Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHI VẬT THỂ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.77 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ DIỄM

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHI VẬT THỂ TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CƠNG

ĐẮK LẮK, 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ DIỄM

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHI VẬT THỂ TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN KRƠNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK

Ngành: Chính sách công
Mã số: 8340402

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN DUY THỤY


LỜI CAM ĐOAN


Luận văn “Thực hiện Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật
thể trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk” là công trình nghiên cứu khoa
học độc lập của Học viên dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Duy Thụy.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu được công bố trong cơng trình hồn tồn trung thực.
Mọi tham khảo, trích dẫn đều được chú thích rõ ràng.
Tác giả luận văn

Trần Thị Diễm


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu Luận văn: “Thực hiện Chính sách bảo tồn và phát huy giá
trị văn hóa phi vật thể trên địa bàn huyện Krơng Pắc, tỉnh Đắk Lắk”, tác giả đã gặp
phải rất nhiều khó khăn, xong nhờ có sự giúp đỡ của các thầy, cơ giáo, lãnh đạo Phịng
Quản lý di tích Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Lắk, Phịng Văn hóa và
Thơng tin huyện Krơng Pắc nơi thực hiện khảo sát. Tác giả đã hoàn thành được Luận
văn theo đúng kế hoạch đặt ra.
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến TS. Nguyễn Duy Thụy
người đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình chỉ dạy, giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình
thực hiện Luận văn. Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cơ bộ mơn
khoa Chính Sách Công và khoa Sau đại Học của Học Viện Khoa Học Xã Hội đã giúp
đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong quá trình viết Luận văn thạc sĩ.
Xin gửi lời cảm ơn đến ban lãnh đạo Phòng Quản lý di tích Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch tỉnh Đắk Lắk, Phịng Văn hóa và Thơng tin huyện Krơng Pắc đã tạo điều kiện
giúp đỡ tác giả thực hiện khảo sát, nghiên cứu Luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè vì đã ln hỗ trợ tơi và
khuyến khích liên tục trong suốt những năm học tập và qua quá trình nghiên cứu và
viết luận văn này. Thành tựu này sẽ không thể có được nếu khơng có họ.
Trong bài Luận văn, chắc hẳn không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Tơi
mong muốn sẽ nhận được nhiều đóng góp q báu đến từ các quý thầy cô, ban cố vấn

và bạn đọc để Luận văn được hoàn thiện hơn nữa và có ý nghĩa thiết thực áp dụng
trong thực tiễn cuộc sống.
Xin chân thành cảm ơn.


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .....................................................................................................
LỜI CẢM ƠN ...........................................................................................................
MỤC LỤC ................................................................................................................
DANH MỤC BẢNG BIỂU.......................................................................................
MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1............................................................................................................ 16
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ
TRỊ VĂN HÓA PHI VẬT THỂ.................................................................................. 16
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN.............................................................. 16
1.2. NỘI DUNG CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ
VĂN HÓA PHI VẬT THỂ.....................................................................................22
1.3. CHỦ THỂ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ
VĂN HÓA PHI VẬT THỂ..................................................................................... 25
1.4. CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHI VẬT THỂ...................................................................... 25
1.5. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN
VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHI VẬT THỂ.......................................... 32
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1.......................................................................................... 36
CHƯƠNG 2............................................................................................................ 37
THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN CÔNG TÁC BẢO TỒN.............................. 37
VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHI VẬT THỂ TRÊN ĐỊA BÀN..............37
HUYỆN KRÔNG PẮC........................................................................................... 37
2.1. KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, CHÍNH TRỊ, KINH TẾ- XÃ HỘI,
LỊCH SỬ VĂN HĨA, HUYỆN KRƠNG PẮC......................................................37

2.2. PHÂN TÍCH VIỆC BAN HÀNH VÀ TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
TẠI HUYỆN KRÔNG PẮC...................................................................................45


2.3. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ
TRỊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KRÔNG
PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK...........................................................................................48
2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ
PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHI VẬT THỂ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK...........................................................................51
2.5. NGUYÊN NHÂN............................................................................................56
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2..........................................................................................57
CHƯƠNG 3............................................................................................................59
GIẢI PHÁP HỒN THIỆN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN.................59
VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ TẠI.....................59
HUYỆN KRÔNG PẮC...........................................................................................59
3.1. QUAN ĐIỂM VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HĨA PHI VẬT THỂ ĐỐI VỚI HUYỆN KRƠNG PẮC 59
3.2. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ HUYỆN KRÔNG PẮC.................60
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3.......................................................................................... 67
KẾT LUẬN............................................................................................................. 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................... 70


DANH MỤC BẢNG BIỂU
BẢNG 2.1. DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ THUỘC LOẠI HÌNH NGỮ VĂN
DÂN GIAN..................................................................................................................46
BẢNG 2.2. DI SẢN VĂN HĨA PHI VẬT THỂ THUỘC LOẠI HÌNH NGHỆ

THUẬT TRÌNH........................................................................................................... 46
DIỄN DÂN GIAN.......................................................................................................46
BẢNG 2.3. DI SẢN VĂN HĨA PHI VẬT THỂ THUỘC LOẠI HÌNH NGHI LỄ,
..............................................................................................................................47
LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG........................................................................................47
BẢNG 2.4. DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KRÔNG
PẮC.............................................................................................................................47


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự phát triển của mỗi đất nước, văn hóa được coi như một nguồn lực, một nguồn
vốn có vai trị quan trọng trong phát triển bền vững. Ở Việt Nam, nguồn vốn văn hóa
được biểu hiện ở hệ thống di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể. Di sản
văn hóa là những gì được sáng tạo trong quá khứ và truyền lại cho thế hệ sau, là những
sáng tạo của cha ông, thể hiện được chiều sâu của dân tộc, mang tính lịch sử.
Trải qua các giai đoạn lịch sử, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công
tác bảo tồn và phát huy giá trị Di sản văn hóa của dân tộc. Đặc biệt Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 5 (khóa VIII) đã ban hành
Nghị quyết “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc”. Hội nghị xác định rõ: “Những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ thế giới cùng với việc mở rộng giao lưu quốc tế là cơ sở để chúng ta tiếp
thu những thành quả trí tuệ của lồi người, đồng thời cũng đặt ra những thách thức
mới trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc" [10, tr.41].
Tuy nhiên, do tác động của cơ chế thị trường và quá trình hội nhập, nhiều di sản văn
hóa phi vật thể đang bị pha tạp và dần mai một. Thậm chí nhiều làn điệu dân ca, điệu
múa cổ truyền, nhạc cụ dân tộc, lễ hội dân gian, một số nghề thủ công truyền thống và
phương tiện sinh hoạt hằng ngày bị thất truyền, số cịn lại cũng đang ở tình trạng
khơng có điều kiện sản xuất, bị sức ép cạnh tranh rất lớn. Các tài liệu, tư liệu đề cập
từng lĩnh vực lưu giữ khơng nhiều, số cịn lại đang nằm rải rác, chưa có điều kiện sưu
tầm, tập hợp. Những nghệ sĩ, nghệ nhân am tường chuyên môn đã lớn tuổi...

Mặc dù việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể từng bước đã được
thể chế hóa, nhưng từ chủ trương, chính sách cho đến việc triển khai thực hiện vẫn còn
nhiều khoảng cách, khâu chỉ đạo điều hành chưa có sự thống nhất cao. Nguồn kinh
phí, ngân sách, phương tiện, con người cần đầu tư, bố trí cho lĩnh vực này cịn khó
khăn. Bên cạnh đó là những thách thức khơng dễ một sớm một chiều có thể giải quyết
được, vì lâu nay mối quan tâm của chúng ta mới chỉ dừng ở các di

1


sản văn hóa phi vật thể mà chưa quan tâm đến chủ thể sáng tạo nó. Nhiều ý kiến cho
rằng đó là sáng tạo của nhân dân mà chưa ý thức đầy đủ khởi thủy sáng tạo, lưu truyền,
lưu giữ, trao truyền các di sản văn hóa phi vật thể thống từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Việc sưu tầm, nghiên cứu cịn có vai trị của các nghệ nhân. Phát huy vai trò nghệ nhân
trong cộng đồng là cơng việc cần thiết, phải duy trì thường xun, nhưng đáng tiếc
chúng ta làm chưa tốt.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: những vấn đề về chính sách, con người, nhà đầu tư,
các tổ chức xã hội và cộng đồng, nhất là các tổ chức quốc tế... đều là những bộ phận
quan trọng trong việc phát huy những giá trị của các di sản văn hóa phi vật thể được
UNESCO cơng nhận. Để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể một cách căn
cơ, giải pháp nhận thức là quan trọng nhất. Vì từ nhận thức được giá trị, vai trị của di
sản văn hóa này, chính cộng đồng sẽ biết phải làm gì để bảo tồn và phát huy. Trong
những trường hợp cá biệt, chủ thể sáng tạo văn hóa và chủ sở hữu di sản là một cộng
đồng cư dân, thì ý chí, khát vọng, nhu cầu, thậm chí lợi ích của họ cũng có tác động
không nhỏ đến sự tồn vong của di sản văn hóa phi vật thể, bởi chính họ là nhân tố
quyết định những di sản văn hóa phi vật thể nào cần được sử dụng và khai thác nhằm
thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ văn hóa của cá nhân và cộng đồng. Bên cạnh đó, Nhà
nước cần đầu tư nhiều hơn ở lĩnh vực này để đáp ứng nhu cầu thực tiễn, có kế hoạch
hồn chỉnh, xác định những mốc thời gian cụ thể. Có chính sách thỏa đáng, quan tâm
hơn nữa các nghệ nhân để họ truyền dạy cho cộng đồng những di sản còn lưu giữ được

trong tâm thức. Biết cách khơi dậy sức sáng tạo chủ động của nhân dân trong các hình
thức sinh hoạt cộng đồng nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động văn hóa trong thời kỳ mới.
Giữ gìn truyền thống văn hóa trong gia đình, trong làng, bản, tạo điều kiện cho quần
chúng tiếp nhận thông tin về mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội và thực hiện quyền làm
chủ của mình. Đặc biệt chú trọng đến tiếng nói của các chủ thể văn hóa, bảo đảm
quyền của họ trong sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Mặt khác khuyến khích, tạo điều
kiện cho tổ chức, cá nhân nghiên cứu, bảo quản, truyền dạy và giới thiệu di sản văn
hóa phi vật thể. Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học về các giá trị di sản văn hóa
phi vật thể đặc sắc, mở


lớp bồi dưỡng về dân ca, dân vũ truyền thống. Nên học tập cách làm ngân hàng dữ liệu
di sản văn hóa của các nước đã có kinh nghiệm và điều kiện đi trước.
Ngồi ra, u cầu có tính cấp bách là phải chọn lọc được đội ngũ cán bộ thực hiện
chính sách bảo tồn giá trị văn hóa phi vật thể giỏi chun mơn, am hiểu về văn hóa,
phong tục tập quán của đồng bào ở khắp mọi miền Tổ quốc. Bởi điều quan trọng đối
với việc phát huy những di sản văn hóa phi vật thể là làm cho di sản ấy “sống” giữa
cuộc đời, như chính bản chất của nó, góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, đưa
văn hóa trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, đưa di sản văn hóa nói chung, di sản
văn hóa phi vật thể nói riêng mãi là tài nguyên phong phú, là sản phẩm du lịch lợi thế
của nhiều địa phương.
Nhận thức rõ vai trò to lớn của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội,
định hình nên diện mạo của một dân tộc. Chính vì vậy, cơng tác bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa dân tộc là một trong những điểm cốt lõi trong chính sách về văn
hóa của Đảng và Nhà nước ta. Tại Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, khi đưa ra chủ
trương “bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số”, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã khẳng định: “Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền
thống và xây dựng, phát triển những giá trị mới về văn hóa, văn học, nghệ thuật
của các dân tộc thiểu số"[10, tr.63]. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số
124/2003/QĐ-TTG ngày 17 tháng 6 năm 2003 về việc phê duyệt đề án bảo tồn,

phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam với các mục tiêu để bảo tồn, kế
thừa có chọn lọc và phát huy những tinh hoa văn hoá truyền thống của các dân tộc.
Cũng như trên tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, Đề án
“Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiếu số Việt Nam đến năm 2020” đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 27/7/2011.
Thực hiện theo đề án này, UBND tỉnh Đắk Lắk đã ban hành Kế hoạch thực hiện
Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020” trên
địa bàn tỉnh nhằm triển khai hiệu quả các tiểu Đề án theo Quyết định số 1270/QĐ-TTg
ngày 27/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ, qua đó thực hiện tốt công tác bảo tồn và
nâng cao năng lực tự bảo vệ trước nguy cơ mai một văn hoá của các dân tộc thiểu số
rất ít người, tạo điều kiện phát huy văn hố các dân tộc thiểu số có


số dân đơng; bảo tồn, phát triển văn hố các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh đến năm
2020.
Krông Pắc cũng như các địa phương khác ở tỉnh Đắk Lắk đang nỗ lực triển khai thực
hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể. Việc thực hiện các
chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể ở địa phương đạt được những
thành tựu nhất định, tuy nhiên bên cạnh đó, việc thực hiện chính sách này cịn gặp phải
những tồn tại, hạn chế. Việc ban hành cơ chế chính sách đặc thù của địa phương để
thực thi chính sách cịn chậm dẫn đến tình trạng một số di sản phi vật thể của cộng
đồng nhân dân các dân tộc huyện Krơng Pắc ngày một mai một, thậm chí một số di sản
đã thất truyền Trước sự vận động và biến đổi không ngừng của thế giới, sự phát triển
của nền kinh tế thị trường, xu thế hội nhập hiện nay đã ảnh hưởng lớn đến văn hóa của
các dân tộc nói chung và ảnh hưởng tới giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc ở
huyện Krơng Pắc, tỉnh Đắk Lắk nói riêng. Do sự tác động của nền kinh tế thị trường,
do ảnh hưởng mạnh mẽ của các giá trị văn hóa từ các cộng đồng dân cư khác mang
tới; ảnh hưởng của tôn giáo mới…, những giá trị văn hóa truyền thống của các tộc
người có nguy cơ mai một, đứt gãy trong q trình hội nhập. Thực trạng này đã đặt ra
vấn đề về tính cấp thiết của việc hồn thiện các giải pháp triển khai thực hiện chính

sách về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể ở huyện Krơng Pắc hiện nay.
Từ thực tiễn đó, vấn đề “Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa phi vật thể trên địa bàn huyện Krơng Pắc, tỉnh Đắk Lắk” được chọn làm
đề tài luận văn thạc sĩ, chun ngành Chính sách cơng là có ý nghĩa thời sự, lý luận
và thực tiễn cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Di sản văn hóa phi vật thể nói riêng và hệ thống di sản văn hóa nói chung có q trình
hình thành và phát triển lâu đời, gắn bó hữu cơ với đời sống văn hóa, đời sống xã hội
của mỗi quốc gia, do con người tạo ra, được kế thừa, giữ gìn từ thế hệ này sang thế hệ
khác.
Văn kiện của Tổ chức UNESCO (1971) mang tên “Khả năng thiết lập các văn
kiện quốc tế để bảo vệ văn hóa dân gian” (Posibility establishing international


instrument to protect Folklore). Năm 1989, UNESCO đưa ra văn kiện có tính chất quy
phạm quốc tế đầu tiên đó là ‘The recommendation on the Safeguarding of Traditional
Culture and Folklore” (Khuyến nghị bảo vệ văn hóa truyền thống và văn hóa dân
gian). Như vậy, có thể nói trong năm 1971 đã được hiện thực hóa thành một văn kiện
chính thức; phạm vi bảo vệ được mở rộng bao gồm cả văn hóa truyền thống. Năm
1992, một chương trình về di sản văn hóa phi vật thể đã được thiết lập. Năm 1997,
chương trình này được UNESCO nâng lên thành chương trình được ưu tiên hàng đầu
trong lĩnh vực văn hóa của UNESCO thể hiện cụ thể ở dự án mang tên “cơng bố chính
thức kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại”. Điều này đã giúp
cho khái niệm “di sản thế giới” được hồn thiện hơn khi mà trước đó chỉ được hiểu là
di sản thiên nhiên và các di sản văn hóa vật thể. Đến năm 2003, sau rất nhiều phiên
họp thảo luận của UNESCO, Cơng ước về di sản văn hóa phi vật thể đã được thông
qua; đây là kết quả của q trình nhận thức lâu dài, qua đó đã thiết lập được khái niệm
khá toàn diện về di sản văn hóa phi vật thể. Qua những quan niệm trên có thể rút ra
một số nhận xét như sau:
Hầu hết các khái niệm đều cố gắng liệt kê ra các dạng của di sản văn hóa phi vật thể

như nghệ thuật múa, nhạc, ngôn ngữ, nghề thủ công truyền thống,… Các cơng trình
nghiên cứu này có thể loại trừ một vài nét văn hóa mà trong tương lai mới được biết
đến và cơng nhận là di sản văn hóa phi vật thể. Tuy nhiên, họ cũng đưa ra biểu hiện cụ
thể của di sản văn hóa phi vật thể một cách rõ ràng, sẽ trả lời được câu hỏi: loại hình
mà chúng ta đang cần bảo vệ cụ thể hiện nay là loại hình nào. Các quan niệm trên đều
xác định các giá trị nổi bật của di sản văn hóa phi vật thể đó là: giá trị lịch sử, giá trị
nghệ thuật, giá trị học thuật. Những giá trị ấy là cốt lõi của vấn đề bảo vệ di sản văn
hóa. Bảo vệ khơng chỉ vì sự hiện diện của một loại hình di sản trong hệ thống di sản
văn hóa, mà bảo vệ để lưu giữ những giá trị mà nó đem đến cho cộng đồng. Giá trị ấy
là động lực thúc đẩy mỗi quốc gia có những hành động tích cực bảo vệ di sản văn hóa
phi vật thể.
Việc cụ thể hóa di sản văn hóa phi vật thể là một điều khó khăn bởi nó khơng có hình
dáng nhất định nhưng có thể thấy con người chính là nơi chứa đựng những di sản văn
hóa đó. Những di sản này không hiện hữu một cách rõ ràng như một ngôi


chùa, hay một cơng trình kiến trúc mà cần có con người sử dụng, truyền tải thì người
khác mới biết đến sự tồn tại của nó. Nếu những người cuối cùng lưu giữ di sản đó mất
đi thì những di sản ấy cũng sẽ biến mất. Vì vậy, con người là trung tâm của di sản văn
hóa phi vật thể.
Ở nước ta, Tại Việt Nam mặc dù đến năm 2001 mới có Luật Di sản văn hóa nhưng việc
bảo vệ di sản văn hóa đã được đặt ra trước đó khá lâu. Các bộ Luật thời trung đại
(Quốc triều hình luật - đời Lý; Lê triều hình luật - Luật Hồng Đức, thời Lê; Hoàng Việt
luật lệ - Luật Gia Long, thời Nguyễn) và các bộ sử, chí, lục thời trung đại (Đại Việt sử
kí tồn thư, Lam Sơn thực lục, Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam nhất thống
chí, Gia Định thành thơng chí, Đại Nam thực lục…) có thể thấy, các vị vua phong kiến
xưa cũng đã ý thức được việc phải bảo vệ các di sản văn hóa. Đặc biệt là các cơng
trình kiến trúc tơn giáo thể hiện sự tôn nghiêm, uy quyền của thần thánh, của nhà vua,
được xây dựng với cơng sức đóng góp của tồn dân, thể hiện tài năng, trí óc, tâm linh,
tình cảm, niềm tin, hi vọng của các vương triều cũng như cộng đồng nhân dân được hết

sức giữ gìn.
Đến thời kì lịch sử hiện đại, văn bản đầu tiên đề cập đến vấn đề này là Sắc lệnh số
65/SL ngày 23 ngày 11 năm 1945 của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
“Ấn định nhiệm vụ của Đông phương bác cổ học viện”. Sắc lệnh khẳng định việc bảo
tồn cổ tích là cơng việc rất quan trọng và rất cần thiết cho công cuộc kiến thiết nước
Việt Nam.
Năm 1958, tại Hội nghị cán bộ văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Những câu tục ngữ, những câu vè, cao dao rất hay là những sáng tác của quần
chúng. Các sáng tác ấy rất hay mà lại ngắn, chứ không “trường thiên đại hải”, dây
cà ra dây muống. Các cán bộ văn hóa cần phải giúp sáng tác của quần chúng.
Những sáng tác ấy là những hịn ngọc q” [31, tr.125-127 ]
Những lời nói giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ cách đây hơn nửa thế kỷ đã
là những định hướng đầu tiên về vấn đề bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể.
Đến năm 2001, lần đầu tiên vấn đề bảo vệ di sản văn hóa được thể chế hóa thành Luật.
Ngày 29/06/2001 Quốc hội nước ta đã ban hành Luật di sản văn hóa, tiếp đó được sửa
đổi bổ sung bởi Luật số 32/2009/QH12 sửa đổi bổ sung một số


điều của Luật di sản văn hóa 2001. [chương I, điều 4] đây là cơ sở pháp lý để chúng ta
thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể trong bối cảnh vừa
phát triển kinh tế-xã hội; vừa bảo vệ di sản văn hóa cho mn đời sau.
Tác giả Lê Đình Thành có nghiên cứu về “Thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa
phi vật thể ở Phú Thọ”. Tác giả phân tích đánh giá: Để di sản văn hóa phi vật thể lan
tỏa trong cộng đồng, có thể nói, đến thời điểm này, Phú Thọ đã rất chú trọng, quan tâm
tới cơng tác thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật
thể và đã đạt được những thành tựu đáng trân trọng. Tuy nhiên, cũng như các địa
phương khác trên cả nước, Phú Thọ cịn rất nhiều khó khăn trong q trình thực hiện
chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể với thực trạng
nguy cơ thất truyền, mai một của nhiều loại hình di sản văn hóa phi vật thể, việc phát
huy giá trị các lễ hội truyền thống còn nhiều hạn chế; việc sưu tầm, bảo tồn và phát

huy các di sản văn hóa phi vật thể chưa tương xứng với tiềm năng hiện có; nguồn kinh
phí, ngân sách, phương tiện, con người cần đầu tư, bố trí cho lĩnh vực này cịn khó
khăn [40].
Tác giả nêu lập luận: Để nâng cao chất lượng và hiệu quả trong thực hiện chính sách
bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh, việc cần thiết và
cơ bản chính là bằng biện pháp đưa những di sản văn hóa này trở lại với cộng đồng
sinh hoạt văn hóa, bằng cách khơi dậy tình u, lịng tự hào đối với truyền thống của
dân tộc trong mỗi người dân tới tồn cộng đồng. Thực hiện tốt cơng tác kiểm kê, lập
hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể tại địa phương một cách khoa học và có hệ
thống thơng qua việc tư liệu hóa, vật thể hóa hệ thống di sản văn hóa phi vật thể nhằm
nhận diện và xác định mức độ tồn tại, giá trị và sức sống của từng loại di sản văn hóa
phi vật thể trong cộng đồng trên cơ sở đó đề xuất phương án bảo tồn, phát huy một
cách hiệu quả. Bên cạnh đó, cần tăng cường thực hiện cơ chế chính sách đặc thù để
tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động trên, gắn trách nhiệm của các cấp
chính quyền, đồn thể và người dân nhằm thực hiện xã hội hóa cơng tác bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hóa; tăng cường tuyên truyền về bảo tồn văn hóa phi vật thể
cho người dân nâng cao nhận thức về truyền thống văn hóa của dân tộc để từ đó mỗi cá
nhân có ý thức bảo vệ di sản. Đồng thời đưa di sản văn hóa phi vật thể vào bảo quản
trong các kho tư liệu, vào giảng dạy trong nhà trường, tổ chức sinh hoạt trong cộng
đồng hay tại các bảo tàng


và có chính sách, chế độ cho các nghệ nhân, những cá nhân có cơng sức gìn giữ, bảo
tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc.
Tác giả Khánh Vân trong chuyên đề khoa học “Thực hiện chính sách bảo tồn và phát
huy giá trị văn hóa phi vật thể ở Sơn La” [53], tác giả phân tích sâu sắc: Thực hiện
Luật Di sản Văn hóa, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Sơn La đã làm tốt cơng tác
xây dựng chính sách này thơng qua các hoạt động: kiểm kê di tích lịch sử - văn hóa và
danh lam thắng cảnh trên địa bàn, đánh giá thực trạng về tổ chức thực hiện chính sách
bảo tồn, phát huy giá trị các di tích đã được xếp hạng. Đồng thời, tổ chức điều tra, khảo

sát, nghiên cứu lập hồ sơ khoa học đề nghị các cấp xếp hạng các di tích lịch sử - văn
hóa, danh lam thắng cảnh trên địa bàn toàn tỉnh. Tác giả phân tích để thực hiện chính
sách này, cơ quan chủ trì thực hiện chính sách đã xây dựng kế hoạch thực hiện; tiến
hành các hoạt động như: thống kê, tỉnh ta hiện có 96 di tích được đưa vào danh mục,
trong đó, 1 di tích quốc gia đặc biệt, 16 di tích quốc gia, 46 di tích cấp tỉnh, 33 di tích
chưa được xếp hạng. Các đơn vị, địa phương được giao quản lý các di tích lịch sử và
danh lam, thắng cảnh đã làm tốt công tác bảo tồn và khai thác hiệu quả, hàng năm thu
hút hàng nghìn lượt người tham quan, học tập và nghiên cứu, góp phần vào việc giáo
dục truyền thống, ý thức phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng mơi trường văn
hóa lành mạnh trong các tầng lớp nhân dân. Một số di tích đã có nguồn thu từ phí tham
quan để đầu tư trở lại cho công tác trùng tu, tơn tạo, chống xuống cấp, như: Di tích
Quốc gia đặc biệt Nhà tù Sơn La, Di tích Văn bia Quế lâm Ngự chế - Đền thờ Vua Lê
Thái Tông, Di tích lịch sử lưu niệm Trung đồn Tây Tiến...Để thực hiện duy trì chính
sách ở địa phương, cơ quan chủ trì thực hiện chính sách là Sở Văn hóa Thể thao và Du
lịch đã phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức bảo tồn các tư liệu, hiện vật văn
hóa, lịch sử, dân tộc ln được quan tâm, Bảo tàng tỉnh đang lưu giữ hơn 20 ngàn tài
liệu, hiện vật, trong đó có các sưu tập hiện vật quý, như: Sưu tập đồ đồng, trống đồng;
sách chữ Thái cổ, Dao cổ; trang phục các dân tộc thiểu số... được trưng bày theo một
số chuyên đề trong không gian của Di tích quốc gia đặc biệt Nhà tù Sơn La, như: Đặc
trưng văn hóa các dân tộc Sơn La; Khảo cổ học Sơn La thời kỳ Tiền - Sơ sử; Bác Hồ
với nhân dân các dân tộc Sơn La; các di sản văn hóa tiêu biểu của các dân tộc


được công nhận và đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Nhà trưng
bày “Di sản văn hóa vùng lịng hồ Thủy điện Sơn La” với hệ thống kho bảo quản hơn
6.000 hiện vật được sưu tầm, khai quật trong vùng ngập của Nhà máy thủy điện Sơn
La và hệ thống trưng bày các hiện vật được khai quật từ các di chỉ khảo cổ học, quá
trình xây dựng Nhà máy thủy điện Sơn La; văn hóa các dân tộc trong vùng ngập của
lịng hồ thủy điện Sơn La.
Đề cơng tác thực hiện chính sách được duy trì liên tục, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch

đã thực hiện việc kiểm tra thực hiện các nội dung của chính sách bảo tồn và phát huy
giá trị văn hóa phi vật thể như: tiến hành kiểm kê di sản văn hóa của các dân tộc trên
địa bàn để nhận diện đầy đủ đặc trưng văn hóa của các dân tộc, các ngành và các nhóm
địa phương với 9 dân tộc, gồm: Thái, Mông, Dao, Mường, Xinh Mun, Khơ Mú, La Ha,
Lào, Kháng và nghiên cứu lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu, đề
nghị đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Kết quả, Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch đã cơng nhận và đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
12 di sản văn hóa tiêu biểu, đó là: Chữ viết cổ dân tộc Thái, Lễ Hết Chá dân tộc Thái
(nhóm Thái trắng Mộc Châu); nghệ thuật xịe Thái; lễ cúng dịng họ dân tộc Mơng; lễ
Pang A (cầu an) của dân tộc La Ha; nghi lễ cấp sắc của dân tộc Dao; nghệ thuật khèn
của người Mông huyện Mộc Châu; nghi lễ truyền thống trong đám cưới của người Dao
tiền; lễ gội đầu của người Thái trắng huyện Quỳnh Nhai; nghệ thuật tạo hoa văn trên
trang phục của người Mông hoa huyện Mộc Châu; nghi lễ Mạng Ma (cầu sức khỏe)
của người Xinh Mun, xã Chiềng On, huyện Yên Châu; nghi lễ Kin Pang Then của
người Thái trắng. Duy trì tốt hoạt động nghiên cứu, sưu tầm, chế tác, thể hiện, truyền
dạy và tư liệu hóa văn hóa truyền thống của các dân tộc, như: Nhạc cụ của người
Mông, Thái, Dao, Khơ Mú; các làn điệu dân ca của người Dao, Thái, Mường, Mông;
nghề làm giấy và nghệ thuật vẽ tranh thờ trên giấy dó của người Dao; nghi lễ cúng vía
trâu của người Thái; lễ cúng bản của người La Ha; lễ mừng cơm mới của người Lào;
nghề thêu và in hoa văn bằng sáp ong trên vải của dân tộc Mơng...
Bên cạnh đó, từ năm 1992 đến nay tồn tỉnh thường xun duy trì trên 3.000 đội văn
nghệ quần chúng tại các bản, tổ, tiểu khu. Ngồi kinh phí hỗ trợ 2 triệu


đồng/bản/năm theo chính sách của tỉnh, các đội văn nghệ đã kêu gọi xã hội hóa, huy
động nhân dân đóng góp để duy trì hoạt động, tham gia biểu diễn giao lưu, liên hoan,
hội thi, hội diễn. Nhờ đó, phong trào văn hóa, văn nghệ quần chúng của tỉnh phát triển
mạnh, là môi trường tốt để bảo tồn những điệu múa, dân ca, nhạc cụ truyền thống, góp
phần gìn giữ bản sắc văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân và tổ chức
phục vụ khách du lịch. [ ]

Trương Bi, Bùi Minh Vũ (2009), trong cơng trình Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa
các dân tộc Êđê, Mnơng, trên cơ sở đặc trưng văn hóa của người Êđê, Mnông trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk, các tác giả đã cho thấy việc cần thiết phải bảo tồn, phát huy di sản
văn hóa của dân tộc Êđê, Mnơng đặc biệt là di sản VHPVT khơng gian văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên – đã được UNESCO công nhận là Di sản VHPVT đại diện của
nhân loại [6].
Năm 2016, Viện Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên phối hợp với Cơ quan đại diện Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch tại Đà Nẵng đã tổ chức Hội thảo “Bảo tồn và phát huy
giá trị văn hóa truyền thống các DTTS tại chỗ vùng Tây Nguyên”. Hội thảo đã nhận
được nhiều bài tham luận liên quan đến thực trạng văn hóa của các DTTS và vấn đề
bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa của Tây Nguyên. Các tác giả như Trương Quốc
Bình, H’Lim, Bùi Minh Đạo,… đã quan tâm đến các chính sách bảo tồn văn hóa và
đưa ra một số vấn đề tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện chính sách này đồng thời đề
xuất các giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa của các dân tộc ở Tây
Nguyên nói chung [54].
Nghiên cứu của tác giả Mã Thị Hạnh (2016), Giữ gìn và phát huy giá trị văn
hố của dân tộc Mnông ở huyện Lăk hiện nay đã tập trung nhấn mạnh về cơng tác giữ
gìn và phát huy các giá trị văn hóa của tộc người Mnơng ở huyện Lăk, tỉnh Đăk Lăk
[23].
Ngay trong đầu năm 2021, Trong khuôn khổ chương trình Hội thảo Triển khai thực
hiện Chương trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn phát huy giá trị văn hóa truyền
thống vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi trên địa bàn các tỉnh Tây
Nguyên và duyên hải miền Trung do Hội đồng Dân tộc, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục,
Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội phối hợp với Ủy ban Dân tộc và
Tỉnh ủy Đắk Lắk tổ chức ngày 13/01 tại Đắk Lắk; ngoài thảo luận, bàn


giải pháp triển khai thưc hiện Chương trình, chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng
DTTS và miền núi, các đại biểu đặc biệt quan tâm đến nội dung bảo tồn phát huy giá
trị văn hóa truyền thống vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Ngay trong bài

phát biểu khai mạc Hội thảo, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tịng Thị Phóng nhấn
mạnh: Tây Nguyên là trung tâm giao thoa nhiều nguồn văn hóa, đồng bào các dân tộc
bao đời nay đã sưu tầm và giữ gìn các giá rị văn hóa đặc sắc như: sử thi, thơ ca, múa,
cồng chiêng…. Đó là tinh hoa văn hóa vật thể và phi vật thể độc đáo riêng có của Tây
Nguyên. Mỗi chúng ta phải có trách nhiệm cùng đồng bào Tây Nguyên giữ gìn những giá
trị văn hóa rất riêng đó,… Phó chủ tịch Thường trực Quốc hội đề nghị, Hội thảo cần bàn
kỹ về bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa Tây Nguyên để có những chương trình cụ thể
nhằm tiếp tục giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa độc đáo của đồng bào các dân tộc Tây
Nguyên; bảo tồn không gian văn hóa Tây Nguyên gắn với phát triển kinh tế, đảm bảo an
ninh chính trị.[ , ngày 13/01/2021]
Tác giả Lê Thọ Quốc và Nguyễn Chí Ngàn trong nghiên cứu ”Vấn đề bảo tồn, phát
huy giá trị văn hóa tinh thần trong các cộng đồng tái định cư ở vùng kinh tế trọng điểm
Trung bộ hiện nay” đã phân tích:
Miền Trung Việt Nam đang có những bước chuyển mình về kinh tế với việc thu
hút đầu tư trong và ngoài nước trên nhiều lĩnh vực ngày một tăng. Vùng kinh tế trọng
điểm Trung Bộ với những trung tâm phát triển như Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định đã tạo nên một nền móng khá vững trong chiến lược
phát triển kinh tế vùng và bước đầu có những tác động, hiệu quả thiết thực trong đời
sống cư dân. Tuy nhiên, những chuyển biến này đã gây nhiều xáo trộn đối với các cộng
đồng cư dân sinh sống ở đây và việc tái định cư đã, đang đặt ra nhiều vấn đề cần
nghiên cứu. Trong đó, vấn đề thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa tinh thần trong các cộng đồng tái định cư ở các vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung được đặc biệt chú ý bên cạnh việc đảm bảo kinh tế, ổn định đời sống của cư dân
trên vùng đất mới. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Cho nên, việc thực hiện chính sách bảo
tồn và phát huy văn hóa ln có sứ mệnh quan trọng trong việc xây dựng và phát triển
đời sống các cộng đồng cư dân tái định cư. Mặt


khác, phát triển và quản lý xã hội luôn lấy các thành tố kinh tế, văn hóa và chỉ số phát

triển con người (HDI) làm thước đo chuẩn mực trong chiến lược phát triển bền vững.
Từ mối quan hệ này, các giá trị văn hóa tinh thần lẫn vật chất nếu được bảo tồn và phát
huy tốt sẽ tạo nên diện mạo mới trong đời sống cho mỗi cộng đồng. Hơn nữa, nếu vận
dụng một cách hiệu quả sẽ phát huy được tác dụng của nó trong việc phục hồi các di
sản văn hóa khơng riêng ở những bộ phận tái định cư mà cịn làm giàu thêm văn hóa
dân tộc trước những tác động của xu hướng toàn cầu hiện nay. [38, tr.41- 42]
Tác giả Vũ Tuấn Hưng trong Đề tài khoa học cấp Nhà nước: “Bảo tồn và phát triển

tài sản trí tuệ vùng Tây Nguyên trong bối cảnh hội nhập mới” được phân tích,
đánh giá dưới góc độ nhìn nhận vai trị của các tài sản trí tuệ là một trong những yếu tố
quan trọng thúc đẩy cho sự phát triển bền vững của cộng đồng dân cư các đồng bào
dân tộc thiểu số của Tây Nguyên cũng như trong mối quan hệ biện chứng giữa bảo tồn
và phát triển, phát triển nhằm bảo tồn, và bảo tồn để phát triển. Nghiên cứu đã chỉ ra:
Tây Nguyên là một vùng có nhiều tiềm năng về tài sản trí tuệ, trong đó, đặc biệt là các
tài sản trí tuệ gắn với văn hóa bản địa, tri thức truyền thống và vơ vàn sản phẩm đặc
trưng Tây Ngun. Nhóm tác giả cũng đã đánh giá những thành tựu, hạn chế và
nguyên nhân của của nó trong việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển tài sản trí
tuệ vùng Tây Nguyên. Trên cơ sở đó, các tác giả đề xuất quan điểm, định hướng, giải
pháp chính sách cho bảo tồn và phát triển tài sản trí tuệ vùng Tây Nguyên trong bối
cảnh hội nhập quốc tế mới [27].
Tác giả Nguyễn Duy Thụy (Chủ nhiệm) (2018) trong Đề tài cấp Bộ với tiêu đề: “An
sinh xã hội đối với đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ tỉnh Đắk Lắk hiện nay”, đã chỉ rõ
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Đắk Lắc, Nhà nước cần quan tâm thực
hiện các chính sách an sinh xã hội; trong đó có việc nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho đồng bào dân tộc thiểu số. Để thực hiện được các mục tiêu này thì cơng tác tổ
chức thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể cần được sự
quan tâm của các cấp các ngành và các tổ chức chính trị xã hội ở địa phương; góp phần
bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho đồng bào dân



tộc thiểu số; góp phần vào cơng tác thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở
những vùng khó khăn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay [44].
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở hệ thống hố cơ sở lý luận, phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính
sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh
Đắk Lắk, từ đó đề xuất các giải pháp hồn thiện việc thực hiện chính sách bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa phi vật thể trên địa bàn huyện Krơng Pắc, tỉnh Đắk Lắk trong
những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về chính sách bảo tồn và phát huy giá
trị văn hóa phi vật thể.
- Phân tích đánh giá thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa phi vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát
huy giá trị văn hóa phi vật thể trên địa bàn huyện Krơng Pắc, tỉnh Đắk Lắk trong
thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực hiện Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi
vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc.
- Phạm vi không gian: Huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
- Phạm vi thời gian: Từ 2018 đến 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cách tiếp cận
Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và dựa trên quan điểm của Đảng, Nhà nước

về vấn đề chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi


vật thể nói chung, thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật
thể trên địa bàn huyện Krơng Pắc nói riêng.
5.2. Câu hỏi nghiên cứu
- Những vấn đề lý luận về chính sách đối với Di sản văn hóa phi vật thể là gì?
- Thực trạng ban hành và thực hiện chính sách đối với Di sản văn hóa phi vật
thể tại huyện Krông Pắc hiện nay được thực hiện như thế nào? Có được kết quả như
thế nào so với mục tiêu chính sách đề ra chưa?
- Giải pháp như thế nào nhằm đổi mới, hồn thiện thực hiện chính sách về Di
sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và nhiều phương pháp
khác.
- Phương pháp định tính: Thực hiện phỏng vấn sâu 20người gồm: các cụ cao
niên, các nhà nghiên cứu lịch sử - văn hóa Huyện Krơng Pắc, hội viên Hội Bảo tồn
dân ca huyện Krông Pắc, hội viên Hội Di sản văn hóa huyện Krơng Pắc, cán bộ làm
cơng tác văn hóa từ cơ sở đến huyện, cán bộ bảo tàng tỉnh, chuyên viên văn xã văn
phòng UBND huyện.
- Phương pháp xử lý số liệu: Sử dụng phương pháp thống kê.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành trong khoa học xã hội:
Bao gồm chính sách cơng, kinh tế học, xã hội học, chính trị học, nhân học, văn hóa
học… để phân tích, tổng hợp, làm nổi bật được vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp tổng hợp, thu thập số liệu:
+ Các văn bản: Nghị quyết, chỉ thị của Đảng; chính sách của Nhà nước về Di sản văn
hóa phi vật thể.
+ Số liệu thứ cấp: Các số liệu về tên, địa chỉ các di sản văn hóa phi vật thể tại huyện
Krông Pắc.
+ Số liệu sơ cấp: Tác giả luận văn tự thu thập thông tin qua điều tra thực tế tại các địa

chỉ có di sản, tư liệu tại Phịng Văn hóa và Thơng tin huyện, Hội Bảo tồn dân ca huyện
Krơng Pắc và Hội Di sản văn hóa Krông Pắc,
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận


Luận văn đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa phi vật thể; vận dụng lý thuyết về chính sách cơng để đánh giá việc thực hiện chính
sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể ở cấp quận/huyện.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đánh giá mặt đạt được và chưa được thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn
và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể tại huyện Krông Pắc hiện nay.
- Từ thực tiễn đề xuất, khuyến nghị bổ sung, hoàn thiện thực hiện chính sách
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể tại huyện Krơng Pắc để di sản phi vật
thể được phát huy giá trị, tiềm năng vốn có của nó, đưa di sản văn hóa phi vật thể là
nét truyền thống văn hóa đặc sắc của vùng miền, địa phương đặc biệt là đối với
huyện Krơng Pắc. Đây có thể là tư liệu cho các nhà quản lý văn hóa ở địa phương
tham khảo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn có 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi
vật thể.
Chương 2. Thực trạng việcthực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi
vật thể trên địa bànhuyện Krơng Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa phi vật thể trên địa bànhuyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT

HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm Chính sách công
Ở các nước phát triển và các tổ chức kinh tế quốc tế, thuật ngữ “Chính sách cơng”
được sử dụng rất phổ biến. Có thể nêu ra một số quan niệm sau:
Chính sách cơng là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính
trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải
pháp để đạt các mục tiêu đó (William Jenkin, 1978). [University Press, 1995, p.5]
Chính sách cơng là một tập hợp các quyết định liên quan với nhau do Nhà nước ban
hành, bao gồm các mục tiêu và giải pháp để giải quyết một vấn đề công nhằm đạt được
các mục tiêu phát triển [41, tr.10].
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực
hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định,
trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính
sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa...” [47,
tr.475]
Chính sách cơng là một q trình hành động hoặc khơng hành động của chính quyền
để đáp lại một vấn đề cơng cộng. Nó được kết hợp với các cách thức và mục tiêu chính
sách đã được chấp thuận một cách chính thức, cũng như các quy định và thông lệ của
các cơ quan chức năng thực hiện những chương trình (Kraft and Furlong, 2004). [56,
tr.1-9]
Tác giả Nguyễn Hữu Hải định nghĩa chính sách cơng có thể được nhìn nhận như sau:
Trước hết, là một chính sách của nhà nước, của chính phủ (do nhà nước, do chính phủ
đưa ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và chính sách nói

chung của mỗi

nước.
Thứ hai, về mặt kinh tế, chính sách cơng phản ánh và thể hiện hoạt động cũng như
quản lý đối với khu vực công, phản ánh việc đảm bảo hàng hóa, dịch vụ cơng cộng cho

nền kinh tế.


Thứ ba, là một công cụ quản lý của nhà nước, được nhà nước sử dụng để: Khuyến
khích việc sản xuất, đảm bảo hàng hóa, dịch vụ cơng cho nền kinh tế, khuyến khích cả
với khu vực cơng và cả với khu vực tư; Quản lý nguồn lực công một cách hiệu quả,
hiệu lực, thiết thực đối với cả kinh tế, chính trị, xã hội, mơi trường, cả trong ngắn hạn
lẫn trong dài hạn. Nói cách khác chính sách cơng là một trong những căn cứ đo lường
năng lực hoạch định chính sách, xác định mục tiêu, căn cứ kiểm tra, đánh giá, xác định
trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực công như ngân sách nhà nước, tài sản công,
tài nguyên đất nước. [17, tr.14]
Tác giả Hồ Việt Hạnh đưa ra khái niệm về chính sách cơng như sau: “Chính sách cơng
là những quyết định của chủ thể được trao quyền lực cơng nhằm giải quyết những vấn
đề vì lợi ích chung của cộng đồng” [22, tr.3-6.]. Đây là khái niệm chung nhất liên quan
đến chính sách cơng và tác giả luận văn đồng tình sử dụng khái niệm này.
Tác giả Nguyễn Khắc Bình đưa ra khái niệm về chính sách cơng như sau: “Chính sách
cơng là hoạt động mà chính phủ chọn thực hiện hoặc khơng thực hiện để điều hòa các
xung đột trong xã hội nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng nhất định”.[5]
1.1.2. Khái niệm thực hiện chính sách cơng
Tác giả Nguyễn Khắc Bình đã định nghĩa về thực hiện chính sách cơng như sau:
Thực hiện chính sách là tồn bộ q trình chuyển hóa ý chí của chủ thể trong
chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lí nhằm đạt được mục tiêu định
hướng của Nhà nước.
Trong nghiên cứu này, người viết theo quan điểm của tác giả Nguyễn Khắc Bình để
phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa phi vật thể tại huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
1.1.3. Khái niệm Chính sách văn hóa
Chính sách văn hóa là tổng thể các nguyên tắc hoạt động, các cách thực hành, các
phương pháp quản lý hành chính và phương pháp ngân sách của Nhà nước dùng làm
cơ sở cho các hoạt động văn hóa nghệ thuật (UNESCO).



Chính sách văn hóa có các cơng cụ khác nhau, gồm: Luật pháp và các phương pháp
hành chính; ngân sách và hệ thống thuế, trong đó các bộ luật, luật, văn bản pháp quy;
cách thức đầu tư từ ngân sách, hệ thống thuế là công cụ quan trọng nhất để điều hành
sự phát triển văn hóa.
Các chính sách văn hóa đều là các thực hành nhà nước dựa trên các nguồn lực về tài
chính, vật lực và nhân lực, trong những điều kiện có thể có của thời điểm. Các tổ chức
văn hóa dựa vào các nguồn lực này mà triển khai các hoạt động thực thi chính sách.
Trong những hồn cảnh của Việt Nam, khái niệm chính sách văn hóa đã được xác định
dựa trên các quan niệm về văn hóa, về vai trị của văn hóa trong phát triển đất nước,
xây dựng con người mới của chế độ mới. Trong bối cảnh nước ta, văn hóa được coi là
một lĩnh vực của cơng tác tư tưởng, văn hóa là một mặt trận, bên cạnh các chức năng
đặc thù khác về mặt thẩm mỹ, giải trí, tái tạo sáng tạo.
Từ đặc điểm này, có thể định nghĩa về chính sách văn hóa: “Chính sách văn
hóa là một hệ thống các nguyên tắc, các thực hành của nhà nước trong lĩnh vực văn
hóa nhằm phát triển và quản lý thực tiễn của đời sống văn hóa theo những quan
điểm phát triển và cách thức quản lý riêng, đáp ứng nhu cầu phát triển đời sống
văn hóa tinh thần của nhân dân trên cơ sở vận dụng các điều kiện vật chất và tinh
thần sẵn có của xã hội”.
1.1.4. Khái niệm di sản văn hóa phi vật thể
1.1.4.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là một từ có nhiều cách hiểu, từ xưa đến nay, không chỉ ở nghĩa từ nguyên mà
cho đến khi được các học giả định nghĩa. Tác giả Phan Ngọc nhận định, hiện nay có
khơng dưới 400 định nghĩa về văn hóa [Phan Ngọc (2019), Bản sắc văn hóa Việt Nam,
Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 24]. Điều này chứng minh vai trị to lớn của văn hóa cũng
như sự quan tâm của nhiều tổ chức, nhiều người về vấn đề gọi tên là văn hóa. Mỗi định
nghĩa thể hiện quan điểm riêng của học giả về văn hóa.
Theo tác giả Taylor định nghĩa: “Văn hóa, hay văn minh, theo nghĩa rộng về tộc người
học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật



×