải ăn,
mặc ở rồi mới làm chính trị.
Nhưng chỉ dừng lại ở một số thuộc tính sinh học của con người thì
khơng thể giải thích được bản chất của con người. Mác và Ăngghen nhiều
lần khẳng định lại quan điểm của những nhà triết học đi trước r ằng con
người là một bộ phận của giới tự nhiên, là một động vật xã hội, nhưng
khác với họ, Mác và Ănghen xem xét mặt tự nhiên của con người, như ăn,
ngủ, đi lại, u thích ... Khơng cịn hồn mang tính tự nhiên nh ư ở con v ật


mà đã được xã hội hoá. Mác viết: “Bản chất của con người không ph ải là
một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của
nó bản chất của con người là tổng hồ của những mối quan hệ xã hội” con

người là sự kết hợp giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội nên Mác nhiều lần đã
so sánh con người với con vật, so sánh con người Với những con Vật có bản
năng gần giống với con người ... Và để tìm ra sự khác biệt đó. Mác đã ch ỉ ra
sự khác biệt ở nhiều chỗ như chỉ có con người làm ra tư liệu sinh hoạt của
mình, con người biến đổi tự nhiên theo quy luật của tự nhiên, con người là
thước đo của Vạn vật, con người sản xuất ra Công Cụ S ản xuất... Lu ận
điểm xem con người là sinh vật biết chế tạo ra công cụ Sản xuất được xem
là luận điểm tiêu biểu của chủ nghĩa Mác về con người.
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử
triết học, đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa
yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự
nhiên. Cũng do đó, bản tính tự nhiên của con người bao hàm trong nó t ất
cả bản tính sinh học, tính lồi của nó. Yếu tố sinh học trong con người là
điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy, có thể nói:
Giới tự nhiên là “thân thế vơ cơ của con người”; con người là một bộ phận
của tự nhiên; là kết quả của quá trình phát triển và tiến hố lâu dài c ủa
mơi trường tự nhiên. Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên
không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy
định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là phương di ện xã
hội của nó. Trong lịch sử đã có những quan niệm khác nhau phân bi ệt con
người với loài vật, như con người là động vật Sử dụng công cụ lao động, là
“một động vật có tính xã hội”, hoặc con người động vật có tư duy ... Nh ững
quan niệm trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía c ạnh nào đó
trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của
bản chất xã hội ấy.


Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn
đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong tồn bộ tính hiện thực xã

hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của c ải v ật ch ất. “Có th ể
phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung
bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân
biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh
hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể c ủa con ng ười quy
định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã
gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình.
Thơng qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đ ổi,
cải biến giới tự nhiên: “Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, cịn con người
thì tái sản xuất ra tồn bộ giới tự nhiên”. Tính xã hội của con ng ười bi ểu
hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động sản xuât vật chất biểu
hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thông qua hoạt động lao
động sản xuất, con người Sản xuất ra của cải vật chất và tinh th ần, ph ục
Vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập
quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành b ản chất
xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong c ộng
đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và
phát triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật
khác nhau, nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như
quy luật về sự phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi ch ất,
về di truyền, biến dị, tiến hóa ... զաy định phương diện sinh học của con
người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên
nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm, khát v ọng,
niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã h ội gi ữa
người với người.


Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất
hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã

hội. Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành h ệ th ống các
nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu c ầu
ăn, mặc, ở: nhu cầu tái sản xuất xã hội; nhu cầu tình c ảm; nhu c ầu th ẩm
mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan
hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu c ầu
xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tât yếu tự
nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân bi ệt
con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được “nhân hóa” để mang giá
trị văn minh con người, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội khơng thể thốt ly
khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà
quyện Vào nhau để tạo thành con người viết hoa, con người tự nhiên - xã
hội.
1.1.2 Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng
hồ những quan hệ xã hội
Sự tổng hòa các quan hệ XH là trong cuộc sống hiện thực thông qua
các quan hệ xã hội cụ thể như quan hệ với gia đình với anh em, bè b ạn, tập
thể, giai cấp, cộng đồng xã hội, các quan hệ này tác động vào bản thân mỗi
con người theo những chiều hướng khác nhau, ở những mức độ khác nhau
từ đó mà định hình phát triển nhân cách mỗi con người.
Luận điểm của Mác coi “Bản chất của con người là tổng hoà các
quan hệ xã hội” Mác hồn tồn khơng có ý phủ nhận vai trò của các y ếu tố
và đặc điểm sinh học của con người, ông chỉ đối lập luận điểm coi con
người đơn thuần như một phần của giới tự nhiên cịn bỏ qua, khơng nói gì
đến mặt xã hội của con người. Khi xác định bản chất của con người trước
hết Mác nêu bật cái chung, cái không thể thiếu và có tính chất quy ết đ ịnh
làm cho con người trở thành một con người. Sau, thì khi nói đ ến “Sự đ ịnh


hướng hợp lý về mặt sinh học” Lênin cũng chỉ bác bỏ các yếu tố xã hội

thường xuyên tác động và ảnh hưởng to lớn đối với bản chất và sự phát
triển của con người. Chính Lênin cũng đã khơng tán thành quan đi ểm cho
rằng mọi người đều ngang nhau về mặt sinh học. Ông viết “thực hiện m ột
sự bình đẳng về sức lực và tài năng con người thì đó là một điều ngu
xuẩn ... Nói tới bình đẳng thì đó ln ln là sự bình đẳng xã hội, bình đăng
về địa vị chỉ khơng phải là sự bình đẳng về thể lực và trí lực của cá nhân”.
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con
người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan
hệ Với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con
người. Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng, đều mang tính xã hội, trong đó
quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất c ả
các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến
con người.
Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu
lên luận đề nổi tiếng trong tác phẩm Luận cương về Phơ bách: “B ản chất
con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng bi ệt.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hồ những quan
hệ xã hội”.
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thốt
ly mọi điều kiện, hồn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác
định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất
định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con
người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả
thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong tồn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như
quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan h ệ cá
nhân, gia đình, xã hội ...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội c ủa
mình.


Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội khơng có

nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người.Song, ở con
người, mặt tự nhiên tồn tại trong Sự thống nhất với mặt xã hội; ngay cả
việc thực hiện những nhu cầu sinh vật ở con người cũng đã mang tính xã
hội. Quan niệm bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội mới
giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thi ển v ề
mặt tự nhiên, cái sinh Vật ở con người.
1.1.3 Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Không có thế giới tự nhiên, khơng có lịch sử xã hội thì khơng t ồn t ại
con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu
dài của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn
là chủ thể của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định: “Cái h ọc thuy ết duy
vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và
của giáo dục ... cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm
thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”.
Trong tác phẩm biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho rằng: “Thú
vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch s ử
phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng.
Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà
chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng
không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con ng ười
càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con
người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy
nhiêu”.
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người ho ạt đ ộng thực
tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đây sự
vận động phát triên của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những
điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thơng qua ho ạt đ ộng


thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại

một tự nhiên thứ hai theo mục
đích của mình.
Trong q trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của
mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra
lịch sử của chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất v ừa là
điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm bi ến
đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật c ủa lịch s ử xã
hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đ ẩy xã h ội
phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con ng ười
đặt ra. Khơng có hoạt động của con người thì cũng khơng tồn tại quy lu ật
xã hội, Và do đó, khơng có sự tồn tại của tồn bộ lịch sử xã hội lồi ng ười.
Khơng có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi
giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do v ậy, b ản ch ất con ng ười,
trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến
đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người khơng ph ải là m ột
hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của
con người. Mặc dù là “tổng hoà các quan hệ xã hội”, con người có vai trị
tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ th ể sáng t ạo. Thơng qua
đó, bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có th ể nói
rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc
dù không trùng khớp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích c ực, c ần
phải làm cho hồn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hồn cảnh
đó chính là tồn bộ mơi trường tự nhiên và xã hội tác động đ ến con ng ười
theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, t ự
giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thơng qua đó, con ng ười ti ếp nh ận
hồn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhi ều
phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con



người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy lu ật
nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng c ủa
mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của
lịch sử xã hội loài người.
1.2. Qua điểm của triết học Mác - Lênin về giải phóng con
người
Triết học Mác - Lênin là triết học vì con người. Ngay từ năm 1835,
trong những suy tư của một chàng trai trong việc lựa chọn nghề nghiệp,
C.Mác đã viết: “kim chỉ nam chủ yếu phải định hướng cho chúng ta trong
việc lựa chọn nghề nghiệp là phúc lợi của loài người, là sự hoàn thiện c ủa
chúng ta; kinh nghiệm ca ngợi những ai đem lại hạnh phúc cho m ột s ố
lượng người nhiều nhất là người hạnh phúc nhất; bản thân tôn giáo d ạy
chúng ta rằng cái lý tưởng mà mọi người hướng tới đã hi sinh b ản thân
mình cho nhân loại, vậy ai dám bác bỏ những lời dạy bảo đó?”
Khi viết tun ngơn của Đảng Cộng Sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
thể hiện tư tưởng cơ bản và chủ đạo của tun ngơn là “vĩnh viễn giải
phóng quan hệ xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức”. Song, “xã hội khơng thể
nào giải phóng cho mình được, nếu khơng giải phóng mỗi cá nhân riêng
biệt”.
Như vậy cốt lõi của Mác - Lênin nói chung, của triết học v ề con
người trong triết học Mác - Lênin nói riêng là vấn đề giải phóng con người,
từ giải phóng con người cụ thể tiến đến giải phóng nhân loại. Tồn bộ các
nội dung trả lời của câu hỏi như: Con người là gì? Nguồn gốc c ủa con
người? Bản chất con người? ... đều nhằm mục đích hiểu đối tượng gi ải
phóng để xác định đúng đắn những vấn đề liên quan đến vấn đ ề gi ải
phóng.
Triết học Mác - Lênin không phải là triết học đầu tiên đề c ập đ ến
vấn đề giải phóng con người. Lịch sử đã ghi nhận nhiều học thuy ết, nhi ều
quan điểm về giải phóng con người, song do điều kiện lịch sử, do sự ràng



buộc về giai cấp, do cách hiểu về con người, nguồn gốc và b ản ch ất c ủa
con người khác nhau nên xác định giải phóng con người là giải phóng đ ối
tượng nào? Giải phóng bằng cách nào? Giải phóng như thế nào cũng rất
khác nhau.
Các học thuyết triết học duy tâm và quan niệm tôn giáo, quan niệm
giải phóng con người là giải thốt về mặt tâm linh để con người có thể đạt
được cuộc sống cực lạc vĩnh cửu ở kiếp sau trong một thế giới khác ngoài
thế giới tự nhiên. Với quan niệm như vậy thì khơng thể đem lại sự giải
phóng con người một cách hiện thực, mà chỉ giải phóng hư ảo - “thuốc
phiện của nhân dân”. Các nhà duy vật trước Mác hoặc khơng thấy đ ược
tính xã hội của con người, không thấy các quan hệ xã hội c ủa con ng ười,
hoặc nhận thức về con người trừu tượng nên vẫn xem những biểu hiện
của bản chất con người trong cuộc sống hiện thực như bản tính tự nhiên
vốn có, bất biến của con người. Không hiểu đúng bản chất của con người
thì khơng thể xác định đúng những nội dung trong q trình giải phóng và
tất yếu khơng thể thực hiện được q trình giải phóng.
Lịch sử cũng ghi nhận giai cấp tư sản phương Tây đã thực hiện các
cuộc giải phóng con người do bản chất của chủ nghĩa tư bản do m ục đích
của phương thức sản xuất của tư bản chủ nghĩa nên đồng thời với việc
giải phóng con người khỏi những ràng buộc của xã hội chủ phong kiến, giai
cấp tư sản đã trói chặt con người bằng rằng buộc khác nghiệt ngã hơn:
rằng buộc kinh tế, phân hoá xã hội thành hai đối cực là nhà tư b ản bóc l ột
và người lao động bị bóc lột. Đến nay ngay cả khi đời sống c ủa ng ười lao
động đã được cải thiện nhưng sự đối cực đấy vẫn không mất đi mà chỉ
tăng lên dưới nhiều hình thức biểu hiện khác.
Triết học Mác - Lênin xác định “bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao
hàm ở chỗ là nó trả thế giới con người, những quan hệ của b ản thân con
người về với con người”, là giải phóng người lao động thoát khỏi lao đ ộng
bị tha hoá.



Trong các tác phẩm của mình C.Mác đã chỉ rõ những bi ểu hi ện c ủa
lao động bị tha hoá, nguyên nhân dẫn đến sự tha hoá, trên cơ sở đó, C.Mác
cũng đã xác định phương hướng và các lực lượng có thể thực hi ện s ự
nghiệp giải phóng con người thốt khỏi sự tha hố và tiến tới một xã h ội
mà “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện để phát triển tự do c ủa
tất cả mọi người”.
Theo C.Mác: Lao động bị tha hoá là lao động làm người lao đ ộng
đánh mất mình trong “hoạt động người” nhưng lại tìm thấy mình trong
“hoạt động vật”. Lao động là hoạt động người nhưng ở lao động tha hố ,nó
đã là “một cái gì đó bên ngồi” người lao động. Người lao đ ộng th ực hi ện
hoạt động lao động không phải là thoả mãn nhu cầu lao động mà chỉ vì s ự
sinh tồn của thể xác. Đó là lao động cưỡng bức. Điều này tất y ếu dẫn đến
việc người lao động cảm thấy mình hành động tự do trong khi thực hi ệna
chức năng động vật như ăn uống, Sinh đẻ con cái; còn trong những ch ức
năng của con người thì người lao động cảm thấy mình chỉ là con v ật. Cái
vốn có của súc vật trở thành chức phận của con người, cịn cái có tính
người lại biến thành cái vốn có của xúc vật. “Tính b ị tha hoá c ủa lao đ ộng
biểu hiện rõ rệt ở chỗ một khi khơng cịn sự cưỡng bức lao đ ộng v ề th ể
xác hoặc về mặt khác thì người ta trốn tránh lao động như trốn tránh dịch
hạch vậy”.
Lao động bị tha hoá là lao động làm đảo lộn các quan hệ của người
lao động.
Trong lao động, người lao động thực hiện với tư liệu sản xuất là
thực hiện quan hệ với đồ vật. Song vì hồn tồn phụ thuộc vào tư liệu s ản
xuất nên không phải con người sử dụng tư liệu sản xuất mà tư liệu sản
xuất sử dụng con người.
Mặt khác, chỉ vì phải có sản phẩm để nhận thù lao mà người lao
động phải lao động nên con người đã bị sản phẩm của chính mình nơ d ịch;



người lao động tạo ra sản phẩm nhưng sản phẩm không ph ải c ủa ng ười
lao động mà của người chủ nên nó trở nên xa lạ với người tạo ra nó.
Như vậy, quan hệ giữa con người với đồ vật (trực tiếp là quan h ệ
giữa tư liệu sản xuất với sản phẩm của quá trình s ản xuất) đã tr ở thành
quan hệ giữa con người và người thống trị xa lạ.
Cùng với quá trình trên là người lao động phải thực hiện quan hệ
Với người chủ. Đây là quan hệ giữa người với người. Song, người lao động
quan hệ với người chủ qua số sản phẩm của người chủ thu được và số
tiền thù lao mà người lao động được trả. Cho nên, về bản chất quan hệ
giữa người với người đã trở nên quan hệ giữa người với đồ vật.
Lao động bị tha hoá là lao động làm cho người lao động bị phát triển
què quặt.
Đây là hệ qủa của sự phát triển khoa học kỹ thuật, công ngh ệ vào
việc sử dụng thành tựu của nó chỉ vì lợi nhuận. Với mục đích s ản xu ất vì
lợi nhuận nên khoa học, cơng nghệ càng phát triển mạnh thì máy móc thay
thế con người lao động ngày càng nhiều, chun mơn hố lao động càng
Sâu, số người bị máy móc thay thế càng lớn, những lao động cịn lại b ước
vào qua trình lao động thuần tuý thực hiện thao tác mà dây chuy ền lao
động sản xuất đã quy định. Vì vậy, nền sản xuất máy móc vì l ợi nhu ận đã
“ném một bộ phận công nhân về với lao động giã man và biến bộ ph ận
công nhân thành những cái máy”.
C.Mác cho rằng nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự tha hoá là chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất. Sự ra đời của phương thức sản xuất tư b ản ch ủ
nghĩa với chế độ tư bản về chế độ sản xuất đã tập trung những tư liệu sản
xuất cơ bản của chủ nghĩa xã hội vào tay một số nhà tư b ản, một s ố t ập
đoàn tư bản làm tuyệt đại đa số người lao động trở thành vô sản. Nhu cầu
sinh tồn đã buộc những con người khơng có tư liệu s ản xuất tự nguy ện
một cách cưỡng bức đến với các nhà tư sản và họ làm thêm cho nhà tư bản.



Đối với phương thức và lực lượng giải phóng con người, triết học
Mác - Lênin đã khẳng định:
Giải phóng con người là xóa bỏ người bóc lột người, xóa bỏ tha hố để
con người trở về với chính mình. Song “con người bẩm sinh đã có tính xã
hội thì do đó con người chỉ có thể phát triển bản tính chân chính c ủa mình
trong xã hội”. Việc giải phóng xã hộ loài người phải được th ực hi ện trong
xã hội lồi người.
Ngun nhân sản sinh ra tha hố là chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất nên “xố bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu với tính cách là s ự kh ẳng
định sinh học của con người là sự xố bỏ một cách tích cực sự tha hố”.
Điều đó cũng có nghĩa là lực lượng thực hiện chính là những người tước
đoạt tư liệu sản xuất - những người vô sản. Sức mạnh giải phóng dân t ộc
của họ khơng phải là Sức mạnh của những cá nhân đơn độc mà như C.Mác
đã chỉ rõ, chỉ khi nào họ nhận thức được và tổ chức được “những l ực l ượng
của bản thân” thành những lực lượng xã hội - cũng chính là thành lực lượng
chính trị - thì giải phóng con người mới được thực hiện. Giải phóng xã hội,
Sở hữu tư nhân, khỏi sự nơ dịch trở thành hình thức chính trị của sự gi ải
phóng giai cấp vơ sản, song ở đây khơng chỉ giải phóng cho h ọ vì s ự gi ải
phóng của họ bao hàm sự giải phóng của toàn thể nhân loại.
Lênin đã nhận định: Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở
chỗ nó làm sánh rõ vai trò của lịch sử thế giới của giai cấp vô sản, là người
thực hiện sứ mệnh giải phóng con người.
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1.Thực trạng con người Việt Nam hiện nay
Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ năm (khố VIII),
Đảng ta đã có sự đánh giá đúng đắn, khách quan v ề nh ững thành t ựu,
những yếu kém của con người Việt Nam trên nhiều phương diện, nhiều



lĩnh vực hoạt động, phản ánh ngày càng đầy đủ, toàn diện và k ịp th ời c ả
những mặt mạnh, ưu điểm lẫn những hạn chế, khiếm khuyết của con
người Việt Nam hiện nay.
2.1.1 Điểm mạnh của con người Việt Nam hiện nay:
Thứ nhất, trong công cuộc đổi mới đất nước, trong điều kiện mới
của khu vực và thế giới, con người Việt Nam vẫn ln gắn bó mật thiết v ới
những giá trị văn hố truyền thơng, với những phẩm giá của dân tộc mà
điểm nổi bật là tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, t ự l ực, t ự
cường, đồn kết vì đại nghĩa dân tộc. Biểu hiện của điểm mạnh này là thái
độ tích cực của mỗi cơng dân trước vận mệnh của Tổ quốc, trước các
chuyển đổi về kinh tế, xã hội hiện nay.
Thứ hai, con người Việt Nam vẫn luôn thể hiện đức tính cần cù,
sáng tạo trong mọi hoạt động. Đức tính này là một giá trị đặc trưng, chiếm
vị trí xứng đáng trong bảng giá trị về nhân cách của con người Vi ệt Nam.
Thái độ tích cực của con người Việt Nam trong định hướng và lựa chọn giá
trị này là điều kiện hết sức thuận lợi cho công tác giáo dục, từ giáo dục
truyền thống, lối sống đến giáo dục đạo đức, nhân cách con người hiện
đại... nhằm phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hố hiện đại hoá đất nước.
Thứ ba, nét đặc trưng của đời sống tinh thần, của phẩm giá của con
người Việt Nam là truyền thơng cộng đồng, lịng nhân ái, nhũng tình c ảm vị
tha và khoan dung... vẫn được giữ vừng, phát huy trong điều kiện mới c ủa
đất nước. Những giá trị mang tính nền tảng cốt lõi ấy là cơ sở đ ể phát
triển tính nhân văn và xây dựng văn hoá Việt Nam hiện đại, tiên tiến, mang
bản sắc dân tộc. Có thể khẳng định rằng, đây là một thuận lợi căn b ản đ ể
chúng ta thực hiện chương trình văn hố trong tồn xã hội đối v ới các th ế
hệ con người Việt Nam hiện nay và mai sau.
Thứ tư, con người Việt Nam vẫn giữ được truyền thông hiếu học,
tôn sư trọng đạo và sự hình thành, phát triển các giá trị mới của văn hoá và



con người đã chứng minh sự kết hợp giữa truyền thống với hiện đại trong
thời kỳ đổi mới và đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Thứ năm, trong cơng cuộc đổi mới, mơ hình gia đình truyền thống
đang có những biến đổi lớn, phức tạp do sự tác động của kinh tế hàng hoá,
cơ chế thị trường, do những biến đổi của xã hội đang quá độ lên Chủ Nghĩa
Xã Hội... Tuy vậy, những giá trị tinh thần, đạo lý của gia đình truy ền thơng
vẫn được giữ vững, có ảnh hưởng tích cực trong đời sống gia đình Vi ệt
Nam, vẫn là nhân tố quan trọng đảm bảo sự ổn định và phát triển bền
vững của xã hội.
2.2.2 Một số yếu kém trong con người Việt Nam hiện nay.
Đất nước chúng ta chịu ảnh hưởng nặng nề tính phong kiến của
Trung Quốc do qua gần một thế kỷ chịu ách đô hộ của Trung Quốc đã hình
thành con người Việt Nam mang tính gia trưởng nặng nề, chính đi ều này
làm cho Sự phát triển về giới chưa được tồn diện, vẫn cịn tư tưởng trọng
nam khinh nữ trong gia đình và xã hội. Điều này đã bóp ch ết s ự gi ải phóng
phụ nữ khỏi những cơng việc nội trợ gia đình, thốt khỏi tư tưởng nề hà
phong kiến để đóng góp vào sự phát triển kinh tế và xã hội ở n ước ta trong
giai đoạn hiện nay.
Phong cách sản xuất nhỏ biểu hiện trong thói quen, tập quán, lối
sống và cách ứng xử, nếp suy nghĩ, lề thói làm ăn... của người Việt Nam v ẫn
đang là những cản trở không nhỏ đối với sự nghiệp cơng nghiệp hố và
hiện đại hố đất nước.
Những mặt trái của kinh tế thị trường đang tác động tiêu cực tới Sự
phát triển con người Việt Nam. Một trong những biểu hiện rõ nét c ủa xu
hướng này là sự suy giảm về mặt đạo đức của khơng ít người, nhất là l ớp
trẻ, thậm chí của cả một số cán bộ, đảng Viên thoái hoá, biến chất. Cùng
Với đó là sự xuất hiện các yêu tố tiêu cực khác, như chủ nghĩa c ục b ộ, đ ịa
phương, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền, đề cao quá mức tiện nghi

vật chất, xa hoa, lãng phí, sự phát triển chủ nghĩa cá nhân vị k ỷ bi ểu hi ện


trong lối sống, trong cách ứng xử giữa người với người. Những tiêu cực này
đang ảnh hưởng đến ý thức tư tưởng, đạo đức, lối sống của nhân dân ta.
Vấn đề đặt ra ở đây chính là vấn đề quan hệ con người trong nền kinh tế
thị trường, là ý thức về trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ của cá nhân đối
với những người thân trong gia đình, đối với cộng đồng và tồn xã hội. Nếu
khơng đặt vấn đề giáo dục truyền thống, nếu không chú trọng giáo dục
đạo đức, lối sống... một cách đúng mức cả trong gia đình, nhà tr ường l ẫn xã
hội thì tình trạng suy thối đạo đức chẳng những khơng sớm được ngăn
chặn, mà còn đứng trước nguy cơ tiếp tục gia tăng.
Ý thức pháp luật còn kém, hiện tượng biết sai vẫn còn, lách luật,
chống luật, phá luật, mù luật. Con người Việt Nam làm vi ệc theo c ảm tính
khơng theo một quy cũ nào, không nhất quán trong công việc, tính đ ộc l ập
tác chiến cao tuy nhiên tính làm việc nhóm tổ khơng tốt. Dẫn đ ến cơng
việc cứ bị ù nề không nhanh và giải quyết công việc, vấn đề không tốt.
Phương pháp tư duy yếu, điều này bắt nguồn từ nền kinh tế nông
nghiệp lúa nước do cơng Việc phó mặc Vào điều kiện tự nhiên, thời tiết tốt
thì được mùa, thời tiết xấu thì mất mùa. Ngồi ra chính nền nơng nghiệp
lúa nước đã ảnh hưởng đến con người Việt Nam có năng lực tổ ch ức th ực
tiễn kém.
Con người Việt Nam cần cù lao động tuy nhiên tư tưởng dễ thỏa
mãn đã hạn chế khả năng phát huy năng lực của người Việt Nam. Ng ười
Việt Nam thông minh sáng tạo tuy nhiên chỉ giỏi đối phó tình c ảnh thi ếu
tầm nhìn dài hạn khơng chủ động. Trong cơng Việc thì khéo léo tuy nhiên
không chịu làm tới cùng chỉ làm cho xong việc không quan tâm kết quả như
thế nào. Điều này cũng ảnh hưởng đến việc học tập nghiên cứu, ít khi học
tới nơi tới chốn mặc dù người Việt Nam rất ham học hỏi và có kh ả năng
tiếp thu nhanh. Dẫn đến kiến thức khơng có hệ thống, mất căn bản.



Có tinh thần tương thân tương ái song trong trường hợp khó khăn
thì bần hàn. Người Việt Nam có tính hiếu khách tuy nhiên nhi ều khi d ẫn
đến Việc hoang phí.
u hịa bình nhẫn nhịn song nhiều khi hiếu chiến hiếu thắng vì
những lí do tự ái lặt vặt dễ đánh mất đại cuộc
2.3 Mơ hình xây dựng con người Việt Nam hiện nay.
Trong thời kỳ hiện nay, vận mệnh đất nước đã đổi mới thời kỳ đất
nước hội nhập vào nền kinh tế thế giới, thời kỳ khoa học thế giới phát
triển mạnh mẽ Với những thành tựu lớn trong khoa học. Thì con người
Việt Nam cũng phải có những phẩm chất nhất định đ ể b ắt kịp th ời cu ộc,
theo kịp sự phát triển của thế giới và khu vực. Điều này, làm cho con người
Việt Nam phải thay đổi để có thể đáp ứng được các yêu cầu hội nhập thế
giới và thời đại. Để đảm bảo cho sự phát triển này cần phải có mơ hình xây
dựng con người Việt Nam phù hợp với thời đại đáp ứng được nhu cầu c ủa
nên văn hóa mới, khoa học mới trên cơ sở xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
Theo thực tiển phát triển hiện tại của xã hội và khoa học nước ta
nói riêng và thế giới nói chung địi hỏi con người Việt Nam những phẩm
chất định hướng xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Xây
dựng con người "có ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm cơng dân; có tri
thức, sức khỏe và lao động giỏi; sống có văn hóa và tình nghĩa, giàu lịng
u nước và tinh thần quốc tế chân chính", "xây dựng con người Việt Nam
phát triển tồn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng
lực Sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lịng nhân ái, khoan dung, tơn tr ọng
nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hịa trong gia đình, c ộng đ ồng
Và xã hội. Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện
nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh
thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Đ ể




×