Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

SKKN Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong công tác vận động học sinh dân tộc thiểu số nhằm hạn chế tình trạng bỏ học tại một số trường THPT miền núi Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.25 MB, 55 trang )

sở gd & đt tỉnh nghệ an
--------------- --------------

Sáng kiến kinh nghiƯm
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM
TRONG CƠNG TÁC VẬN ĐỘNG HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ NHẰM HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG BỎ
HỌC TẠI MỘT SỐ
TRƯỜNG THPT MIỀN NÚI NGHỆ AN

LĨNH VỰC: CHỦ NHIỆM

0


sở gd & đt tỉnh nghệ an
TRNG THPT TN
--------------- --------------

Sáng kiÕn kinh nghiÖm
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM
TRONG CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ NHẰM HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG BỎ
HỌC TẠI MỘT SỐ
TRƯỜNG THPT MIỀN NÚI NGHỆ AN

LĨNH VỰC

:

CHỦ NHIỆM

NHÓM TÁC GIẢ



:

Đặng Thị Ngọc
Đặng Thị Hương

NĂM HỌC THỰC HIỆN: 2020 - 2021
SỐ ĐIỆN THOẠI: 0372958353 (hoặc 0943039112)

Tháng 3/2021
--------------- --------------

1


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt

Viết đầy đủ

THPT

:

Trung học Phổ thông

DTTS, MN

:


Dân tộc thiểu số, miền núi

DTTS

:

Dân tộc thiểu số

HS

:

Học sinh

HSDTTS

:

Học sinh dân tộc thiểu số

GVCN

:

Giáo viên chủ nhiệm

GVBM

:


Giáo viên bộ môn

GV

:

Giáo viên

2


PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong chủ trương, đường lối của Đảng và nhà nước ta hiện nay, Giáo dục
và Đào tạo được xem là “quốc sách hàng đầu”. Việc phát triển giáo dục và đào
tạo khơng chỉ có tác động đến chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia
mà cịn có ý nghĩa đối với việc nâng cao dân trí, đời sống văn hóa tinh thần của
người dân, đặc biệt là các vùng miền núi khó khăn. Vì vậy Đảng và nhà nước
luôn quan tâm, tạo điều kiện tốt nhất cho việc nâng cao chất lượng giáo dục ở
các trường miền núi, trong đó việc duy trì sĩ số HS (học sinh) để hạn chế tình
trạng bỏ học ln được chú trọng.
Vùng dân tộc thiểu số, miền núi (DTTS, MN) có điều kiện kinh tế - xã hội
chậm phát triển, đời sống của đồng bào gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao,
mặt bằng dân trí thấp. Do đặc điểm này mà vùng DTTS, MN được xem là một
đối tượng đặc thù cần có các mục tiêu, giải pháp chiến lược phát triển kinh tế xã
hội phù hợp, trong đó có phát triển giáo dục.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây thực trạng bỏ học giữa chừng của HS
nói chung và HSTHPT (học sinh trung học phổ thơng) nói riêng, nhất là HSDTTS
(học sinh dân tộc thiểu số) tại các trường miền núi cịn nhiều đã ảnh hưởng khơng
nhỏ đến chất lượng giáo dục vùng miền cũng như đời sống kinh tế, xã hội nơi đây.

Do đó đây là vấn đề đưa đến nỗi trăn trở cho những người quản lí giáo dục cũng
như đội ngũ GVCN (giáo viên chủ nhiệm) thương trị và tâm huyết với nghề. Vì
vậy việc tìm ra giải pháp để hạn chế tình trạng bỏ học của HS nói chung và
HSDTTS nói riêng là một yêu cầu mang ý nghĩa nhân văn và thực tiễn.
Việc duy trì sĩ số HS, hạn chế tình trạng HS bỏ học ở các trường THPT nói
chung và tại các trường THPT miền núi nói riêng cần có những giải pháp đồng
bộ từ các cấp, các ngành, trong đó ngành giáo dục và đào tạo (GĐ-ĐT) đóng vai
trị quan trọng. Nhiệm vụ duy trì sĩ số và hạn chế tình trạng HS bỏ học là trách
nhiệm chính của mỗi trường học.
Trong hoạt động giáo dục chung của các nhà trường, GVCN có thể hiểu là
những người thay mặt hiệu trưởng quản lý giáo dục toàn diện HS một lớp trên
cơ sở quản lý học tập, quản lý sự hình thành và phát triển nhân cách. Đồng thời
GVCN, nhất là những GVCN công tác tại các trường THPT miền núi như chúng
tơi nhiệm vụ duy trì sĩ số, thực hiện cơng tác vận động HS nhằm hạn chế tình
trạng bỏ học còn mang một ý nghĩa đặc biệt.
Nhưng thực trạng của công tác vận động HSDTTS bỏ học quay lại trường
tại các trường miền núi gặp rất nhiều khó khăn; đồng thời công tác vận động HS
của đội ngũ GVCN trong thời gian vừa qua chưa thực sự mang lại hiệu quả cao.
Tỉ lệ HSDTTS bỏ học vẫn cịn nhiều. Vì vậy việc GVCN tìm ra giải pháp phù
3


hợp để thực hiện công tác vận động HSDTTS nhằm hạn chế HS bỏ học là một
việc làm thiết thực đóng góp cho sự nghiệp giáo dục nước nhà.
Xuất phát từ những lý do trên nên chúng tôi quyết định chọn đề tài “Một
số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong công tác vận động học sinh dân
tộc thiểu số nhằm hạn chế tình trạng bỏ học tại một số trường THPT miền
núi Nghệ An” làm đề tài sáng kiến.
Thơng qua đề tài, chúng tơi mong đóng góp phần nhỏ trong việc đề xuất
một số giải pháp nhằm giúp GV nói chung và đội ngũ GVCN nói riêng thực hiện

tốt hơn vai trị, chức năng, nhiệm vụ của mình. Đề tài mong sẽ góp phần cơng sức
trong việc cùng nhà trường hoàn thành tốt mục tiêu giáo dục hàng năm, trong đó
việc hạn chế và chấm dứt tình trạng HS bỏ học là một trong những mục tiêu quan
trọng đối với trường THPT miền núi nơi chúng tôi công tác.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
2.1 Mục đích
- Nghiên cứu về thực trạng cơng tác vận động HSDTTS nhằm hạn chế tình
trạng bỏ học tại một số trường THPT miền núi Nghệ An nói chung, đặc biệt là
hai trường THPT Kỳ Sơn và THPT Tân Kỳ 3, hai ngôi trường mà chúng tôi đã
và đang công tác.
- Đề xuất một số giải pháp của GVCN trong công tác vận động HSDTTS
nhằm hạn chế tình trạng bỏ học và vận động HS trở lại lớp tại các trường THPT
Kỳ Sơn và Tân Kỳ 3.
2.2 Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác tuyên truyền, vận động.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác chủ nhiệm lớp tại các trường
THPT nói chung và THPT ở các huyện miền núi nói riêng.
- Khảo sát, tổng hợp kết quả về tình trạng HSDTTS bỏ học tại một số
trường miền núi trên địa bàn tỉnh Nghệ An, và tại hai trường cụ thể mà chúng tôi
đã và đang công tác.
- Khảo sát và đánh giá thực trạng công tác chủ nhiệm ở một số THPT
miền núi hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp trong công tác vận động HSDTTS nhằm hạn
chế tình trạng HS bỏ học tại một số trường THPT miền núi, cụ thể là hai trường
THPT Kỳ Sơn và THPT Tân Kỳ 3.
- Khảo nghiệm tính khả thi của các giải pháp.

4



3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Một số giải pháp vận động HSDTTS của
GVCN nhằm hạn chế tình trạng bỏ học.
HSDTTS tại một số trường THPT miền núi Nghệ An, tiêu biểu là ở hai
trường THPT Kỳ Sơn và THPT Tân Kỳ 3.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát tại các trường THPT miền núi Nghệ An, đặc biệt hai trường
chúng tôi công tác là trường THPT Kỳ Sơn và THPT Tân Kỳ 3. Nhóm tác giả
tiến hành áp dụng một số giải pháp vận động HSDTS làm thực nghiệm ở hai lớp
do chúng tôi chủ nhiệm là Lớp A8 (K2019-2022) của trường THPT Tân Kỳ 3 và
lớp N (K2018-2021) của trường THPT Kỳ Sơn được đối chứng với một số lớp ở
hai trường.
3.3 Kế hoạch, thời gian thực hiện
Thời gian

Nội dung

Tháng 8/2018 - 5/2019

Viết đề cương và triển khai sáng
kiến trong giai đoạn thử nghiệm, khảo
sát và đánh giá kết quả đạt được

Tháng 9/2019 - 5/2020

Tiếp tục áp dụng sáng kiến để
kiểm định độ tin cậy của một số giải
pháp đề ra.


Tháng 9/2020 - 2/2021

Hoàn thành sáng kiến kinh
nghiệm

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết
- Cơ sở phương pháp luận: Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu của đề tài
là lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tuyên
truyền vận động.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
+ Nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu những tài liệu liên quan đến lý luận
tuyên truyền, vận động nói chung. Nghiên cứu tài liệu liên quan đến GV THPT
nói chung và chức năng, nhiệm vụ của GVCN lớp trong trường học.
Khai thác tài liệu về tâm lý học, giáo dục học, dân tộc học và các tài liệu
tham khảo liên quan khác.
4.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Điều tra xã hội học: Khảo sát thực tế ở một số trường THPT miền núi
Nghệ An qua một số hoạt động như: Phỏng vấn, khảo sát trong cán bộ GV, HS,
5


thu thập, xử lí số liệu từ đó rút ra kết luận về thực trạng HS bỏ học và công tác
tuyên truyền, vận động của GVCN. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp
trong công tác tuyền truyền, vận động nhằm hạn chế HSDTTS bỏ học.
+ Khảo nghiệm: Tiến hành khảo nghiệm kết quả đề tài nghiên cứu thơng
qua các lớp thực nghiệm và đối chứng.
5. ĐĨNG GĨP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Kinh nghiệm trong công tác vận động nhằm hạn chế việc HS bỏ học không
phải là vấn đề mới, tuy nhiên với đề tài này chúng tôi hướng vào đối tượng

mang đăc thù riêng là HSDTTS ở các trường THPT trên địa bàn các huyện miền
núi tỉnh Nghệ An. Qua q trình nghiên cứu về lí luận và thực tiễn, nhóm tác giả
thực hiện rút ra một số những đóng góp và điểm mới của đề tài như sau:
Trước hết, đề tài đã đóng góp về mặt lý luận trong công tác tuyên truyền,
vận động HS và HSDTTS nhằm hạn chế tình trạng bỏ học và vận động HS trở
lại lớp tại các trường THPT miền núi Nghệ An nói chung và hai trường chúng
tơi cơng tác nói riêng.
Thứ hai, đề tài đề xuất một số giải pháp mang tính hệ thống, đồng bộ; đồng
thời đề cập giải pháp mới của nhóm tác giả trong cơng tác tuyên truyền,vận
động HSDTTS nhằm hạn chế việc bỏ học tại các trường THPT Tân Kỳ 3 và
THPT Kỳ Sơn. Một số giải pháp cụ thể của chúng tôi áp dụng trong việc vận
động HSDTTS như: giải pháp nâng cao công tác tuyên truyền, vận động để giáo
dục học sinh thông qua nhiều hình thức; giải pháp vận động của GVCN thông
qua hoạt động trực tiếp cũng như vận động với việc phối hợp với tổ tư vấn tâm
lý; các tổ chức trong và ngoài nhà trường; đặc biệt GVCN chú trọng giải pháp
xây dựng mơ hình “lớp học hạnh phúc” ở những lớp mà chúng tôi trực tiếp chủ
nhiệm để hạn chế tình trạng HSDTTS bỏ học.
Thứ ba, những giải pháp được nhóm tác giả đề xuất và áp dụng đã mang lại
hiệu quả cao với HSDTTS trên địa bàn miền núi mà chúng tơi đang giảng dạy,
tình trạng bỏ học hạn chế và giảm rõ rệt; nhận thức, tinh thần và thái độ của
HSDTTS với việc đến trường cũng có những chuyển biến tích cực, rõ nét. Như
vậy đề tài đã góp phần tích cực vào chiến lược phát triển giáo dục đào tạo ở các
địa bàn miền núi nói chung và HS các dân tộc thiểu số nói riêng.
Thứ tư, đề tài này khơng chỉ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, mà
cịn có ý nghĩa về mặt xã hội, nâng cao nhận thức cho người dân và góp phần
phát triển đời sống kinh tế - văn hóa tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số
ở vùng miền núi Nghệ An nói riêng và cả nước nói chung.
Đề tài là cơng trình nghiên cứu nghiêm túc, độc lập, là sản phẩm lao động
khoa học của nhóm tác giả và cam đoan khơng có sự sao chép nào.


6


PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lí luận chung về tun truyền, vận động
1.1.1. Về cơng tác tuyên truyền
Có nhiều khái niệm và cách hiểu khác nhau tuy nhiên theo quan điểm cách
mạng thì tuyên truyền được khái quát như sau:
Khái niệm: Tuyên truyền là sự giải thích rộng rãi để thuyết phục mọi
người tán thành, ủng hộ, làm theo.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân
hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được những mục tiêu đó là
tuyên truyền thất bại”.
Một cách hiểu khác: “Tun truyền” là là hoạt động có mục đích của chủ
thể nhằm truyền bá những tri thức, giá trị tinh thần, tư tưởng đến đối tượng, biến
những kiến thức, giá trị tinh thần đó thành nhận thức, niềm tin, tình cảm của đối
tượng, thôi thúc đối tượng hành động theo những định hướng, những mục tiêu
do chủ thể tuyên truyền đặt ra.
Mục đích: Do tư tưởng, đạo đức của con người chi phối đến hành vi, hành
động. Nếu tư tưởng sai lệch sẽ dẫn đến hành vi sai chuẩn đạo đức. Vì vậy cơng
tác tun truyền đóng vai trị quan trọng trong việc định hướng hành động, giáo
dục đạo đức nhận thức con người theo hướng đúng đắn.
Bên cạnh đó, tuyên truyền để kịp thời điều chỉnh, uốn nắn hành vi của đối
tượng theo đúng chuẩn đạo đức.
Ngoài ra, tuyên truyền giúp nâng cao tầm nhận thức của đối tượng đối với
những vấn đề trong cuộc sống.
Nguyên tắc tuyên truyền: Qúa trình tuyên truyền phải dựa trên các
nguyên tắc như: tính đảng, tính giai cấp; tính khoa học và thực tiễn; tính chân
thật, tính chiến đấu; tính phổ thơng, đại chúng.

Cách thức tuyên truyền: tuyên truyền trực tiếp, tuyên truyền gián tiếp.
+ Tuyên truyền trực tiếp: là hình thức gặp gỡ trực tiếp, dùng lời nói là cơng
cụ cơ bản để thực hiện và nâng cao chất lượng nội dung tun truyền. Đây là
hình thức có thể sử dụng triệt để nhất ưu thế của ngơn ngữ nói và "kênh" phi
ngơn ngữ để đạt được mục đích.
+ Tun truyền gián tiếp là hình thức tun truyền thơng qua sự truyền đạt
của yếu tố trung gian để hướng đến đối tượng nhằm đạt được mục đích. Các
hình thức tun truyền thơng qua người khác chuyển lời, thông qua các kênh
thông tin zalo, tin nhắn, thư từ,,..
7


1.1.2. Về cơng tác vận động
Theo lí luận chủ nghĩa Mác – Lê nin, tuyền truyền vận động quân chúng
nhân dân là một việc làm khơng thể thiếu và có tầm quan trọng đối với sự thắng
lợi cuả sự nghiệp cách mạng.
Như vậy khái niệm vận động được hiểu theo nghĩa chung là tuyên truyền,
giải thích, thuyết phục, động viên người khác tự nguyện làm việc gì đó mà chủ
thể vận động mong muốn.
Công tác tuyên truyền và vận động có mỗi quan hệ gắn bó, mật thiết với
nhau. Trong tuyên tuyền bao hàm cả yếu tố vận động. Tuyên truyền là bước đầu
tiên, dẫn đường cho quá trình vận động, động viên đối tượng bất kì nào sau đó.
Tun truyền là hoạt động nghiêng về mặt lí luận, lí thuyết còn vận động là
thiên hướng về những việc làm mang tinh thần thực tiễn nhiều hơn.
1.2. Vai trò của công tác tuyên truyền, vận động
Tuyên truyền là 1 trong 3 bộ phận quan trọng của công tác tư tưởng (lý
luận, tuyên truyền, cổ động) có nhiệm vụ phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng, chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến quần
chúng nhân dân.
Tuyên truyền là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác tư

tưởng của Đảng, nhằm truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước tới cán bộ,
Đảng viên và quần chúng nhân dân, tạo nên sự thống nhất trong hành động của
toàn Đảng, sự đồng thuận trong toàn xã hội, cổ vũ quần chúng thực hiện thắng
lợi mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng đã đề ra.
Trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cơng tác tun truyền, có vai trị
quan trọng tạo nên những thắng lợi cách mạng vẻ vang. Ngày nay, khi đất nước
đang trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế thì cơng tác
tun truyền, thuyết phục vẫn luôn cần thiết và quan trọng để thực hiện mục tiêu
chung của đất nước: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Như vậy tuyên truyền góp phần nâng cao nhận thức, hình thành và củng cố
niềm tin cho cán bộ Đảng viên và nhân dân; cổ vũ, động viên phong trào thi đua
yêu nước; đồng thời uốn nắn những nhận thức lệch lạc, đấu tranh với những
quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Đối với trường học thì cơng tác tun truyền, vận động có vai trị quan
trọng bởi vì xuất phát từ đặc điểm tâm lý HS thường sai lệch, chưa có định
hướng đúng đắn, đặc biệt đối với HSDTTS do nhận thức, tư tưởng còn hạn chế

8


nên công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức lại càng quan trọng. Công tác tuyên
truyền vận động HSDTTS đảm nhận những vai trò như:
Một là, tuyên truyền vận động để hạn chế HS bỏ học, duy trì sĩ số, nâng
cao hiệu quả giáo dục.
Hai là, thông qua công tác tuyên truyền sẽ góp phần nâng cao nhận thức,
hiểu biết của cả phụ huynh và học sinh về chính sách giáo dục.
Ba là, qua đó hình thành và củng cố niềm tin cho con em đồng bào DTTS
về lợi ích của học tập.
Bốn là, tạo ra phong trào học tập rộng rãi trong cộng đồng; tạo sự gắn bó,

trách nhiệm giữa các thành phần gia đình – nhà trường – xã hội trong sự nghiệp
phát triển giáo dục nước nhà.
Tóm lại,cơng tác tun truyền vận động quần chúng nói chung có ý nghĩa
và vai trị to lớn đối với sự nghiệp cách mạng cũng như giáo dục , đặc biệt là
giáo dục miền núi.
1.3. Vai trị của GVCN trong cơng tác tuyên truyền, vận động HSDTTS
Trong nhà trường, đội ngũ GVCN có chức năng, nhiệm vụ quan trọng làm
những cơng việc như:
+ Theo dõi quản lý giáo dục HS và chịu trách nhiệm trước Hiệu trưởng nhà
trường về nhiệm vụ được phân công.
+ Phát hiện, bồi dưỡng và cử đội ngũ cán bộ lớp và phân công nhiệm vụ
nhằm giúp các em tổ chức thực hiện tốt mọi hoạt động của lớp, của trường.
+ Định hướng, tư vấn và giúp các em tổ chức thực hiện các mặt hoạt động
của lớp.
+ Tổng hợp tình hình, đề xuất các giải pháp để tham mưu cho BGH về
công tác giáo dục, rèn luyện của HS.
+ Nắm chắc tư tưởng, tinh thần thái độ và kết quả học tập, rèn luyện của
HS; phối hợp với gia đình và đồn thể để giúp đỡ, cảm hoá HS trong rèn luyện
để trở thành người tốt cho xã hội.
+ Cố vấn, giúp đỡ và chỉ đạo HS lớp mình chủ nhiệm thực hiện tốt mọi
quyền lợi, nghĩa vụ của HS, để thực hiện công việc theo quy chế cũng như sự
điều hành và quản lý của phó hiệu trưởng phụ trách mảng giáo dục đạo đức HS
chung trong nhà trường.
+ GVCN còn làm nhiệm vụ thay mặt nhà trường quản lí trực tiếp HS và
duy trì sĩ số lớp học.
+ GVCN là cầu nối giữa tập thể HS với các tổ chức trong và ngoài nhà
trường, là người tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục.
9



GVCN là người đóng vai trị quan trọng trong một lớp học bởi không chỉ
gánh nhiệm vụ giảng dạy kiến thức mà còn giáo dục đạo đức cho HS. Thậm chí
trong vai trị là người đứng đầu của lớp học, GVCN cịn là nhà tư tưởng, nhà
tâm lí ln biết lắng nghe, chia sẻ và trực tiếp tuyên truyền, vận động các HS
nhằm xây dựng một tập thể vững mạnh. Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ
của một GVCN việc học hỏi và không ngừng trau dồi bản thân là yếu tố tiên
quyết, trong đó năng lực tuyên truyền, vận động là yêu cầu cần thiết.
Vai trò của GVCN trong công tác tuyên truyền, vận động HSDTTS
Công tác vận động HSDTTS đến lớp là một trong những mục tiêu được
chú trọng ở các trường THPT miền núi. Công việc này là một việc làm khó khăn
cần sự kiên trì, nhẫn nại, phải có sự chung tay của gia đình, nhà trường và tồn
xã hội, trong đó GVCN đóng vai trò quan trọng nhất. Vai trò của GVCN được
biểu hiện cụ thể là:
Thứ nhất, GVCN là lực lượng giữ vai trị tiên phong, đi đầu trong cơng tác
tun truyền, vận động HS lớp mình chủ nhiệm.
Thứ hai, GVCN là lực lượng trực tiếp thực hiện quá trình tuyên truyền, vận
động HS nói chung và HSDTTS nói riêng.
Thứ ba, GVCN là lực lượng trụ cột, quyết định sự thành bại trong công tác
vận động HSDTTS đến lớp. Bởi công tác tuyên truyền, vận động HSDTTS để
hạn chế HS bỏ học đòi hỏi người GVCN phải nhiệt huyết, yêu nghề, không ngại
vất vả, khó khăn, kiên trì và nhẫn nại, hơn nữa cịn phải đầu tư nhiều cơng sức
và thời gian.
Thứ tư, GVCN khơng chỉ đóng vai trị trực tiếp, tiên phong, chủ đạo mà họ
còn là cầu nối giữa các lực lượng trong công tác tuyên truyền, vận động
HSDTTS nhằm hạn chế tình trạng bỏ học.
Xuất phát từ những vai trị nói trên cho thấy chỉ có GVCN mới là lực lượng
thực hiện hiệu quả nhất công việc tuyên truyền và vận động HSDTTS nhằm hạn
chế tình trạng bỏ học tại các trường THPT trên địa bàn các huyện miền núi.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.1.Thực trạng bỏ học của HSDTTS tại một số trường THPT miền núi

Nghệ An.
* Thực trạng bỏ học của HSDTTS:
Tình trạng bỏ học của HS nói chung và HSDTTS nói riêng ở một số
trường THPT trên địa bàn các huyện miền núi Nghệ An trong những năm qua
vẫn là nỗi trăn trở cho các nhà quản lí giáo dục và đội ngũ GV và GVCN.
10


Để tìm hiểu thực trạng này, chúng tơi đã tiến hành phỏng vấn và khảo sát
thông qua việc lấy số liệu HS bỏ học tại một số trường THPT miền núi Nghệ
An. Qua khảo sát của nhóm tác giả về tình trạng bỏ học của HS trong năm học
2017 – 2018 tại một số trường được thể hiện qua bảng thống kê sau:
Tổng số
học sinh
toàn
trường

Tổng HS
bỏ học

Tỉ lệ
(%)

Số
HSDTTS
bỏ học

Tỉ lệ
(%)


1369

147

10,7%

144

98,0%

THPT Mường
Qụa

576

29

5,0%

29

100%

THPT Tương
Dương 2

424

44


10,4%

41

93,1%

THPT Tân
Kỳ 3

1068

39

3,6%

21

53,8%

THPT Cát
Ngạn

500

20

4,0%

13


65,0%

Tổng

3973

279

7,0%

248

88,9%

Tên trường
THPT Kỳ Sơn

*Kết luận, đánh giá
Qua việc khảo sát số liệu 5 trường THPT trên địa bàn miền núi Nghệ An,
chúng tôi rút ra một kết luận như sau:
+ Hiện tượng HS bỏ học, nhất là HSDTTS vẫn còn khá nhiều ở các trường
THPT miền núi.
+ Trong các trường được khảo sát thì nhóm tác giả nhận thấy trường có tỉ
lệ bỏ học nhiều nhất là: Trường THPT Kỳ Sơn (tỉ lệ HS bỏ học chiếm 10,7%,
trong đó chủ yếu là HSDTTS).
+ Theo khảo sát tình trạng HS bỏ học ở các trường THPT miền núi diễn ra
ở 3 khối lớp nhưng tập trung chủ yếu ở HS khối 10, đầu cấp học.
+ HSDTTS bỏ học xuất phát từ nhiều lí do khác nhau

11



+ HSDTTS bỏ học diễn ra rải rác trong suốt năm học, thời điểm bỏ học
nhiều nhất là sau kì nghỉ hè và nghỉ tết nguyên đán.
*Nguyên nhân HSDTTS bỏ học:
Qua khảo sát, đánh giá chúng tơi rút ra có hai nhóm ngun nhân dẫn đến
tình trạng bỏ học của HS và HSDTTS là:
Nhóm ngun nhân khách quan:
- Chương trình học nặng hiện nay là một nguyên nhân khiến HS yếu kém
,thường bi quan trước lực học của mình, thiếu niềm tin và khả năng học tập,
không theo kịp chương trình, thua kiến thức bạn bè dẫn đến tâm lý chán học,
mặc cảm muốn bỏ học.
- Giao thông đi lại khó khăn, khoảng cách từ nhà đến trường quá xa dẫn
đến tâm lý chán nản ở HS.
- Phong tục, tập qn, nếp nghĩ, tình trạng tảo hơn (13,14 tuổi đã lấy vợ lấy
chồng; sau kỳ nghỉ hè nghỉ tết đã lập gia đình) nên hầu hết các em ngại trở lại
trường lớp.
- Số lớn HS bỏ học là con em trong gia đình nghèo có hồn cảnh khó khăn
nên khơng có điều kiện để tham gia học tập, các em phải tham gia lao động sớm
để phụ giúp gia đình, nhiều em theo cha mẹ lên nương rẫy, một số khác đi làm
thuê kiếm tiền trong miền nam, đi lao động chui ở Trung Quốc,…
- Sự phối hợp giữa gia đình HS với GVCN và nhà trường chưa cao. Một số
phụ huynh có tư tưởng trơng chờ phó mặc con em mình cho thầy cơ giáo, họ
chưa ý thức được vai trị của mình trong việc giáo dục con; một số khác do đi
làm ăn xa để mặc con cái tự lo cuộc sống, ở nhà khơng có ai nhắc nhở động viên
học tâp; còn đa số phụ huynh ở địa bàn miền núi xa xôi thường lên nương rẫy
nhiều ngày nên khó khăn trong cơng tác liên lạc giữa GVCN với phụ huynh về
tình hình học tập của con em.Ví dụ ở địa bàn đóng chân của trường THPT Kỳ
Sơn cách xa nhiều bản làng có con em theo học tận 90 -100km, liên lạc bằng
điện thoại thì khơng có sóng, có những phụ huynh khơng biết tiếng Kinh nên

việc trao đổi chuyện trị cũng gặp nhiêu khó khăn…
Nhóm nguyên nhân chủ quan:
- Nhiều HS chưa nhận thức được mục đích, chưa có động cơ học tập đúng
đắn, thiếu ý thức nên lơ là, chểnh mảng việc học dẫn đến học kém, dần dần chán
học rồi bỏ hẳn.
- Nhiều HSDTTS hạn chế về ngôn ngữ, không tiếp thu được kiến thức nên
học yếu dẫn đến chán học.
- Nhận thức hạn chế của các bậc phụ huynh về vai trò của việc học nên
không quan tâm đến việc học của con cái, bắt con bỏ học giữa chừng. Mặt khác
12


phụ huynh chưa nắm bắt được các chính sách hỗ trợ của nhà nước dành cho con
em DTTS dẫn đến lo sợ không đủ điều kiện cho con em theo học hết cấp 3,…
Như vậy nguyên nhân bỏ học của HSDTTS ở một số trường THPT miền
núi Nghệ An xuất phát từ nhiều yếu tố, trong đó nhóm nguyên nhân chủ quan
giữ vai trị chính. Do vậy việc đưa ra các giải pháp tuyên truyền và vận động
HSDTTS nhằm hạn chế tình trạng bỏ học là yêu cầu cấp thiết được đặt ra.
2.2. Thực trạng công tác tuyên truyền, vận động HSDTTS của GVCN
nhằm hạn tình trạng bỏ học tại một số trường THPT miền núi Nghệ An
Để nắm được thực trạng công tác tuyên truyền vận động của GVCN
chúng tôi tiến hành khảo sát cán bộ, GV tại một số trường THPT miền núi
qua các câu hỏi như sau:
Câu 1. Hãy cho biết, tình trạng bỏ học của các HSDTTS ở trường thầy (cô) như
thế nào?
A. Phổ biến.
B. Nhiều.
C. Bình thường.
D. Khơng đáng kể.
Câu 2.Theo thầy (cơ), những lực lượng nào có trách nhiệm tuyên truyền, vận

động HSDTTS nhằm hạn chế tình trạng bỏ học ?
A. Ban giám hiệu nhà trường.
B. Giáo viên chủ nhiệm.
C. Nhà trường và xã hội.
D. Giáo viên chủ nhiệm với các lực lượng trong và ngồi trường.
Câu 3: Theo thầy (cơ), GVCN có vai trị như thế nào trong cơng tác tun
truyền, vận động HSDTTS nhằm hạn chế HS bỏ học trong các trường học THPT
miền núi?
A. Rất quan trọng.
B. Quan trọng.
C. Bình thường.
D. Không quan trọng.
Câu 4: Hãy cho biết tại trường các thầy (cô) hiệu quả của công tác tuyên truyền,
vận động HSDTTS của GVCN nhằm hạn chế tình trạng bỏ học đạt mức độ nào?
A. Rất hiệu quả.
B. Hiệu quả.
C. Bình thường.
D. Ít hiệu quả.
Câu khảo sát

Kết quả khảo sát thu được:
Tỉ lệ chọn
Tỉ lệ chọn
Tỉ lệ chọn
đáp án A(%) đáp án B(%) đáp án C(%)

Tỉ lệ chọn
đáp án D(%)

Câu 1


20%

72%

5%

3%

Câu 2

0%

8%

2%

90%

Câu 3

10%

88%

2%

0%

Câu 4


9%

22%

3,5%

65,5%

Qua bảng số liệu khảo sát chúng tôi rút ra một số nhận xét như sau:
13


- Đa số cán bộ, GV đều khẳng định tình trạng bỏ học của HS nói chung và
HSDTTS nói riêng tại các trường THPT miền núi còn nhiều
- Những lực lượng có trách nhiệm tuyên truyền, vận động HSDTTS nhằm
hạn chế tình trạng bỏ học là GVCN với các lực lượng trong và ngồi trường.
Tuy nhiên họ đều có chung một ý kiến là GVCN có vai trị quan trọng nhất.
- Mặc dù vậy trong công tác tuyên truyền, vận động HSDTTS cuả GVCN
nhằm hạn chế tình trạng bỏ học vẫn chưa mang lại hiệu quả cao.
Từ việc khảo sát thực trạng chúng tôi nhận thấy một số thuận lợi và khó khăn
trong cơng tác tun truyền, vận động HSDTTS của GVCN là:
*Về thuận lợi
Trong những năm qua, với vai trị là GVCN chúng tơi nhận được sự tin
tưởng ủng hộ của BGH nhà trường. Công tác vận động học sinh đến lớp, duy trì
sĩ số lớp học ln được nhà trường quan tâm, chú trọng. Nhà trường đã lập ra
các tổ tư vấn tâm lý để nắm bắt hoàn cảnh, tâm tư nguyện vọng của HS; đầu
năm học mới nhà trường lập ra các nhóm để đến tận các trường cấp 2 vận động
các em HS lớp 9 tiếp tục lên cấp 3.
Bên cạnh sự chỉ đạo của nhà trường về mặt đường lối, chính sách, động

viên về mặt tinh thần, GVCN còn được sự phối hợp giúp đỡ của các tổ chức
đoàn thể trong và ngoài nhà trường như: Cơng đồn, Đồn thanh niên, Hội liên
hiệp thanh niên, Hội chữ thập đỏ, nhất là sự tư vấn tâm lí sâu sắc của tổ tư vấn
học đường của nhà trường.
Ngồi ra, trong q trình làm cơng tác chủ nhiệm chúng tơi ln nhận
được sự giúp đỡ nhiệt tình, phối hợp kịp thời và thường xuyên của đội ngũ
GVBM.
* Về khó khăn
- Hầu hết các GVCN đều có ý thức và đã thực hiện công tác vận động HS
để duy trì sĩ số lớp học, tuy nhiên trong quá trình vận động HS, đặc biệt là các
em HSDTTS còn gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại.
+ Do điều kiện địa hình đi lại khó khăn, cách trở, nhiều bản cách xa trường
tận 90-100km nên nhiều GV ngại khó, ngại khổ, dẫn đến chỉ làm theo hình thức,
mang tính đối phó qua loa, thiếu nhiệt tâm. Vì vậy cơng tác vận động HS chưa
mang lại kết quả.
+ Trong công tác vận động HSDTTS gặp nhiều khó khăn bởi nhận thức của
phụ huynh, HS về tầm quan trọng của việc học còn nhiều hạn chế do đó GV gặp
khó khăn trong việc thay đổi nếp nghĩ, tư tưởng vốn đã cố hữu ở đồng bào DTTS.
14


+ Cơng tác tun truyền, vận động HSDTTS địi hỏi GVCN phải là người
có tâm huyết, và tấm lịng với học trị, bên cạnh đó thời gian và tài chính là
những yếu tố không thể thiếu để việc vận động đạt hiệu quả. Tuy nhiên, điều
kiện kinh tế của đội ngũ GV làm công tác chủ nhiệm ở các trường miền núi cịn
nhiều khó khăn, thời gian hạn hẹp do hoạt động giảng dạy chiếm phần lớn thời
gian trong tuần. Vì vậy cơng tác tun truyền, vận động HSDTTS của GVCN
chủ yếu chỉ thực hiện trong ngày cuối tuần ít ỏi nên thiếu tính thường xuyên và
liên tục trong quá trình tiếp cận HS và phụ huynh.
+ Cơng tác tun truyền vận động HSDTTS của GVCN còn gặp trở ngại do

thiếu am hiểu về phong tục, ngơn ngữ, văn hóa của đồng bào các dân tộc dẫn
đến công tác vận động đạt hiệu quả chưa cao.
+ Một hạn chế nữa trong công tác tuyên truyền, vận động HSDTTS là việc
đội ngũ GVCN sử dụng những giải pháp vận động thiếu tính đồng bộ, khơng sâu
sát đối tượng và thiếu tính đổi mới vì vậy tình trạng HSDTTS bỏ học vẫn cịn
tiếp diễn.
3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỦA GVCN TRONG CƠNG TÁC VẬN ĐỘNG
HSDTTS NHẰM HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG BỎ HỌC TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG
THPT MIỀN NÚI NGHỆ AN

Trường THPT Kỳ Sơn và THPT Tân Kỳ 3 nơi chúng tôi đã và đang công
tác nằm ở địa bàn miền núi, giao thơng đi lại khó khăn, trình độ dân trí cịn thấp,
chiếm một phần lớn trong tổng số HS của nhà trường là con em đồng bào DTTS
từ các bản làng xa xôi ra học tập. Công tác làm GVCN ở những nơi này gặp rất
nhiều trở ngại, điều khiến chúng tôi trăn trở nhất là làm sao để vận động HS đi
học và hạn chế thấp nhất tình trạng bỏ học. Với kinh nghiệm của cá nhân trong
vai trò GVCN chúng tôi đã áp dụng một số giải pháp tuyên truyền, vận động đã
mang lại những hiệu quả nhất định xin được đề xuất và chia sẻ đến các bạn bè,
đồng nghiệp.
3.1. Giải pháp nâng cao công tác tuyên truyền, vận động giáo dục HS nhằm
hạn chế tình trạng bỏ học
3.1.1. GVCN tuyên truyền trực tiếp đến HS
Tuyên truyền trực tiếp là cách thức được chúng tôi áp dụng đầu tiên, mang
tính thường xun trong cơng tác vận động HSDTTS nhằm hạn chế tình trạng
bỏ học.
- Cách thức tuyên truyền
+Trước hết GVCN phải trực tiếp gặp gỡ để trò chuyện, nắm bắt tâm tư,
tình cảm, thái độ của HS để kịp thời động viên giúp đỡ. GV có thể gặp gỡ HS
tại phòng tư vấn tâm lý của nhà trường để chuyện trị, tâm tình, trao đổi những


15


vướng mắc từ HS nhằm kịp thời tháo gỡ, giúp các em ổn định tư tưởng để yên
tâm tham gia học tập.
+ GVCN trong vai trò là người giảng dạy tại lớp có thể lồng ghép vào trong
bài học để tuyên truyền đến HS giúp các em thấy được vai trị của việc học đối
với việc nâng cao dân trí, cải thiện chất lượng cuộc sống trong tương lai, thay
đổi tư duy, lối nghĩ của cả thế hệ. Thông qua bài dạy chúng tôi tuyên truyền đến
các em hậu quả của việc tảo hơn, của tập tục cướp vợ,..
Ví dụ, trong giờ Ngữ văn, GV có thể khéo léo lồng ghép, tuyên truyền đến
HS về những hệ quả của những tập tục lạc hậu, định hướng về tình yêu, tình bạn
qua một số tiết dạy liên quan.
Trong giờ dạy sử có thể lồng ghép để tuyên truyền đến HS về âm mưu
thâm độc của thực dân Pháp trong việc thực hiện chính sách “văn hóa ngu dân”
để cho chúng dễ bề cai trị. Bác Hồ từng nói “ một dân tộc dốt là một dân tộc
yếu”. Vì thế các em cần phải học tập đầy đủ, giúp bản thân, gia đình vượt qua
hồn cảnh.
Trong tiết sinh hoạt lớp GVCN tiến hành giáo dục đạo đức, tư tưởng; đồng
thời định hướng tương lai, nghề nghiệp để HS hứng thú với việc học tập để từ đó
làm thay đổi nhận thức với việc đến trường.
- Kết quả: Trước đây, đa số phụ huynh HSDTTS thường có lối suy nghĩ,
và những quan niệm lạc hậu về việc học. Nhưng trong mấy năm gần đây công
tác giáo dục hướng nghiệp ở các trường THPT miền núi đã được chú trọng,
trong đó GVCN là những người đầu tiên gần gũi nhất định hướng tương lai nghề
nghiệp cho các em. Vì vậy nhận thức của phụ huynh và HSDTTS ngày một cải
thiện và nâng cao, giảm hẳn tình trạng HS bỏ học.
+ Thơng qua hình thức tuyên truyền trực tiếp GVCN có cơ hội chứng tỏ
tấm lịng và thiện chí của mình đối với HS và gia đình. Đồng thời qua những
cuộc gặp gỡ và trao đổi trực tiếp sẽ phát huy được lợi thế và sử dụng triệt để

nhất ưu thế của ngơn ngữ nói và "kênh" phi ngơn ngữ để đạt được mục đích.
+ Qua hình thức tun truyền trực tiếp GVCN có điều kiện nắm bắt đầy đủ
về hồn cảnh gia đình, tâm tư tình cảm, đặc biệt là tâm lý HS; đồng thời tìm ra
những lí do khiến HS có ý định bỏ học từ đó kịp thời đưa ra biện pháp vận động
phù hợp.
+ Tuyên truyền trực tiếp giúp GVCN có thể quan sát thái độ, phản ứng của
HS trước vấn đề để kịp thời động viên, cùng các em tháo gỡ những khó khăn
trong học tập cũng như cuộc sống.

16


+ Tuyên truyền trực tiếp tạo sự gần gũi giữa thầy và trò, giữa GVCN và
phụ huynh, xây dựng mối quan hệ thân thiện, cởi mở.

Hình ảnh: GVCN tuyên truyền trực tiếp đến HSDTTS

3.1.2. GVCN vận động trực tiếp HSDTTS
- Giải pháp vận động trực tiếp của GVCN là hành động mà chủ thể trực
tiếp đến tận địa bàn, nơi ở của các HSDTTS để tiến hành khuyên nhủ, động
viên, vận động để làm thay đổi suy nghĩ khiến các em quay trở lại trường học.
- Cách thức thực hiện:
+ GVCN trực tiếp đến tận nơi gia đình để gặp gỡ phụ huynh và HSDTTS.
Cơng việc này địi hỏi GVCN phải đầu tư nhiều thời gian và công sức bởi lẽ hầu
hết HSDTTS đều sinh sống ở những địa bàn khó khăn, đường sá cách trở.

17


+ GVCN trực tiếp đến thăm nhà HSDTTS với mục đích nắm bắt được hồn

cảnh gia đình HS từ đó hiểu rõ, chính xác lý do khiến HS có tư tưởng muốn bỏ
học. Qua việc nắm bắt thực tế GVCN mới có cơ sở khoa học và thực tiễn để đưa
ra hình thức vận động kịp thời, phù hợp nhằm động viên HS trở lại lớp học.
+ Trong quá trình thực hiện, GVCN cần phân loại các nhóm nguyên nhân
dẫn đến việc bỏ học của HSDTTS để đưa ra giải pháp vận động phù hợp.
+ Đối với nhóm HSDTTS bỏ học vì ngun nhân hồn cảnh gia đình khó
khăn thì GVCN sẽ có giải pháp hỗ trợ về kinh tế như: giúp đỡ về việc mua sắm
sách vở, quần áo và đồ dùng học tập; miễn giảm các khoản lệ phí của tập thể lớp
chẳng hạn miễn tiền quỹ lớp,tiền học thêm; trao những món q động viên khích
lệ tinh thần vượt khó học tập của HS.
+ Đối với nhóm HSDTTS bỏ học vì nguyên nhân học lực kém thì GVCN
sẽ có giải pháp giúp đỡ như: Tìm hiểu những yếu kém trong từng môn học để
kết hợp với GVBM tiến hành phụ đạo, kèm cặp giúp HS tiến bộ; thậm chí phải
tạo điều kiện về mặt điểm số đảm bảo đạt để giảm áp lực cho các em đó; bên
cạnh GVVN cịn tạo ra nhóm học “đơi bạn cùng tiến” để hỗ trợ nhau trong học
tập; đưa ra những hình thức khen ngợi, những phần thưởng nhằm khích lệ đối
với những tiến bộ của các em.
+ Đối với nhóm HSDTTS bỏ học vì nguyên nhân tự ti, nhút nhát, thiếu hịa
đồng trong tập thể lớp, thậm chí các em có cảm giác bị kì thị thì GVCN sẽ thực
hiện các giải pháp tháo gỡ như: Bản thân GVCN sẽ chuyện trò, cởi mở với HS
nhiều hơn, tạo điều kiện cho các em được hịa mình vào những hoạt động tập
thể, trao cho các em niềm tin để đảm nhận những vị trí trong tập thể lớp; tạo
những sân chơi để HSDTTS thể hiện những sở trường, thế mạnh của bản thân
khiến các em mạnh dạn và tự tin hơn.
+ Đối với nhóm HSDTTS bỏ học vì ngun nhân bị bạn bè lôi kéo, sa vào các
tệ nạn xã hội như nghiện game, lơ đề, hút chích...thì GVCN cần có thái độ kiên trì,
bao dung trước những sai lầm của các em. GVCN phải thường xuyên khuyên nhủ,
tâm sự để giúp các em nhìn nhận giá trị của bản thân từ đó sẽ kéo các em ra khỏi
những sa ngã và có động lực để tiếp tục trở lại con đường học tập.
- Kết quả: Như vậy việc GVCN sử dụng giải pháp vận động trực tiếp đến

các HSDTTS không chỉ nâng cao khả năng thuyết phục, vận đông HS có động
lực quay trở lại lớp mà cịn tạo được niềm tin yêu ở phụ huynh đối với nhà
trường và GVCN. Trong q trình vận động chúng tơi đã giúp được nhiều em
trong lớp có những biểu hiện chán học, định bỏ học, ổn định tâm lí, chấp nhận
quay trở lại học tập ví dụ như các em: Vị Thị Xn có ý định bỏ học vì thiếu sự
tự tin và người chia sẻ trong lớp, em Trương Gia Huy muốn nghỉ học vì học lực
yếu xếp cuối lớp; em Vũ Thanh Huyền muốn bỏ học vì bố mẹ ép phải lấy chồng
sớm...
18


Hình ảnh: GVCN cùng ban cán sự thăm nhà em Vi Thị Xuân để vận động

3.2. Phối hợp với tổ tư vấn tâm lý để giáo dục HSDTTS nhằm hạn chế tình
trạng HS bỏ học
- Nguyên nhân cần phối hợp: Đối với hầu hết các em HSDTTS đều có
hồn cảnh gia đình khó khăn, xa gia đình ra vùng trung tâm, nơi có các điều kiện
kinh tế xã hội cao hơn và nhịp sống cũng nhộn nhịp hơn các bản làng xa vắng
mà hàng ngày các em vẫn sống để theo học. Chính vì vậy sự lạ lẫm với mơi
trường sống và học tập cũng như thái độ nhút nhát, tự ti là điều không tránh
khỏi. Một số HS do ít được tiếp xúc xã hội, việc nắm bắt thông tin hạn chế nên
khả năng đối phó với các tình huống trong cuộc sống còn rất non nớt. Trong
những trường hợp đó chúng tơi thường phối hợp với tổ tư vấn tâm lý nhà trường
để gặp riêng HS, tư vấn cho các em: tình yêu, tình bạn, tác hại của việc trai gái
sống chung,…
Sở dĩ phải tiến hành phối hợp với tổ tư vấn tâm lý là vì GVCN khơng phải
lúc nào cũng nắm bắt được đầy đủ tâm sinh lí lứa tuổi HS được, trong lúc đó
những người ở tổ tư vấn tâm lý là những người có chuyên mơn, nghiệp vụ vì
vậy sự nắm bắt, phân tích tâm lý cũng như khả năng thuyết phục người khác tốt
hơn chúng tơi. Biết được thế mạnh đó của tổ tư vấn tâm lý, trong quá trình tuyên

truyền và vận động HS chúng tôi đã phối kết hợp chặt chẽ và thường xuyên với
tổ chức này.
- Cách thức tiến hành:
+ Sau khi quan sát các em HS trong lớp có những biểu hiện thay đổi
trong tâm lý và kết quả rèn luyện học tập như: hay nghỉ học khơng lí do cũng
như vi phạm các lỗi, ngồi học mất tập trung, mệt mỏi, học tập sa sút...GVCN sẽ
tiến hành tìm hiểu sơ lược về nguyên nhân gây ra những biểu hiện đó.
19


+ Tiếp theo GVCN sẽ gặp trước tổ tư vấn để trình bày vấn đề và tham
khảo ý kiến, tìm giải pháp để hỗ trợ HS.
+ GVCN nhờ tổ tư vấn tâm lý trực tiếp gặp gỡ, trò chuyện và khuyên nhủ,
giúp HS ổn định tinh thần, lấy lại thăng bằng trong cuộc sống và học tập. Từ đó
thuyết phục để HS từ bỏ ý định bỏ học (nếu có).
- Ví dụ: Trong q trình chủ nhiệm lớp chúng tơi phát hiện em Trương
Gia Huy có biểu hiện học tập không tập trung, thường xuyên đi học muộn và
nghỉ học khơng lý do...Sau khi chúng tơi tìm hiểu về hồn cảnh gia đình mới
biết em có hồn cảnh éo le. Mẹ Huy bỏ đi theo người ta, nhà chỉ có ba bố con.
Để mưu sinh, Bố phải làm việc cho nhà người ta, nhiều hơm đến q khuya mới
về. Vì vậy thiếu quan tâm con cái...Hệ quả là HS Huy chán nản, bi quan cho số
phận không muốn tiếp tục học. Chúng tơi đã gặp riêng em để chuyện trị động
viên, sau đó gặp tổ tư vấn tâm lý nhờ giúp đỡ. Sau một số cuộc trò chuyện,
khuyên nhủ, vận động. Cuối cùng Huy đã ổn định Tâm lý và đi học trở lại.
- Kết quả: Với việc phối hợp với tổ tư vấn học đường trong nhà trường
mà GVCN đã nắm bắt được cụ thể hơn về tâm sinh lý của lứa tuổi HS từ đó có
những tác động phù hợp trong giáo dục và định hướng đúng đắn tới các em.
Đồng thời qua những buổi tư vấn tâm lý, HSDTTS được mở mang về nhận
thức cũng như tự tin giãi bày, sẻ chia những nỗi lịng thầm kín, những uẩn
khúc khó nói để từ đó các em sẽ có cảm giác được che chở, được quan tâm và

thấu hiểu. Có thể nói rằng việc GVCN phối hợp với tổ tư vấn học đường để
tuyên truyền, vận động tới HSDTTS là một cách thức có ý nghĩa quan trọng
giúp định hướng đúng đắn về mặt tư tưởng, đạo đức, thái độvà ổn định tinh
thần cho các em tốt nhất.

Hình ảnh: GVCN phối hợp với tổ tư vấn tâm lý để tuyên truyền vận động HS
20


3.3. Giải pháp phối kết hợp với các tổ chức trong và ngồi nhà trường để
tun truyền, vận động
Cơng tác tuyên truyền, vận động HSDTTS để hạn chế tình trạng bỏ học
của GVCN là một việc làm phải trải qua nhiều khó khăn vất vả, cần có sự hỗ trợ,
kết hợp của nhiều lực lượng trong cũng như ngoài nhà trường để mang lại hiệu
quả cao. Kinh nghiệm trong quá trình làm cơng tác chủ nhiệm, chúng tơi đã tiến
hành phối hợp với nhiều lực lượng như sau:
* Phối hợp với Chi ủy, ban giám hiệu nhà trường
- Nhà trường chịu trách nhiệm chính trong việc duy trì sĩ số lớp học đồng
thời là lực lực ban hành các văn bản chỉ đạo, đưa ra mục tiêu và những giải pháp
chung trong việc hạn chế HS bỏ học, chú trọng nhiều đến HSDTTS. Đầu năm
học nhà trường sẽ đưa ra tiêu chí duy trì sĩ số lớp học và phần thưởng khuyến
khích để mỗi GVCN có ý thức cố gắng. Tiêu chí duy trì sĩ số lớp học ở các
trường THPT miền núi được xem là yếu tố đầu tiên để xếp loại GVCN giỏi.
- Cách thức thực hiện
+ Để làm tốt vai trị của mình GVCN cần phối hợp chặt chẽ với nhà trường
trong việc truyền tải đến HS các văn bản về chủ trương, chính sách của nhà
nước cũng như nhà trường trong việc khuyến khích giáo dục miền núi nhằm
đảm bảo quyền lợi cho HSDTTS.
+ Đầu năm học mới, GVCN kết hợp với nhà trường đến các địa phương để
vận động các em trở lại lớp sau kỳ nghỉ hè.

+ GVCN phối hợp với Chi ủy, BGH trong việc quảng bá hình ảnh nhà
trường qua các hoạt động thiện nguyện. Nhà trường tiến hành trao quà từ thiện
cho HSDTTS nghèo qua chương trình: "Áo ấm mùa đơng", “nâng bước em đến
trường”, quỹ học bổng “cây nến yêu thương”....
- Kết quả: Việc phối hợp tốt với Chi ủy, BGH nhà trường giúp GVCN nắm
được đầy đủ về chủ trương chính sách hỗ trợ của Đảng, nhà nước cũng như nhà
trường đối với các HSDTTS, từ đó động viên khuyến khích các em đi học đều,
hạn chế tình trạng bỏ học.

Hình ảnh :GVCN cùng nhà trường trao quà cho HS
21


* GVCN phối hợp với tổ chức đoàn trường
- Tổ chức Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong nhà trường có vai
trị rất lớn trong các hoạt động giáo dục chính trị, truyền thống đao đức, lối sống,
ý thức chấp hành pháp luật của thanh niên, HS. Không những vậy tổ chức Đồn
cịn là lực lượng hỗ trợ đắc lực cho GVCN trong công tác vận động nhằm hạn
chế HSDTTS bỏ học.
- Cách thức thực hiện
+ GVCN phối hợp với Đoàn trường trong việc tạo ra nhiều sân chơi bổ
ích, lành mạnh cho HS nhằm đem đến niềm hứng thú được đến trường cho các
em HSDTTS. Vào các ngày lễ trong năm học Đoàn trường thường tổ chức các
phong trào tập thể tạo cơ hội cho HSDTTS giao lưu văn hóa, được trải nghiệm,
học hỏi những kĩ năng cần thiết trong cuộc sống.
+ GVCN phối hợp với đoàn trường trong việc đỡ đầu nhiều HS, đặc biệt ưu
tiên HSDTTS. Sự đỡ đầu được thực hiện trên nhiều phương diện như giúp đỡ về
học tập, chia sẻ các công việc của gia đình và hỗ trợ một phần kinh phí trong
học tập.
+ GVCN cịn phối hợp với Đồn trường đến tận nhà thăm hỏi, tặng quà cho

gia đình HSDTTS có hồn cảnh khó khăn để động viên các em nỗ lực và yên
tâm học tập.

Hình ảnh: HSDTTS tham gia phong trào tập thể do đoàn trường tổ chức
22


Hình ảnh: GVCN cùng đồn trường đi thăm và trao quà cho HSDTTS
- Kết quả: Học sinh có thêm nhiều sân chơi để trải nghiệm, sáng tạo. Phối hợp

với Đoàn trường không chỉ rèn luyện tư tưởng, nề nếp, tác phong cho các em mà còn
làm cho tinh thần HS phấn khởi, vui tươi qua nhiều hoạt động tập thể. Vì vậy mà HS
cũng hứng thú đến trường, tới lớp, giúp hạn chế tình trạng HS bỏ học
* GVCN phối hợp với nhóm bạn, ban cán sự và tập thể lớp
- Những lượng lượng trung gian này sẽ là nơi gửi gắm những tình cảm,
mong muốn mà GVCN muốn hướng tới các đối tượng HSDTTS đang có ý định
bỏ học hoặc nghỉ học tạm thời.
- Cách thức thực hiện:

+ Trong tình huống HS nói chung hay HSDTTS nói riêng khi có ý định bỏ học
sẽ có những biểu hiện như nghỉ học không xin phép GVCN trong một thời gian nhất
định, có thái độ cắt liên lạc, trốn với GVCN để không phải đối diện với sự khuyên
nhủ của GV. Trong trường hợp này, ngoài việc GVCN cố gắng liên lạc với gia đình
thì cần sự chung tay giúp đỡ của những thành phần quan trọng trong tập thể lớp.
+ Để xây dựng một tập thể lớp đoàn kết, vững mạnh GVCN cần có sự cộng
tác nhiệt tình của hệ thống ban cán sự lớp. Thông qua đội ngũ cốt cán của lớp
GVCN sẽ nắm bắt được hoàn cảnh, tâm lý của các HS trong lớp, nhất là các
HSDTTS thường sống khép kín, ít chia sẻ với mọi người, từ đó đưa ra những
giải pháp giáo dục hiệu quả, khiến cho các em có tâm lý thoải mái, được yêu
thương và thích thú được đến lớp hơn.

+ Ví dụ: Chẳng hạn, học kì I năm học 2020- 2021 trong lớp 11A8 do cơ
giáo Đặng Thị Hương chủ nhiệm có HS Vi Thị Xuân đã bỏ học tạm thời trong
gần 1 tuần lễ, GVCN không thể liên lạc được với HS bằng điện thoại, gia đình
cũng từ chối nghe máy. Trong tình huống này chúng tơi đã phải vận dụng nhiều
sự hỗ trợ của các lực lượng trung gian như: nhóm bạn chơi thân với Xuân là bạn
23


Lanh Anh cùng lớp và hai bạn ở lớp 11a10; nhờ vào đội ngũ ban cán sự và các
bạn trong lớp để tìm hiểu và phân tích lý do khiến Xuân bỏ học trong thời gian
đó. Qua các lời nhắn gửi của nhóm bạn Xuân cũng như ban cán sự, Xn hiểu
phần nào tâm tư tình cảm của cơ giáo chủ nhiệm cũng như các bạn trong tập thể
lớp giành cho mình và bắt đầu có sự thay đổi trong ý nghĩ về việc bỏ học và
chấp nhận gặp mặt GVCN.
- Kết quả: Như vậy trong những trường hợp đặc biệt, GVCN khơng có
điều kiện thực hiện giải pháp tun truyền trực tiếp do vậy GVCN cần phải linh
hoạt phối hợp các giải pháp tuyên truyền gián tiếp trước sẽ mang lại hiệu quả
hơn. Khi các em ý định bỏ học chấp nhận gặp gỡ, lúc ấy GVCN mới có khả
năng làm cho HS dời tâm chuyển ý, định hướng đúng và tiếp tục việc học tập.

Hình ảnh: GVCN cùng ban cán sự thảo luận tìm giải pháp tuyên truyền

* GVCN phối hợp với GVBM
- GVCN được xem là người gẫn gũi nhất đối với HS nhưng không phải lúc
nào họ cũng bám được lớp vì vậy việc nắm bắt tâm lý HS qua các tiết học, mơn
học cần tìm hiểu qua GVBM. Từ đó GVCN truyền tải mong muốn, yêu thương
của mình qua GVBM, phối hợp với GVBM để cùng giáo dục tuyên truyền ý
thức cho HS. GVBM là chiếc cầu nối không thể thiếu được để giúp cho công
tác làm chủ nhiệm đạt hiệu quả.
- Cách thức thực hiện:

+ Thơng qua GVBM giảng dạy tại lớp mình, GVCN có thể phối hợp để
giúp đỡ các HSDTTS có ý định bỏ học bằng các hành động và việc làm cụ thể
có tính khích lệ động viên: Nhận việc phụ đạo và kèm cặp HS trong việc học tập
bộ môn, miễn giảm phí học thêm của GVBM giảng dạy tại lớp, trao những món
24


×