Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tiểu luận đổi mới hệ thống chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.85 KB, 20 trang )

BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
TRƯỜNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ QUẢN LÝ TT&TT

LỚP “TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH”
K13-TCCT.B0

BÀI TIỂU LUẬN
MƠN: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ, NHÀ
NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Họ và tên:

NGUYỄN THỊ AN

Chức vụ:

CHUYÊN VIÊN

Đơn vị công tác: BỆNH VIỆN ĐA KHOA ĐỨC GIANG

Hà Nội, năm 2021


BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG

TRƯỜNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ QUẢN LÝ TT&TT

LỚP “TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH”
K13-TCCT.B0

BÀI TIỂU LUẬN


MƠN: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ, NHÀ
NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ NƯỚC TA HIỆN NAY VÀ NHỮNG
NỘI DUNG CƠ BẢN ĐỔI MỚI, KIỆN TỒN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Họ và tên:

NGUYỄN THỊ AN

Chức vụ:

CHUYÊN VIÊN

Đơn vị công tác: BỆNH VIỆN ĐA KHOA ĐỨC GIANG

Hà Nội, năm 2021


1
PHẦN MỞ ĐẦU
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của
Đảng ta năm 1991 đã khẳng định. “Tồn bộ hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn
mới là nhằm xây dựng và hoàn thiện từng bước nền dân chủ XHCN, đảm bảo quyền lực
thuộc về nhân dân”.
Thực hiện quan điểm trong Cương lĩnh của Đảng , những năm qua trong khi lấy
đổi mới kinh tế làm trọng tâm , chúng ta cũng đã từng bước đổi mới hệ thống chính trị.
Vai trò lãnh đạo của Đảng , hiệu lực quản lý của Nhà nước , tính tích cực chủ động của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội ngày càng được nâng lên , ý
thức và quyền làm chủ của nhân dân tham gia vào công việc quản lý Nhà nước ngày
càng phát triển và mở rộng. Nhờ vậy nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh, chính trị ổn
định, đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện nâng lên.

Trong khi khẳng định những bước tiến đó, chúng ta cũng thấy rằng so với yêu
cầu thực tiễn, sự lãnh đạo của Đảng chưa được nâng cao đúng mức; Mặt trận tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội cịn kém năng động, đội ngũ cán bộ đoàn thể vẫn chưa
khắc phục được tình trạng” cơng chức hóa, hành chánh hóa”. Một bộ phận cán bộ có
biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”. Trong khi cả thời cơ lẫn thách thức lớn đang đặt ra trước hệ thống chính tri nước ta
những vấn đề cấp bách cần được giải quyết. Những yếu kém đó dẫn tới vi phạm nghiêm
trọng. Chỉ bằng cách tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị mới có thể nâng cao quyền làm
chủ của nhân dân, với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình đổi mới
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, để đi sâu tìm hiểu vấn đề quyền lực chính trị
của nhân dân lao động trong tiến trình đổi mới hệ thống chính trị và có một những giải
pháp cơ bản nhằm đảm bảo quyền lực chính tri của nhân dân lao động ở nước ta hiện
nay, đó là lý do để em chọn đề tài viết bài thu hoạch “ Đổi mới hệ thống chính trị nước
ta hiện nay và những nội dung cơ bản đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị”.


2
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.

Quan niệm về hệ thống chính trị, tổ chức hệ thống chính trị

1.1.1. Quyền lực chính trị.
Quyền lực chính trị là quyền lực của một giai cấp hay của liên minh
giai cấp, tập đoàn xã hội, (hoặc của nhân dân – trong điều kiện CNXH), nó nói lên khả
năng của một giai cấp thực hiện lợi ích của mình.
Mác – Ăngghen đã chỉ ra rằng: “Quyền lực chính trị theo ngun nghĩa
của nó, là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp giai cấp khác”.
Là một bộ phận quyền lực trong xã hội có giai cấp, quyền lực chính trị bao giờ

cũng mang tính giai cấp. Nó ln mang tính thống nhất về cơ bản trong sự biểu hiện ra
bên ngoài của mình: Trong quan hệ nội bộ của giai cấp hay liên minh giai cấp, quyền lực
chính trị có thể chứa đựng những mâu thuẩn, thậm chí cả những đối kháng. Quyền lực
chính trị của giai cấp cầm quyền được tổ chức thành nhà nước. Do vậy xét về bản chất,
quyền lực nhà nước là quyền lực của giai cấp thống trị. Nó được thực hiện bằng cả một
hệ thống chun chính do giai cấp đó lập ra. Cho nên quyền lực nhà nước được thực
hiện bằng nhiều công cụ khác nhau.
Là bộ phận quan trọng nhất của quyền lực chính trị, sự thay đổi căn bản của
quyền lực Nhà nước bằng việc chuyển chính quyền Nhà nước từ tay giai cấp này sang
giai cấp khác sẽ trực tiếp dẫn tới thay đổi căn bản tính chất chế độ chính trị. Bất kỳ
quyền lực Nhà nước nào cũng mang tính chính trị, nhưng khơng phải mọi quyền lực
chính trị điều mang tính Nhà nước.
1.1.2. Hệ thống chính trị.
Một số quan niệm về hệ thống chính trị.
Quan niệm thứ nhất: Xem hệ thống chính tri chỉ bao gồm những tổ chức chính
trị - xã hội mang bản chất của giai cấp cầm quyền, hoặc là phục vụ cho quyền lực chính
trị của giai cấp đó. Với cách hiểu như vậy, “hệ thống chính trị”, chỉ là cách gọi khác của
phạm trù “hệ thống chun chính của giai cấp cầm quyền”. Đó là những phạm trù đồng
nhất – xét về ngoại diên và nội hàm của chúng. Hệ thống chính trị trong CNTB chính là


3
hệ thống chuyên chính tư sản. Hệ thống chính trị trong CNXH là hệ thống chun chính
vơ sản.
Quan niệm thứ hai: Xem hệ thống chính trị là một phạm trù có ngoại diên rộng
hơn so với phạm trù hệ thống chuyên chính của giai cấp cầm quyền. Trong hệ thống
chính trị, ngồi hệ thống chun chính của giai cấp cầm quyền với tư cách là bộ phận cơ
bản, quan trọng nhất, quy định bản chất và chức năng cơ bản của tồn bộ hệ thống, cịn
các tổ chức, các thiết chế chính trị hợp pháp khác.
Phù hợp với quan điểm này, hệ thống chính trị được hiểu là một phạm trù dung

để chỉ chỉnh thể bao gồm Nhà nước, các đảng phái chính trị hợp pháp, những ưu thế cơ
bản và vai trò chủ đạo thuộc về các thiết chế của giai cấp cầm quyền để tác động vào các
quá trình kinh tế - xã hooijnhawmf cũng cố, duy trì và phát triển chế độ xã hội đương
thời. Như vậy ta có thể hiểu:
- Hệ thống chính trị là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội, bao gồm
các tổ chức, các thiết chế hợp pháp, có mục đích và chức năng thực hiện hoặc tham gia
thực hiện quyền lực chính trị.
- Hệ thống chính trị XHCN là một chỉnh thể bao gồm Nhà nước chun chính vơ
sản, Đảng cộng sản cùng các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp, mối quan hệ qua lại
giữa các yếu tố đó nhằm bảo đảm quyền lực của nhân dân.
- Hệ thống chính trị Việt Nam được xác định bao gồm: Nhà nước, Đảng cộng sản
Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể là Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp phụ nữ,
Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Cơng đồn …
Hiệu quả của việc thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân phụ thuộc vào sự
hồn thiện của các nhân tố nêu trên, phụ thuộc vào tính đúng đắn trong mối quan hệ qua
lại giữa các nhân tố đó. Bởi vậy, trong các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc đều khẳng
định sự cần thiết phải đổi mới hệ thống chính trị như là một trong những điều kiện cần
thiết để đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân.
1.2.

Bản chất và đặc điểm của hệ thống chính tri.
a. Bản chất của hệ thống chính trị:


4
Hệ thống chính trị ở nước ta có những bản chất sau:
Một là, hệ thống chính trị ở nước ta mang bản chất giai cấp công nhân, nghĩa là
các tổ chức trong hệ thống chính trị đều đứng vững trên lập trường quan điẻmcủa giai
cấp cơng nhân . Từ đó đã qui định chức năng, nhiệm vụ, phương hướng hoạt động của
tồn bộ hệ thống chính trị, đảm bảo quyền làm chủ của giai cấp công nhân và nhân dân

lao động.
Hai là, bản chất dân chủ của hệ thống chính trị nước ta thể hiện trước hết là ở
chỗ: Quyền lưc thuộc về nhân dân, với việc Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng - đội tiên phong của giai cấp cơng nhân , đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Ba là, bản chất thống nhất không đối kháng của hệ thống chính trị ở nước ta.
Bản chất đó dựa trên chế độ cơng hửu về tư liệu sản xuất chủ yếu, về sự thống nhất giữa
những lợi ích căn bản của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc
b. đặc điểm của hệ thống chính trị:
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay có những đặc điểm cơ bản sau:
Một là, các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta đều lấy chủ nghĩa Mác- Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động.
Các quan điểm và nguyên tắc của chủ nghjiax mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đều
được tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta vận dụng, ghi rõ trong hoạt động của
từng tổ chức.
Hai là, Hệ thống chính trị ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam.Đảng là một tổ chức trong hệ thống chính trị nhưng có vai trị lãnh đạo các tổ
chức trong hệ thống chính trị. Trong điều kiện cụ thể ở nước ta, do những phẩm chất của
mình – Đảng là đại biểu cho ý chí và lợi ích thống nhất của dân tộc; do truyền thống lịch
sử mang lại và do những thành tựu rất to lớn đạt được trong hoạt động thực tiển cách
mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, làm cho Đảng ta trở thành Đảng chính trị
duy nhất có khả năng tập hợp quần chúng lao động đông đảo để thực hiện lý tưởng của


5
Đảng, nhân dân tự nguyện đi theo Đảng, thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong thực
tế. đây là đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị ở nước ta.
Ba là, Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc
tập trung dân chủ. Nguyên tắc này được tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị ở
nước ta thực hiện

Bốn là, hệ thống chính trị bảo đảm sự thống nhất giữa bản chất giai cấp cơng
nhân và tính nhân dân, tính dân tộc rộng rãi. Đây là đặc điểm khác biệt căn bản của hệ
thống chính trị ở nước ta với hệ thống chính trị của các nước tư bản chủ ngĩa, thể hiện
tính ưu việt của chế độ XHCN , sự thống nhất lợi ích giữa giai cấp cơng nhân, nhân dân
lao động cũng như của cả dân tộc , vì mục tiêu, “dân giàu, nước mạnh, cơng bằng , dân
chủ, văn minh”.
1.3.

Vị trí, vai trị, nhiệm vụ của tổ chức chính trị trong hệ thống chính trị .
a. Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung

thành lợi ích giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng là một bộ
phận của hệ thống chính trị nhưng là hạt nhân lãnh đạo của tồn bộ hệ thống chính trị.
Vai trị lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, những quan điểm, chủ
trương phát triển kinh tế– xã hội, đồng thời Đảng là người lãnh đạo tổ chức thực hiện
Cương lĩnh, đường lối của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thơng qua Nhà nước và đồn thể quần chúng.
Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể chế hóa cụ
thể bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch chương trình cụ thể. Vì
vậy, Đảng ln quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước và bộ máy của Nhà nước, đồng
thời kiểm tra, việc Nhà nước thực hiện các Nghị quyết của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội thông qua thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội
ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng việc xác định


6
đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ có đủ tiêu chuẩn vào các
cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội.

Ngồi ra, Đảng lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục và nêu gương,
làm công tác vận động quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt qui chế dân chủ.
b. Nhà nước.
Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là cơng cụ tổ chức thực hiện
ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân để
quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Mặt khác, Nhà nước chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân,
thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và đảm bảo
đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Như vậy, Nhà nước XHCN vừa là ơ quan quyền lực, vừa là bộ máy chính trị,
hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân. Quyền lực Nhà
nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp chặc chẽ giưa các cơ quan trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam. Quốc hội do nhân dân trực tiếp bầu ra.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền ra Hiến pháp và Luật pháp (lập hiến và lập
pháp). Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ
máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Với ý nghĩa đó, Quốc hội được gọi là cơ quan lập pháp. Chính phủ là cơ quan
chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hòa xa hội chủ
nghĩa Việt Nam. Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng
giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Vì vậy, cần tăng cường
pháp chế XHCN.
c. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.


7
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồn thể chính trị - xã hội có vai trị rất quan

trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước, phát
huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm cơng dân của các hội viên, đồn viên, giữ gìn kỷ
cương phép nước, thúc đẩy cơng cuộc đổi mới, thắt chặc mối quan hệ giữa nhân dân với
Đảng và Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, và các đồn thể chính trị - xã hội là cơ sở chính trị
của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng; phát huy khả năng tham
gia bầu cử Quốc hội, và Hội đồng nhân dân; tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; thực hiện quyền giám sát
của nhân dân với cán bộ, công chức và giải quyết những mâu thuẩn trong nội bộ nhân
dân.
Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức theo hệ thống từ trung ương đến cơ
sở. Cơ sở phân cấp theo quản lý hành chính gồm xã, phường, thị trấn. Hệ thống chính trị
ở cơ sở bao gồm : Tổ chức cơ sở Đảng; Hội đồng nhân dân; Ủy ban nhân dân; Đồn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; Hội Liên hiệp phụ nữ; Hội nông dân; Hội cựu chiến
binh; Cơng đồn…Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức
và vận động nhân dân thực hiện đường lối , chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà
nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy
động mọi khả năng để phát triển kinh tế - xã hội tổ chức cuộc sống cho cộng đồng dân
cư. Tham gia giám sát, phản biện xã hội và xây dựng chính quyền trong sạch vững
mạnh.


8
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1.

Một số đặc điểm của hệ thống chính trị nước ta
Hệ thống chính trị nước ta có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Một đảng duy nhất lãnh đạo - cầm quyền; chuyển từ vị trí cao nhất trong hệ


thống chính trị sang vị trí là “hạt nhân lãnh đạo chính trị” đối với hệ thống chính trị.
- Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và giám sát lẫn
nhau giữa các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị được tổ chức theo mơ hình “cứng”, gồm
ba phân hệ Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, có tổ
chức chạy dọc từ Trung ương xuống cơ sở.
- Hệ thống chính trị được chuyển từ “hệ thống chun chính vơ sản” sang xây
dựng hệ thống chính trị hoạt động trong điều kiện Nhà nước pháp quyền.
Đánh giá về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị nước ta, Nghị quyết Trung
ương 6 (khóa XII) đã nêu khái quát như sau: “Hệ thống tổ chức của Đảng, Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể chính trị - xã hội được đổi mới; chức năng, nhiệm vụ,
mối quan hệ công tác của từng tổ chức được phân định, điều chỉnh hợp lý hơn”.
Tuy nhiên, Nghị quyết cũng chỉ rõ “Tổ chức bộ máy của hệ HTCT vẫn còn cồng
kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một
số cơ quan, tổ chức chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lắp... Chưa phân định thật rõ
tính đặc thù của chính quyền đơ thị, nơng thơn, hải đảo. Các đơn vị hành chính địa
phương nhìn chung quy mô nhỏ, nhiều đơn vị không bảo đảm tiêu chuẩn theo quy định,
nhất là cấp huyện, cấp xã”; “Nhiều tổ chức phối hợp liên ngành, ban quản lý dự án trùng
lắp về chức năng, nhiệm vụ, hiệu quả hoạt động chưa cao”.
Tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể
chính trị - xã hội chậm đổi mới, một số nhiệm vụ cịn trùng lắp, vẫn cịn tình trạng “hành
chính hố”, “cơng chức hố”…


9
Những vấn đề trên đặt ra cần phải có bước đổi mới căn bản mơ hình tổ chức bộ
máy hệ thống chính trị, gắn liền với đó là đổi mới và hoàn thiện thể chế, cơ chế hoạt
động của cả hệ thống chính trị nói chung và của từng phân hệ nói riêng, nhằm đáp ứng
với yêu cầu cao của sự phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

2.2.

Thực trạng hệ thống chính trị tại Bệnh viện đa khoa Đức Giang
Đảng ta đã xác định qua các kỳ Đại hội “Phương thức lãnh đạo của Đảng là một

hệ thống các phương pháp, cách thức mà Đảng vận dụng để tác động vào hệ thống chính
trị xã hội nhằm đạt được mục tiêu, nội dung lãnh đạo của Đảng, là công nghệ lãnh đạo
của Đảng trong việc thực hiện thắng lợi những nội dung lãnh đạo”.
Điều lệ Đảng cũng xác định: “Đảng lãnh đạo Nhà nước và các đồn thể chính
trị- xã hội bằng cương lĩnh chính trị, chính sách, chủ trương, bằng công tác tư tưởng, tổ
chức, cán bộ và kiểm tra giám sát thực hiện”.
Với những tư tưởng chỉ đạo trên, Đảng bộ Bệnh viện đa khoa Đức Giang đã đề
ra các biện pháp nhằm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ Bệnh viện.
Trên cơ sở quan niệm phải đổi mới phương thức lãnh đạo để đáp ứng nhu cầu
phát triển nhiều mặt của một tổ chức cơ sở Đảng làm công tác khoa học kỹ thuật, những
năm qua Đảng bộ Bệnh viện đa khoa Đức Giang đã thực hiện các hình thức và biện pháp
sau:


Tổ chức tốt cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho Đảng viên và cán bộ công

chức Bệnh viện.


Lãnh đạo việc xây dựng và thực hiện kế hoạch hoạt động Bệnh viện gắn với xây

dựng và thực hiện qui trình ra Nghị quyết.


Lãnh đạo việc xây dựng và thực hiện qui chế hoạt động của Đảng bộ, Qui chế


hoạt động phối hợp giữa Đảng ủy – Ban Giám đốc Bệnh viện.


Thực hiện tốt việc đánh giá xếp loại Đảng bộ, Chi bộ phân loại Đảng viên và các

các đoàn thể trung thực, khách quan.


10


Mở rộng dân chủ, không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng từ

Đảng ủy - Chi ủy và Chi, Đảng bộ.


Tạo bước chuyển biến quan trọng về công tác cán bộ, công tác quản lý và cộng

tác phát triển Đảng.


Đẩy mạnh công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng để phát huy vai trò tổ chức cơ sở Đảng.



Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng cấp trên.
Với những đổi mới trong phương thức lãnh đạo và làm việc thời gian qua, Đảng

bộ Bệnh viện đa khoa Đức Giang đã xác nhận đúng con đường và phương thức làm việc

đáp ứng được với những yêu cầu ngày càng cao trong thời kỳ mới.
2.3.

Những vấn đề đặt ra
1) Sau Nghị quyết số 18-NQ/TW (năm 2017) của Ban Chấp hành Trung ương về

“Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, cho thấy những chủ trương, quan điểm, định hướng
nêu trong Nghị quyết cơ bản là đúng, việc thực hiện đã đạt những kết quả quan trọng
bước đầu cả về hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, hợp lý hóa và tinh giản cơ cấu tổ chức
bộ máy ở tất cả các cấp, hoàn thiện hơn cơ chế hoạt động của cả HTCT cũng như từng
phân hệ của HTCT. Tuy nhiên, từ thực tiễn triển khai Nghị quyết của các cơ quan từ
Trung ương đến cơ sở cho thấy còn một loạt vấn đề về lý luận và thực tiễn cần phải
được nghiên cứu, tổng kết, làm rõ hơn, như : cần xác định và phân định rõ hơn, hợp lý
hơn vai trị, trách nhiệm, nội dung, phương thức lãnh đạo chính trị của tổ chức đảng các
cấp; vai trò, chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của các cơ quan quyền lực của Nhà nước
pháp quyền; vai trò trách nhiệm của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội, từ trung
ương xuống cơ sở. Làm rõ hơn yêu cầu khách quan, điều kiện, nguyên tắc việc “nhất thể
hóa” (hay gọi là hợp nhất) các tổ chức bộ máy có chức năng, nhiệm vụ tương đồng,
trùng lắp, hoặc liên quan mật thiết với nhau trong HTCH; yêu cầu khách quan, điều
kiện, nguyên tắc việc “nhất thể hóa” một số chức danh lãnh đạo trong HTCT từ Trung
ương xuống cơ sở. Làm rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thể chế, cơ chế hoạt


11
động của các tổ chức hợp nhất giữa các tổ chức đảng với các tổ chức chính quyền;
nghiên cứu và chế định rõ hơn cấu trúc nền hành chính, cấu trúc mơ hình phân định
quyền lực nhà nước từ trung ương xuống cơ sở…theo yêu cầu của giai đoạn phát triển
mới.
2) Về mặt lý luận cần phải nhận thức đầy đủ, sâu sắc và đúng đắn hơn về “vai trò

lãnh đạo” và “vai trò cầm quyền” của Đảng, mối quan hệ biện chứng giữa hai vai trò này
trong điều kiện Đảng cầm quyền, về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với HTCT,
nhất là đối với Nhà nước. Xử lý đúng đắn mối quan hệ này là cơ sở để xây dựng tổ chức
bộ máy của HTCT tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Vì hiện nay, trong nhận thức về phương thức lãnh đạo của Đảng và xây dựng tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị có cả hai khuynh hướng cần khắc phục: Phân định
máy móc, rạch ròi, cơ học các chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Đảng và chức năng
nhiệm vụ của bộ máy nhà nước, còn tư duy “bên này bên kia”, dẫn đến tình trạng xây
dựng song trùng bộ máy từ trung ương xuống cơ sở. Về vấn đề này, ngay từ thời Lênin,
ông đã rất coi trọng cải tiến bộ máy của Đảng và Nhà nước trong điều kiện một đảng
cầm quyền theo tinh thần “thà ít mà tốt”, cho rằng hồn tồn có thể hợp nhất một số cơ
quan của Đảng với cơ quan Nhà nước (như Ban kiểm tra trung ương đảng với Bộ dân ủy
thanh tra công nông…), như thế sẽ tốt hơn cho cả hai cơ quan, mạnh hơn, có hiệu quả
hơn cho cả sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Mặt khác, lại có khuynh
hướng đề cao vai trị lãng đạo của Đảng khơng gắn với tăng cường vai trị quản lý theo
luật pháp của Nhà nước; các tổ chức đảng rơi vào tình trạng ơm đồm, làm thay nhiệm vụ
của các cơ quan nhà nước, coi Nhà nước là chủ thể bị lãnh đạo - quản lý dưới quyền;
hoặc đề cao vai trò quản lý của Nhà nước lại coi nhẹ vai trò lãnh đạo của Đảng. Về điều
này rất cần lưu ý các cảnh báo của Lênin, ông cho rằng: “Chừng nào mà Ban chấp hành
Trung ương Đảng và toàn đảng cịn tiếp tục làm cơng tác quản lý hành chính, nghĩa là
quản lý nhà nước, thì Đảng khơng thể gọi là người lãnh đạo được”, “nếu Đảng cứ lãnh
đạo bằng cách đó, thì chúng ta nhất định đi tới chỗ diệt vong”. Vì vậy, Lênin yêu cầu
“Cần phân định một cách rõ hơn nữa những nhiệm vụ của Đảng (và của Ban chấp hành


12
trung ương của nó) với nhiệm vụ của Chính quyền Xơ viết; tăng thêm trách nhiệm và
tính chủ động cho các cán bộ Xô viết và các cơ quan Xô viết, cịn về Đảng thì dành
quyền lãnh đạo chung cơng tác của tất cả các cơ quan nhà nước gộp chung lại, mà không
can thiệp một cách quá thường xuyên, khơng chính quy và thường là nhỏ nhặt, như hiện

nay”, và “Phải chấm rứt cả tình trạng là tất cả mọi vấn đề vụn vặt cũng đều đưa ra trước
Ban chấp hành trung ương, mà phải nâng cao uy quyền của Hội đồng dân ủy”. Ở Việt
Nam, trước đây, đồng chí Lê Duẩn cũng đã có những ý kiến sâu sắc về vấn đề xử lý mối
quan hệ giữa thực hiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với phương thức hoạt động
của Nhà nước gắn với tổ chức bộ máy của Đảng và Nhà nước sao cho hợp lý, hiệu quả.
Ơng cho rằng: “Phải khắc phục tình trạng lẫn lộn chức năng của Đảng với chức năng
của Nhà nước”, song “Khơng nên cho rằng có sự đối lập giữa việc tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng với việc nâng cao vai trị và hiệu lực của chính quyền nhà nước. “Sức
mạnh của Đảng cầm quyền và sức chiến đấu của nó biểu hiện chính là ở hiệu lực và sức
mạnh của bộ máy nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng”. “Hoạt động của Nhà nước gắn
liền với hoạt động của Đảng”. Do đó, “Việc tăng cường vai trị lãnh đạo của Đảng phải
gắn liền với việc nâng cao năng lực quản lý của nhà nước”, “Đảng không thể nào thực
hiện được sự lãnh đạo của mình đối với xã hội mà khơng thơng qua chính quyền nhà
nước”. Vì vậy, phải “chống quan niệm phân cơng máy móc, tách rời hoạt động của cấp
ủy Đảng với hoạt động của cơ quan nhà nước”. Như vậy, đòi hỏi phải xử lý một cách rất
khoa học - rất thực tiễn giữa hai vấn đề “phải khắc phục tình trạng lẫn lộn chức năng của
Đảng với chức năng của Nhà nước”, đồng thời “chống quan niệm phân cơng máy móc,
tách rời hoạt động của cấp ủy Đảng với hoạt động của cơ quan nhà nước”, “đối lập giữa
việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với việc nâng cao vai trò và hiệu lực của chính
quyền nhà nước”. Đó là những luận điểm rất quan trọng gợi mở cho việc nhận thức đúng
về đổi mới và hiện thực hóa phương thức lãnh đạo của Đảng về mặt tổ chức đổi với hệ
thống chính trị, trước hết là đối với Nhà nước, để làm cơ sở nghiên cứu xây dựng tổ
chức bộ máy hệ thống chính trị, trước hết là của Đảng và Nhà nước, soa cho tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả.


13
3) Khi đã chuyển sang thể chế phát triển mới: Xây dựng nhà nước pháp quyền,
phát huy dân chủ, phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế…, tổ chức bộ máy
và cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị cần phải khắc phục các dấu ấn của thể chế cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu - hành chính - bao cấp trước đây.

4) Đảng có những chủ trương đúng đắn về đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng và định hướng xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống chính trị, nhưng cần phải cụ thể
hóa, thể chế hóa đầy đủ, kịp thời, đồng bộ. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
phải gắn với xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
5) Cần phải đẩy mạnh triển khai nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và xây dựng tổ chức bộ
máy hệ thống chính trị khoa học, phù hợp, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
Đảng ta luôn nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng, đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy
hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Đại hội XII của Đảng nêu
rõ: “Tiếp tục đổi mới bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy
phải gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng
chức... Nghiên cứu thực hiện thí điểm hợp nhất một số cơ quan đảng và nhà nước tương
đồng về chức năng, nhiệm vụ. Tinh giản tổ chức, bộ máy gắn với tiếp tục phân định rõ
chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của các tổ chức; thực hiện kiêm nhiệm
một số chức danh và tinh giản biên chế trong tồn hệ thống chính trị... Điều chỉnh chức
năng, nhiệm vụ Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp phù hợp với tình hình thực
tiễn và yêu cầu, nhiệm vụ mới. Trên cơ sở đó, tinh giản số cán bộ được hưởng lương và
phụ cấp ở cơ sở”. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) đã cụ thể hóa hơn và
nhấn mạnh phải triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ quan trọng này. Đặc biệt là phải đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng thông qua tổ chức đảng và đảng viên trong hệ
thống chính trị, nhất là trong Nhà nước, gắn liền với đổi mới tổ chức và bộ máy của hệ
thống chính trị. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh phải tiếp tục nghiên cứu xây
dựng mơ hình tổng thể tổ chức bộ máy HTCT trong giai đoạn mới. Điều này đòi hỏi


14
phải có cách tiếp cận hệ thống và đồng bộ: từ xác định rõ - đúng vai trò, chức năng lãnh
đạo của đảng (tổ chức đảng), chức năng của các cơ quan nhà nước; phân định rõ hơn và
khắc phục tình trạng trùng chéo về chức năng lãnh đạo của các tổ chức Đảng, chức

năng, nhiệm vụ của các tổ chức Nhà nước, của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội,
đồng thời “tích hợp” được các chức năng, nhiệm vụ song trùng giữa các tổ chức đảng,
nhà nước và các tổ chức chính trị. Trên cơ sở đó mới xây dựng (đổi mới) tổ chức - bộ
máy và cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, phù hợp, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả.


15
CHƯƠNG 3. NỘI DUNG, PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN ĐỔI MỚI,
KIỆN TỒN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
3.1.

Đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của Đảng.
Để thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới, cần tập trung.
Một là, nâng cao nhận thức và thực hiện đúng vai trị hạt nhân chính trị và trình

độ lãnh đạo của tổ chức Đảng ở các cấp để phát huy tính chủ động, sáng tạo và tinh thần
trách nhiệm của tổ chức trong hệ thống chính trị, trong việc thực hiện đường lối của
Đảng.
Hai là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cần nâng cao nhận thức và có
quan niệm đúng đắn về sự lãnh đạo toàn diện của Đảng. Trước hết là việc đổi mới, việc
ra Nghị quyết và chỉ đạo thực hiện các Nghị quyết của Đảng. Phát huy dân chủ trong
sinh hoạt Đảng, giữ vững đoàn kết thống nhất trong Đảng. Tăng cường công tác kiểm
tra, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và qui chế làm việc; tăng cường
công tác giáo dục rèn luyện nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ,
đảng viên.
3.2.

Đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước.
- Phát huy mạnh mẽ vai trị của hệ thống chính quyền Nhà nước trong việc mở


rộng và thực hiện dân chủ, hoàn thiện cơ chế dân chủ, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở
cơ sở, cụ thể hóa phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
- Chăm lo xây dựng, kiện toàn bộ máy của Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở,
có cơ cấu gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả, đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực, trình
độ, có tinh thần trách nhiệm cao. Hoạt động của cơ quan Nhà nước phải đặt nhiệm vụ
phục vụ nhân dân lên trên hết, giải quyết đúng đắn và nhanh chóng các cơng việc có liên
quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân. Giáo dục cán bộ, công chức Nhà nước xây
dựng và thực hành phong cách,” Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách
nhiệm với dân”, “ Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tinh”....
- Xây dựng cơ chế và biện pháp để kiểm tra, kiểm soát ngăn ngừa và trừng trị tệ
quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, xân phạm đến quyền làm chủ của nhân dân; ngăn


16
chặn và khắc phục tình trạng dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, đồng thời nghiêm trị
những hoạt động gây rối…
- Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và trong sinh
hoạt của bộ máy Nhà nước.
3.3.

Đổi mới và kiện toàn các đoàn thể chính trị - xã hội.
- Nâng cao hơn nữa nhận thức của tồn xã hội về vị trí, vai trị của Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam các cấp và các đồn thể chính trị - xã hội. Đẩy mạnh và nâng cao chất
lượng hoạt động của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức nghề nghiệp, các tổ chức quần
chúng.
- Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập
hợp quần chúng nhân dân, đáp ứng yêu cầu và chăm lo cho lợi ích thiết thực chính đáng

và hợp pháp của nhân dân.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân tập trung hướng mạnh về
cơ sở. Lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân,
ngăn chặn và chống mọi hành động vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Tăng cường
công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đổi mới hình thức tuyên truyền, vận độngnhân
dân, , gắn hoạt động của các tổ chức đoàn thể quần chúng trong việc thực hiện các
nhiệm vụ phát triển kinh té – xã hội, quốc phòng, an ninh..với việc nâng cao đời sống
vật chất và tinh thàn cho nhan dân.


17
KẾT LUẬN
Quyền lực chính trị của nhân dân lao động trước hét là quyền có một Nhà nước
bảo đảm cho nhân dân lao động là chủ thể của quyền lực chính trị nhằm thực hiện lợi ích
khách quan của mình, đồng thời, nó cũng được xem như là một giá trị xã hội mang tính
chất nhân văn; nó là thành quả đấu tranh của con người cho sự hoàn thiện của chính bản
thân và cho sự tiến bộ xã hội.
Để quyền lực chính trị trở thành hiện thực, cần có cơ chế thực thi. Cơ chế này
bao gồm những nguyên tắc, phương thức tổ chức biện pháp quản lý và hoạt động của
các tổ chức chính tri - xã hội nhằm bảo đảm trình tự, mối liên hệ và cách thiết lập mối
quan hệ giữa các tổ chức đó trong q trình đưa các giá trị quyền lực chính trị của nhân
dân vào cuộc sống theo quan điểm của chủ thể cầm quyền.
Ở nước ta, hệ thống chính trị tồn tại với tư cách là cơ chế thực thi quyền lực
chính trị của nhân dân. Từ thực tiễn thực thi quyền lực chính trị của nhân dân sau những
năm đổi mới cho thấy: Nhờ đổi mới phương thức tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị mà hiệu quả hiện thực hóa các giá trị quyền lực chính trị của nhân dân ngày
càng được nâng cao. Hiệu quả đó đã trở thành động lực tích cực trong đổi mới kinh tế,
góp phần giữ vững ổn định chính trị- xã hội theo định hướng XHCN. Bên cạnh đó,
những thiếu sót do chậm đổi mới cả hệ thống cũng như từng bộ phận hợp thành hệ thống
chính trị đã và đang tác động tiêu cực đến các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tình trạng

quan liêu, mệnh lệnh trong hệ thống chính trị, sự tha hóa về đạo đức của một bộ phận
cán bộ các cấp chưa được ngăn chặn kịp thời, đang trở thành lực cản việc thực thi quyền
lực chính trị của nhân dân.
Do vậy, đổi mới hệ thống chính trị, từng bước hồn thiện dân chủ đại diện, mở
rộng dân chủ trực tiếp; giáo dục văn hóa pháp luật cho nhân dân; giải quyết tốt mối quan
hệ giữa quyền lực kinh tế với quyền lực chính trị là những giải pháp cơ bản có tính
chỉnh thể nhằm nâng cao hiệu quả thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở
nước ta hiện nay.


18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I.
2. Lê Duẩn và cách mạng Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.



×