Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

SKKN Một số giải pháp góp phần khắc phục tình trạng sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng của học sinh trung học phổ thông hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 59 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài

MỘT SỐ GIẢI PHÁP
GÓP PHẦN KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG SỬ DỤNG
TIẾNG VIỆT THIẾU TRONG SÁNG CỦA HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HIỆN NAY

LĨNH VỰC: MÔN NGỮ VĂN


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG THPT YÊN THÀNH 2
_____________________________________________________________

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài

MỘT SỐ GIẢI PHÁP

GÓP PHẦN KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG SỬ DỤNG
TIẾNG VIỆT THIẾU TRONG SÁNG CỦA HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HIỆN NAY
LĨNH VỰC: MÔN NGỮ VĂN

Họ và tên tác giả:
Tổ bộ môn:
Năm thực hiện:
Số điện thoại:

Trần Đăng Lộc


Văn - Ngoại ngữ
2021
0946919669

Yên Thành - 2021


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ ....................................................................................................... 1
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI .................................................................................. 1
II. PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU .......................... 2
1. Phạm vi ...................................................................................................... 2
2. Đối tượng ................................................................................................... 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 2
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................................. 3
1. Nghiên cứu lý luận ..................................................................................... 3
2. Khảo sát thực tế .......................................................................................... 3
3. Phân tích, tổng hợp, đánh giá kết quả ......................................................... 3
4. Nhận xét, sửa lỗi ......................................................................................... 3
IV. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI .......................................................................... 3
V. CẤU TRÚC CỦA SÁNG KIẾN .................................................................... 3
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ........................................................................................ 5
I. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI ...................................................................................... 5
1. Cơ sở lí luận ............................................................................................... 5
2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................... 6
2.1. Những thuận lợi và khó khăn ............................................................... 6
2.1.1. Những thuận lợi ............................................................................ 6
2.1.2. Những khó khăn............................................................................ 6
2.2. Thực tiễn sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng ở học sinh trung
học phổ thông hiện nay ............................................................................... 7

2.2.1. Sự trong sáng của tiếng Việt ......................................................... 7
2.2.2. Thực tiễn sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng ở học sinh
trung học phổ thông hiện nay .................................................................. 8
2.2.3. Thực tiễn sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng ở học sinh
Trường trung học phổ thông Yên Thành 2 .............................................. 9
3. Nguyên nhân dẫn đến việc sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng của học
sinh trung học phổ thông hiện nay ................................................................ 19
3.1. Nguyên nhân khách quan ................................................................... 19
3.2. Nguyên nhân chủ quan....................................................................... 20
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GĨP PHẦN KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG SỬ
DỤNG TIẾNG VIỆT THIẾU TRONG SÁNG CỦA HỌC SINH TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG HIỆN NAY ...................................................................... 21
1. Mục tiêu của các giải pháp ....................................................................... 21
2. Những giải pháp cụ thể ............................................................................. 21
2.1. Trong dạy học ngữ văn ...................................................................... 21


2.2. Các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp .......................................... 26
2.2.1. Xây dựng trong nhà trường phong trào giữ gìn sự trong sáng
của tiếng Việt ........................................................................................ 26
2.2.2. Giáo dục lồng ghép các chương trình dạy học với các hoạt
động ngồi giờ lên lớp .......................................................................... 26
2.2.3. Thầy cơ phải sử dụng ngôn ngữ chuẩn mực trong bài giảng,
trong đời sống ....................................................................................... 26
2.2.4. Thường xuyên thiết lập các kênh đối thoại để nhắc nhở, chấn
chỉnh ..................................................................................................... 26
III. GIÁO ÁN VÀ ĐỀ VĂN MINH HỌA ........................................................ 27
1. Giáo án minh họa ..................................................................................... 27
2. Một số đề văn minh họa............................................................................ 44
IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI.......................................................................... 46

1. Đối tượng áp dụng .................................................................................... 46
2. Phạm vi .................................................................................................... 46
3. Hiệu quả thu được .................................................................................... 46
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 48
1. Đóng góp của đề tài ...................................................................................... 48
1.1. Tính mới ................................................................................................ 48
1.2. Tính khoa học ........................................................................................ 48
1.3. Tính hiệu quả ......................................................................................... 48
2. Một số đề xuất .............................................................................................. 48
2.1. Với các cấp quản lí ................................................................................ 48
2.2. Đối với tổ chuyên môn .......................................................................... 49
2.3. Đối với giáo viên ................................................................................... 49
2.4. Đối với học sinh .................................................................................... 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 50
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. MỘT SỐ ĐỀ ĐỌC HIỂU, NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
Phụ lục 2. TIẾNG VIỆT (LƯU QUANG VŨ)


ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Ngôn ngữ là hiện tượng xã hội, không bất biến mà phát triển liên tục. Q
trình giao thoa, va đập của ngơn ngữ bao hàm cả sự dung nạp, thải loại những gì
khơng phù hợp. Trong q trình ấy, bất cứ ngơn ngữ nào, điều cần nhất là nâng cao
khả năng tự điều chỉnh dựa trên nền tảng có tính chuẩn mực được vun đắp qua bao
thế hệ để ngôn ngữ ngày càng phát triển, văn minh hơn.
Nói đến vẻ đẹp của ngơn ngữ - một nét văn hóa đặc sắc của dân tộc, ca dao
từng có câu: "Người thanh tiếng nói cũng thanh". Bác Hồ cũng đã viết rằng: "Ngôn
ngữ là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải

giữ gìn nó, q trọng nó, làm cho nó phát triển ngày một rộng khắp".
Tiếng Việt là ngôn ngữ mẹ đẻ của đại đa số người Việt Nam, đồng thời cũng
là tiếng phổ thông của tất cả các dân tộc anh em sống trên đất nước Việt Nam,là
công cụ giao tiếp quan trọng bậc nhất trong một cộng đồng dân cư rộng lớn. Tiếng
Việt có lịch sử hình thành và phát triển rất đáng tự hào, trong đó đáng kể nhất là
khả năng tiếp nhận vốn từ vựng từ bên ngoài, tự điều chỉnh chúng một cách chủ
động, biến thành cái riêng, cái đặc biệt của người Việt, thực sự đã là tài sản quốc
gia quý giá. Để truyền thống ấy được phát huy trong giai đoạn hiện nay, giúp tiếng
Việt phát triển mà vẫn giữ được bản sắc thì khơng thể thiếu giải pháp phù hợp, đặc
biệt là về định chuẩn, nâng cao chất lượng giảng dạy tiếng Việt trong nhà trường,
tính tiền phong gương mẫu trong giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt từ phía các
phương tiện truyền thơng.
Sinh thời, Bác Hồ kính u của chúng ta từng căn dặn: “Ngơn ngữ là thứ
của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn nó,
quý trọng nó làm cho nó phát triển ngày càng rộng khắp”. Nhà nghiên cứu văn học
Đặng Thai Mai thì cho rằng: “Tiếng Việt, mợt biểu hiện hùng hồn của sức sống dân
tợc”. Cịn cốThủ tướng Phạm Văn Đồng thì đã từng khẳng định: “tiếng Việt của
chúng ta rất giàu. Tiếng Việt của chúng ta rất đẹp. Giàu bởi kinh nghiệm đấu
tranh của nhân dân ta lâu đời và phong phú. Đẹp bởi tâm hồn của người Việt Nam
ta rất đẹp. Hai nguồn của cái giàu, cái đẹp ấy là ở chỗ tiếng Việt là tiếng nói của
nhân dân, đầy tình cảm, màu sắc và âm điệu,hồn nhiên, ngộ nghĩnh và đầy ý
nghĩa; đồng thời nó là ngôn ngữ của văn học mà những nhà thơ lớn như Nguyễn
Trãi, Nguyễn Du... và những nhà văn, nhà thơ ngày nay ở miền Bắc và miền Nam
đã nâng lên đến trình độ rất cao về nghệ thuật”.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, tiếng Việt đã vươn lên làm trọn chức
năng giao tiếp xã hội của một quốc gia độc lập và ngày càng vượt qua mọi thử
thách để phát triển như ngày nay. Tiếng Việt đã trở thành vũ khí quan trọng để dân
tộc Việt Nam thốt khỏi mọi vịng xiềng xích nơ lệ và trở thành một quốc gia độc
lập như ngày hơm nay. Khơng những thế, nó còn làm nên bản sắc Việt Nam, mà
chúng ta hay nói đến một cách tự hào với cụm từ “niềm kiêu hãnh dân tộc”...

1


Thế nhưng cách đây mấy năm, PGS.TS Bùi Hiền đã cơng bố phần 2 cơng
trình nghiên cứu cải tiến tiếng Việt sau 40 năm nghiên cứu, ơng có đề xuất cách
viết và phát âm khác so với thông thường. Sự công bố và đề xuất này đã khiến dư
luận “dậy sóng” khi cách thức sử dụng tiếng Việt hồn tồn khác biệt so với phổ
thông. Mới đây nhất, bộ “Chữ Việt Nam song song 4.0” kết hợp từ hai công trình
“Chữ Việt nhanh" và "Ký hiệu dấu” của 2 tác giả Kiều Trường Lâm và Trần Tư
Bình vừa chính thức nhận được giấy chứng nhận bản quyền từ Cục Bản quyền tác
giả. Trước thông tin này, trên các trang mạng xã hội đã xuất hiện nhiều ý kiến phản
hồi, trái chiều, và khơng ít những băn khoăn, trăn trở về việc sử dụng tiếng Việt
hiện nay.
Hiện nay việc sử dụng Tiếng Việt thiếu trong sáng trong giao tiếp và ứng xử
của một bộ phận học sinh phổ thông, các em ngày càng lạm dụng kiểu viết, kiểu
dùng từ không đúng chuẩn mực đang khiến nhiều người thực sự cảm thấy bức xúc
và lo ngại và đặc biệt với những giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn trong nhà trường
phổ thông. Vậy nguyên nhân của thực tế này do đâu? Cần có những giải pháp nào
để khắc phục được “căn bệnh” này cho các em? Đây là những trăn trở, những vấn
đề mà tôi muốn đề cấp trong sáng kiến kinh nghiệm với đề tài “Một số giải pháp
góp phần khắc phục tình trạng sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng của học sinh
trung học phổ thông hiện nay”.
II. PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

1. Phạm vi
Trong sáng kiến này, tôi chỉ nghiên cứu cách dùng ngôn ngữ thiếu trong
sáng của học sinhtại một số lớp ở trường THPT Yên Thành 2.
2. Đối tượng
Tìm hiểu thực trạng sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng của một bộ phậnhọc
sinh trong trường ở tất cả các khối 10, 11, 12, từ đó đề ra những giải pháp khắc

phục hiện tượng sử dụng ngôn ngữ thiếu trong sáng và chuẩn mực ở học sinh.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xác định vai trò và tầm quan trọng của đề tài nghiên cứu
Tìm hiểu, nghiên cứu các vấn đề về lí luận cũng như thực tiễn đề tài
Đánh giá thực trạng sử dụngtiếng Việt thiếu trong sáng của học sinh trung
học phổ thông hiện nay.
Vận dụng các giải pháp nhằm khắc phục tình trạng sử dụng tiếng Việt thiếu
trong sáng của học sinh trung học phổ thông hiện nay.
Nhận định kết quả thông qua việc đối chiếu đánh giá trước và sau khi áp
dụng đề tài trong thực tế quá trình giảng dạy của bản thân.
2


III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1. Nghiên cứu lý luận
Xác định tầm quan trọngcủa vấn đề khắc phục tình trạng sử dụng tiếng Việt
thiếu trong sáng của học sinh trung học phổ thông hiện nay, nên tôi đã đi sâu nghiên
cứu các vấn đề liên quan, tìm hiểu, nghiên cứu các vấn đề về lí luận cũng như thực
tiễn đề tài. Xác định vai trò và tầm quan trọng của đề tài mà mình nghiên cứu.
2. Khảo sát thực tế
Từ việc khảo sát thực tế tại trường mình giảng dạy, trực tiếptiếp xúc với hiện
tượng học sinh hàng ngày sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng như tin nhắn điện
thoại, bài kiểm tra và cách trình bày bảng, từ đó đánh giá thực trạng sử dụng tiếng
Việt thiếu trong sáng của học sinh trung học phổ thơng hiện nay nói chung và ở
trường THPT n Thành 2 nói riêng.
3. Phân tích, tổng hợp, đánh giá kết quả
Qua kết quả nghiên cứu lý luận và thực khảo sát thực tế, tôi tiến hành phân
tích, tổng hợp, đánh giá và đưa ra nhận định kết quả thông qua việc đối chiếu, đánh
giá trước và sau khi áp dụng đề tài trong thực tế quá trình giảng dạy của bản thân.

4. Nhận xét, sửa lỗi
Khi đã có kết quả từ việc khảo sát và đánh giá thực tế, tôi đã vận dụng các
giải pháp nhằm sửa lỗi, khắc phục tình trạng sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng
của học sinh mình như chỉ cho học sinh thấy những lỗi mà mình vi phạm, chỉ ra
nguyên nhân vì sao các em lại thường xuyên mắc phải những lỗi rất cơ bản như
vậy, đồng thời đưa ra những cách sửa lỗi cho từng trường hợp cụ thể.
IV. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI

Từ thực trạng sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng của học sinh trung học
phổ thông, trong sáng kiến này tôi đã đưa ra một số giải pháp giúp các em sử dụng
đúng và hay khi giao tiếp đối với học sinh nói chung và đối với mơn Ngữ văn nói
riêng, góp phần mang lại những hiệu quả nhất định trong quá trình giảng dạy, giáo
dục học sinh giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt nói riêng, phát huy vẻ đẹp tâm
hồn, phẩm chất, truyền thống của con người Việt Nam nói chung.
V. CẤU TRÚC CỦA SÁNG KIẾN

Ngoài phần Đặt vấn đề và Kết luận, sáng kiến được trình bày có các phần
như sau:
I. Cơ sở của đề tài
1. Cơ sở lý luận
2. Cơ sở thực tiễn
3. Nguyên nhân dẫn đến việc sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng của học
sinh trung học phổ thông hiện nay
3


II. Một số giải pháp góp phần khắc phục tình trạng sử dụng tiếng Việt thiếu
trong sángcủa học sinh trung học phổ thông hiện nay.
1. Mục tiêu của giải pháp
2. Những giải pháp cụ thể

III. Giáo án, đề văn minh họa
IV. Hiệu quả của đề tài.

4


GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI

1. Cơ sở lí luận
Như chúng ta đã biết trong q trình phát triển, tiếng Việt đã tiếp nhận và cải
tiến nhiều yếu tố từ ngơn ngữ bên ngồi nhằmViệt hóa để phù hợp với dân tộc
mình. Chính nhờ vậy mà tiếng Việt ngày càng trở nên phong phú, uyển chuyển,
tinh tế, chuẩn xác.
Thời Pháp thuộc, tiếng Pháp được dạy từ lớp 1. Các em học sinh được học
các bài học (trừ giờ Việt văn) toàn bằng tiếng Pháp nên giới học sinh, sinh viên,
công chức sử dụng tiếng Pháp là chuyện thường tình. Nhưng sách, báo tiếng Việt
thời đó vẫn rất nghiêm túc, không lai căng tiếng Pháp một cách hổ lốn.
Từ sau Cách mạng tháng Tám cho đến ngày thống nhất đất nước, Bác Hồ,
cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến các nhà lãnh đạo giáo dục, văn hóa, văn nghệ,
báo chí… đều rất quan tâm đến việc bảo vệ, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Và vì thế, tiếng Việt được coi trọng, không pha tạp, ngay các giáo trình chuyên
khoa ở các trường đại học cũng chỉ sử dụng tiếng Việt.
Để bảo vệ sự trong sáng, tính giàu đẹp của tiếng Việt đã có rất nhiều các
cuốn sách, bài nói chuyện, hội thảo chuyên đề về giữ gìn sự trong sáng của tiếng
Việt trong cuộc sống hiện nay.
Trên báo điện tử Đại biểu Nhân dân ra ngày 13 tháng 12 năm 2010 có bài
“Lại nói về sự trong sáng của tiếng Việt” của tác giả Mai Thúc Lân viết: Phải chú
trọng hơn nữa việc dạy tiếng Việt (cả chính tả và văn phạm) cho học sinh từ bậc
tiểu học; yêu cầu biên tập viên các báo, nhà xuất bản phải hết sức chú ý sửa chữa

các sai phạm về chính tả trong sách, báo trước khi đưa in (…). Và nên chăng Quốc
hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần ra một Luật hay Pháp lệnh quy định
chặt chẽ về vấn đề giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt vì nó cũng quan trọng khơng
kém việc bảo vệ môi trường.
Ngày 24 tháng 12 năm 2012, giới khoa học trong cả nước tổ chức hội thảo
về tiếng Việt và đã chỉ ra nhữngyếu tố dẫn đến sự thiếu trong sáng trong sử dụng
tiếng Việt như: Định chuẩn chưa rõ ràng, thiếu văn bản mang tính pháp lý liên
quan; xu hướng tuyệt đối hóa vai trị ngoại ngữ của một bộ phận dân chúng trong
quá trình giao lưu hội nhập ngày càng rộng mở; hạn chế trong công tác dạy - học
tiếng Việt; ảnh hưởng từ các phương tiện truyền thông - đặc biệt là truyền thông
qua mạng internet… Những ngun nhân nói trên dẫn đến vơ số "bệnh" về tiếng
Việt, từ nói - viết sai, sính dùng từ ngoại đến các "bệnh" về chính tả, viết hoa, viết
tắt, phiên âm... Từ đó khẳng định nhà nước nên có quy định chặt chẽ và Viện Ngơn
ngữ học phải có trách nhiệm đề xuất, xây dựng quy định chuẩn về việc dùng từ
tiếng nước ngoài trong các văn bản, nhất là văn bản chính thức của Nhà nước. Các
trường học cũng phải chú trọng, đẩy mạnh giáo dục học sinh giữ gìn sự trong sáng
5


của tiếng Việt. Loại trừ sự lố bịch trong việc dùng tiếng lai cũng là một khía cạnh
thể hiện niềm tự hào và tôn trọng ý thức dân tộc trong ngơn ngữ, góp phần giữ gìn
sự trong sáng của tiếng Vỉệt.
Tiêu biểu nhất là ngày 05 tháng 11 năm 2016, nhân dịp kỷ niệm 50 năm Thủ
tướng Phạm Văn Đồng phát động phong trào "Giữ gìn sự trong sáng của Tiếng
Việt" (1966 - 2016), Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) chủ trì, phối hợp với Hội Ngơn
ngữ học Việt Nam và một số cơ quan Trung ương tổ chức Hội thảo Khoa học với
chủ đề "Giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt trên các phương tiện thông tin đại
chúng". Mục đích của Hội thảo là khẳng định, đề cao vai trị, vị thế của tiếng Việt ngơn ngữ chính thức của nước Việt Nam thống nhất, trên các phương tiện thơng tin
đại chúng; góp phần định hướng cho việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc qua
ngơn ngữ, nhất là trong bối cảnh và trách nhiệm truyền thông hiện đại.

Nước ta hiện nay, về mặt Nhà nước có Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh
niên, Thiếu Niên và Nhi đồng của Quốc hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa
- Thơng tin và Du lịch, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Viện
Ngơn ngữ học...; về phía xã hội có Hội Nhà văn, Hội Nhà báo... đều là những cơ
quan, tổ chức có trách nhiệm trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, điều quan trọng đó là chúng ta cần phải
hiểu đúng, dùng đúng từ ngữ Việt; chống thái độ tùy tiện trong việc nói và viết
tiếng Việt, chống lạm dụng từ nước ngoài để làm sao mỗi một học sinh đang ngồi
trên ghế nhà trường phải thật sự có ý thức trong việc giữ gìn sự trong sáng của
tiếng Việt.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Những thuận lợi và khó khăn
2.1.1. Những thuận lợi
Trong quá trình giảng dạy tại đơn vị cũng như thực hiện đề tài nghiên cứu,
bản thân tôi luôn nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của lãnh đạo nhà trường, các
thành viên trong tổ Văn - Ngoại ngữ, các đồng nghiệp trong trường và sự phối hợp
của các bậc phụ huynh. Đặc biệt là trong quá trình thu thập và xử lý thông tin, tôi
luôn nhận được sự hỗ trợ tận tình ngay từ khâu chuẩn bị cho đến khi hoàn thành đề
tài. Điều này tạo nên những thuận lợi và là niềm động viên, khích lệ tơi hứng thú
hơn trong q trình thực hiện đề tài.
Về phía học sinh, đa số các em có sự đồng đều về năng lực học tập và ý thức
trong giao tiếp, các em sẵn sàng và tình nguyện hỗ trợ tơi trong rất nhiều công việc
như phát phiếu điểu tra, thực hiện bài kiểm tra, hay là quá trình thực giảng trên
lớp…
2.1.2. Những khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi thì tơi cũng gặp khơng ít những khó khăn nhất
định như:
6



+ Thực tế xã hội ta hiện nay vẫn chưa làm tốt chức năng giáo dục trongviệc
này, nhất là ở trách nhiệm gia đình, nhà trường và đồn thể.
+ Bản thân chưa có điều kiện đểtiếp cận nhiều với những chuyên đề, giải
pháp hiệu quả một cách trực tiếp trong việc giáo dục học sinh trung học phổ thơng
giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
+ Do cách dạy học hiện nay nặng về tính truyền thụ, thực dụng về kiến thức
thi cử nên khả năng diễn đạt hạn chế rất nhiều.
+ Một số phụ huynh còn xem nhẹ cách giao tiếp lời ăn tiếng nói hàng
ngày của con em mình, điều này dẫn tới lối nói tùy tiện mất đi vẻ đẹp vốn có
của tiếng Việt.
+ Về phía học sinh, một bộ phận không nhỏ thiếu ý thức trong giao tiếp
và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, điều này ảnh hưởng xấu đến văn hóa
học đường.
+ Yếu tố thời đại, xã hội cũng là một trong những khó khăn tác động rất lớn
đến ý thức, trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt của học sinh nói riêng,
xã hội nói chung.
2.2. Thực tiễn sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng ở học sinh trung học phổ
thông hiện nay
2.2.1. Sự trong sáng của tiếng Việt
Chúng ta nên hiểu như thế nào là "trong sáng"? Trong sáng chính là sự
trong trẻo, sáng rõ, khơng một chút vẩn đục, trong sáng có nghĩa là ở trạng thái
giữ được bản sắc tốt đẹp, khơng có hiện tượng pha tạp, tạp nham, hoàn toàn lành
mạnh. Sự trong sáng trong tiếng Việt là một vấn đề rất rộng mở, bao hàm tất cả
những gì liên quan đến việc sử dụng và có ảnh hưởng đến tiếng Việt. Bản chất
vốn có của tiếng Việt như thế nào và việc sử dụng đúng bản chất đó ra sao thì đó
chính là sự trong sáng của tiếng Việt. Con người chúng ta sử dụng ngôn ngữ làm
phương tiện giao tiếp hàng đầu giữa mọi người với nhau, đối với người Việt ta,
sử dụng tiếng Việt là phương tiện quan trọng nhất, đảm bảo được sự hiệu quả
trong giao tiếp và truyền đạt.
Một trong những nét trong sáng đầu tiên của tiếng Việt chính ở hệ thống

chuẩn mực và quy định về việc sử dụng tiếng Việt, từ việc sử dụng chữ viết, phát
âm, từ ngữ, ngữ pháp, cho đến phong cách ngôn ngữ đều có những quy tắc chung.
Mỗi chữ viết có cách viết và cách phát âm khác nhau, có thể ghép với nhau theo
quy tắc để tạo nên những từ mới. Mỗi câu đều có cấu trúc ngữ pháp nhất định và
mang phong cách ngôn ngữ phù hợp với bối cảnh sử dụng, tất cả điều đó cấu thành
sự trong sáng của tiếng Việt.
Thứ hai, tiếng Việt là ngôn ngữ của chúng ta, do ông cha ta là người sáng
lập nên, gắn liền với bản sắc văn hóa của dân tộc, sự trong sáng trong tiếng Việt
chính là khơng có sự pha tạp, việc sử dụng hay mượn từ của nước ngoài phải có
7


chọn lọc, phải phù hợp và có chừng mực, khơng lạm dụng các từ nước ngoài, tuy
nhiên ở trong mỗi hồn cảnh phải biết dung nạp những yếu tố tích cực để làm giàu,
đa dạng hơn vốn tiếng Việt.
Thứ ba, việc sử dụng ngơn ngữ chính là đang sáng tạo ngơn ngữ, tiếng Việt
trong q trình sử dụng được con người sáng tạo với muôn màu muôn vẻ khác
nhau, tuy nhiên sự sáng tạo đó phải nằm trong quy củ, phải tuân theo những quy
tắc chung, đảm bảo tính chuẩn mực và hệ thống của tiếng Việt. Không thể sáng tạo
một cách nhố nhăng, vô tổ chức, cái sáng tạo phải hướng đến đóng góp cho sự bền
vững và phát triển của tiếng Việt. Ngơn ngữ nào cũng vì một mục đích chung đó là
giao tiếp trong xã hội lồi người, chính vì vậy, nó phải đảm bảo những chuẩn mực
đạo đức chung của con người. Đối với tiếng Việt, tính lịch sự, văn minh chính là
một trong những nét trong sáng của thứ ngôn ngữ này.
Thứ tư, trong xã hội có bao nhiêu lứa tuổi, bao nhiêu thành phần, tầng lớp và
phân chia vai vế thì ứng với đó là có bấy nhiêu cách xưng hơ phù hợp. Sự phù hợp
trong cách xưng hô không chỉ để nhận dạng mà cịn đảm bảo tính nhân văn, tình
cảm giữa con người. Khơng chỉ riêng trong cách xưng hơ mà tồn bộ việc sử dụng
tiếng Việt cũng phải đảm bảo lịch sự, có văn hóa, thể hiện ở cách điều chế cảm
xúc, biết khiêm nhường, lễ độ và nói năng từ tốn, đặc biệt là biết nói lời xin lỗi,

cảm ơn.
2.2.2. Thực tiễn sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng ở học sinh trung học phổ
thông hiện nay
Trong thời gian gần đây, tiếng Việt đang bị sử dụng một cách bừa bãi, sự
trong sáng của tiếng Việt đang bị giảm sút nghiêm trọng. Và một sự thật đáng buồn
là học sinh trung học phổ thông - những người đã và đang được học văn hóa, được
tiếp thu những thành tựu khoa học - lại là những người sử dụng tiếng Việt thiếu
trong sáng nhất. Cách nói năng của một bộ phận học sinh hiện nay chưa thật sự
chuẩn mực và trong sáng (tuy là phổ biến nhưng không phải số đông, chưa phải là
tất cả học sinh).
Đúng là khơng khó để nhận ra việc tiếng Việt đang bị một bộ phận khơng
nhỏ sử dụng một cách vơ trách nhiệm, thậm chí bị bóp méo và xâm phạm đến đáng
sợ, dẫn đến cách hiểu thứ ngôn ngữ chúng ta đang dùng hằng ngày “tựa như một
mớ hổ lốn”. Bất cứ lúc nào họ cũng có thể chen từ nước ngồi vào, khiến cho ngôn
ngữ Việt không ra Việt, Tây không ra Tây. Tôi đã làm một cuộc khảo sát bằng
cách nhắn tin với học sinh của mình và giật mình “tá hỏa” bởi một loại ngôn ngữ
mới mà các em sử dụng chưa hề thấy trong từ điển. Chữ nghĩa được giản lược đến
mức tối đa theo cách phát âm, viết tắt. Đơn cử như: “quá”, “quyển” được viết
thành “wá, wyển”; “quen” thành “wen”; “quên” được viết thành “wên”; “yêu” giản
lược thành “iu”;“luôn” thành “lun”; “buồn” thành “bùn”; “biết không”? thành
“bitk?”; “biết rồi” thành “bít rùi” (biết rồi); “biết chết liên” thành “Bít chít lìn”;
“mấy” thành “mí”… Hay những ký tự như: “ko, k” (không); “u” (bạn, mày), “ni”
(nay), “en” (em), “m” (mày), “ex” (người yêu cũ), “t” (tao), “hem” (không),…
8


Không chỉ lệch chuẩn về mặt từ ngữ, tiếng Việt còn bị dùng sai ngữ pháp
một cách phổ biến. Theo các nhà ngôn ngữ, đặc điểm lớn nhất của ngữ pháp tiếng
Việt là trật tự từ. Đáng nói nữa là trong giới trẻ đang nổi lên như một cách giao tiếp
thời thượng, được đông đảo bạn trẻ cổ xúy mà chúng ta có thể bắt gặp hằng ngày

từ nhà ra ngõ, từ công sở đến trường học với những từ rất phản cảm như: “Đi gì mà
đầu lâu thế?”; “Bắc Cạn đi, các ông ơi!”; “Cả lớp ơi, “lệ quyên vào đi chơi thơi!”;
“hết bao nhiêu đấy, để cịn Campuchia?” v.v... Đó là chưa kể đến một bộ phận
khơng nhỏ thường viết sai chính tả từ “l-n”, “s-x”, “tr-ch”….
2.2.3. Thực tiễn sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng ở học sinh Trường trung học
phổ thơng n Thành 2
Trong q trình thực hiện sáng kiến này, tôi đã khảo sát việc sử dụng tiếng
Việt của học sinh tại Trường THPT Yên Thành 2 (nơi tôi đang công tác) ở bài
kiểm tra viết, tin nhắn trên điện thoại và viết bài tập lên bảng. Sau đây là một số
hình ảnh cho thấy hàng loạt những lỗi mắc phải của học sinh:

9


10


11


12


13


14


Từ những hình ảnh khảo sát được, chúng ta có thể thấy trong một bài kiểm

tra nhỏ hoặc một tin nhắn ngắn đã có hàng loạt những lỗi mắc phải. Những quy
ước ngầm định trong tin nhắn giữa các học sinh có thể chấp nhận được, nhưng
trong các bài kiểm tra thì điều đó là lỗi khơng thể chấp nhận được, nó đã làm mất
đi sự trong sáng của tiếng Việt.
Căn cứ vào những khảo sát trên, tôi tạm chia ra các lỗi như sau:
2.2.3.1. Xu hướng đơn giản hóa
Đây là khuynh hướng phổ biến nhất mà bất kỳ một học sinh nào cũng mắc
phải. Một số kí tự học sinh thường dùng phổ biến qua tin nhắn điện thoại:
Ngôn ngữ (gốc)
(cười) haha
(cười) hihi
À
anh
Ăn cơm
Ba (cha)
Bà xã
chà

Ngôn ngữ (sáng tạo)
Kaka
Hjhj
Àh
A
ăn kum
Papa
Vx
Ckàz
15



chảnh chó
chào
chắc
chết
chia tay
chim
chịu
cho
chó
chồng
chúc ngủ ngon
chuyện
chửi
Dạ
đang
đánh lộn
đánh nhau
đâu
đẹp
trước
uống nước
Ừ
vẫn
vậy
Vơ dun
Vở
Vợ
với
vui
xin chào

xin lỗi
xinh
xoắn
xuống
Ý
Yêu……

c2
bye bye
Chắt
Chjt
Ct
Chym
Ckju
Choa
Tró
Ck
g9, chux ngủ ngon
chiện, chyn
Ekuj
Dzạ
Dag
Wuynh lộn
Pk
Âu
Chẹp
trướk, trc
un nc
uk, ừa
Zẫn

zậy, z, vz
zô zuyên
Zở
Vk
zới, vs, zs
Zui
22…
sr, xl
Xin
Xoak
Xún
Yk
ju, iu…….

2.2.3.2. Xu hướng phức tạp hóa
- Xu hướng này tuy khơng phát triển mạnh mẽ như xu hướng thứ nhất nhưng
nó vẫn tồn tại như một cách để thể hiện sự khác biệt “sành điệu” của giới trẻ.
16


Trong xu hướng phức tạp hóa, một trong những nét đặc trưng cần phải nhấn mạnh
đó là cách thể hiện, trình bày nội dung văn bản. Với mong muốn được thể hiện,
khẳng định bản thân (do tâm lý lứa tuổi), tạo sự khác biệt, xu hướng này vì thế,
càng được phát huy mạnh mẽ.
- Sự phức tạp trước hết được thể hiện thơng qua hàng loạt các biểu đạt tình
cảm đi kèm.
Ví dụ:
:((buồn
:) cười
:)))))rất buồn cười.

- Sự phức tạp cịn được thể hiện trong cách trình bày cầu kỳ.
Ví dụ:
“Thiếu zắng a e humz thể shống thêm 1 fút jây nào nữa”
(Thiếu vắng anh, em không thể sống thêm một phút giây nào nữa).
2.2.3.3. Xu hướng tạo ra những lời nói cố định
Những câu giới trẻ hay sử dụng là:
Chảnh như con chó cảnh
Chán như con gián
Chuyện nhỏ như con thỏ
Biết chết liền
Đã xấu còn xa, đã si đa còn xơng pha hiến máu
Bó tay chấm cơm
Buồn như con chuồn chuồn
Đẹp trai có gì là sai
Dở hơi tập bơi
Ngu như con bị thích hát hị
Xấu như con gấu
Ngất trên cành quất
- Khi những ngôn ngữ kia được chuyển thành văn bản với từng bước phát
triển và sáng tạo thì chúng sẽ có hình dạng như sau:
Ngoi` pun` hok bjk lem` je^`, vo^ tinh` nghj~ den' anh, hok bjk jo` nay` anh
dang lam` j` ta? (Tạm dịch là: Ngồi buồn không biết làm gì, vơ tình nghĩ đến anh,
khơng biết giờ này anh đang làm gì ta?
Nếu xét về nội dung ta thấy có một số câu phù hợp với cách lí giải của tuổi
teen là nói cho vui, Xấu như con gấu; Đói như con sói; Chuyện nhỏ như con thỏ
chạy trên đồng cỏ; Chán như con gián; Chảnh như con chó cảnh. Nhưng ta cịn
nhận thấy bên cạnh những câu nói có thể chấp nhận được cịn là những câu nói dựa
17



vào thành ngữ gốc mà biến đổi, làm mất hết ý nghĩa của thành ngữ và nó mang lại
một thơng tin sai lệch hoàn toàn với thành ngữ ban đầu mà người Việt sử dụng:
Không mày đố thầy dạy ai; Một con ngựa đau cả tàu được ăn thêm cỏ; Một điều
nhịn là chín điều nhục; Ăn trơng nồi ngồi trơng xó… Và khi những câu nói quen
thuộc này được giới tuổi teen sử dụng để giao tiếp với người lớn. Giáo viên chúng
ta cũng từng là nạn nhân của những câu nói trên khi đơi lần hỏi bài học sinh trả lời
trống không “biết chết liền” đây là những tình huống nằm ngồi ý muốn của người
đứng lớp.
- Những lời nói cố định như vậy được sử dụng rất rộng rãi:

2.2.3.4. Hiện tượng nói tục
Học đường được coi là môi trường trong lành cho sự phát triển mọi mặt của
học sinh, trong đó có hiện tượng học sinh nói tục. Nói tục là một hiện tượng xấu và
rất đáng phê phán. Những lời nói thơ tục, thiếu văn hóa, thiếu tính tơn trọng đang
ngày càng được học sinh sử dụng rộng rãi như tiếng nói hằng ngày bắt buộc phải
có. Họ nói chuyện bằng những lời lẽ thơ tục với bạn bè xung quanh, hay khi tức
giận một ai đó, họ cũng bng ra một câu nói thiếu văn hóa ngay cả khi họ đang
đứng trong một nơi trang nghiêm, hay nơi cơng cộng đơng người… Nói tục đang
ngày càng được phổ biến rộng rãi ở nhiều nơi, nhiều lứa tuổi. Ta có thể bắt gặp
một học sinh nào đó đang ngồi trong lớp học cũng bng một vài lời nói thơ
thiển,… Tất cả đang dần làm mất đi sự trong sạch của môi trường học đường hiện
nay, vậy nguyên nhân là do đâu? Nguyên nhân chủ yếu đầu tiên chính là do ý thức
18


của mỗi người, mỗi học sinh còn kém, thiếu văn hóa giao tiếp, đua địi bắt chước
người khác, ra vẻ ta đây để ra oai với mọi người… Nguyên nhân thứ hai là do tác
động của bên ngoài, do bị ảnh hưởng của người lớn, của gia đình và những người
xung quanh. Khơng những thế, người hay nói tục sẽ làm mất đi nét đẹp văn hóa
học đường, làm xấu và làm mất đi vẻ đẹp, sự trong sáng của Tiếng Việt.

Các từ thường trực ở cửa miệng của nhiều học trò mà ta thường xuyên thấy
qua các tin nhắn trên Facebook: “Đ.M”, “vl”, đcm,… Điều này làm xấu đi hình
ảnh tiếng Việt vốn rất giàu và đẹp.
2.2.3.5. Hiện tượng sử dụng ngoại ngữ một cách tùy tiện
Tiếng Việt, ngôn ngữ của dân tộc, không chỉ là biểu hiện của vẻ đẹp truyền
thống cũng như sự hiện đại hóa về tư duy của con người, của đất nước, mà còn
khẳng định vị thế của văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế. Vậy mà việc sử dụng
thứ ngôn ngữ được coi là tiếng Việt, nhưng khơng có trong từ điển tiếng Việt, của
các bạn trẻ hiện nay đang là trào lưu nở rộ. Đó là cách các bạn trẻ thể hiện phong
cách? Có lẽ đúng hơn là một sự lai căng, biến tướng tiếng mẹ đẻ, và đó là vấn đề
đáng lên án và cần phải loại trừ. Việc xen kẽ những từ ngữ nước ngồi khơng cịn
q xa lạ trong những mẩu đối thoại hằng ngày của giới trẻ. Tuy chưa có một điều
tra xã hội học hay thống kê đầy đủ nhưng các nhà ngôn ngữ học đều cho rằng hiện
tượng này rất phổ biến.
Ví dụ:
- “Con đang ở trường mà, đang làm nốt assignment, con send xong rồi về.
Đợi con chút, con check lại xong rồi fone lại cho ba ngay”… Ở đầu dây bên kia, vị
phụ huynh đang tốt mồ hơi hột khơng kịp hiểu con gái cưng nói gì. Đệm tiếng
Anh như một phần tất yếu trong giao tiếp của các bạn trẻ cho dù đơi lúc nó gây sự
hiểu lầm, khó chịu của người nghe.
- “Mày ok hay không ok cũng phải call lại cho nó chứ. Chẳng pro chút nào cả”
- “Can” (có thể) chiều nay học xong tớ sẽ đi bơi. Cậu tham gia khơng?/Tớ
“no” (khơng) biết.
Đó là những đoạn đối thoại tiêu biểu của giới trẻ, chỉ với câu nói ngắn gọn
đó mà có đủ cả tiếng Anh lẫn tiếng Việt. Môi trường học tập, sinh hoạt ảnh hưởng
không nhỏ đến sự lẫn lộn ngôn ngữ của các bạn trẻ. Nhiều bạn lạm dụng đệm tiếng
Anh vào câu nói của mình, chửi thề cùng đệm đế để chứng tỏ ta đây của sự hiểu
biết “rởm”, sính ngoại ngữ.
3. Nguyên nhân dẫn đến việc sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng của học sinh
trung học phổ thông hiện nay

3.1. Nguyên nhân khách quan
- Xã hội ngày càng phát triển, lối sống phương Tây ồ ạt tràn vào Việt Nam.
Giới trẻ là những người nhạy bén nhất. Họ học tập, sáng tạo, áp dụng và làm ra cái
19


mới để thể hiện mình. Tuy nhiên, vì cịn trẻ nên các em chưa khẳng định được việc
thể hiện mình như vậy là đúng hay sai, các em muốn thay đổi nhưng chưa biết cách
thay đổi như thế nào cho phù hợp.
- Việc du nhập ngôn ngữ nước ngoại tạo ra nhiều kênh giao tiếp. Tuy nhiên,
cần có một cái nhìn biện chứng trong vấn đề này. Xu hướng gia tăng vốn từ vựng
là một xu thế, yêu cầu tất yếu, và cuộc sống phát triển càng năng động thì tốc độ
của sự gia tăng này càng cao. Cuộc sống không thể chờ các nhà chuyên môn, các
nhà ngôn ngữ học phân tích xem từ nào, cách diễn đạt nào là đúng, là hay, chờ
“cấp phép” rồi mới dùng mà cứ “hồn nhiên tự nhiên” vay mượn, vận dụng, sáng
tạo… để sử dụng. Rồi sau đó, theo thời gian, cái gì đúng đắn, được cộng đồng chấp
nhận thì sẽ tồn tại, gia nhập vào vốn ngôn ngữ, được đưa vào từ điển, cái gì khơng
phù hợp thì sẽ bị đào thải, sẽ bị lãng quên, một số từ ngữ cổ không phù hợp cũng
không được sử dụng nữa. Trong thực tế có những từ ngữ, cách diễn đạt mới được
dùng bị phản đối nhưng rồi sau đó vẫn được chấp nhận (ví dụ: tuổi teen…).
- Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải thừa nhận một thực tế đó là trong chính tả
của tiếng Việt vẫn cịn tồn tại sự bất hợp lý khi sử dụng nhiều ký hiệu để biểu thị
cùng một âm vị: K, Q, C cùng để biểu thị âm vị / K/; hay Z, d, gi cùng để biểu thị
âm /z/ v.v..
3.2. Nguyên nhân chủ quan
- Thứ nhất: do sự giảm sút tình yêu tiếng Việt, ý thức giữ gìn và bảo vệ sự
trong sáng của tiếng Việt không được coi trọng.
- Thứ hai: do xu hướng lai căng, sính ngoại, thích “hiện đại”, thích được thể
hiện cá tính của giới trẻ. Tâm lý “thích sành điệu, thích được xem là dân chơi, là
đẳng cấp”, một số người thường thích thể hiện sự “uyên bác” bằng cách diễn đạt

pha trộn nhiều tiếng nước ngoài, hay diễn đạt khó hiểu, dùng các từ nước ngồi
một cách khơng cần thiết…
- Thứ ba: do sự thiếu hụt những tri thức cơ bản về ngơn ngữ nói chung và
tiếng Việt nói riêng. Đời sống hiện đại khiến cho những người không biết nghĩa
của các từ tố Hán Việt ngày càng nhiều, dẫn đến việc dùng sai tiếng Việt. Ví dụ: từ
“cứu cánh” nghĩa là mục đích (hay mục đích cuối cùng), song hiện nay rất nhiều
người hiểu là “cứu giúp” hay “giải thoát”, “giải pháp”.
- Thứ tư: do cách giao tiếp, ứng xử thiếu văn hóa của một bộ phận khơng
nhỏ học sinh như: nói tục, chửi bậy, dùng từ, đặt câu khơng đúng nghĩa, khơng phù
hợp với hồn cảnh, nội dung, mục đích giao tiếp...
- Thứ năm: do việc tiếp xúc thường xuyên với cách sử dụng ngôn ngữ một
cách tùy tiện của những bài viết không chuẩn mực trên mạng, sự dễ dãi, vô nguyên
tắc trong sử dụng ngôn ngữ, sự lạm dụng các yếu tố ngoại ngữ, khẩu ngữ, cách
diễn đạt để gây “ấn tượng”, “giật gân”…
20


II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GĨP PHẦN KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG SỬ DỤNG
TIẾNG VIỆT THIẾU TRONG SÁNG CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG HIỆN NAY

1. Mục tiêu của các giải pháp
- Giúp người sử dụng tiếng Việt hạn chế về các lỗi trong diễn đạt, đạt hiệu
quả cao trong quá trình giao tiếp.
- Khắc phục tình trạng sử dụng từ ngữ bừa bãi, rèn luyện kỹ năng nói và viết
thường xuyên, tránh nói sai, viết sai làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt.
- Xây dựng cho học sinh ý thức được sự quan trọng của việc giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt, biết tôn trọng tiếng Việt, rèn luyện thói quen tư duy mạch lạc,
rõ ràng, từ đó mà học tiếng Việt, sử dụng tiếng Việt có hiệu quả cao hơn.
2. Những giải pháp cụ thể

Từ những thực trạng và nguyên nhân sử dụng tiếng Việt như trên, là giáo
viên giảng dạy Ngữ văn, tôi xin được đưa ra một số giải pháp nhằm giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt trong giai đoạn hiện nay như sau:
2.1. Trong dạy học ngữ văn
- Xây dựng những giáo án giảng dạy phải có sự lồng ghép việc giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt. Đặc biệt với bài dạy Những yêu cầu về sử dụng tiếng
Việt (Lớp 10, tập 2), và Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt (Lớp 12, tập 1), giáo
viên phải thực sự chỉ rõ vẻ đẹp của tiếng Việt, giúp học sinh nắm được những yêu
cầu về sử dụng tiếng Việt ở các phương diện ngữ âm, chữ viết, dùng từ, đặt câu, cấu
tạo văn bản, phong cách ngôn ngữ, đồng thời giúp các em vận dụng được những yêu
cầu trên vào việc sử dụng tiếng Việt, phân tích và sửa chữa lỗi về tiếng Việt.
- Giáo viên có thể xây dựng thành những đề đọc hiểu, đề văn nghị luận xã
hội về hiện tượng sử dụng ngơn ngữ của chính giới trẻ hiện nay. Từ đó các em
nhận thức được rõ hơn hiện trạng sử dụng tiếng Việt của chính bản thân mình,
nhận thức được giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt khơng chỉ là vấn đề của mình
mà đó cịn là điều cả cộng đồng đang hướng tới.
- Trong các tiết trả bài kiểm tra các thầy giáo, cô giáo không chỉ hướng dẫn
học sinh xác định đúng thể loại, kiểu bài, cách làm bài và trình bày bài văn… mà
còn hướng dẫn, rèn luyện cho học sinh cách dùng từ khi viết văn, chữa lỗi dùng từ,
chữa cách diễn đạt… sao cho trong sáng. Ta thường bắt gặp các lời phê của thầy cô
giáo trong bài làm của học sinh như: Dùng từ chưa chính xác, dùng từ chưa hay,
dùng từ trùng lặp, dùng từ sai nghĩa…
Trong quá trình chấm bài kiểm tra, bản thân tôi phát hiện ra những lỗi mà
học sinh thường mắc phải như:
1. Lỗi dùng từ
a. Dùng từ chưa đúng âm: Để dùng từ đúng âm phải hướng dẫn học sinh
21



×