Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

thảo luận VCU đề tài đề tài sự tác ĐỘNG của đổi mới hệ THỐNG CHÍNH TRỊ tới QUÁ TRÌNH hợp tác QUỐC tế của VIỆT NAM TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.97 KB, 21 trang )

ĐỀ TÀI: SỰ TÁC ĐỘNG CỦA ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TỚI
QUÁ TRÌNH HỢP TÁC QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
I- TÌM HIỂU CHUNG VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
1. Khái

niệm và kết cấu của hệ thống chính trị

a. Khái

niệm hệ thống chính trị

b. Kết

cấu hệ thống chính trị

2. Đặc

điểm và vai trò của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay

a. Đặc

điểm hệ thống chính trị

b. Vai

trò của hệ thống chính trị ở nước ta



II- SỰ TÁC ĐỘNG CỦA ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TỚI QUÁ TRÌNH
HỢP TÁC QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
1. Đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam
2. Tác động của đổi mới chính trị tới sự phát triển kinh tế
3. Ảnh hưởng chung của đổi mới hệ thống chính trị đến hợp tác quốc tế
4. Cơ hội và thách thức của đổi mới đến hợp tác quốc tế
a. Cơ

hội

b. Thách

thức

III- QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ MỸ - TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC
XUẤT NHẬP KHẨU GIỮA HAI NƯỚC

KẾT LUẬN


LỜI MỞ ĐẦU
Hệ thống chính trị của nước ta ra đời từ Cách mạng tháng Tám năm 1945, sau
khi lật đổ nền thống trị của thực dân, phong kiến, thiết lập Nhà nước Cộng hòa dân chủ
nhân dân đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Hiện nay, nước ta vẫn đang tiếp tục đổi
mới, hoàn thiện hệ thống chính trị bên cạnh đó ngày càng chú trọng đến quá trình hợp
tác quốc tế nhất là trong lĩnh vực kinh tế quốc tế. Sự đổi mới tư duy về hệ thống chính
trị, nhận thức mới về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị đã
cho rằng Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu
trong quá trình hội nhập quốc tế của nước ta.

Về quan hệ hợp tác song phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao
với hơn 170 quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới
trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 Hiệp định thương mại
song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, nhiều Hiệp định hợp
tác về văn hoá song phương với các nước và các tổ chức quốc tế.
Về hợp tác đa phương và khu vực: Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ
chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng phát triển Á Châu, Quỹ tiền tệ thế giới, Ngân
hàng thế giới. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đẩy mạnh và đưa
lên một tầm cao hơn bằng việc tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế
giới, ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế đa phương
Trên lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam chuyển từ chú trọng quan hệ hợp tác với các
nước XHCN sang chú trọng quan hệ hợp tác đa phương, làm bạn với tất cả các nước,
trên quan điểm bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Mỹ, gia nhập các tổ chức khu vực ASEAN,
APEC, WTO...
Như vậy sau khi đổi mới thì nền kinh tế chuyển từ khép kín, đóng cửa, sang mở
cửa, hội nhập với thế giới và song hành là các mối quan hệ hợp tác quốc tế.


I- TÌM HIỂU CHUNG VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
1, Khái niệm và kết cấu của hệ thống chính trị
a, Khái niệm hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị hợp pháp trong xã hội,
bao gồm các đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội được liên kết với
nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội;
củng cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm
quyền.
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và 5 đoàn thể chính trị - xã hội: Đoàn Thanh niên Cộng

sản Hồ Chí Mình, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
b, Kết cấu hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm các
cấu thành quyền lực chính trị sau:
- Đảng Cộng sản Việt Nam
- Nhân dân trong hệ thống chính trị
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Quốc hội
- Chủ tịch nước
- Chính phủ
- Tòa án nhân dân
- Viện kiểm sát nhân
- Các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể nhân dân: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công

đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội
liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam.
2, Đặc điểm và vai trò của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay
a, Đặc điểm hệ thống chính trị
Một là, các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta đều lấy chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động.
Các quan điểm và nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đều
được tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta vận dụng, ghi rõ trong hoạt động của
từng tổ chức.


Hai là, hệ thống chính trị ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đảng là một tổ chức trong hệ thống chính trị nhưng có vai trò lãnh đạo các
tổ chức trong hệ thống chính trị. Trong điều kiện cụ thể ở nước ta, do những phẩm chất
của mình - Đảng là đại biểu cho ý chí và lợi ích thống nhất của các dân tộc; do truyền
thống lịch sử mang lại và do những thành tựu rất to lớn đạt được trong hoạt động thực

tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng... làm cho Đảng ta trở thành
Đảng chính trị duy nhất có khả năng tập hợp quần chúng lao động đông đảo để thực
hiện lý tưởng của Đảng, nhân dân tự nguyện đi theo Đảng, thừa nhận vai trò lãnh đạo
của Đảng trong thực tế. Đây là đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị ở nước ta.
Ba là, hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc
tập trung dân chủ. Nguyên tắc này được tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị ở
nước ta thực hiện.
Việc quán triệt và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là nhân tố cơ bản đảm
bảo cho hệ thống chính trị có được sự thống nhất về tổ chức và hành động nhằm phát
huy sức mạnh đồng bộ của toàn hệ thống cũng như của mỗi tổ chức trong hệ thống
chính trị.
Bốn là, hệ thống chính trị bảo đảm sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công
nhân và tính nhân dân, tính dân tộc rộng rãi (Đây là đặc điểm khác biệt căn bản của hệ
thống chính trị ở nước ta với hệ thống chính trị của các nước tư bản chủ nghĩa, thể hiện
tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự thống nhất lợi ích giữa giai cấp công nhân,
nhân dân lao động cũng như cả dân tộc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh)
b, Vai trò của hệ thống chính trị ở nước ta
Hiện nay ở Việt Nam, giai cấp công nhân và nhân dân lao động đang là chủ thể
chân chính của quyền lực. Vì vậy, hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng là
công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động. Hệ thống chính trị nước ta có
nhiều tổ chức vì vậy mà mỗi tổ chức có vị trí, vai trò khác nhau điều đó là do chức
năng, nhiệm vụ của từng tổ chức quy định, nhưng đều có đặc điểm chung là cùng tác
động vào các quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm đảm bảo quyền lực của nhân
dân.
• Đảng Cộng sản Việt Nam:

- Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu
trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng là
một bộ phận của hệ thống chính trị nhưng lại là hạt nhân lãnh đạo của toàn bộ hệ thống

chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
- Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, những quan điểm, chủ
trương phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức thực hiện
Cương lĩnh, đường lối của Đảng.


- Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các đoàn thể quần
chúng. Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể chế
hoá cụ thể bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch, chương trình cụ
thể. Vì vậy, Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước và bộ máy của Nhà
nước, đồng thời kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các Nghị quyết của Đảng.
- Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội ngũ cán
bộ, đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng việc xác định đường lối,
chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ có đủ tiêu chuẩn vào các cơ quan
lãnh đạo của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng và các tổ chức chính trị - xã hội.
- Ngoài ra, Đảng lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục và nêu
gương, làm công tác vận động quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ...
• Nhà nước:

- Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là công cụ tổ chức thực
hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân
dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mặt khác, Nhà nước chịu sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân, thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện
và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
- Như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy
chính trị, hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân dân.
Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà

nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội do nhân dân
trực tiếp bầu ra, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập ra Hiến pháp và luật pháp
(lập hiến và lập pháp). Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối
ngoại, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt
động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
- Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao với toàn bộ hoạt động của Nhà
nước.
- Với ý nghĩa đó, Quốc hội được gọi là cơ quan lập pháp. Chính phủ là cơ quan
chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
- Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước. Chính phủ là cơ quan
chấp hành, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và phải báo cáo công tác với Quốc hội.
Trên ý nghĩa đó, Chính phủ được gọi là cơ quan hành pháp.


- Cơ quan tư pháp gồm: Toà án, Viện kiểm sát và các cơ quan điều tra. Đây là
những cơ quan được lập ra trong hệ thống tổ chức Nhà nước để xử lý những tổ chức và
cá nhân vi phạm pháp luật, đảm bảo việc thực thi pháp luật một cách nghiêm minh,
chính xác.
- Toà án các cấp là cơ quan nhân danh Nhà nước, thể hiện thái độ và ý chí của
Nhà nước trước các vụ án thông qua hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Toà
án là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng chế tài hình sự, không ai bị coi là có tội và
phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật.
- Để đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, đảm bảo việc xét xử
đúng người đúng tội, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức thành hệ thống, tập trung
thống nhất và độc lập thực hiện thẩm quyền của mình đối với các cơ quan khác của
Nhà nước. Thực hiện các quyền khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra, truy tố...Với ý
nghĩa đó, các tổ chức Toà án, Viện kiểm sát được gọi là cơ quan tư pháp.
- Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo

dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Vì vậy, cần tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa.
• Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội...

- Đây là những tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp được tổ chức để tập hợp rộng
rãi các tầng lớp nhân dân theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản đại diện cho lợi ích của
nhân dân, tham gia vào hệ thống chính trị, tuỳ theo tính chất, tôn chỉ, mục đích của
mình nhằm bảo vệ quyền lợi dân chủ của nhân dân.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng
trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước; phát huy
dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của các hội viên, đoàn viên, giữ gìn kỷ cương
phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng
và Nhà nước.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng; phát huy khả năng tham gia bầu cử
Quốc hội và Hội đồng Nhân dân, tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước, thực hiện giám sát của nhân dân với cán bộ, công
chức và giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.
- Các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân: giữ vững và tăng cường mối liên
hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần thực hiện và thúc đẩy quá
trình dân chủ hoá và đổi mới xã hội, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ.
- Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức theo một hệ thống từ Trung ương
đến cơ sở. Cơ sở phân cấp theo quản lý hành chính gồm có xã, phường, thị trấn. Hệ


thống chính trị ở cơ sở bao gồm: Tổ chức cơ sở Đảng, Hội đồng Nhân dân xã, phường;
Uỷ ban Nhân dân xã, phường; Mặt trận Tổ quốc xã, phường và các tổ chức chính trị-xã
hội khác như: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân,
Hội Cựu chiến binh xã, phường, thị trấn… Tất cả các tổ chức trên đều có vị trí, vai trò

và nhiệm vụ được quy định trong Luật Tổ chức của hệ thống chính trị ở nước ta.
- Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận
động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng
cường đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi
khả năng phát triển kinh tế-xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.
II- SỰ TÁC ĐỘNG CỦA ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TỚI QUÁ
TRÌNH HỢP TÁC QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY.
1, Đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam
Hơn 20 năm qua, chúng ta đã thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng
trong hệ thống chính trị, đặc biệt là quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh
tế, xã hội, chính trị, tư tưởng, văn hoá.
Các kết quả đạt được đã khẳng định đường lối đổi mới nói chung, đường lối đổi
mới hệ thống chính trị nói riêng là đúng đắn sáng tạo, phù hợp thực tiễn, bước đầu đáp
ứng yêu cầu của tình hình mới, khắc phục dần những khuyết, nhược điểm của hệ thống
chuyên chính vô sản trước đây. Kết quả đổi mới hệ thống chính trị đã góp phần làm
nên những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới ở nước ta.
Trong những năm qua, hệ thống chính trị ở nước ta đã có những đổi mới đáng kể như:
- Trình độ và năng lực làm chủ của nhân dân từng bước được nâng lên.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan Nhà nước được phân định rõ hơn, phân
biệt quản lý nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh. Nhà nước được từng bước kiện
toàn, từ cơ cấu tổ chức đến cơ chế hoạt động trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và
tư pháp.
- Đảng đã được củng cố cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức; vai trò lãnh đạo của
Đảng trong xã hội ngày càng tăng; Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện
theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân; Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội từng bước đổi mới nội dung và phương thức
hoạt động, đem lại hiệu quả thiết thực; quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực
kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá, tư tưởng được phát huy...
Song, bên cạnh đó, hệ thống chính trị ở nước ta vẫn còn bộc lộ nhiều nhược

điểm, đó là:
- Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu

quả hoạt động của các đoàn thể chính trị-xã hội chưa nâng lên kịp với đòi hỏi của tình


hình nhiệm vụ mới. Bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể chậm được sắp xếp lại cho đơn
giản và nâng cao chất lượng, còn nhiều biểu hiện quan liêu, vi phạm quyền dân chủ của
nhân dân.
- Công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, thay thế, trẻ hoá, chuẩn bị cán bộ kế cận còn lúng túng,

chậm trễ.
- Năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị chưa tương xứng với

yêu cầu của nhiệm vụ. Một số cán bộ, đảng viên phai nhạt lí tưởng cách mạng, tha hóa
về phẩm chất đạo đức, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở của đảng chưa cao.
- Ngoài ra, hệ thống chính trị ở cơ sở nước ta hiện nay còn nhiều mặt yếu kém, bất cập

trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng.
- Tình trạng tham nhũng, quan liêu, mất đoàn kết nội bộ, vừa vi phạm quyền làm chủ của

dân, vừa không giữ đúng kỷ cương, phép nước xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi
nghiêm trọng. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống chính trị chưa
được xác định rành mạch, tránh nhiệm không rõ; nội dung và phương thức hoạt động
chậm đổi mới, còn nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp.
- Hơn nữa, đội ngũ cán bộ cơ sở ít được đào tạo, bồi dưỡng, chính sách đối với cán bộ ít

được đào tạo,bồi dưỡng, chính sách đối với cán bộ cơ sở còn chắp vá. Và còn rất nhiều
bất cập khác nữa…
2, Tác động của đổi mới chính trị tới sự phát triển kinh tế

Hệ thống chính trị có tác động trực tiếp tới sự phát triển kinh tế của đất nước.
Nếu hệ thống chính trị yếu kém sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế của
nước nhà, gây nên sự suy giảm không thể lường trước được. Vì vậy, ta phải tiếp tục đổi
mới hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị ngày càng hoàn thiện hơn sẽ tác động tích
cực tới sự phát triển kinh tế của đất nước, giúp cho nền kinh tế nước ta đi lên.
Sự tác động của đổi mới hệ thống chính trị và sự phát triển kinh tế của nước ta,
hai vấn đề này có quan hệ mật thiết với nhau. Nó là sự biểu hiện của mối quan hệ giữa
hai lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, đó là kinh tế và chính trị. Ta cần phải nắm
vững mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị để nâng cao trính độ tư duy lí
luận đồng thời, phải sâu sát thực tiễn, biết phân tích cụ thể từng tình hình mà công cuộc
đổi mới phát triển đất nước tạo ra.
Nội dung cơ bản của đổi mới kinh tế ở nước ta là chuyển từ mô hình kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và bên
cạnh đó thì nội dung đổi mới chính trị của nước ta là đổi mới tư duy và lí luận , hoạt
động thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong đó trọng
tâm là đổi mới hệ thống chính trị. Vì vậy, đảng ta đã khởi đầu công cuộc đổi mới bằng
đổi mới toàn diện và chú trọng giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị, chúng ta phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế để đáp ứng đòi
hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng


cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến
hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị.
Ngoài ra, sự tác động của đổi mới hệ thống chính trị tới sự phát triển kinh tế rất
to lớn vì chính trị đụng chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong
xã hội ví dụ như là mối quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam và Mĩ ảnh hưởng như thế nào
tới việc xuất nhập khẩu giữa hai nước mà ta sẽ nói ở phần kế tiếp.
Cũng có thể nói đổi mới hệ thống chính trị là điều kiện để thúc đẩy phát triển
kinh tế xã hội và thực hiện dân chủ.
Đại hội X năm 2006 có nhiệm vụ là tổng kết 20 năm đổi mới. Với sự từng trải

của đội tiền phong dẫn dắt đất nước, dân tộc vượt qua khủng hoảng và nhiều thách thức
lịch sử, Đảng ta khẳng định: “ Đổi mới toàn diện đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình
thức và chách làm phù hợp đổi mới tất cả các mặt xã hội của đời sống xã hộ nhưng
phải có trọng tâm, có trọng điểm đó là lấy phát triển kinh tế. Do hệ thống chính trị có
tác động trực tiếp tới sự phát triển kinh tế nên ta cần phải xây dựng và vận hành nền
kinh tế thị trường cho phù hợp với chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa. Toàn bộ lịch sử
kinh tế thị trường trong suốt hàng trăm năm qua đã chứng minh rằng bản thân nền kinh
tế rất cần sự quản lí và điều tiết của nhà nước, bàn tay vô hình của cơ chế thị trường
hoàn toàn không đủ để vận hành nền kinh tế thị trường mà cần phải có bàn tay hữu
hình của bộ máy nhà nước do từng chế độ chính trị, chế độ xã hội xây dựng nên.
3, Ảnh hưởng chung của đổi mới hệ thống chính trị đến hợp tác quốc tế
Những thành tựu đạt được trong tiến trình gần 30 năm đổi mới (1986 – 2012) đã
khẳng định tính đúng đắn của con đường mà Việt Nam đã lựa chọn. Đó là đi lên
CNXH, kiên trì con đường đổi mới toàn diện, thông qua đổi mới kinh tế để lựa chọn và
từng bước đổi mới các vấn đề chính trị. Bước đi này phù hợp với lý luận về mối quan
hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, về đổi mới chính trị nói riêng, trong thực
tế, nó cũng phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Sự tác động này tác động hai mặt
đến đổi mới chính trị ở nước ta.
Với tư cách là một bộ phận trong hệ thống chính trị quốc tế, các quốc gia tham
gia hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ tuỳ thuộc vào quốc gia mình mà còn phụ thuộc
vào các quốc gia khác. Để tham gia có hiệu quả, bền vững và để bảo vệ lợi ích, chủ
quyền quốc gia phải có sự nhận thức đầy đủ bối cảnh quốc tế, quan hệ quốc tế, đường
lối, chính sách đối ngoại đúng đắn của quốc gia mình và am hiểu chính sách đối ngoại
của quốc gia khác. Cục diện chính trị quốc tế và khu vực đưa đến những thuận lợi quý
giá đồng thời cũng xuất hiện những thách thức lớn đối với các nước trong đó có Việt
Nam.
Ở nước ta, những thành tựu của công cuộc đổi mới đã và đang tạo ra những thế
và lực mới cả bên trong lẫn bên ngoài để chúng ta bước vào một thời kỳ phát triển mới.
Vị thế Việt Nam ngày càng được củng cố và khẳng định trên chính trường quốc tế và
cũng là tiền đề cần thiết cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Quan

hệ đối ngoại của nước ta hiện nay với các nước, các tổ chức quốc tế và vùng lãnh thổ


được mở rộng hơn bao giờ hết. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay xu thế hoà bình, ổn
định, độc lập, hợp tác để phát triển là xu thế chung đó chính là thời cơ lớn.
Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam việc thực hiện
đường lối đối ngoại với phương châm độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá
quan hệ quốc tế trên tinh thần chủ động, sẵn sàng hội nhập, “sẵn sằng là bạn và là đối
tác tin cậy” đã góp phần đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng về kinh tế và sự bao vây,
cấm vận kéo dài trong nhiều thập kỷ. Quá trình hội nhập ngoài việc tăng vị thế Việt
Nam trên trường quốc tế, chúng ta cũng đã thu hút được một số lượng đáng kể vốn đầu
tư nước ngoài và viện trợ phát triển chính thức quốc tế; tiếp thu những thành tựu mới
về khoa học, công nghệ cũng như kinh nghiệm và kỹ năng quản lý. Xây dựng một đội
ngũ công chức, viên chức nhà nước và đội ngũ quản lý kinh doanh từng bước thích ứng
với điều kiện và môi trường mới tạo tiền đề để tham gia một cách tích cực hơn, chủ
động hơn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế những năm tiếp theo. Với những cơ
hội và thành tựu đạt được đó, chúng ta từng bước thực hiện được chủ trương kết hợp
phát huy nội lực với ngoại lực tạo ra sức mạnh tổng hợp đưa đến những thành tựu kinh
tế-xã hội, ổn định và giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Tuy nhiên, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vừa qua chúng ta còn gặp không ít
khó khăn, thách thức. Thách thức lớn nhất đối với chúng ta hiện nay vẫn là 4 nguy cơ
mà Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (01/1994) của Đảng đã chỉ ra.
Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế đã được khẳng định rõ trong nhiều nghị quyết của
Đảng và trên thực tế đã được thực hiện từng bước nhưng nhận thức về nội dung, bước
đi, lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế vẫn còn chưa đạt được sự nhất trí cao và nhất quán
ở một bộ phận cán bộ và nhân dân. Doanh nghiệp nhà nước nói chung còn hạn chế về
hiểu biết thị trường thế giới, thông lệ quốc tế; luật pháp quốc tế; năng lực và kinh
nghiệm quản lý, hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như khả năng cạnh tranh quốc tế
còn yếu kém. Vẫn còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào một vài “phao cứu sinh của Nhà

nước” . Hầu hết các doanh nghiệp chỉ chú trọng vào tính kinh tế của hàng hoá mà ít
được chú trọng vào tính xã hội của hàng hoá như một số nước văn minh, hiện đại ngày
nay. Môi trường kinh doanh ở nước ta tuy đã được cải thiện đáng kể song về nhiều mặt
còn hạn chế như hệ thống pháp luật còn thiếu và chưa đồng bộ chưa đủ rõ ràng và nhất
quán. Kết cấu hạ tầng phát triển chậm, chắp vá, đôi nơi còn nóng vội dẫn đến làm mất
đi những giá trị nguyên sơ mà thiên nhiên ban tặng; bộ máy hành chính còn nhiêu khê,
nhũng nhiễu, quan liêu; tệ tham nhũng có phần tinh vi, phức tạp hơn; những biểu hiện
khoa trương, tự “đánh bóng hình ảnh doanh nghiệp” còn diễn ra đối với một bộ phận
không ít các doanh nghiệp nhà nước mà kỳ thực họ chưa đủ độ “cứng vững” để chịu
đựng sự va đập của thị trường. Bên cạnh đó, tình hình thế giới và khu vực có những
biến đổi phức tạp, thiếu sự ổn định bền vững.
Khủng hoảng kinh tế thế giới bùng phát bắt đầu tại Mỹ năm 2008 được ví như
cơn bão số 1 đã tác động đến nhiều quốc gia và khu vực. Tình hình rối ren ở Tuynidi,
Libi, Ai Cập… được ví như cơn bão số 2 hiện nay nó nằm trong võ xoáy của địa chính


trị tạo cơ hội cho các nhóm khủng bố, thế lực khác nổi dậy bạo động có tác động đến
các nước trong đó có nước ta nhất là về thị trường lao động.
Những khủng hoảng kinh tế ở Hy Lạp, Bắc Ai len không chỉ tác động trực tiếp
đến khu vực châu Âu mà còn lan sang cả châu Á trong đó có Việt Nam. Sự tranh chấp,
đụng độ giữa Thái Lan và Campuchia phần nào đã ảnh hưởng đến sự ổn định, hợp tác
giữa các nước thành viên trong khu vực.
Trong bối cảnh hiện nay, hợp tác quốc tế với tư cách là một xu thế khách quan
“lôi cuốn các nước, bao trùm lên hầu hết các lĩnh vực” mở ra nhiều thời cơ mới, vận
hội mới cho Việt Nam nhưng mặt khác, cũng đặt Việt Nam trước rất nhiều khó khăn,
thách thức. Tiếp tục “đổi mới để thích ứng” vẫn là sự lựa chọn kịp thời và đúng đắn.
Tiến trình này đòi hỏi sự lãnh đạo trí tuệ, vững vàng, bản lĩnh của Đảng Cộng sản, của
Nhà nước và trách nhiệm trước toàn dân tộc Việt Nam.
4. Cơ hội và thách thức của đổi mới đến hợp tác quốc tế
Ngay từ khi bắt đầu đổi mới, Đảng chú trọng đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ chế

quản lý, hệ thống chính sách kinh tế kết hợp với đổi mới chính trị. Tại Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 6 Khóa VI (3.1989), Đảng chính thức sử dụng khái niệm hệ thống
chính trị. Kết hợp chặt chẽ đổi mới kinh tế với đổi mới hệ thống chính trị. Có được sự
ổn định chính trị mới có điều kiện phát triển kinh tế-xã hội và phát triển đất nước bền
vững. Hệ thống chính trị vững mạnh có vai trò quyết định đối với sự ổn định chính trị,
phát triển đất nước về mọi mặt.
Thật vậy chính nhờ sự đổi mới đúng đắn đảng ta gặt hái được thành công trong
công cuộc đổi mới, đưa Việt Nam thành một đất nước có chính trị ổn định. Điều này đã
thu hút được rất nhiều sự hợp tác từ nước bạn trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế.
Đảng ta nhấn mạnh trước hết và chủ yếu là đổi mới kinh tế, trên cơ sở đó, cải
thiện và nâng cao chất lượng đời sống người dân, tạo lập ổn định tích cực mà tiến hành
đổi mới hệ thống chính trị từng bước vững chắc, thận trọng. Từ đó, Việt Nam, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã chuyển từ việc phát triển nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và sang phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, phù hợp xu thế phát triển của kinh tế thế giới; đồng thời
đem lại diện mạo mới cho nền kinh tế đất nước, củng cố lòng tin của nhân dân vào chế
độ, nâng cao năng lực cạnh tranh của đất nước trên trường quốc tế. Trên thực tế, rất
nhiều luật đã được ban hành như Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Doanh nghiệp, Bộ
Luật lao động, Luật Hàng không, Luật Hàng hải… được ban hành, tạo môi trường
pháp lý ngày càng đồng bộ, hoàn thiện hơn cho nền kinh tế thị trường hoạt động, phát
triển và hội nhập quốc tế; cho sự ổn định, phát triển, cạnh tranh bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế. Việt Nam mở rộng quan hệ thương mại, xuất nhập khẩu hàng hóa,
dịch vụ, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tới ký kết các hiệp định kinh tế song
phương với các nước; tham gia và trở thành thành viên của các tổ chức kinh tế thế giới
và khu vực như Ngân hàng thế giới WB, Qũy Tiền tệ quốc tế IMF, Ngân hàng phát
triển châu Á ADB; tham gia các liên kết khu vực ASEAN, APEC, ASEM và trở thành
thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO…


Việc hội tác kinh tế quốc tế này đưa đến cho Việt Nam rất nhiều cơ hội và cũng

phải đối mặt không ít khó khăn:
a, Cơ hội

• Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu của Việt
Nam.
Khi Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ mở rộng quan hệ bạn
hàng, cùng với việc được hưởng ưu đãi về thuế quan, xóa bỏ hàng rào phi thuế quan và
các chế độ đãi ngộ khác tạo điều kiện cho hàng hóa của Việt Nam thâm nhập thị trường
thế giới. Ví dụ như sự đối xử tối huệ quốc (MFN) không điều kiện, thuế quan thấp cho
hàng xuất khẩu của Việt Nam, thúc đẩy việc thâm nhập thị trường cho hàng hoá xuất
khẩu của Việt Nam, cải thiện cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại với các nước, sự
đối xử theo hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập và củng cố cải cách kinh tế Việt Nam.
Đặc biệt, các Hiệp định của Vòng đàm phán Uruguay đã đem lại cho Việt Nam các lợi
ích như: Đẩy mạnh thương mại và quan hệ của Việt Nam với các thành viên khác trong
WTO và đảm bảo nâng cao vai trò quan trọng của Việt Nam trong các hoạt động kinh
tế và chính trị toàn cầu như là một thành viên của WTO.
Bên cạnh việc mở rộng xuất khẩu hàng hóa trong nước, Việt Nam còn tận dụng
được cơ hội từ nhập khẩu như lựa chọn nhập các loại hàng hóa có kỹ thuật cao, công
nghệ tiên tiến để nhanh chóng phát triển các ngành có công nghệ cao, ngành mũi nhọn,
nhanh chóng đuổi kịp các nước phát triển trên thế giới.
• Góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài, viện trợ phát triển chính thức, giải
quyết vấn đề nợ quốc tế, kinh nghiệm quản lý và công nghệ mới… của nước ngoài.
Trong những năm qua, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực sự đã
trở thành một trong những động lực tăng trưởng sản xuất công nghiệp Việt Nam. Đầu
tư nước ngoài đã tác động mạnh mẽ tới tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam. Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt
Nam, chiếm gần 30% vốn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, 20% xuất
khẩu và giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài đã góp phần chủ yếu vào việc chuyển giao công nghệ, đầu tư
nghiên cứu và phát triển ở Việt Nam trong những năm qua. Sự xuất hiện của doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng có tác động tích cực như: tăng mức độ cạnh
tranh trên thị trường, giúp các doanh nghiệp và các nhà quản lý doanh nghiệp trong
nước học hỏi thêm về cách thức quản lý sản xuất, tiếp thị, tiếp thu công nghệ, kiểu
dáng sản phẩm, phục vụ khách hàng…
b, Thách thức

• Năng lực cạnh tranh yếu kém của các doanh nghiệp, các ngành hàng hóa và
dịch vụ. Nền kinh tế nước ta ở trình độ phát triển thấp, đang trong quá trình chuyển
đổi; kinh tế thị trường mới còn đang ở giai đoạn phát triển sơ khai, các yếu tố cơ bản,
đồng bộ của thị trường chưa phát triển đầy đủ... dẫn đến khả năng kinh doanh và sức
cạnh tranh của các chủng loại hàng hóa dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam còn


hạn chế. Thị trường tiêu thụ hàng hóa của ta trên thế giới rất hạn hẹp, dễ bị thôn tính.
Trong bối cảnh thế giới tự do buôn bán, tự do đầu tư, Việt Nam ở vào thế yếu, rất dễ
trở thành nơi tiêu thụ hàng hóa của nước ngoài. Muốn có thị trường toàn cầu thì Việt
Nam phải mở cửa thị trường nội địa cho các nước. Đây là thách thức lớn đối với các
doanh nghiệp Việt Nam, bởi các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn là vừa và nhỏ, năng
lực cạnh tranh kém
• Các vấn đề liên quan đến chính sách ổn định vĩ mô và hoàn thiện khuôn khổ luật pháp.
• Hội nhập kinh tế quốc tế với sự chuyển dịch tự do qua biên giới các yếu tố của quá trình

tái sản xuất hàng hóa và dịch vụ tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về
mặt xã hội.
• Cán bộ quản lý kinh tế của ta còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành nền kinh tế mở,
có sự tham gia của yếu tố nước ngoài.
III- QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ MỸ - TÁC ĐỘNG
ĐẾN VIỆC XUẤT NHẬP KHẨU GIỮA HAI NƯỚC.
Trong khi thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và rộng mở với phương
châm “sẵn sàng là bạn và đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng động quốc tế,

phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, thêm bạn bớt thù, chúng ta đã nỗ lực bình
thường hoá quan hệ với Mỹ. Với việc đó, chúng ta đã khẳng định và tăng cường rõ rệt
vị thế của đất nước Việt Nam. Từ chỗ bị bao vây cấm vận, quan hệ kinh tế thương mại
bị hạn chế, ngày nay cùng một lúc nước ta đã có quan hệ bình thường và ngày càng
phát triển với tất cả các nước lớn và trung tâm thế giới, và với đại đa số các nước khác.
Việt Nam trở thành thành viên bình đẳng, tham gia tích cực vào các quan hệ quôc tế,
có vai trò không nhỏ trong việc giải quyết các vấn đề quan trọng của khu vực và thế
giới, là đối tác và bạn hàng lớn của rất nhiều nước, kể cả với Mỹ. Đây là cục diện chưa
từng có.
Việc xác lập quan hệ bình thường với Mỹ, một trung tâm lớn về kinh tế, có trình
độ khoa học - công nghệ và kỹ thuật tiên tiến,là tạo điều kiện cho doanh nghiệp của ta
có cơ hội tìm kiếm thêm thị trường mới cho xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam, cũng
như thị trường cho nhập khẩu thiết bị máy móc công nghệ cao cần thiết cho phát triển
kinh tế đất nước. Mỹ cũng là trung tâm về giáo dục và đào tạo của thế giới. với nhiều
nguồn lực mà chúng ta có thể hợp tác cùng có lợi.
Đôi nét về quan hệ thương mại hàng hóa Việt Nam - Hoa Kỳ trong năm 2013,
đàu năm 2014:
- Hoa Kỳ - nền kinh tế lớn nhất toàn cầu - được ghi nhận là đối tác thương mại lớn thứ hai

của Việt Nam trên toàn thế giới, chỉ đứng sau Trung Quốc và là đối tác thương mại lớn
nhất của Việt Nam trong khu vực châu Mỹ trong năm 2013.
Số liệu Thống kê Hải quan cho thấy, trong năm 2013, tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu hàng hóa của Việt Nam và Hoa Kỳ đạt 29,1 tỷ USD, tăng 18,8% so với năm
2012 và gấp 4,3 lần so với con số 6,77 tỷ USD được ghi nhận vào năm 2005. Trong
đó, xuất khẩu đạt gần 23,9 tỷ USD, cao hơn 21,4 điểm phần trăm so với năm 2012 và


nhập khẩu đạt 5,23 tỷ USD, tăng 8,4% so với kết quả hoạt động của một năm trước
đó.
- Cán cân thương mại hàng hóa của Việt Nam trong trao đổi thương mại với Hoa Kỳ luôn


duy trì mức thặng dư lớn.
Cán cân thương mại hàng hóa của Việt Nam trong trao đổi thương mại với
Hoa Kỳ luôn duy trì mức thặng dư lớn trong những năm gần đây. Cụ thể trong năm
2010, mức thặng dư hàng hóa của Việt Nam trong buôn bán trao đổi thương mại với
Hoa Kỳ đã vượt qua con số 10 tỷ USD, tăng 26,5% so với năm 2009. Đến năm 2013,
xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ cao gấp 4,5 lần so với nhập khẩu dẫn đến mức
xuất siêu của Việt Nam sang thị trường này đạt con số kỷ lục 18,6 tỷ USD.
Biều đồ 1: Kim ngạch xuất nhập khẩu và cán cân thương mại Việt Nam –
Hoa Kỳ giai đoạn 2010 - 2013

Nguồn: Tổng cục Hải quan


Số liệu thống kê của Hải quan Việt Nam cho thấy từ năm 2007 đến nay Hoa Kỳ
là thị trường tiêu thụ hàng hoá lớn nhất của Việt Nam và là thị trường cung cấp hàng
hóa lớn thứ 7 sang thị trường Việt Nam trong các năm gần đây. Tuy nhiên, theo Cơ sở
dữ liệu thương mại của Liên Hợp Quốc (UN Comtrade) và số liệu được công bố vào
giữa tháng 9 năm 2013 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), trị giá buôn bán hàng
hóa hai chiều giữa Việt Nam với thị trường này chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu của Hoa Kỳ (chỉ 1%). Đối với Hoa Kỳ, Việt Nam là đối tác
xếp thứ 23 về xuất khẩu hàng hóa sang Hoa Kỳ và xếp thứ 40 về nhập khẩu hàng hóa
có xuất xứ thị trường này.
Bảng 1: Tỷ trọng và thứ hạng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
giữa Việt Nam- Hoa Kỳ giai đoạn 2007-2013
Xuất khẩu
Năm

Thị phần (%)


Nhập khẩu
Thứ hạng

Thị phần (%)

Thứ hạng

2007

33,3

1

12,6

9

2008

32,6

1

13,5

7

2009

19,9


1

4,3

7

2010

19,7

1

4,4

7

2011

17,5

1

4,3

7

2012

17,2


1

4,3

7

2013

18,1

1

4,0

7

Nguồn: Tổng cục Hải quan
(Ghi chú: Thị phần xuất khẩu, nhập khẩu là tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu,
nhập khẩu giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong tổng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu của
Việt Nam với tất cả các nước/thị trường trên thế giới.
Thứ hạng xuất khẩu, nhập khẩu là thứ hạng xuất khẩu, nhập khẩu giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ so với tất cả các thị trường/nước mà Việt Nam xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hoá)


Bảng 2: Một số chỉ tiêu thống kê chính của Hoa Kỳ trong năm 2012

Nguồn:WTO
Trong nhiều năm qua, hàng dệt may vẫn là ngành hàng dẫn đầu về xuất khẩu

của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ với trị giá xuất khẩu trong năm 2013 là 8,6 tỷ
USD, chiếm đến 36% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này và
chiếm gần 48% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả nước. Đáng chú ý
hơn, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng điện thoại các loại và linh kiện của Việt Nam


sang Hoa Kỳ trong năm qua tăng trưởng khá mạnh mẽ, cao gấp 5 lần so với năm
2012. Ngoài ra, các mặt hàng như gỗ và sản phẩm của gỗ, hàng thủy sản, giày dép
các loại cũng là những mặt hàng chủ lực, đóng góp tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ.
Bảng 3: 10 mặt hàng chủ yếu Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ
trong năm 2013 và 2012
Đơn vị: Triệu USD

Tăng/giảm so
với năm
trước (%)

STT Tên hàng

Năm
2012

Năm

11

Sản phẩm dệt may

7.457


8.612

15,5

22

Giày dép các loại

2.243

2.631

17,3

33

Gỗ và sản phẩm từ gỗ

1.766

1.982

12,2

44

Máy vi tính, sản phẩm điện
tử & linh kiện


935

1.474

57,6

55

Hàng thủy sản

1.166

1.463

25,5

66

Máy móc, thiết bị, dụng cụ &
943
phụ tùng

1,010

7,1

77

Túi xách, ví, vali mũ và ô dù


624

836

34

88

Điện thoại các loại và linh
kiện

140

753

439,2

99

Hạt điều

407

539

32,6

110

Dầu thô


362

506

39,9

Nguồn: Tổng cục Hải quan

2013


Đối với nhập khẩu, các mặt hàng chính Hoa Kỳ xuất khẩu sang Việt Nam trong
năm 2013 bao gồm máy móc thiết bị & dụng cụ phụ tùng; máy vi tính, sản phẩm điện
tử và linh kiện; bông các loại, chất dẻo nguyên liệu, thức ăn gia súc & nguyên liệu;
đậu tương...

Nguồn: Tổng cục Hải quan

Theo ước tính sơ bộ của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch hàng hóa xuất
nhập khẩu Việt Nam-Hoa Kỳ trong 2 tháng đầu năm 2014 ước đạt 4,9 tỷ USD, tăng
mạnh 25,8% so với kết quả thực hiện của cùng kỳ năm 2013. Trong đó, xuất khẩu hàng
hóa của Việt Nam sang Hoa Kỳ dự kiến đạt 3,9 tỷ USD, tăng 26,5% và các doanh
nghiệp Việt Nam nhập khẩu hàng hóa có xuất xứ từ Hoa Kỳ đạt 936 triệu USD, tăng
22,4% so với kết quả hoạt động của 2 tháng đầu năm 2013.


KẾT LUẬN
Trải qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới trong quan hệ hợp tác quốc tế
và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đến nay, Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn,

hết sức quan trọng. Thực hiện đường lối đổi mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và ngày càng đặc biệt chú trọng đến quá trình hợp tác
quốc tế.
Việt Nam đã phá được bao vây, cấm vận và không ngừng mở rộng quan hệ quốc
tế theo hướng đa dạng hoá và đa phương hoá; bình thường hoá và từng bước xác lập
khuôn khổ quan hệ ổn định lâu dài với tất cả các nước lớn, các nước công nghiệp phát
triển. Cho đến nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 180 nước, trong đó có tất cả
các nước lớn, có quan hệ kinh tế với hơn 220 thị trường nước ngoài và là thành viên
của nhiều tổ chúc và diễn đàn quốc tế. Hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành
viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Về phát triển kinh tế: Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng
trưởng nhanh. Cơ cấu kinh tế: chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, gắn sản xuất với thị trường.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, NXB
Chính trị quốc gia
Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 2012, Hệ thống chính trị và phương
thức lãnh đạo của đảng đối với hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay,
topic=168&subtopic=464&leader_topic=982&id=BT1471232696>
Bộ
Ngoại
giao
Việt
Nam,

2014
Hệ
thống
< />
chính

trị,

Hải quan Việt Nam, 2014, Đôi nét về quan hệ thương mại hàng hóa Việt Nam –
Hoa Kỳ trong năm 2013 cập nhật 2 tháng đầu năm 2014,
< />ID=20770&Category=Thống%20kê%20Hải%20quan>



×