Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

LICH SU VIET NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.48 KB, 19 trang )

Chương 2
Việt Nam từ 1858 đến 1945
2.1. Việt Nam từ 1858 đến cuối thế kỉ XIX
2.1.1. Việt Nam trước nguy cơ bị Pháp xâm lược
- Cho tới giữa thế kỉ XIX, Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền và đạt được
những thành tựu nhất định về kinh tế, văn hóa, song chế độ phong kiến cũng đã bộc lộ
những dấu hiệu của sự khủng hoảng: kinh tế nông nghiệp và công thương nghiệp sa sút,
nhiều chủ trương của nhà nước, đặc biệt là chính sách đối ngoại sai lầm, bế quan tỏa
cảng, cấm đạo và bài xích đạo Thiên chúa. Đời sống của nhân dân cực khổ, các cuộc khởi
nghĩa nông dân nổ ra liên tục. Khả năng phòng thủ của đất nước giảm sút, quốc phòng
yếu kém.
+ Trong khi đó, từ giữa thế kỉ XVI, các nước tư bản phương Tây ráo riết chạy đua sang
phương Đông, đến giữa thế kỉ XIX, một loạt nước châu Á đã bị biến thành thuộc địa.
Trong cuộc chạy đua với phương Tây, nhất là khi thất thế tại Canađa, Ấn Độ, Pháp muốn
có thuộc địa ở Viễn Đơng, trước hết là Việt Nam.
+ Từ giữa thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX, đã có nhiều thương nhân và giáo sĩ người
Pháp đến Việt Nam, một số sau này trở thành lực lượng đi tiên phong trong cuộc chiến
tranh xâm lược. Giữa thế kỉ XIX, mâu thuẫn Pháp – Anh tạm lắng để liên minh xâu xé
Trung Quốc, từ năm 1856, chính phủ Pháp quyết định đem quân đánh chiếm Việt Nam.
Cuộc xâm lược được dọn đường bằng một loạt các hành động khiêu khích của Pháp:
cho tàu chiến đến Đà Nẵng, đưa quốc thư, nổ súng bắn phá các đồn lũy của ta trên bờ (91856); cho tàu tới xin truyền đạo (1-1857)… cuối cùng Napôlêông III quyết định đưa
quân tới Việt Nam, Pháp còn kêu gọi Tây Ban Nha phối hợp hành động. Chiều 31-8-1858
liên quân Pháp - Tây Ban Nha kéo tới cửa biển Đà Nẵng, chuẩn bị nổ súng xâm lược Việt
Nam.
2.1.2. Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (1858 – 1884)
- Trên mặt trận Đà Nẵng:
+ Sáng 1-9-1858, Pháp đưa thư buộc qn triều đình phải nộp thành, nhưng khơng đợi trả
lời, Pháp nổ súng tấn công và cho quân đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà. Quân triều đình chiến
đấu dũng cảm tại Cẩm Lệ nhưng không cản được địch. Hành động ăn cướp của Pháp đã
làm dấy lên phong trào đấu tranh bảo vệ Tổ quốc mạnh mẽ trong nhân dân.
+ Triều đình cử Nguyễn Tri Phương làm tổng chỉ huy mặt trận Quảng Nam, ông huy


động nhân dân đắp lũy không cho Pháp tiến sâu vào nội địa, nhân dân làm “vườn không
nhà trống”, gây cho Pháp nhiều khó khăn. Suốt 5 tháng liền, Pháp bị giam chân tại chỗ,
lực lượng hao mòn do thiếu lương thực, thuốc men, thời tiết.
+ Từ Nam Định, đốc học Phạm Văn Nghị dẫn 300 quân chi viện cho Đà Nẵng, đội nghĩa
binh của Phạm Gia Vĩnh đã phối hợp chiến đấu với quân triều đình.
- Chiến sự ở Gia Định và các tỉnh Nam Kì từ 1859 đến 1862:
+ Do bị sa lầy tại Đà Nẵng, tháng 2-1859 Pháp đưa phần lớn quân vào Gia Định mở mặt
trận mới. Chúng tập trung tại Vũng Tàu rồi theo sông Cần Giờ ngược lên Sài Gòn, quân
ta chống trả mạnh mẽ nên phải mất một tuần Pháp mới tới Gia Định.
+ Sáng 17-2, Pháp đánh thành Gia Đình và đến trưa chiếm được thành. Tuy nhiên sau đó
Pháp vấp phải những khó khăn mới, các đội nghĩa quân ngày đêm bám sát, bao vây, tiêu
diệt địch, hoảng sợ Pháp phá thành Gia Định và rút xuống tàu chiến.


+ Lúc này do Pháp bị sa lầy ở chiến trường Italia và Trung Quốc nên một phần quân ở
Gia Định và Đà Nẵng phải tiếp viện, chính vì vậy số quân Pháp còn lại ở Việt Nam chỉ
khoảng 1000. Tháng 3-1860, Nguyễn Tri Phương được điều vào mặt trận Gia Định, ơng
huy động qn xây dựng Đại đồn Chí Hịa với mục đích ngăn chặn Pháp đánh rộng ra.
+ Sau khi tình hình chiến sự ở Trung Quốc tạm ổn, tháng 2-1861, Pháp tấn cơng Đại đồn
Chí Hịa, qn ta chống cự quyết liệt nhưng cuối cùng Đại đồn Chí Hịa rơi vào tay Pháp,
Nguyễn Tri Phương bị thương, thừa thắng Pháp chiếm các tỉnh Định Tường, Vĩnh Long,
Biên Hịa (miền Đơng) và một tỉnh miền Tây là Mĩ Tho.
+ Nhân dân Nam Kì đã đứng lên chống Pháp. Các toán nghĩa quân của Trương Định,
Nguyễn Trung Trực đánh đắm tàu Hi vọng của Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông.
+ Giữa lúc phong trào kháng chiến của nhân dân lên cao thì triều đình kí với Pháp Hiệp
ước Nhâm Tuất (5-6-1862) gồm 12 điều khoản, trong đó có những khoản chính như:
nhượng hẳn cho Pháp 3 tỉnh miền Đơng và đảo Côn Lôn, bồi thường 280 lạng bạc, mở
cửa biển Đà Nẵng, Ba Lạt (ở giữa địa phận thái Bình và Nam Định) cho thương nhân
Pháp và Tây Ban Nha buôn bán.
- Cuộc kháng chiến sau hiệp ước 1862:

+ Hiệp ước cắt đất cầu hịa của triều đình đã gây bất bình trong nhân dân và sĩ phu, họ
bày tỏ thái độ của mình bằng nhiều cách như: Nguyễn Đình Chiểu làm thơ cổ vũ tinh
thần u nước, cịn Trương Định tiếp tục kháng chiến, ông kháng lệnh của triều đình,
giương cao cờ “Bình tây Đại ngun sối”, lấy căn cứ Tân Hịa (Gị Cơng) làm đại bản
doanh chống Pháp. Khi bị thương ông đã rút gươm tự sát không chịu rơi vào tay giặc (81864). Con trai của ông là Trương Quyền tiếp tục lên Tây Ninh tiếp tục sự nghiệp của
cha.
- Kháng chiến ở ba tỉnh miền Tây:
Lấy cớ triều đình ủng hộ nhân dân kháng chiến, chỉ trong vòng 5 ngày từ 20 đến 24-61867 quân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây không tốn một viên đạn. Tuy nhiên nhân dân
miền Tây vẫn anh dũng đứng lên chống Pháp, tiêu biểu có 2 con của Phan Thanh Giản là
Phan Tôn, Pham Liêm. Nghĩa quân của Nguyễn Trung Trực đã chiến đấu với tinh thần:
“Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam…” Các cuộc chiến đấu lớn kéo dài đến năm
1875 mới bị dập tắt.
- Kháng chiến ở Bắc kì lần thứ nhất (1873-1874)
+ Sau khi chiếm 6 tỉnh ở Nam Kì, Pháp chuẩn bị kế hoạch tấn cơng Bắc Kì, một mặt
chúng củng cố bộ máy cai trị, mặt khác thực hiện “lấy chiến tranh ni chiến tranh”.
Trong khi đó triều đình Huế vẫn thi hành những chính sách thiển cận (bồi thường chiến
phí, khước từ đề nghị cải cách, bỏ bê sản xuất), đời sống của dân sa sút, một loạt các cuộc
khởi nghĩa nông dân nổ ra, tệ hại hơn triều Nguyễn vẫn muốn thương lượng với Pháp.
+ Để thực hiện âm mưu xâm lược, Pháp tung gián điệp đội lốt giáo sĩ ra do thám tình
hình miền Bắc, tích cực gây cơ sở nội ứng trong một bộ phận dân chúng. Tháng 11-1872,
Đuypy tự tiện cho tàu ngược sông Hồng lên Vân Nam bn bán khi chưa được phép của
triều đình, y cịn có nhiều hành động ngang ngược như bắt người xuống tàu giam giữ trái
phép, cướp phá tài sản của nhân dân...
+ Trái với lẽ thơng thường, triều đình Nguyễn khơng những khơng có biện pháp cứng rắn
mà vua Tự Đức cịn ra lệnh cho Nguyễn Tri Phương khơng được làm “mất lòng” người
Pháp. Tệ hại hơn, nhà Nguyễn còn yêu cầu phía Pháp cho người ra Bắc giải quyết vụ
Đuypuy. Chớp thời cơ, thực dân Pháp điều đại úy Gácniê tức tốc đem quân ra Bắc. Tháng
11-1873 ra đến Hà Nội, y hội quân với Đuypuy và chuẩn bị kế hoạch tấn công ta.



+ Mờ sáng ngày 20-11-1873, 200 quân Pháp đánh thành Hà Nội, thành mất, Nguyễn Tri
Phương bị trọng thương và sa vào tay giặc, ông nhịn ăn, nhịn uống cho đến chết. Ngay
sau đó Pháp đánh chiếm nhiều nơi, chỉ trong vòng ba tuần lễ, các tỉnh thành ở đồng bằng
Bắc Bộ lần lượt rơi vào tay Pháp.
+ Không chịu khuất phục, nhân dân các tỉnh bị Pháp chiếm đóng đã tự đứng lên tổ chức
đánh Pháp. Ngày 21-12-1873 Pháp định tiến ra vùng Hồi Đức, đến Cầu Giấy thì bị ta
phục kích, chỉ huy quân Pháp là Gácniê bị giết tại trận. Thất bại ở Cầu Giấy làm cho quân
Pháp hoang mang lo sợ, nhưng triều đình Huế lại bỏ lỡ cơ hội, ra lệnh rút quân lên Sơn
Tây, và tiếp tục ký kết hiệp ước ngày 15-3-1874 mang tên “Hiệp ước hịa bình và liên
minh”. Theo Hiệp ước này, Pháp rút quân khỏi Hà Nội và các tỉnh Bắc Bộ, nhưng triều
đình Huế thừa nhận chủ quyền của Pháp ở 6 tỉnh, mở các cảng Thị Nại (Quy Nhơn),
Ninh Hải (Hải Phịng), Hà Nội và sơng Hồng cho Pháp được tự do bn bán, triều đình
Huế khơng được ký hiệp ước thương mại với nước khác trái với quyền lợi của Pháp mà
khơng cho Pháp biết trước.
- Tình hình nước ta sau Hiệp ước 1874 (Hiệp ước Giáp Tuất)
+ Pháp rút quân nhưng không từ bỏ âm mưu thơn tính miền Bắc. Triều đình nhà Nguyễn
vấp phải sự phản ứng quyết liệt của nhân dân và một bộ phận quan lại phong kiến. Nhiều
cuộc khởi nghĩa nổ ra, trong khi đó ở ngồi Bắc bọn thổ phỉ, hải phỉ ra sức hồnh hành ở
vùng biên giới. Triều đình Nguyễn phải cầu cứu nhà Thanh và Pháp giúp đỡ. Đất nước
rơi vào cảnh rối ren cực độ.
+ Trong vòng 10 năm kể từ khi Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ nhất, nhiều sĩ phu có
tâm huyết đề nghị duy tân, cải cách đất nước nhưng đều bị cự tuyệt. Kết quả là tình hình
đất nước ngày càng suy yếu, đời sống nhân dân cơ cực, trong khi đó các nước đế quốc
đang tiến nhanh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa… tình hình đó thơi thúc Pháp ra tay
hành động để chiếm lấy nước ta.
- Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai (1882- 1883) và cuộc kháng chiến của nhân dân
Bắc Kì, Trung Kì
+ Những năm 70 của thế kỉ XIX, u cầu thị trường khơng cịn là mưu đồ của một nhóm
hiếu chiến mà trở thành chủ trương chung của giới tư bản tài phiệt đang nắm quyền tại
Pháp. Bắc Kì dân đơng, tài ngun phong phú là miếng mồi ngon không thể bỏ qua.

+ Để can thiệp vũ trang, Pháp lấy cớ triều đình Huế không thi hành đúng các điều khoản
Hiệp ước 1874, vẫn tiếp tục giao thiệp với Trung Quốc, ngăn người Pháp không cho đi
lại buôn bán, cấm và giết đạo... ngày 3-4-1882, Rivie đưa 500 quân Pháp tiến ra Hà Nội.
Sáng 25-4-1882, Rivie gửi tối hậu thư cho Tổng đốc Hoàng Diệu buộc phải nộp thành
cho chúng, hạn chưa hết, Pháp nổ súng chiếm thành. Hoàng Diệu viết tờ di biểu bằng
máu gửi triều đình, sau đó tuẫn tiết trong vườn Võ Miếu (dưới chân Cột Cờ Hà Nội).
+ Trước hành động ăn cướp trắng trợn của Pháp, triều đình Huế hoang mang, khiếp sợ,
Tự Đức cầu cứu nhà Thanh. Chớp cơ hội này, nhà Thanh đưa quân sang nước ta nhưng
không chống Pháp mà thương lượng với Pháp nhằm chia xẻ quyền lợi ở Bắc Kỳ. Tự Đức
tiếp tục lệnh cho qn đội chính quy ngồi Bắc rút lên mạn ngược, giải tán các đội vũ
trang địa phương. Vì vậy tháng 3-1883, Pháp cho quân đánh chiếm vùng mỏ Hồng Gai
và Quảng Yên, sau đó đánh chiếm Nam Định. Như vậy, đây là lần thứ hai phần lớn các
tỉnh miền Bắc rơi vào tay Pháp. Bất chấp thái độ của triều đình Nguyễn, trong khi Pháp
mở rộng phạm vi chiếm đóng chúng bị nhân dân ta chặn đánh quyết liệt buộc Rivie phải
về chốt giữ thành Hà Nội. Ngay tại Hà Nội, Pháp cũng bị nghĩa quân áp sát uy hiếp.


+ Sáng 19-5-1883, quân Pháp tiến lên Sơn Tây, đến Cầu Giấy chúng rơi vào trận địa
phục kích của ta, nhiều sĩ quan và binh sĩ Pháp bị giết và bị thương, Rivie chết tại trận, số
còn lại chạy thục mạng về thành. Quân Pháp hoang mang dao động, đô đốc mới thay
Rivie định bỏ Hà Nội, Nam Định về cố thủ tại Hải Phòng. Trận thắng thứ hai ở Cầu Giấy
làm nức lòng nhân dân cả nước, nhưng triều đình Huế vẫn ni ảo tưởng điều đình để lấy
lại Hà Nội.
- Pháp tấn công Thuận An. Hiệp ước Hácmăng (1883) và Hiệp ước Patơnốt (1884)
+ Ngày 17-7-1883, vua Tự Đức qua đời, triều đình nhà Nguyễn rơi vào tình trạng chia rẽ
lục đục. Bọn Pháp thừa thời cơ đánh thẳng vào cửa biển Thuận An.
+ Ngày 18-8-1883, hạm đội Pháp nổ súng tấn công Thuận An, ngày 20-8 Thuận An rơi
vào tay Pháp, triều đình Huế hốt hoảng cử người xin đình chiến. Cao ủy Pháp Hácmăng
đưa ra một bản điều ước thảo sẵn buộc triều đình Huế phải chấp nhận ký kết với các điều
khoản chính như:

+ Thừa nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Bắc và Trung Kỳ, khu vực của triều đình Huế thu
hẹp từ Khánh Hịa đến Đèo Ngang. Đại diện của chính phủ Pháp (Khâm sứ Pháp) tại Huế
có quyền gặp vua bất cứ lúc nào.
+ Cơng sứ Pháp ở các tỉnh ngồi Bắc Kỳ thường xun kiểm sốt cơng việc của triều
đình, trực tiếp nắm việc trị an và thuế vụ. Mọi việc giao thiệp với nước ngồi đều do
Pháp nắm. Triều đình Huế phải gọi toàn bộ số quân đã gửi ra Bắc Kỳ về.
- Hiệp ước Hacmăng đã vấp phải sự phản ứng quyết liệt trong dân chúng. Bất chấp việc
bãi binh của triều đình, nhiều quan lại khơng chịu về kinh đô, kiên quyết chiêu mộ nghĩa
quân đánh giặc như Tạ Hiền, Nguyễn Thiện Thuật… hành động này đã có ảnh hưởng đến
phái chủ chiến trong triều.
+ Phía Pháp cũng thấy rằng không thể chấm dứt chiến sự bằng Hiệp ước Hácmăng, từ
tháng 12-1883, khi có thêm viện binh, thực dân Pháp tổ chức nhiều cuộc hành quân ở
miền Bắc, đi đến đâu, quân Thanh rút đến đó. Chỉ có quân của Lưu Vĩnh Phúc ở miền
Bắc lúc này là trở ngại lớn nhất với quân Pháp.
+ Từ đầu 1884, tình hình chiến sự ngồi Bắc diễn ra ác liệt, trong khi đó quân Thanh cam
kết rút khỏi miền Bắc. Trên đà thắng thế, ngày 6-6-1884, chính phủ Pháp đã buộc triều
đình Huế kí Hiệp ước Patơnốt gồm 19 điều khoản. Điều ước này giống như điều ước
1883, nhưng trả lại cho triều Nguyễn các tỉnh Bình Thuận và Thanh Hóa, Nghệ An, Hà
Tĩnh hịng xoa dịu tinh thần đấu tranh, sự căm phẫn của nhân dân và mua chuộc, lung lạc
quan lại triều đình Huế.
Điều ước 6-6-1884 đặt cơ sở lâu dài cho nền thống trị của Pháp ở Việt Nam. Đến đây
giai cấp phong kiến Việt Nam đã đầu hàng thực dân Pháp.
1.2.3. Phong trào chống Pháp của nhân dân Việt Nam cuối thế kỉ XIX
- Cuộc phản công của phái chủ chiến ở kinh thành Huế. Phong trào Cần vương
+ Với hai Hiệp ước 1883, 1884, triều đình Huế nói chung đã đầu hàng Pháp, nhưng
Thượng thư Bộ Binh Tôn Thất Thuyết vẫn ấp ủ hy vọng khơi phục chủ quyền đất nước
khi thời cơ tới. Ơng cho bí mật xây dựng căn cứ Tân Sở (vùng núi tỉnh Quảng Trị), một
số đồn sơn phòng cũng được gấp rút xây dựng tại Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa. Ơng
cịn lập các đội qn “Đồn kiệt” và “Phấn nghĩa” ngày đêm luyện tập.
+ Cuộc xung đột giữa phái chống Pháp và phái đầu hàng ngày càng gay gắt, phái chống

Pháp đưa Ưng Lịch (hiệu là Hàm Nghi) mới 14 tuổi lên làm vua. Khâm sứ Pháp ở Huế đã
viết thư phản đối triều Nguyễn vi phạm các điều ước đã ký kết, đồng thời Pháp bí mật
điều quân từ Bắc Kì vào, trắng trợn chiếm đóng đồn Mang Cá (ở góc đơng nam thành


Huế). Ngày 27-6-1885, tướng Cuốcxi từ Bắc kéo quân vào Huế nhằm bẻ gãy phái chủ
chiến trong triều, Pháp bày mưu cho mời Tôn Thất Thuyết sang họp nhưng ông cáo bệnh
không sang.
Trước sự uy hiếp trắng trợn của kẻ thù, Tôn Thất Thuyết quyết định nổ súng trước để
giành thế chủ động. Ngày 5-7-1885, ta nổ súng tấn công đồn Mang Cá và tòa Khâm sứ.
Bị đánh bất ngờ địch hoang mang, nhưng chúng nhanh chóng phản cơng lại và chiếm
kinh thành Huế.
+ Huế thất thủ, Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi ra vùng núi Tân Sở (Quảng Trị). Tại
đây, ngày 13-7-1885. Ông nhân danh nhà vua ra lời kêu gọi cả nước đứng lên phò vua
cứu nước. Ngay sau đó một phong trào chống Pháp bùng lên mạnh mẽ trên cả nước ta –
phong trào Cần vương kéo dài 10 năm và chia làm hai giao đoạn:
+ Giai doạn 1: từ 1885 đến 11-1888 đây là giai đoạn phong trào còn đặt dưới sự chỉ huy
thống nhất của một triều đình kháng chiến, đứng đầu là Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết.
+ Giai đoạn 2: từ 1888 đến 1896: khi vua Hàm Nghi bị bắt, nghĩa quân chuyển địa bàn
hoạt động lên miền núi và quy tụ thành những cuộc khởi nghĩa lớn, có trình độ tổ chức
cao.
+ Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883-1892)
Căn cứ Bãi Sậy là một vùng nằm chủ yếu trong 5 huyện thuộc tỉnh Hưng Yên. Không
chịu nghe theo lệnh bãi binh của triều đình, Nguyễn Thiện Thuật đã chiêu mộ nghĩa quân
và lập căn cứ chống Pháp. Lợi dụng địa bàn hiểm trở, từ 1885 đến 1889 nghĩa quân đã
phân tán thành từng toán nhỏ, ở lẫn với dân và tổ chức nhiều trận đánh quân Pháp. Trước
ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa, một mặt Pháp cho lập hệ thống đồn bốt dày đặc, mặt
khác dùng tên tay sai Hoàng Cao Khải, tấn công vào căn cứ. Từ cuối năm 1889, nghĩa
quân dần tan rã.
+ Khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887)

Ba Đình là tên gọi vùng đất giữa ba làng Mĩ Khê, Thượng Thọ, Mậu Thịnh thuộc huyện
Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa. Lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa là Phạm Bành, Đinh Công Tráng.
Nghĩa quân đã xây dựng được một tuyến phòng thủ vững chắc, lợi hại, 300 chiến sĩ đã
chiến đấu suốt 34 ngày đêm (từ 18-12-1886 đến 20-1-1887) trong vòng vây của 3.000
quân địch có pháo binh yểm trợ làm cho chúng thiệt hại nặng nề. Kẻ địch phải dùng dầu
đốt cháy bãi tre, sử dụng pháo binh tàn phá mới tiến quân vào được. Chiếm được căn cứ
quân Pháp đã tàn sát rất dã man dân thường và các chiến sĩ Ba Đình hịng uy hiếp tinh
thần đấu tranh của nhân dân ta.
+ Khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1887 – 1892)
Khi căn cứ Ba Đình thất thủ, ở Hùng Lĩnh (Vĩnh Lộc – Thanh Hóa) hình thành một
trung tâm kháng chiến mới, lãnh đạo là Tống Duy Tân và Cầm Bá Thước. Nghĩa quân
được tổ chức chặt chẽ, hoạt động trên một địa bàn rộng, gây cho Pháp rất nhiều khó khăn.
+ Khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896)
Lãnh tụ cuộc khởi nghĩa là Phan Đình Phùng, ơng từng thi đậu tiến sĩ nhưng phản đối
triều Nguyễn nên bị cách chức về quê ở làng Đông Thái, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Nghe theo
tiếng gọi Cần vương, ông cùng Cao Thắng tập hợp nghĩa quân, xây dựng căn cứ ở hai
huyện Hương Sơn và Hương Khê thuộc miền tây tỉnh Hà Tĩnh để chống Pháp. Nhằm mở
rộng ảnh hưởng, Phan Đình Phùng cịn bắt liên lạc với một số lãnh tụ của phong trào
ngoài Bắc. Năm 1889 lực lượng nghĩa quân lên tới 1.000 người với 500 tay súng. Nghĩa
quân được tổ chức chặt chẽ, chia thành 15 đơn vị gọi là quân thứ, hoạt động ở bốn tỉnh


Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Căn cứ chính đóng tại Ngàn Trươi, Vụ
Quang (thuộc huyện Hương Khê).
Năm 1892, Pháp mở cuộc càn quét lớn vào căn cứ nhưng nghĩa quân đã phân tán thành
từng đội nhỏ, dùng lối đánh du kích chống càn, rồi bí mật đánh đột nhập vào thị xã Hà
Tĩnh, giải phóng tù nhân khiến Pháp và tay sai vô cùng hoảng sợ.
Để đối phó lại, Pháp cho xây dựng hệ thống đồn bốt dày đặc, chia quân thành từng toán
nhỏ, đồng thời mở nhiều cuộc tấn công vào căn cứ Ngàn Trươi làm cho nghĩa quân tổn
thất nặng. Năm 1893 Cao Thắng đưa quân xuống Nghệ An nhằm thoát khỏi thế bị bao

vây nhưng trong một trận chiến đấu tại Thanh Chương Cao Thắng hy sinh. Lợi dụng cơ
hội này Pháp tập trung lực lượng chúng vừa đánh thọc sâu, vừa bao vây chia cắt, năm
1894 nghĩa quân rút về căn cứ.
Tháng 8-1895, Pháp huy động 3.000 quân mở cuộc tấn công lớn, một số chỉ huy nghĩa
quân rơi vào tay giặc, quân sĩ bị hao hụt nhiều, ngày 28-12-1895 Phan Đình Phùng mất,
cuộc khởi nghĩa dần dần tan rã.
+ Cuộc khởi nghĩa Yên Thế (Bắc Giang) (1884 – 1913)
Lãnh đạo khởi nghĩa phần lớn là nông dân, tiêu biểu là Đề Nắm (Lương Văn Nắm) và
Đề Thám. Bằng cách tổ chức đánh du kích, nghĩa quân hoạt động mạnh ở Bắc Giang,
Bắc Ninh, Vĩnh Yên, Phúc Yên, đã tự sản xuất được vũ khí. Nhiều nhà yêu nước như
Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đã đến liên lạc với nghĩa quân Yên Thế. Năm 1906 Đề
Thám ra nhập hội Duy Tân, nhận Cường Để làm hội chủ, dung nạp những nghĩa sĩ Trung
Kì gặp nạn, thành lập đảng Nghĩa Hưng ở Hà nội... từ đây hoạt động của nghĩa quân Yên
Thế được mở rộng. Từ 1909 Pháp tăng cường lực lượng đàn áp cuộc khởi nghĩa, ngày
10-3-1913 Đề Thám hy, cuộc khởi nghĩa sau gần 30 năm chiến đấu đã kết thúc.
Như vậy, phải mất hơn 30 năm chinh phục nước ta từ 1858-1896, thực dân Pháp mới cơ
bản thiết lập được ách thống trị của chúng ở Việt Nam. Tuy thất bại nhưng các phong
trào cứu nước nửa sau thế kỷ XIX của nhân dân ta đã bồi đắp truyền thống yêu nước
chống ngoại xâm và chuẩn bị cho cơn bão táp cách mạng ở những giai đoạn sau này.
2.2. Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất
2.2.1. Sự chuyển biến về kinh tế, xã hội và tư tưởng ở Việt Nam đầu thế kỷ XX
- Sau khi căn bản hồn thành việc bình định Việt Nam về quân sự và xây dựng bộ máy
cai trị, Pháp tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất nhằm vơ vét tài nguyên
khoáng sản và đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta. Pháp xây dựng hệ thống
giao thông đường bộ và đường sắt khá hiện đại. Đẩy mạnh khai thác mỏ, nhất là than đá
ở vùng Hòn Gai - Quảng Yên mang về Pháp hay bán ra thị trường thế giới. Một số nhà
máy điện, nước, xi măng, dệt, xay sát gạo được xây dựng nhằm lợi dụng nguồn nhân
công rẻ mạt của nước ta, chúng cũng sản xuất một số mặt hàng khơng cạnh tranh được
với cơng nghiệp chính quốc, hoặc đưa lại lợi ích cao hơn đưa từ nước Pháp sang.
- Việc cướp đoạt ruộng đất mở đồn điền được đẩy mạnh, hàng vạn ha ruộng đất đã bị các

ông chủ Pháp chiếm đoạt để trồng lúa, chè, cao su. Nhân dân ta còn khốn đốn trăm đường
về nạn sưu cao, thuế nặng, các thứ thuế mới chồng chất lên các thứ thuế có từ trước khi
Pháp tới. Tai hại nhất là thuế muối, rượu, thuốc phiện.
- Công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp làm cho cơ cấu kinh tế Việt Nam bước đầu
thay đổi, xã hội Việt Nam phân hóa rõ rệt từ đầu thế kỷ XX. Các giai cấp mới ra đời,
trong đó quan trọng nhất là sự tập hợp đội ngũ công nhân, họ trở thành công nhân từ
nhiều nguồn khác nhau: một số nông dân bị phá sản do ruộng đất bị địa chủ chiếm đoạt


phải bỏ làng xóm ra đi rồi xin vào trong các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, đồn điền của
thực dân Pháp hay tư sản người Việt bán sức lao động làm thuê. Giai cấp tư sản xuất
hiện, tầng lớp tiểu tư sản ngày càng đông đảo cùng với công cuộc khai thác của Pháp.
- Tình hình trong nước có những thay đổi quan trọng, trong khi đó ở bên ngồi, phong
trào cải cách chính trị - văn hóa ở Trung Quốc ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam, qua các
tác phẩm của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu... tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây
của Rút Xô, Môngtetxkiơ được giới thiệu với sĩ phu Việt Nam. Sự phát triển nhanh của
chủ nghĩa tư bản Nhật Bản, đặc biệt là chiến thắng của Nhật trong chiến tranh với Nga
hoàng 1905 cũng có tiếng vang lớn trên thế giới, nhất là đối với các dân tộc châu Á, trong
đó có Việt Nam.
2.2.2. Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam đầu thế kỷ XX
- Hoạt động cứu nước của Phan Bội Châu
+ Phan Bội Châu là sĩ phu nổi tiếng đất Nghệ An, ông sinh ngày 26-12-1867 ở Nam Đàn,
Nghệ An, trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống yêu nước, mất ngày 20-10-1940.
Ông tham gia nhiều hoạt động yêu nước, chủ trương bạo động vũ trang đánh đuổi Pháp.
Năm 1904, ông cùng một số người thành lập Hội Duy tân, viết sách và bắt tay vào việc
tuyên truyền cổ động thanh niên bí mật sang Nhật học, mở đầu cho phong trào Đông Du.
+ Phong trào Đông Du lúc đầu tiến hành thuận lợi, số học sinh có lúc lên đến 200 người,
nhưng đến tháng 8-1909, thực dân Pháp ra tay khủng bố, chúng câu kết với bọn cầm
quyền Nhật, giải tán tổ chức du học sinh của ta trên đất Nhật, phong trào tan rã. Đầu năm
1909, Phan Bội Châu cũng buộc phải rời nước Nhật.

Phan Bội Châu là người yêu nước mẫu mực, chủ trương cứu nước của ông là bạo động,
xác định đúng kẻ thù, kiên trì con đường vũ trang đánh đuổi thực dân pháp, nhưng ông lại
chủ trương dựa vào một tên đế quốc để chống lại một tên đế quốc khác là sai lầm.
- Hoạt động cứu nước của Phan Châu Trinh và phong trào Duy tân ở Trung Kì
+ Phan Châu Trinh sinh năm 1872 ở làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
Năm 1900 ông đỗ cử nhân, sau đó 1 năm đỗ phó bảng, ơng ra làm quan với chức Thừa
biện bộ Lễ. Ông được chứng kiến tận mắt cảnh mục nát, hủ bại của triều đình và quan
trường, nên sinh ra chán nản. Cuối năm 1904 lấy cớ về quê thờ phụng tổ tiên, ông xin cáo
quan, từ đó dốc lịng vào cơng việc cứu nước. Năm 1908 ông bị bắt và đày đi Côn Đảo.
Năm 1911, ơng sang Pháp, năm 1925 về nước. Ơng mất tại Sài Gòn ngày 24-3-1926.
+ Mặc dù rất đau sót trước cảnh mất nước, nhưng quan điểm của ơng trước mắt chưa nên
đặt nhiệm vụ khôi phục chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc mà nhiệm vụ cấp bách phải
là: Chấn dân khí, khai dân trí và hậu dân sinh. Ông là người giương cao ngọn cờ dân chủ,
cải cách xã hội, chủ trương cứu nước bằng nâng cao dân trí, dân quyền, ơng phản đối chủ
trương bạo động và tư tưởng quân chủ muốn dựa vào ngôi vua.
Với phương châm đó, ơng đi khắp Quảng Nam và các tỉnh Trung Kì để vận động cải
cách. Cuộc vận động duy tân diễn ra với nhiều hình thức phong phú. Nhiều trường học ra
đời, giảng dạy với nội dung mới, tuyên truyền mở rộng công thương, đẩy mạnh sản xuất,
phê phán bọn quan lại, đã phá hủ tục, thực hiện đời sống mới, thành lập các công ti, hội
buôn…
+ Phong trào duy tân lan rộng trong khi nhân dân Trung Kì đang điêu đứng về nạn thuế
khóa. Cuộc vận động đã làm bùng lên phong trào chống đi phu, đòi giảm sưu thuế. Phong
trào này bắt đầu từ tháng 3-1908 ở các huyện Đại Lộc, Thăng Bình, Tam Kì, Hịa Vang,
Duy Xun, sau đó lan rộng ra Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh…


+ Chính quyền thực dân thẳng tay đàn áp, đóng cửa trường học, giải tán các hội buôn,
chém giết những người cầm đầu. Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Lê Văn Huân
cùng nhiều người khác bị bắt và đày đi Cơn Đảo. Phong trào địi giảm thuế, chống đi phu
tan rã vào cuối tháng 5-1908. Tuy thất bại nhưng đã thể hiện khả năng cách mạng của

nông dân, đồng thời cũng bộc lộ hạn chế của họ khi chưa có một giai cấp tiên tiến lãnh
đạo.
Phan Châu Trinh là người yêu nước đầy nhiệt huyết, ông chủ trương cứu nước thông
qua các đề nghị cải cách là hết sức tiến bộ, tuy nhiên sai lầm của ông là không hiểu rõ
bản chất của chủ nghĩa đế quốc, chống lại biện pháp vũ trang bạo động cứu nước.
+ Phong trào Duy tân
Thực hiện chủ trương khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh, Trần Qúy Cáp... ở Trung Kỳ bùng nổ một phong trào yêu nước, thường gọi
là phong trào Duy tân.
Nội dung của phong trào là vận động cải cách văn hóa xã hội gắn liền với động viên
lòng yêu nước căm thù giặc, đấu tranh cho dân tộc thoát khỏi ách ngoại xâm. Phong trào
hướng vào việc chấn hưng doanh nghiệp, lập hội buôn, mở mang cơ sở sản xuất. Một số
nông hội được thành lập ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, nhiều trường học kiểu mới được mở
(48 trường). Trong các trường, ngoài việc dạy chữ quốc ngữ còn gắn liền với việc xây
dựng lối sống mới (ăn mặc, xưng hô), bài trừ hủ tục.
Ảnh hưởng của phong trào rất mạnh. Đến năm 1908 phong trào chống đi phu, chống
thuế diễn ra tại Quảng Nam sau đó lan rộng ra nhiều tỉnh ở miền Trung với mục tiêu đấu
tranh là không đi phu, không nộp thuế cho Pháp, trừng trị bọn phong kiến phản động.
- Phong trào Đông kinh nghĩa thục
Noi gương Nhật Bản để tự cường là chủ trương của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và
sĩ phu yêu nước Việt Nam đầu thế kỉ XX. Tháng 3-1907, Đông kinh nghĩa thục ra đời.
Trụ sở tại số 10, phố Hàng Đào, Hà Nội.
- Mục đích của Đơng Kinh nghĩa thục là tun truyền, giáo dục, nâng cao lòng yêu nước,
tự hào dân tộc, truyền bá một nền học thuật mới, nếp sống mới, phối hợp với phong trào
Đông Du của Phan Bội Châu và phong trào duy tân đang phát triển, góp phần cho đất
nước phát triển, thoát khỏi ách thống trị ngoại bang, trở thành một quốc gia độc lập.
Chương trình học của trường gồm các mơn lịch sử, địa lí, kinh tế, ngoại ngữ, thể thao. Về
các môn tự nhiên dùng sách giáo khoa của các trường tiểu học Pháp, các mơn khoa học
xã hội thì tự biên soạn để giảng dạy, chú trọng giáo dục truyền thống của dân tộc.
+ Đông Kinh nghĩa thục chú trọng đến phương pháp học mới như thảo luận, bình văn.

Học sinh có lúc lên 2.000 người. hoạt động và ảnh hưởng lan rộng ra nhiều địa phương
như Hà Đông, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hải Dương, Nghệ An, Phan Thiết. Đông Kinh nghĩa
thục không chỉ là trường học mà còn là tổ chức cách mạng. Hoạt động của Đông kinh
nghĩa thục đã gây không khí ham hiểu biết, tin tưởng ở tiền đồ tươi sáng của dân tộc.
Hoảng sợ trước ảnh hưởng của phong trào, tháng 11-1907 thực dân Pháp giải tán Đông
kinh nghĩa thục, sách báo của trường bị cấm, một số nhân vật chủ chốt bị bắt.
+ Vụ đầu độc binh lính Pháp tại Hà Nội (1908)
Anh em binh lính người Việt trong quân đội Pháp đã phối hợp với đảng Nghĩa Hưng của
Đề Thám mưu tính tổ chức một cuộc bạo động ngay tại sào huyệt của bọn thực dân (dùng
thuốc độc bỏ vào thức ăn làm tê liệt sức chiến đấu của địch, sau đó trong đánh ra, ngồi
đánh vào...). Ngày 27-6-1908 vụ đầu độc đã diễn ra, 200 lính Pháp trúng độc nhưng nhẹ
nên ít hiệu quả. Cuộc nổi dậy bị dập tắt.


2.2.3. Phong trào yêu nước trong những năm Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (19141918)
- Hoạt động yêu nước của Việt Nam Quang phục hội: do ảnh hưởng của cách mạng Tân
Hợi ở Trung Quốc, một số người Việt Nam yêu nước tập trung về Quảng Đông thành lập
Việt Nam Quang phục (1912) hội thay cho Duy Tân hội. Hội trưởng là Cường Để và
Tổng lí là Phan Bội Châu. Tôn chỉ của hội là đánh đuổi thực dân Pháp, thành lập Cộng
hịa dân quốc Việt Nam. Hội có kế hoạch cử người về nước để giết những tên đầu sỏ thực
dân bao gồm ba viên quan cai trị đứng đầu 3 xứ, mưu giết Tồn quyền Xarơ và bọn việt
gian tay sai cho Pháp bằng hình thức ám sát, với mục đích là gây tiếng vang để tập hợp
quần chúng nhưng không thành. Tháng 4-1913, nổ tạc đạn giết tuần phủ Thái Bình và hai
sĩ quan Pháp.
- Cuối 1914, tổ chức tấn cơng vào trại lính khố xanh ở Phú Thọ, tiếp đến tổ chức đánh
đồn Nho Quan ở Ninh Bình nhưng khơng thành cơng; năm 1915 tập kích đồn Móng Cái,
phá ngục Lao Bảo; năm 1916 tập kích đồn Bát Sát (Lào Cai)...
- Ngày 3-5-1916 Thái Phiên và Trần Cao Vân mưu khởi nghĩa ở Huế nhưng khơng thành.
- Cuộc khởi nghĩa của binh lính và tù chính trị ở Thái Nguyên từ 8-1917 đến 1-1918 do
Lương Ngọc Quyến và Đội Cấn lãnh đạo: quân khởi nghĩa đã làm chủ tỉnh lị, phá trại

giam, giải phóng hàng trăm tù nhân. Thực dân Pháp đã phải huy động hàng ngàn quân
mới dập tắt được cuộc khởi nghĩa. Đây là cuộc khởi nghĩa lớn nhất trong thời gian Chiến
tranh thế giới lần thứ nhất.
- Phong trào Hội kín do Phan Xích Long lãnh đạo: trong những năm chiến tranh ở Nam
Kỳ có từ 70 đến 80 hội kín. Thành phần tham gia chủ yếu là nông dân và dân nghèo
thành thị, trang bị vũ khí thơ sơ. Tơn giáo và phương thuật giữ vai trò quan trọng trong
việc tuyên truyền tổ chức hội viên. Hoạt động gây tiếng vang lớn nhất là kế hoạch tấn
công vào khám lớn Sài Gịn nhằm giải phóng tù nhân vào đêm 16-2-1916.
2.2.4. Sự khởi đầu của một khuynh hướng cứu nước mới trong phong trào giải phóng dân
tộc
- Phong trào cơng nhân: trước Chiến tranh thế giới thứ nhất công nhân Việt Nam có
khoảng 10 vạn, khơng cam chịu bóc lột và ý thức được sứ mệnh của mình, đã tổ chức đấu
tranh bằng nhiều hình thức. Mặc dù cịn mang nặng tích chất tự phát, song một lực lượng
xã hội mới đang trưởng thành nhanh chóng.
- Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc 1911-1918
+ Nguyễn Ái Quốc hồi nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, năm 1901 đổi là Nguyễn Tất
Thành, sinh ra trong một gia đình trí thức u nước. Năm 1906, theo cha vào Huế, học tại
trường tiểu học Pháp – Việt và trường Quốc học Huế.
+ Tháng 5-1908 bí mật vào Nam, dừng chân dạy học tại trường Dục Thanh, Phan Thiết,
đầu năm 1911 vào Sài Gòn.
+ Ngày 5-6-1911, Nguyễn Ái Quốc rời Tổ quốc sang phương Tây bắt đầu cuộc hành
trình tìm đường cứu nước. Từ 1911 đến 1917, Người đã đi qua nhiều nước tư bản, đế
quốc và thuộc địa ở khắp các châu lục. Người đã làm nhiều nghề để sinh sống nhưng
trong lịng ln ấp ủ mong muốn tìm ra con đường cứu nước giải phóng dân tộc.
+ Tháng 12-1917, Nguyễn Ái Quốc rời Luân Đôn (Anh) về Pari hoạt động trong phong
trào yêu nước của Việt kiều và phong trào cơng nhân Pháp. Người nhanh chóng trở thành
nhân vật lãnh đạo của tổ chức Hội người Việt Nam yêu nước tại Pari… những hoạt động
tuy mới là ban đầu nhưng là điều kiện cần thiết để sau này Người đến với chủ nghĩa
Lênin, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc.



2.3. Những biến đổi về kinh tế văn hóa xã hội và các phong trào yêu nước Việt Nam
(1919 – 1930)
2.3.1. Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 1919 - 1925
- Những điều kiện mới của phong trào
+ Sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) kết thúc, Pháp tiến hành công
cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông Dương (1919-1929). Hai ngành được Pháp
chú ý đầu tư là khai thác than và đồn điền trồng cao su, cà phê. Giao thông vận tải cũng
được đầu tư phát triển, đặc biệt là đường sắt và đường bộ. Một số ngành công nghiệp, đặc
biệt là công nghiệp nhẹ và dịch vụ cũng được chú ý xây dựng. Công cuộc khai thác của
Pháp làm cho các giai cấp trong xã hội Việt Nam phân hóa hết sức nhanh chóng.
+ Chính sách cai trị của Pháp vẫn khơng hề thay đổi. Chúng thi hành chính sách chuyên
chế, mọi quyền hành đều nằm trong tay người Pháp. Nhân dân ta không được hưởng một
chút tự do dân chủ nào, mọi hành động yêu nước đều bị thẳng tay đàn áp. Đế quốc Pháp
thực hiện triệt để chính sách “chia để trị”. Chúng thi hành chính sách văn hóa nơ dịch,
ngu dân, ra sức khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan…
- Phong trào dân tộc dân chủ 1919-1925
+ Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất tình hình thế giới diễn ra những thay đổi nhanh
chóng, tác động to lớn đến cách mạng Việt Nam: thắng lợi của cuộc cách mạng tháng
Mười Nga năm 1917; tháng 2-1919 tại Mátxcơva Quốc tế thứ III được thành lập; Đảng
Cộng sản Pháp thành lập (12-1920), đã giúp cho chủ nghĩa Mác - Lênin thâm nhập vào
Việt Nam được thuận lợi hơn; Đảng Cộng sản Trung Quốc thành lập (7-1921) và sự phát
triển của phong trào cách mạng Trung Quốc trong những năm 20 đã tạo điều kiện hết sức
thuận lợi cho các nhà cách mạng Việt Nam đứng chân để hoạt động và gây dựng phong
trào trong nước. Kế tục truyền thống chống ngoại xâm, phong trào yêu nước tiếp tục phát
triển với những hình thức mới:
+ Hoạt động của Phan Bội Châu: sau những năm hoạt động ở Nhật Bản và Trung Quốc
không thành công, năm 1913, Phan Bội Châu bị giới quân phiệt Quảng Đông (TQ) bắt
giam, đến năm 1917 ông được trả tự do. Cũng năm 1917 cuộc Cách mạng tháng Mười
Nga bùng nổ và thắng lợi, đối với Phan Bội Châu, cách mạng tháng Mười Nga như một

luồng ánh sáng mới.
Tháng 6-1925, Phan Bội Châu bị Pháp bắt tại Thượng Hải (Trung Quốc), kết án tù rồi
đưa về giam lỏng tại Huế (an trí).
+ Hoạt động của Phan Châu Trinh: năm 1922 khi vua Khải Định sang Pháp dự triển lãm
thuộc địa, Phan Châu Trinh viết Thất điều thư, vạch bảy tội đáng chém của Khải Định.
Ơng cịn thường xun tổ chức diễn thuyết, lên án chế độ quân chủ và sự mọt rỗng trong
chốn quan trường ở Việt Nam, tiếp tục hô hào “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”.
Tháng 6-1925 Phan Châu Trinh về nước, ông tiếp tục truyền bá, đả phá chế độ quân chủ
chuyên chế, đề cao dân quyền. Nhiều tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên rất mến mộ và
hưởng ứng hoạt động của Phan Châu Trinh.
+ Các phong trào khác: nước Pháp là nơi có nhiều Việt kiều sinh sống, một số người đã
tham gia hoạt động yêu nước, chuyển tài liệu, sách báo tiến bộ về nước. Năm 1925, “Hội
những người lao động trí óc Đông Dương” ra đời.
+ Năm 1923, tại Quảng Châu (Trung Quốc) Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Công
Viễn… lập ra tổ chức Tâm tâm xã. Ngày 19-6-1924 Phạm Hồng Thái thực hiện mưu sát
tồn quyền Đơng Dương Méclanh ở Sa Diện (Trung Quốc).


+ Phong trào của giai cấp tư sản dân tộc: tổ chức tẩy chay tư sản Hoa Kiều, vận động
người Việt Nam chỉ mua hàng Việt Nam, thực hiện “chấn hưng nội hóa”, “bài trừ ngoại
hóa”. Tiếp đến, năm 1923 địa chủ và tư sản Việt Nam đấu tranh chống độc quyền cảng
Sài Gòn và độc quyền xuất cảng lúa gạo Nam Kỳ của tư bản Pháp.
Cùng với các hoạt động kinh tế, năm 1923 một số tư sản và địa chủ lớn ở Nam Kỳ (đại
biểu là Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long... thành lập Đảng Lập hiến, đảng này đưa
ra một số khẩu hiệu đòi tự do, dân chủ. Ngồi Đảng Lập hiến cịn có nhóm Nam Phong
của Phạm Quỳnh cổ vũ thuyết “quân chủ lập hiến”; nhóm Trung Bắc tân văn của Nguyễn
Văn Vĩnh đề cao tư tưởng trực trị.
+ Phong trào của tiểu tư sản: tiểu tư sản trí thức đã thể hiện lịng u nước của mình bằng
nhiều cách: họ sơi nổi đấu tranh địi tự do dân chủ. Một số tổ chức chính trị được thành
lập như Việt Nam nghĩa đoàn, Hội Phục Việt, Đảng Thanh niên... đại biểu là Tôn Quang

Phiệt, Đặng Thai Mai, Trần Huy Liệu, Nguyễn An Ninh… đã tổ chức nhiều hoạt động
phong phú và sơi động như mít tinh, biểu tình, bãi khóa. Nhiều tờ báo tiến bộ lần lượt ra
đời. Báo tiếng Pháp có các tờ Chng rè, An Nam trẻ, Người nhà quê; báo tiếng Việt có
Tiếng dân, Đông Dương thời báo. Một số nhà xuất bản tiến bộ như Cường học thư xã,
Nam đồng thư xã, Quan hải tùng thư đã phát hành nhiều loại sách báo tiến bộ.
+ Trong phong trào yêu nước dân chủ công khai sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất có
hai sự kiện tiêu biểu: một là cuộc đấu tranh đòi nhà cầm quyền Pháp trả tự do cho Phan
Bội Châu (1925), hai là các cuộc truy điệu, để tang Phan Châu Trinh (1926).
+ Các cuộc đấu tranh của công nhân ngày càng nhiều hơn, tuy vẫn còn lẻ tẻ và tự phát. Ở
sài Gòn – Chợ Lớn đã thành lập Cơng hội bí mật. Tháng 8-1925, 1.000 thợ máy xưởng
Ba Son tại cảng Sài Gịn đã bãi cơng, khơng chịu sửa chữa chiến hạm Misơlê của Pháp
khi chiến hạm này chở binh lính sang tham gia đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân
Trung Quốc. Cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son đánh dấu bước tiến mới của phong
trào công nhân nước ta.
- Các hoạt động cứu nước của Nguyễn Ái Quốc từ 1919 đến 1925
+ Cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp, năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp.
Ngày 18-6-1919, Nguyễn Tất Thành với tên gọi mới là Nguyễn Ái Quốc đã gửi đến hội
nghị Bản yêu sách của nhân dân An Nam, địi Chính phủ Pháp và các nước đồng minh
phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng và quyền tự quyết của dân tộc
Việt Nam.
+ Giữa năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân đạo của Đảng Xã hội Pháp.
Luận cương đã giúp Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường giành độc lập và tự do của
nhân dân Việt Nam. Tại đại hội Đảng Xã hội Pháp họp ở thành phố Tua ngày 25-121920, Nguyễn Ái Quốc đã đứng về phía đa số đại biểu bỏ phiếu tán thành việc gia nhập
Quốc tế Cộng sản và thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Nguyễn Ái Quốc trở thành người
cộng sản và là một trong những người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
+ Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng với một số nhà yêu nước của Angiêri, Marốc,
Tuynidi lập ta Hội Liên hiệp thuộc địa ở Pari. Người làm chủ nhiệm kiêm chủ bút Báo
“Người cùng khổ” (báo Le Paria). Người còn viết bài cho các báo “Nhân đạo” - cơ quan
ngôn luận của Đảng Cộng sản Pháp; báo “Đời sống công nhân” - cơ quan ngôn luận của

Tổng Liên đoàn lao động Pháp… và đặc biệt là cuốn “Bản án chế độ thực dân Pháp” xuất
bản ở Pari năm 1925.


+ Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc rời Pháp đi Liên Xô để dự Hội nghị Quốc tế nông dân
và Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản (1924). Tại Đại hội này, Người đã ba lần phát
biểu về vấn đề dân tộc và thuộc địa, những bài phát biểu của Người đã gây tiếng vang
lớn.
+ Ngày 11-11-1924, từ Liên Xô về Quảng Châu (TQ) để trực tiếp tuyên truyền, giáo dục
lý luận, xây dựng tổ chức cách mạng giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt Nam.
- Phong trào dân tộc dân chủ 1925-1930
- Sự thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên
+ Chỉ một thời gian ngắn sau khi đến Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã mở lớp huấn
luyện, đào tạo cán bộ. Phần lớn học viên là thanh niên, học sinh, trí thức Việt Nam yêu
nước. Học xong bí mật trở về nước truyền bá lý luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân
dân. Một số người được gửi sang học tại trường Đại học Phương Đơng ở Mátxcơva (Liên
Xơ), hoặc Trường Qn sự Hồng Phố (Trung Quốc).
Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn, giác ngộ số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã gồm 7
người trong đó có Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Lâm Đức Thụ… lập ra Cộng sản đoàn
(tháng 2-1925). Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên nhằm tổ chức và lãnh đạo quần chúng đoàn kết, tranh đấu để đánh đổ đế quốc
Pháp và tay sai, tự cứu lấy mình. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Hội là Tổng bộ. Báo
Thanh niên của Hội do Nguyễn Ái Quốc sáng lập ra số đầu tiên ngày 21-6-1925.
+ Đầu năm 1927, tác phẩm Đường Kách mệnh gồm những bài giảng của Nguyễn Ái
Quốc ở các huấn luyện tại Quảng Châu được xuất bản.
+ Cuối năm 1928, thực hiện chủ trương “vơ sản hóa”, nhiều cán bộ của Hội Việt Nam
Cách mạng thanh niên đi vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền cùng lao động và sinh hoạt với
công nhân để tuyên truyền vận động cách mạng, nâng cao ý thức chính trị cho cơng nhân,
vì vậy phong trào công nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ. Các cuộc bãi cơng của cơng
nhân đã khơng cịn bó hẹp trong phạm vi một xưởng, một địa phương, một ngành mà đã

có sự liên kết thành phong trào chung.
- Tân Việt cách mạng đảng
+ Ngày 14-7-1925 một nhóm sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội và một số tù
chính trị ở Trung Kì đã lập ra Hội Phục Việt. Đảng Phục Việt tập hợp những trí thức và
thanh niên tiểu tư sản yêu nước, địa bàn hoạt động chủ yếu ở Trung Kì. Tân Việt Cách
mạng đảng ra đời và hoạt động trong điều kiện Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên phát
triển và có ảnh hưởng mạnh, nên nội bộ của Tân Việt đã diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai
khuynh hướng: tư tưởng cách mạng và cải lương. Cuối cùng xu hướng cách mạng theo
quan điểm vô sản thắng thế. Một số đảng viên tiên tiến của Tân Việt đã sớm gia nhập Hội
Việt Nam Cách mạng thanh niên. Số đảng viên tiên tiến cịn lại thì tích cực hoạt động để
tiến tới thành lập một chính đảng cách mạng, năm 1929 thành lập Đơng Dương cộng sản
liên đồn.
- Việt Nam Quốc dân đảng và cuộc khởi nghĩa Yên Bái
+ Trên cơ sở hạt nhân đầu tiên là Nam Đồng thư xã – một nhà xuất bản tiến bộ của giai
cấp tiểu tư sản, ngày 25-12-1927 Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính… đã thành lập Việt
Nam Quốc dân đảng. Đây là một chính đảng yêu nước, đấu tranh giành lại độc lập cho
dân tộc. Lúc mới thành lập, chính đảng này chưa có cương lĩnh rõ ràng, chỉ nêu chung
chung là: “trước làm dân tộc cách mạng, sau làm thế giới cách mạng”. Quốc dân đảng
chủ trương tiến hành cách mạng bằng bạo lực, chú trọng lấy binh lính người Việt trong
quân đội Pháp đã được giác ngộ làm lực lượng chủ yếu, tổ chức cơ sở của Quốc dân đảng


rất ít. Địa bàn hoạt động chỉ bó hẹp trong một số địa phương ở Bắc Kì, cịn Trung Kì và
Nam Kì khơng đáng kể.
+ Tháng 2-1929, Việt Nam Quốc dân đảng tổ chức vụ ám sát tên trùm mộ phu Badanh ở
Hà Nội. Nhân sự kiện này thực dân Pháp liền tổ chức một cuộc vây ráp lớn, Việt Nam
quốc dân đảng là tổ chức bị thiệt hại nhiều hơn cả. Bị động trước tình thế, những nhà lãnh
đạo chủ chốt của Việt Nam Quốc dân đảng quyết định dốc hết lực lượng nhằm thực hiện
cuộc bạo động khởi nghĩa với phương châm “không thành công cũng thành nhân”.
Đêm 9-2-1930 cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân đảng nổ ra ở n Bái. Cũng

đêm đó, khởi nghĩa cịn nổ ra ở Phú Thọ, Sơn Tây, sau đó là Hải Dương, Thái Bình. Tại
Hà Nội cũng có hoạt động đánh bom phối hợp.
+ Cuộc khởi nghĩa Yên Bái tuy thất bại nhanh chóng nhưng đã góp phần cổ vũ lịng u
nước, chí căm thù thực dân Pháp và tay sai của nhân dân Việt Nam.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh giải phóng dân tộc
+ Sự hình thành các tổ chức cộng sản ở Việt Nam năm 1929:
Cuối tháng 3-1929, một số hội viên tiên tiến của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên ở
Bắc Kỳ đã họp tại số nhà 5D phố Hàm Long (Hà Nội) lập ra chi bộ cộng sản đầu tiên
gồm 7 đảng viên. Chi bộ đã vận động thành lập một đảng cộng sản thay thế cho Hội Việt
Nam Cách mạng thanh niên. Ngày 17-6-1929, đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở Bắc
Kì họp Đại hội tại số nhà 312, phố Khâm Thiên (Hà Nội) quyết định thành lập Đông
Dương Cộng sản đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ đảng, ra báo Búa liềm, cử Ban
Chấp hành Trung ương…
Sau khi Đông Dương Cộng sản đảng ra đời, tháng 8-1929 các cán bộ tiên tiến trong
Tổng bộ và Kì bộ Việt Nam Cách mạng thanh niên ở Nam Kì đã quyết định thành lập An
Nam Cộng sản đảng.
Tháng 9-1929, những người giác ngộ cách mạng trong Đảng Tân Việt tun bố thành lập
Đơng Dương Cộng sản liên đồn.
+ Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam:
Với cương vị là phái viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập đại biểu
của Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản đảng đến Cửu Long, Hương Cảng
- Trung Quốc để bàn việc hợp nhất. Hội nghị bắt đầu họp từ 6-1-1930 tại Hương Cảng do
Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Tham dự Hội nghị có đại biểu của Đông Dương Cộng sản đảng
và An Nam Cộng sản đảng. Hội nghị đã thảo luận và nhất trí thống nhất các tổ chức cộng
sản thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thơng qua Chính cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
+ Cương lĩnh xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, lực lượng cách mạng, động
lực của cách mạng và khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp
cơng nhân sẽ giữ vai trị lãnh đạo cách mạng…
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử của một đại hội

thành lập Đảng. Ngày 8-2-1930, các đại biểu dự Hội nghị về nước. Ngày 24-2-1930, theo
đề nghị của Đông Dương cộng sản liên đoàn, tổ chức này được gia nhập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Sau này Đại hội III của Đảng (9-1960) quyết định lấy ngày 3-2 hàng năm là
ngày kỷ niệm thành lập Đảng.
2.4. Phong trào cách mạng 1930 – 1935
2.4.1. Tình hình kinh tế - xã hội


- Từ năm 1930, kinh tế Việt Nam bước vào thời kì suy thối, khủng hoảng. Việt Nam vốn
là nước nông nghiệp nên cuộc khủng hoảng bắt đầu từ nông nghiệp, lúa gạo là mặt hàng
xuất khẩu chính giờ đây sụt giá nghiêm trọng, ruộng đất bỏ hoang ngày càng nhiều.
Trong công nghiệp sản lượng hầu hết các ngành đều suy giảm. Xuất nhập khẩu đình đốn,
hàng hóa khan hiếm, giá cả đắt đỏ... Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Việt Nam là rất nặng nề
so với các thuộc địa khác của Pháp cũng như so với các nước trong khu vực.
- Hậu quả lớn nhất mà cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới gây ra đối với xã hội là làm
trầm trọng thêm tình trạng đói khổ của các tầng lớp nhân dân lao động. Hàng chục ngàn
công nhân bị sa thải. Nông dân phải gánh chịu những hậu quả nghiêm trọng nhất, họ phải
chịu cảnh thuế cao, vay nợ nặng lãi. Các tầng lớp lao động khác trong xã hội như thợ thủ
công, nhà buôn nhỏ viên chức, thậm chí các nhà tư sản dân tộc cũng gặp nhiều khó khăn.
Những tình hình kinh tế - xã hội này càng làm cho mâu thuẫn xã hội thêm sâu sắc.
2.4.2. Cao trào cách mạng 1930 - 1931 với đỉnh cao Xô viết Nghệ Tĩnh
- Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế (1929-1933), cùng với chính sách đàn áp
khủng bố khốc liệt của thực dân Pháp càng làm nhân dân ta thêm căm thù và mài sắc
quyết tâm vùng lên đấu tranh giành quyền sống. Ngay sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần chúng công – nông rộng khắp cả nước.
- Từ tháng 2 đến 4-1930, nổ ra nhiều cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân. Mục
tiêu đấu tranh là đòi cải thiện đời sống. Nét mới trong các cuộc đấu tranh là đã xuất hiện
các khẩu hiệu chính trị như “Đả đảo chủ nghĩa đế quốc, đả đảo phong kiến”; “Thả tù
chính trị”…
- Tháng 5 trên phạm vi cả nước bùng nổ nhiều cuộc đấu tranh nhân ngày Quốc tế Lao

động 1-5. Các cuộc đấu tranh này là bước ngoặt của phong trào cách mạng. Lần đầu tiên
cơng nhân Việt Nam biểu tình kỉ niệm ngày Quốc tế Lao động, đấu tranh đòi quyền lợi
cho nhân dân lao động trong nước và thể hiện tình đồn kết với nhân dân lao động thế
giới.
- Trong các tháng tiếp sau đó, tháng 6,7,8 tiếp tục nổ ra hàng chục cuộc đấu tranh của
công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác trên quy mô cả nước.
- Sang tháng 9-1930, phong trào đấu tranh dâng cao, nhất là ở hai tỉnh Nghệ An và Hà
Tĩnh, những cuộc biểu tình có vũ trang tự vệ của nơng dân với sự tham gia của hàng ngàn
người. Quần chúng kéo đến huyện lị, tỉnh lị đòi giảm sưu thuế. Các cuộc đấu tranh này
được công nhân ở Vinh – Bến Thủy hưởng ứng.
Tiêu biểu cho các cuộc đấu tranh là cuộc biểu tình của nơng dân huyện Hưng Ngun
(Nghệ An) ngày 12-9-1930. Hoảng sự trước ảnh hưởng của cuộc đấu tranh, thực dân
Pháp ra lệnh đàn áp, nhưng không ngăn được cuộc đấu tranh.
- Khí thế cách mạng của quần chúng làm chính quyền đế quốc và phong kiến tay sai ở
nhiều nơi thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh tan rã hoặc tê liệt. Ở nhiều thôn, xã, lí
trưởng, chánh tổng đã bỏ trốn. Trong tình hình đó, nhiều cấp ủy Đảng ở thôn xã đã lãnh
đạo nhân dân đứng lên tự quản lí đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, làm chức
năng của chính quyền gọi là “Xơ viết”. Tuy cịn thơ sơ, nhưng thực chất đã làm chức
năng của chính quyền cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo
+ Xô viết nghệ Tĩnh là đỉnh cao của phong trào cách mạng 1930-1931, tuy chỉ tồn tại
được 4-5 tháng, nhưng chính quyền Xơ viết Nghệ Tĩnh đã tỏ rõ bản chất cách mạng và
tính ưu việt của nó. Xơ viết Nghệ Tĩnh là nguồn cổ vũ mạnh mẽ cho quần chúng nhân
dân trong cả nước.
- Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Đảng Cộng sản Đông Dương


+ Tháng 10-1930 Ban Chấp hành Trung ương lâm thời đã họp hội nghị lần thứ nhất tại
Hương Cảng (Trung Quốc). Hội nghị đã quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản
Đông Dương, cử Ban chấp hành Trung ương chính thức và cử đồng chí Trần Phú làm
Tổng Bí thư của Đảng. Hội nghị cũng thông qua bản Luận cương chính trị của Đảng.

Luận cương chính trị đã xác định được nhiều vấn đề chiến lược của cách mạng Đơng
Dương, song cịn một số hạn chế nhất định.
- Phong trào cách mạng 1930-1931 chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, nhưng có ý
nghĩa lịch sử to lớn. Tuy thất bại, nhưng để lại những bài học quý giá đối với cách mạng
Việt Nam. Phong trào có ý nghĩa như một cuộc tập dượt đầu tiên của Đảng và quần
chúng cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.
2.4.3. Phong trào cách mạng nước ta trong những năm 1932-1935
- Từ cuối năm 1931 thực dân Pháp đã tiến hành một đợt khủng bố tàn bạo. Cách mạng
Việt Nam bước vào thời kỳ vơ cùng khó khăn, lực lượng cách mạng bị tổn thất nặng nề.
Cùng với việc khủng bố, những thủ đoạn mị dân, lừa bịp cũng được thực dân Pháp thi
hành để lôi kéo các tầng lớp quan lại, địa chủ, tư sản, trí thức, để mê hoặc một bộ phận
nhân dân.
- Trong hồn cảnh hết sức khó khăn đó, các đảng viên cộng sản vẫn kiên cường đấu
tranh. Mặc dù trong lao tù của kẻ địch vẫn nêu cao khí phách của người cộng sản, đấu
tranh chống lại chế độ nhà tù tàn khốc, biến nhà tù địch thành trường học, đấu tranh bảo
vệ lập trường quan điểm của Đảng, tổng kết bài học kinh nghiệm chỉ đạo phong trào, tổ
chức vượt ngục. Những đảng viên không bị bắt đã tìm cách gây dựng lại tổ chức Đảng và
quần chúng. Một số đảng viên đang hoạt động ở Trung Quốc và Thái Lan trở về nước
hoạt động.
- Năm 1932, Lê Hồng Phong cùng một số đồng chí nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản tổ
chức Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng. Tháng 6-1932, Ban lãnh đạo Trung ương thảo
ra Chương trình hành động của Đảng.
- Cuối năm 1933, các tổ chức của Đảng dần dần được khôi phục và củng cố. Đầu 1934,
Ban lãnh đạo Hải ngoại được thành lập do Lê Hồng Phong đứng đầu. Cuối năm 1934,
đầu 1935 các Xứ ủy Bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì được lập lại. Đến đầu 1935, các tổ chức
Đảng và phong trào quần chúng được phục hồi.
- Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương họp từ 27 đến 31-3-1935 tại
Ma Cao (Trung Quốc). Tham dự có 13 đại biểu thay mặt cho 500 đảng viên thuộc các chi
bộ trong nước và các tổ chức Đảng đang hoạt động ở nước ngoài.
+ Đại hội xác định ba nhiệm vụ chủ yếu của Đảng trong thời gian trước mắt là: củng cố

và phát triển Đảng, tranh thủ quần chúng rộng rãi, chống chiến tranh đế quốc.
+ Đại hội thơng qua Nghị quyết chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết vận động công
nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, phụ nữ về cơng tác trong các dân tộc thiểu số, về
đội tự vệ và cứu tế đỏ. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 13 người do Lê
Hồng Phong làm Tổng Bí thư. Nguyễn Ái Quốc được cử làm đại diện của Đảng tại Quốc
tế Cộng sản.
2.5. Phong trào dân chủ (1936 – 1939)
- Tình hình thế giới: vào đầu những năm 30 của thế kỷ XX, chủ nghĩa phát xít xuất hiện ở
một số nước châu Âu và châu Á như Đức, Italia, Nhật Bản. Chúng ráo riết chạy đua vũ
trang, chuẩn bị chiến tranh nhằm chia lại thị trường thế giới. Đứng trước nguy cơ đó,
tháng 7-1935 Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ VII họp tại Mátxcơva đã xác định kẻ thù,
đề ra chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân rộng rãi ở các nước. Tháng 6-1936, Chính


phủ Mặt trận nhân dân lên cầm quyền ở Pháp. Chính phủ mới đã cho thi hành một số
chính sách tiến bộ ở thuộc địa.
- Tình hình trong nước: Chính phủ Pháp cử phái viên sang điều tra tình hình Đơng
Dương. Đời sống của các tầng lớp nhân dân khó khăn, cực khổ.
- Tháng 7-1936, Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Đông Dương họp ở
Thượng Hải (TQ) do Lê Hồng Phong chủ trì. Căn cứ vào tình hình trong nước và thế
giới, dựa trên Nghị quyết của Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII, Đảng ta đã xác định
những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng tư sản dân quyền Đông Dương là chống đế
quốc và chống phong kiến. Phương pháp đấu tranh là kết hợp các hình thức cơng khai và
bí mật, hợp pháp và bất hợp pháp. Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất
nhân dân phản đế Đông Dương.
- Chủ trương của Đảng phù hợp với yêu cầu và nguyện vọng bức thiết của quần chúng
nên đã dấy lên trong cả nước một cao trào đấu tranh mạnh mẽ, sôi nổi, hướng vào các
mục tiêu, trước mắt là đấu tranh địi tự do, dân chủ, cơm áo, hịa bình, với nhiều hình
thức phong phú như: đưa các bản “dân nguyện” gửi tới phái đồn, “đón rước” Gơđa, mít
tinh, biểu tình, đấu tranh nghị trường, đấu tranh trên lĩnh vực báo chí…

Cuộc vận động dân chủ 1936-1939 thực sự là một cao trào cách mạng dân tộc dân chủ
rộng lớn. Thông qua phong trào, quần chúng được giác ngộ về chính trị, Đảng Cộng sản
Đơng Dương đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong việc xây dựng mặt trận dân tộc
thống nhất, kinh nghiệm tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh hợp pháp… Có thể nói,
phong trào dân chủ 1936-1939 như một cuộc tập dượt, chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa
tháng Tám năm 1945.
2.6. Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939-1945). Nước
Việt Nam dân chủ cộng hịa ra đời
- Tình hình Việt Nam trong những năm 1939-1945
+ Tình hình chính trị: tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ở châu Âu,
quân đội Đức tấn công nước Pháp (22-6-1940), bọn tư sản phản động Pháp đứng đầu là
Pêtanh đầu hàng và làm tay sai cho Đức. Ở Đông Dương, Đô đốc Đờcu được cử làm
Tồn quyền đã thi hành một loạt chính sách nhằm vơ vét sức người, sức của ở Đông
Dương để dốc vào chiến tranh. Cuối tháng 9-1940, phát xít Nhật vượt biên giới Việt –
Trung tiến vào miền Bắc Việt Nam. Qn Pháp nhanh chóng đầu hàng. Phát xít Nhật giữ
nguyên bộ máy thống trị của thực dân Pháp, dùng nó để vơ vét kinh tế phục vụ cho nhu
cầu chiến tranh và đàn áp phong trào cách mạng. Nhân dân ta chịu ách thống trị của Nhật
– Pháp
Bước sang năm 1945, trên chiến trường châu Âu phát xít Đức thất bại nặng nề. Ở châu Á
– Thái Bình Dương, quân Nhật thua to tại nhiều nơi. Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính
Pháp độc chiếm Đơng Dương. Lợi dụng cơ hội đó, các đảng phái chính trị ở Việt Nam
tăng cường hoạt động. Quần chúng nhân dân sục sơi khí thế cách mạng sẵn sàng vùng lên
khởi nghĩa.
+ Tình hình kinh tế - xã hội:
Đầu tháng 9-1939, Thực dân Pháp thi hành chính sách “kinh tế chỉ huy”. Quân Nhật
cướp ruộng đất của nông dân, bắt nông dân nhổ lúa, ngơ để trồng đay, thầu dầu phục vụ
chiến tranh. Chính sách vơ vét bóc lột của Pháp – Nhật đã đẩy nhân dân ta tới chỗ cùng
cực, hậu quả là cuối năm 1944 đầu 1945 có gần 2 triệu đồng bào ta chết đói.
- Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 11-1939



+ Từ ngày 6 đến 9-11-1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng được triệu tập tại
Bà Điểm (Hóc Mơn, tỉnh Gia Định) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Hội nghị xác
định nhiệm vụ, mục tiêu đấu tranh trước mắt của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế
quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương. Tạm gác khẩu hiệu cách mạng
ruộng đất, và đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn thực dân, đế quốc và địa chủ
phản bội quyền lợi dân tộc, chống tô cao, lãi nặng. Quyết định chuyển từ đấu tranh đòi
dân sinh, dân chủ sang đấu tranh đánh đổ chính quyền đế quốc tay sai; từ hoạt động hợp
pháp, nửa hợp phá sang hoạt động bí mật. Chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất dân
tộc phản đế Đông Dương.
+ Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11-1939 đã đánh dấu sự
chuyển hướng quan trọng – đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, đưa nhân dân
ta bước vào thời kỳ trực tiếp vận động cứu nước.
- Trong 2 năm 1940 – 1941 đã nổ ra 3 cuộc khởi nghĩa vũ trang: Khởi nghĩa Bắc Sơn
(27-9-1940); khởi nghĩa Nam Kì 23-11-1940 và binh biến Đô Lương 13-1-1941. Các
cuộc nổi dậy thất bại vì điều kiện khởi nghĩa chưa chín muồi, nhưng đó là những tiếng
súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng vũ lực của các
dân tộc Đông Dương.
- Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng
+ Ngày 28-1-1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Sau một thời
gian chuẩn bị, nắm tình hình, Người quyết định triệu tập Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Đơng Dương tại Pác Bó (Cao Bằng) từ ngày 10 đến 195-1941.
+ Hội nghị có ý nghĩa lịch sử to lớn, đã hoàn chỉnh chủ trương được đề ra từ Hội nghị
Trung ương tháng 11-1939 nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc lập
dân tộc và đề ra nhiều chủ trương sáng tạo để thực hiện mục tiêu ấy.
+ Ngày 19-5-1941 Việt Nam độc lập đồng minh ra đời. Tháng 10-1941 Việt Minh cơng
bố Tun ngơn, Chương trình, Điều lệ của mình là tập hợp mọi lực lượng yêu nước, xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân, nhằm thực hiện hai điều cốt yếu mà quốc dân và đồng
bào mong muốn là làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, dân tộc Việt Nam được
sung sướng, tự do

- Công cuộc chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945
+ Lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng... đặc biệt là chuẩn bị
khởi nghĩa vũ trang. Đầu năm 1943, cuộc chiến tranh thế giới chuyển biến theo hướng có
lợi cho cách mạng nước ta. Từ 25 đến 28-2-1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp
tại Võng La (Đông Anh, Hà Nội) đã vạch ra kế hoạch cụ thể, chuẩn bị toàn diện cho khởi
nghĩa vũ trang. Sau hội nghị này, công tác chuẩn bị khởi nghĩa được tiến hành gấp rút:
+ Ở căn cứ địa Bắc Sơn – Vũ Nhai, Cứu quốc quân tuyên truyền vũ trang, gây dựng cơ sở
chính trị, mở rộng khu căn cứ. Năm 1943, Ban Việt Minh liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng lập
ra 19 ban “Xung phong Nam tiến” để phát triển lực lượng xuống các tỉnh miền xuôi.
+ Ngày 7-5-1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị cho các cấp “Sửa soạn khởi nghĩa” và
ngày 10-8-1944, Trung ương Đảng kêu gọi nhân dân “sắm vũ khí, đuổi thù chung”.
- Theo chỉ thị của Nguyễn Ái Quốc, ngày 22-12-1944, đội Việt Nam Tuyên truyền giải
phóng quân được thành lập tại khu rừng Trần Hưng Đạo thuộc huyện Nguyên Bình, tỉnh
Cao Bằng. Chỉ hai ngày sau khi ra đời, Đội đã giành được hai thắng lợi liên tiếp ở Phay
Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng). Căn cứ Cao – Bắc – Lạng được mở rộng.
- Khởi nghĩa giành chính quyền


+ Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn cuối. Tại Đông Dương,
lực lượng Pháp theo phái Đờgôn ráo riết hoạt động, chờ thời cơ phản cơng qn Nhật.
Trước tình thế thất bại gần kề, vào lúc 20 giờ ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp. Quân
Pháp chống cự yếu ớt ở vài nơi rồi mau chóng đầu hàng, dâng tồn bộ nước ta cho Nhật.
+ Ngay khi tiếng súng đảo chính của Nhật vừa bắt đầu, nổ Ban Thường vụ Trung ương
Đảng đã họp tại Đình Bảng (Từ Sơn - Bắc Ninh). Ngày 12-3-1945 ra chỉ thị “Nhật Pháp
bắn nhau và hành động của chúng ta”. Hội nghị quyết định phát động một cao trào kháng
Nhật cứu nước làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa. Từ tháng 3-1945, các cuộc khởi nghĩa
từng phần đã diễn ra tại nhiều địa phương trong cả nước.
- Nhằm đẩy mạnh công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, từ 15 đến 20-4-1945, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ. Hội nghị
quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang, phát triểu hơn nữa lực lượng vũ trang và

nửa vũ trang, mở các trường đào tạo cán bộ quân sự và chính trị cho cách mạng, chủ
trương phát triển chiến tranh du kích, xây dựng căn cứ địa, chuẩn bị khởi nghĩa khi có
thời cơ, cơng cuộc chuẩn bị được gấp rút hoàn thành. Toàn thể dân tộc ta đã sẵn sàng
vùng lên tổng khởi nghĩa.
+ Trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình, từ ngày 13-8-1945, khi nhận được thơng tin
về Nhật Bản sắp đầu hàng, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh lập tức thành lập Ủy
ban khởi nghĩa toàn quốc. Đến 23 giờ cùng ngày, Ủy ban khởi nghĩa tồn quốc cơng bố
“Qn lệnh số 1” chính thức phát lệnh tổng khởi nghĩa trong toàn quốc.
+ Từ ngày 14 đến 15-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương họp
tại Tân Trào (Tuyên Quang) thông qua kế hoạch lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa, quyết
định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội, đối ngoại sau khi giành được chính
quyền.
+ Tiếp đến từ ngày 16 đến 17-8-1945, Đại hội quốc dân được triệu tập tại Tân Trào. Đại
hội nhất trí tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của
Mặt trận Việt Minh, cử Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời sau
này) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
+ Đến giữa tháng 8-1945, khí thế cách mạng sục sơi trong cả nước. Từ ngày 14-8, một số
cấp bộ đảng và tổ chức Việt Minh tuy chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa do thơng tin
liên lạc khó khăn, nhưng căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương và vận dụng chỉ thị
“Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” đã phát động nhân dân khởi nghĩa.
Khởi nghĩa đã nổ ra ở nhiều xã, huyện, thuộc các tỉnh đồng bằng châu thổ sơng Hồng,
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế, Quảng Ngãi, Khánh Hòa…
+ Ngày 18-8-1945, nhân dân Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam là bốn tỉnh
giành được chính quyền ở tỉnh lị sớm nhất.
+ Tại Hà Nội, ngày 19-8, hàng vạn nhân dân nội ngoại thành xuống đường biểu dương
lực lượng. Quần chúng cách mạng có sự hỗ trợ của các đội tự vệ chiến đấu, lần lượt
chiếm Phủ Khâm sai Bắc Bộ, Sở Cảnh sát Trung ương, Sở Bưu điện, Trại Bảo an binh....
Tối 19-8 cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội thắng lợi.
+ Tại Huế, từ sáng sớm ngày 23-8-1945, hàng vạn nhân dân nội, ngoại thành đã kéo về
biểu tình thị uy, chiếm các cơng sở, giành chính quyền về tay nhân dân.

+ Tại Sài Gịn, khởi nghĩa thắng lợi ngày 25-8-1945.
+ Đồng Nai Thượng và Hà Tiên là những địa phương giành chính quyền vào ngày 28-81945.


+ Như vậy, trừ một số thị xã do lực lượng của Trung Hoa Dân quốc và tay sai chiếm
đóng từ trước như: Móng Cái, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Vĩnh Yên… cuộc tổng khởi
nghĩa đã giành được thắng lợi trên cả nước trong vòng 15 ngày (từ 14 đến 28-8-1945).
Chiều ngày 30-8, trước cửa Ngọ Môn, trước cuộc mít tinh của hàng chục vạn nhân dân
thành phố Huế, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị, chế độ phong kiến Việt Nam sụp đổ hoàn
toàn.
- Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), trước cuộc mít tinh lớn của hàng
vạn nhân dân Thủ đô và các vùng lân cận, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm
thời đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố trước toàn thể quốc dân và thế
giới: nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập.
- Cách mạng tháng Tám mở ra bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc ta. Đã đập tan ách
thống trị của chủ nghĩa đế quốc Pháp hơn 80 năm trên đất nước ta và ách thống trị của
phát xít Nhật gần 5 năm, lật đổ chế độ phong kiến chuyên chế ngự trị gần chục thế kỷ ở
nước ta, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - nhà nước do nhân dân lao động làm
chủ.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng
Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc - kỷ nguyên độc lập tự do, kỉ nguyên nhân
dân lao động nắm chính quyền, làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh dân tộc. Kỉ nguyên
giải phóng dân tộc gắn với giải phóng xã hội.
- Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, Đảng Cộng sản Đông Dương trở thành một
Đảng cầm quyền, chuẩn bị những điều kiện tiên quyết cho những thắng lợi tiếp theo.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×