Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TIỂU LUẬN HỌC PHẦN LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC ĐỀ TÀI: QUAN ĐIỂM CỦA TRƯỜNG PHÁI TÂM LÝ HỌC HÀNH VI. VẬN DỤNG TÂM LÝ HỌC HÀNH VI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.56 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG XÃ HỘI
KHOA CÔNG TÁC XÃ HỘI
---------------

TIỂU LUẬN HỌC PHẦN LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC
ĐỀ TÀI: QUAN ĐIỂM CỦA TRƯỜNG PHÁI TÂM LÝ HỌC HÀNH VI.
VẬN DỤNG TÂM LÝ HỌC HÀNH VI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Giáo viên hướng dẫn: TS. NGUYỄN THỊ HIỀN
Họ và tên sinh viên: CHU BÍCH LIÊN
Lớp niên chế: D15TL01
Mã SV: 1115070050
Lớp học phần: D15TL_01


Hà Nội, tháng 7 năm 2021
MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Nghiên cứu lịch sử tâm lý học cho phép sinh viên đặt tâm lý học hiện đại trong
viễn tượng lịch sử, hiểu về tâm lý học hiện đại đầy đủ hơn, nhận ra rằng những
gì thịnh hành trong tâm lý học thì thường được quyết định bởi các yếu tố xã hội
và tâm lý, thấy được các sai lầm của quá khứ để không lặp lại chúng một lần
nữa, khám phá ra các ý tưởng có ích lợi tiềm tàng, thỏa mãn sự tò mò về một
điều được coi là quan trọng.Tâm lý ngày càng đóng vai trị vơ cùng quan trọng
trong đời sống con người hiện nay. Những lý thuyết về tâm lý con người nói
chung và ngành tâm lý học nói riêng trở nên thật bổ ích, bởi nó cung cấp cho
chúng ta những nền tảng căn bản, cơ sở để hiểu được chính bản thân mình và
hiểu được người khác một cách dễ dàng hơn. Từ đó cuộc sống, các mối quan hệ
xung quanh chúng ta trở nên thật dễ dàng, đơn giản mà không quá phức tạp như


chúng ta vẫn nghĩ.
Với trường phái tâm lý học hành vi, những nhà nghiên cứu sẽ tập trung tìm hiểu
và phân tích sự kích thích từ mơi trường có tác động đến hành động/hành vi của
con người như thế nào. Các nhà tâm lý học hành vi tin rằng phản ứng của con
người đối với kích thích từ mơi trường chính là cái tạo nên hành vi, hành vi có
thể được học tập một cách có hệ thống và được quan sát một cách rõ ràng từ bên
ngoài, không đi sâu vào diễn biến tâm lý nội tâm. Chính vì điều đó, hiện nay lý
luận chun mơn và các hiểu biết về tâm lý học hành vi được ứng dụng vào
cuộc sống hiện đại trong rất nhiều lĩnh vực từ giáo dục đến phá án hay kinh
doanh,…
Vì những lý do trên, em xin được lựa chọn đề tài:” Quan điểm của trường phái
tâm lý học hành vi. Vận dụng tâm lý học hành vi trong giai đoạn hiện nay” làm
chủ đề của bài tiểu luận này.

3


CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA TRƯỜNG PHÁI TÂM LÝ HỌC HÀNH
VI
1.1.Khái quát về tâm lý học hành vi
1.1.1.Tâm lý học hành vi là gì?
Tâm lý học hành vi (TLH hành vi) là bộ môn khoa học nghiên cứu sự tương tác
giữa suy nghĩ, cảm xúc, nhận thức và hành vi con người. Tâm lý học hành vi đôi
khi được gọi là chủ nghĩa hành vi. Các nhà hành vi học cổ điển cịn định nghĩa
nó là việc nghiên cứu về ảnh hưởng của não bộ lên hành vi. Đây là lĩnh vực có
cả nghiên cứu và ứng dụng lâm sàng.
Về nghiên cứu, nó nghiên cứu về cách mà suy nghĩ, cảm xúc và niềm tin ảnh
hưởng đến hành vi chúng ta. Bên cạnh đó, chúng cũng có nghiên cứu cách hành
vi tác động đến nhận thức. Về ứng dụng, nó cố gắng đề ra các giải pháp để sửa
đổi hành vi có vấn đề và tìm đến những cách hành xử tích cực, lành mạnh hơn.

1.1.2.Lịch sử hình thành tâm lý học hành vi.
Vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, hình thành hai xu hướng duy tâm chủ
quan và duy tâm khách quan đã tạo nên sự khủng hoảng trong tâm lý học thời
kỳ ấy. Trước đòi hỏi của cuộc sống và sự vận động của bản thân khoa học, càng
ngày ý đồ tiếp tục phát triển tâm lý học trong khuân khổ của tâm lý học duy tâm
càng tỏ rõ sự thất bại.
Chính vì thế, cần thiết tìm ra một con đường mới về nguyên tắc để xây dựng
khoa học tâm lý. Dựa trên quan điểm triết học thực chứng của Comte (1798 1857), chủ trương mọi lập luận phải được xây dựng trên cơ sở những chứng cứ
khách quan, quan sát được, những thành tựu của các nhà sinh lý học thần kinh
và tâm lý học động vật. J. Watson (1878 – 1958) - một nhà tâm lý học người Mỹ
đã hình thành trường phái tâm lý học hành vi - một khoa học về hành vi.
John B. Watson thường được coi là người sáng lập ra chủ nghĩa hành vi với việc
ông xuất bản bài báo kinh điển “Tâm lý học với tư cách là quan điểm của người
theo chủ nghĩa hành vi” vào năm 1913.
Từ khoảng năm 1920 đến giữa những năm 1950, chủ nghĩa hành vi đã phát triển
trở thành trường phái tư tưởng thống trị trong tâm lý học. Một số ý kiến cho
rằng sự phổ biến của tâm lý học hành vi xuất phát từ mong muốn thiết lập tâm
lý học như một khoa học khách quan và có thể đo lường được.
Các nhà nghiên cứu có xu hướng duy vật trong tâm lý học đã đi theo con đường
này. Và nhờ có cuộc đấu tranh tích cực của Watson và những nhà hành vi mà
4


hành vi đã trở thành đối tượng chủ yếu và duy nhất của tâm lý học, góp phần
xứng đáng xây dựng tâm lý học khách quan.
Tâm lí học hành vi, với những đại biểu xuất sắc là các nhà tâm lí học kiệt xuất: J
Watson (1878 – 1958), E.Tolmen (1886 – 1959), E.L.Toocdai (1874 – 1949),
B.Ph.Skinnơ (1904 – 1990)… Các nhà tâm lí học theo hướng tiếp cận hành vi
phủ nhận việc nghiên cứu ý thức con người.
1.2.Sự phân hóa của Tâm lý học hành vi

Năm 1913, tập san tâm lý học Mỹ in bài báo của Watson “Tâm lý học dưới con
mắt nhà hành vi”, là phần đầu bài giảng của ông tại trường Đại học Colombia
năm 1912, sự kiện này được coi như mốc hình thành tâm lý học hành vi. Sự
phát triển tiếp theo của hướng tiếp cận hành vi sau J. Watson đã dẫn đến phân
hoá trường phái tâm lí học này thành 3 nhánh:
1. Tâm lí học hành vi bảo thủ, trung thành với các luận điểm ban đầu, có tính cơ
giới về hành vi trí tuệ con người của J. Watson (Watson, 1913) (thuyết kích
thích – phản ứng: S – R), đại biểu là Skinnơ.
2. Tâm lí học hành vi mới, có ý đồ nghiên cứu cả các yếu tố trung gian của chủ
thể trong sơ đồ S – R, yếu đố đó chính là quá trình nhận thức (thuyết S – S), đại
biểu là E.Tolmen.
3. Tâm lí học hành vi chủ quan (thuyết “TOTE” – chữ đầu của các từ tiếng Anh.
T: Test, O: Operate; T: Test, E: Exit, tức là thuyết thử - thao tác - thử - thoát ra).
Đại diện thuyết TOTE là O. Mille, Galanter, Pribram.
Sự khác nhau giữa các thuyết trên tập trung vào 3 điểm sau (Ngọ, 2001):
- Thứ nhất: nhân tố phát động 1 hành vi. Thuyết hành vi cổ điển cho rằng các
phản ứng bên ngoài là nhân tố phát động hành vi của con người và con vật.
Theo TOTE, nhân tố phát động hành vi của con người và con vật là quá trình ở
trung ương thần kinh, trí nhớ, tâm thế, sự mong đợi…
- Thứ hai: kết quả học tập. Thuyết (S – R) quan niệm kết quả học tập là kỹ xảo
(trật tự nào đó của các cử động). Cịn theo thuyết (S – S), kết quả học tập là “các
cấu trúc nhận thức” (hay là sự phản ánh một tình huống nào đó).
- Thứ ba: phương pháp ứng xử. Thuyết (S – R) cho rằng phương thức thích ứng
là “thử và sai”, cịn theo thuyết (S – S), tính chất và thành công của các hành vi
phụ thuộc vào cấu trúc của tình huống khách quan quy định. Vì vậy, tổ chức
(cấu trúc) tình huống quy định sự hoạt hố của cá thể, nó quy định sự nắm bắt
5


các quan hệ bản chất của tình huống. Ngược lại, thuyết TOTE, đề cao hình ảnh,

kế hoạch của các phản ứng. Nói các khác, theo TOTE, những kinh nghiệm, tri
thức đã có về hành vi, sự chỉ dẫn q trình tiến hành hành vi đó sẽ quy định chất
lượng của hành vi ứng xử.
1.3.Tâm lý học hành vi cổ điển
1.3.1. Những cương lĩnh đầu tiên của thuyết hành vi.
Những cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa hành vi do Watson xây dựng lên, sau
đây là nội dung cụ thể (Watson, 1913) của những cương lĩnh ấy:
-Tâm lý học hành vi tuyên bố không quan tâm đến việc mô tả, giảng giải các
trạng thái tâm lý của ý thức mà chỉ quan tâm đến hành vi của tồn tại người, đối
tượng của tâm lý học hành vi là hành vi con người. Hành vi được xem là tổ hợp
các phản ứng của cơ thể trước các kích thích của mơi trường bên ngồi.
-Theo Watson có 4 loại hành vi: hành vi bên ngoài, hành vi bên trong, hành vi tự
động minh nhiên và hành vi tự động mặc nhiên. Theo ông, mọi việc con người
làm kể cả suy nghĩ đều thuộc một trong bốn loại hành vi này. Nghiên cứu dùng
các phương pháp khoa học khách quan, sử dụng phương pháp ghi chép các sự
kiện kiểm sốt được về q trình cơ thể, thích nghi với mơi trường.
-Trong tâm lý học hành vi cổ điển, hành vi của động vật và người bị giản đơn
hóa thành những cử động cơ thể. Nhờ những cử động đó với tính cách là “một
cơ quan biết phản ứng” hay “một hệ thống vật lý” thích nghi với mơi trường để
đảm bảo sự sống cịn. Quan sát cũng như giảng giải hành vi đều phải tn theo
cơng thức S - R. Trong đó S là kích thích, R là phản ứng. Kích thích có thể là
một tình huống tổng qt của mơi trường hay một điều kiện bên trong nào đó
của sinh vật, phản ứng là bất cứ cái gì mà sinh vật làm và nó bao gồm rất nhiều
thứ.
-Với cơng thức S - R, Watson (Watson, 1913)đã đặt cho thuyết hành vi mục
đích cao cả là điều khiển hành vi động vật và con người. Lấy nguyên tắc "thử sai" làm nguyên tắc khởi thuỷ điều khiển hành vi. Hành vi chỉ là mối liên hệ
trực tiếp “cơ thể - mơi trường”; theo đó, tâm lý, ý thức chẳng qua chỉ là những
hiện tượng thừa. Tâm lý học với tư cách là khoa học về khoa học về hành vi có
trách nhiệm vứt bỏ toàn bộ các thuật ngữ của tâm lý học cấu trúc và tâm lý học
chức năng như ý thức, trạng thái và q trình ý thức, lý trí và hình ảnh…

Do lấy hành vi làm đối tượng nghiên cứu và dùng phương pháp khoa học tự
nhiên, tâm lý học lần đầu tiên có dáng dấp tâm lý học khách quan.
6


1.3.2. Hành vi và con người.
Nghiên cứu hành vi của con người, điều ấy có nghĩa là đưa cuộc sống của con
người trở thành đối tượng của tâm lý học. Chẳng cần phải nói, ai cũng có thể
thấy hành vi là cái gì và nó tồn tại trong hiện thực một cách khách quan. Nếu
như trong tâm lý học truyền thống chỉ tìm hiểu nội quan thì tâm lý học hành vi
lại là một bước tiến đáng kể, nghiên cứu nguồn gốc sinh ra “tâm hồn”, “hồn”,
“tâm lý”. Khái niệm hành vi được xây dựng trên nền móng của sự chứng thực
có thể quan sát từ phía ngồi.
Tâm lý (của cả người và con vật ) chỉ là các dạng hành vi khác nhau. Hành vi là
tập hợp các phản ứng ® của cơ thể đáp lại các kích thích từ mơi trường bên
ngồi (S). Nhiệm vụ của nhà tâm lí học là mơ tả và lượng hố các hành vi đó,
đúng như nó diễn ra trong tình huống xác định. Phương pháp của nhà tâm lí học
là quan sát khách quan và thực nghiệm các phản ứng của cơ thể khi có tác nhân
kích thích, nhằm mục đích xác định tương quan giữa kích thích và phản ứng.
Chính sự quan sát đó chính là lập trường hiện thực của tâm lý học hành vi và
toàn bộ cuộc sống của con người được xem như lịch sử của tính tích cực, từ đó
hình thành khái niệm “dịng tính tích cực”. Trong tâm lý học hành vi khái niệm
này được ngầm hiểu là “dịng hành vi”, đó là tồn bộ hành vi do các trả lời đơn
thuần đối lới các kích thích hợp lại.
Hầu hết các thực nghiệm của trường phái hành vi được thực hiện trên động vật
(chuột, chim bồ câu…), sau đó, các kết quả này (Ngọ, 2001) được ứng dụng
trên con người. Cơ sở sinh lí thần kinh được quan tâm trong các thực nghiệm là
phản xạ có điều kiện. Cơ chế hình thành các hành vi là sự mò mẫm của chủ thể,
theo nguyên tắc “thử và sai” qua nhiều lần, cho tới khi xác lập được các phản
ứng phù hợp, luyện tập và củng có nó.

Theo Watson, mọi phản ứng, hành vi được phân loại theo hai tiêu chí: đó là phải
ứng tiếp thu hay di truyền; phản ứng bên trong hay phản ứng bên ngoài. Kết quả
là trong hành vi được chia ra thành các phản ứng:
- Bên ngồi hay tiếp thu nhìn thấy được (chơi quần vợt, mở cửa…).
- Bên trong và tiếp thu nhưng ở dạng dấu kín (tư duy - mà thuyết hành vi gọi là
ngơn ngữ bên ngồi).
- Bên ngồi nhìn thấy được và di truyền (vỗ tay, hắt hơi… cũng như các phản
ứng yêu thương, cáu giận…).

7


- Bên trong dấu kín và di truyền, là phản ứng các tuyến nội tiết. Ơng cịn phân
biệt giữa phản ứng bản năng (đưa tay ra với bắt…) và phản ứng cảm xúc (các
kích thích có đặc điểm nội tâm, liên quan đến cơ thể chủ thể).
Theo các nhà tâm lí học hành vi, hành vi trí tuệ (của cả người và động vật) là
các phản ứng có hiệu quả mà cá thể (chủ thể) học được, nhằm đáp lại các kích
thích của mơi trường sống. trong các cơng trình của J. Watson, hành vi trí tuệ
được đồng nhất với ngơn ngữ bên trong. Từ đó, ơng chia tư duy thành 3 dạng:
- Thứ nhất, là các thói quen, kỹ xảo ngôn ngữ đơn giản (đọc 1 đoạn thơ hay
đoạn văn mà không làm thay đổi trật tự từ).
- Thứ hai: giải quyết các nhiệm vụ tuy không mới, nhưng ít gặp và phải có hành
vi ngơn ngữ kèm theo ( nhớ lại một đoạn thơ hay một sự kiện đã thoảng qua
trong kí ức).
- Thứ ba: giải quyết các nhiệm vụ mới; buộc cơ thể lâm vào hoàn cảnh phức tạp,
địi hỏi phải giải quyết bằng ngơn ngữ trước khi thực hiện một hành động cụ
thể.
Watson phân biệt hành vi người không giống với hành vi động vật:
- Một là: khác biệt hoàn toàn bẩm sinh ở trong lĩnh vực sinh vật của con người.
- Hai là: ngoài thế giới vật thể mà động vật cũng có, con người cịn có thế giới

từ ngữ, cái có thể thay thế cho thế giới đồ vật tạm thời. Chính vì thế mà thế giới
kích thích của con người rộng lớn hơn nhiều. Với Watson, ý nghĩ chẳng qua chỉ
là hoạt động của bộ máy ngơn ngữ.
- Thứ ba: đó là con người là “tồn tại xã hội”, vì chỉ trong mơi trường xã hội con
người mới kích thích lẫn nhau làm ngơn ngữ nảy sinh và phát triển.
Với Watson, chỉ có hành vi của tồn tại con người mới là đối tượng của thuyết
hành vi. Đối với nhà hành vi, ý thức là cái gì đó vu vơ, vơ ích và nhà hành vi
khơng được cơng nhận ý thức, đây chính là hạn chết lịch sử lớn nhất của thuyết
hành vi. Bời thực chất hành vi là biểu hiện của hoạt động, và do đó nó khơng
tách rời ý thức.
Theo tâm lý học hành vi, tâm lý học lấy hành vi, tức là mọi ứng xử và từ ngữ
của con người, cả những cái di truyền lẫn những cái tự tạo làm đối tượng nghiên
cứu. Đây chính là việc nghiên cứu con người từ khi bào thai cho đến khi chết.
Hành vi được coi là mối liên hệ trực tiếp giữa kích thích và phản ứng đáp lại
kích thích ấy. Kích thích thuộc về thế giới tác động, cịn hành vi là do cơ thể
8


làm ra. Watson định nghĩa con người là “tồn tại xã hội”, đó là cơ thể làm việc và
nói năng phải thích nghi với mơi trường xung quanh; từ đó tạo ra một tổ hợp
phản ứng phức tạp, tổ hợp lại thành các tập hợp phản ứng, và với các nhà hành
vi cổ điển thì các tập hợp ấy được thực hiện chung bởi hệ thống chung của các
kỹ xảo. Chính vì thế mà Watson coi con người như là “một cơ thể phản ứng”
hay là “một cái máy sinh học nghiêm túc”, “một cái máy hữu cơ nghiêm túc,
sẵn sàng hoạt động”, đó là những duy vật máy móc về con người.
Các nhà hành vi chủ nghĩa coi nhẹ tính tích cực của chủ thể, đề cao vai trị của
kích thích bên ngồi trong việc tạo ra các phản ứng. Vì vậy, nghiên cứu và điều
khiển việc hình thành hành vi trí tuệ (cho cả động vật và con người) được quy
về việc nghiên cưu tạo ra môi trường các kích thích, được sắp xếp theo logic
cho phép hình thành các phản ứng mong muốn, tức là quá trình “điều kiện hố

hành vi”.
Watson phát biểu: “hãy cho tơi một tá trẻ em khỏe mạnh và bình thường và một
ngơi trường chun biệt mà ở đó tơi có thể giáo dục chúng, thì tơi bảo đảm bất
kỳ một em nào trong đó cũng có thể trở thành bác sĩ, một luật gia, một nghệ sĩ,
một cửa hàng trưởng, thậm chí nếu các bạn muốn, một người cục cằn hoặc một
tên kẻ cắp không cần kể đến tài năng, xu hướng, chí hướng, nguyện vọng và
dịng giống ơng cha”. Ơng muốn thực hiện một trong những nhiệm vụ hàng đầu
của tâm lý học là điều khiển hành vi con người sao cho thỏa mãn nhu cầu của xã
hội. Với Watson, “con người được xây dựng nên, chứ không phải tự sinh ra”.
“Nhân cách là sự sáng tạo của con người, chứ không phải là so trời phú cho”.
Ngôn ngữ và tư duy chỉ là các dạng kỹ năng, cơ sở của kỹ năng là những cở
động giản đơn hay còn gọi là bẩm sinh. Kỹ xảo được giữ gìn trong trí nhớ.
1.4. Chủ nghĩa hành vi mới
1.4.1. Lịch sử xuất hiện.
Các đại biểu xây dựng lên thuyết hành vi mới là E.Tolman (1886-1959), K.Hull
(1884-1952). Thuyết hành vi mới ở chỗ, trong công thức S-R truyền thống,
những nhà hành vi mới đưa thêm vào các biến số trung gian làm khâu gián tiếp
dẫn đến các kích thích và phản ứng (Ngọ, 2001).
Theo chủ nghĩa hành vi mới, năm 1922, trong “Công thức mới của thuyết hành
vi” đã cho rằng “tâm lý học hành vi S-R” thuần túy của Watson chỉ là sinh lý
học về hành vi, vì thế đã đề ra “thuyết hành vi khơng sinh lý học” và gọi nó là
“thuyết hành vi mới”. Năm 1929, báo cáo “giải thích phản xạ có điều kiện theo

9


chức năng” của Hull đưa ra đã tạo thêm điều kiện thúc đẩy thuyết hành vi mới
phát triển.
Theo chủ nghĩa hành vi mới, các biến số trung gian hiểu theo tinh thần thuyết
tạo tác, cụ thể là các kiến tạo lý luận có khả năng xác lập các quy luật chủ yếu

của hành vi. Chính nhờ các “kiến tạo lý luận”, “các yếu tố trung gian”, “các
biến số can thiệp” và dùng các thuật ngữ của tâm lý học chủ quan mà có thể
phân tích một cách khoa học các sự kiện thu thập được và giải thích chúng một
các chính xác, nhờ vậy, theo các nhà hành vi mới đã định, có thể đưa thuyết
hành vi ra khỏi tình trạng khủng hoảng (Hull, 1943).
1.4.2. Lý thuyết của Tolman.
Theo Tolman, thuyết hành vi cùng lúc có mấy tên gọi: thuyết hành vi tổng thể,
thuyết hành vi có ý định, thuyết hành vi tạo tác. Lý thuyết của Tolman là sự hỗn
hợp của thuyết hành vi, thuyết Ghestan, thuyết tạo tác, thuyết ý định.
Theo ông, hành vi của cơ thể là tổng hịa chứ khơng phải là từng trả lời của cơ
thể. Các cử động hành vi có cả các sự kiện vật lý và sinh học, cũng như những
thuộc tính cá nhân của bản thân. Hành vi là một động tác trọn vẹn có một loạt
các thuộc tính: tính định hướng tới mục đích, tính dễ hiểu, tính linh hoạt, tính so
sánh. Tolman hình thành học thuyết về “các biến số trung gian” với tư cách là
khâu trung gian can thiệp vào sơ đồ S-R. Trong học thuyết này bao gồm toàn bộ
thực chất của tâm lý học khách quan và hành vi chủ nghĩa.
Hành vi theo Tolman là các cử động hành vi chứ không phải là những trả lời
trực tiếp đối với các kích thích. Hành vi đáp lại bao giờ cũng nhằm tới các
khách thể chuyên biệt có lợi cho cơ thể, các khách thể này là mục đích của cơ
thể. Tolman gọi khả năng tiếp thu là khả năng định tính chủ ý, ơng cho rằng có
thể có tính chủ ý mà khơng có khả năng tiếp thu đi theo. Tính chủ ý là một hiện
tượng trong hành vi và là hiện tượng cơ bản hơn khả năng tiếp thu, tính chủ ý
dường như là vốn tự có trong bản thân cơ thể. Tolman phủ nhận tiêu chuẩn chủ
quan ý định, tính chất chủ quan thể hiện ở chỗ thấy trước cử động cuối cùng.
Trong hệ thống của ơng, cái gọi là tính tích cực chỉ là tính kiên trì đạt tới mục
đích, và tính tích cực này được xem xét trong mối quan hệ nhân quả với khách
thể - mục đích.
Ơng đưa ra hai loại biến số để làm cái quy định hành vi:
1. Các biến cố xa hay biến số khởi thủy: bao gồm các kích thích từ ngoại giới
vào các trạng thái sinh lý ban đầu: Chế độ sử dụng(M); hình loại và dạng thức

các kích thích có dự kiến trước cho phù hợp với khách thể - mục đích(G); Các
10


loại hình của những trả lời vận động cần thiết®; Bản chất tổng hòa và số lần thử
cần thiết để đạt tới mục đích đúng(∑OBO). Ngồi S, M và G cũng đều là kích
thích quy định hành vi.
2. Các biến số thường xuyên bao gồm các biến số trung gian và các biến số can
thiệp.
Theo ông, các cử động hành vi bao giờ cũng phải dựa vào ‘những điểm tựa vật
thể”. Điều đó có nghĩa là mọi cử động hành vi diễn ra dưới dạng vận động đều
sẽ vô nghĩa, nếu như đặt chúng ra ngồi các thuộc tính vật lý của một nơi chốn
nào đó. Q trình phân biệt và quá trình cầm nắm sự vật được xem như là các
quá trình hình thành cử động hành vi chờ đợi hay yêu cầu, quá trình này được
hình thành do có học tập trước đó. Cả sự chờ đợi lẫn các giả định mà ông quan
sát thấy đều dựa vào các vật thể, các vật thể này làm vai trò chỉ dẫn nhằm thỏa
mãn nhu cầu cơ thể.
Theo Tolman, hành vi được xem xét trong mối quan hệ nhân quả trực tiếp
“thông số độc lập – thông số phụ thuộc”. Điều này phản ánh trong sơ đồ hành vi
do dộng vật tạo ra dưới góc độ lựa chọn:
Thơng số độc lập – thông số trung gian – thông số phụ thuộc – hành vi
Các thông số này được đưa vào với tư cách là các kiến tạo lý luận để giải thích
các sự kiện thấy được bằng quan sát trực tiếp. Hệ thống của Tomal hạn chế ở
chỗ, nó hồn toàn tập trung chú ý vào ý định và nhận thức, và quẳng mất các
quá trình thần kinh diễn ra trong não và không do quan sát mà thấy được.
Tolman sinh vật hóa tồn bộ hoạt động của con người, giải thích tất cả các động
cơ của hoạt động này bằng các loại nhu cầu khác nhau, và các loại nhu cầu cuối
cùng được quy về nhu cầu cơ thể, bản năng. Theo ơng, con người có bốn nhu
cầu: “cái trung tính”, “cái tơi”, “cái siêu tơi”, “cái tơi mở rộng”.
1.4.3. Hệ thống Hull.

Hull đưa các phương pháp diễn dịch – toán học vào tâm lý học hành vi, hệ
thống của Hull là hệ thống bao gồm một loạt định đề và hệ quả. Cũng như
Tolman, Hull cũng đưa vào các yếu tố trung gian trong sơ đồ S-R truyền thống,
ơng dùng thao tác để giải thích hành vi; mặt khác, dùng nguyên lý cung phản xạ
với tư cách là nguyên lý làm việc của não bộ làm nguyên lý giải thích kinh
nghiệm tự tạo trong học tập và kinh nghiệm này nằm trong cơ thể nằm trong
hành vi.
Hệ thống của Hull bao gồm những luận điểm cơ bản sau:
11


1. Hệ thống vẫn giữ nguyên truyền thống của thuyết hành vi cổ điển, nó gạt bỏ
thuyết sức sống, thuyết mục đích luận và tất cả các loại lý giải tự biên.
2. Đối tượng vẫn là hành vi, các hiện tượng lớn của hành vi được hiểu là hành vi
của một nhóm tế bào thần kinh cơ hay mấu thần kinh, cịn kết quả lớn của tính
tích cực chung thì nảy sinh khi trả lời các kích lớn tác động vào. Từ đây xuất
hiện công thức S-O-R (O là cơ thể)
3. Trong hệ thống của ông, kỹ xảo là yếu tố trung gian giữ kích thích và phản
ứng. Kỹ xảo là những tồn tại như là những điều kiện không nhìn thấy trong hệ
thống thưấn kinh tựa như các điện tử, proton… trong thế giới vật lý. Vì khơng
nhìn thấy nên các biến số ấy được coi là các kiến tạo logic tương ứng với các
thao tác do cơ thể tạo ra trong các điều kiện. Kỹ xảo làm nhẹ gánh cho tư duy,
tức là đưa việc giải thích hành vi ra khỏi các kích thích bên ngồi. Theo ơng, hệ
thần kinh có vai trị quyết định trong đời sống cơ thể, nó giữ cho cơ thể thống
nhất giữa mối liên hệ qua lại với môi trường.
Nhưng thuyết của Hull cũng có nhiều điều cần phải nói, trước nhất con người
trong thuyết của Hull đã bị sinh vật hóa hồn tồn; ta khơng thể xác định mối
liên hệ một chiều thật rành mạch giữa tác động bên ngoài và phản ứng bên trong
cơ thể. Tác động bên ngoài chỉ được thực hiện thông qua các điều kiện bên
trong. Trong học thuyết của Hull, con người hồn tồn khơng có chỗ đứng, hành

vi con người chỉ là hành vi xã hội, tức là chức năng của một cơ chế tự vệ hay
“một máy liên hợp vật lý”.
1.4.4. Thuyết TOTE.
Thuyết hành vi chủ quan - thuyết “TOTE” - chữ đầu của các từ tiếng Anh: T:
Test, O: Operate; T: Test, E: Exit, tức là thuyết thử - thao tác - thử - thoát ra. Đại
biểu là O.Mille, Galanter, Pribram. Thuyết này là tổng hợp của thuyết hành vi
với tâm lý học nội quan, giữ hành vi lại làm đối tượng của tâm lý học. Công
thức trên bắt đầu từ sự tác động là cơ thể; hành vi nói chung tuân thủ sự kiểm
tra của kế hoạch và biểu tượng, tức là của hoạt động tượng trưng.
Theo thuyết này, bên trong cơ thể là các cơ chế, các quá trình gián tiếp giữa
phản ứng với kích thích. Cho rằng, hình ảnh và kế hoạch là hai yếu tố liên kết
kích thích với phản ứng. Hình ảnh là tri giác được tích lũy, được tổ chức trong
cơ thể về bản thân về thế giới mà cơ thể đang tồn tại trong đó. Cịn kế hoạch là
quá trình được xây dựng kiểu thứ bậc của cơ thể, có khả năng kiểm tra các trật
tự của thao tác. Hình ảnh mang tính chất thơng tin, cịn kế hoạch đề cập đến các
thuật toán của hành vi. Hành vi chỉ là một loạt các cử động, còn con người là
12


một cái máy vi tính phức tạp. Chiến lược của kế hoạch được xây dựng trên các
lần thử, tiến hành trong các điều kiện đã được định sẵn. Thử nghiệm là sơ sở
của quá trình hành vi trọn vẹn, từ đó mà các thao tác diễn ra một cách chính
xác. Như vậy, hệ thống TOTE bao hàm cả tư tưởng liên hệ ngược, vì vậy mỗi
một thao tác của cơ thể diễn ra thường xuyên được điều chỉnh bởi kết của của
các thử nghiệm khác nhau.
Hành vi chủ quan coi hành vi của con người một cách phi xã hội, quan niệm về
con người phi lịch sử - đặc trưng đã làm cho hành vi chủ quan không phát hiện
ra thực chất về tâm lý con người và chức năng thực sự của tâm lý trong cuộc
sống, trong hoạt động của con người.
1.5.Thuyết hành vi xã hội và Tâm lý học hành vi tạo tác của Skinner

1.5.1. Tạo tác.
Skinner vẫn trung thành đi theo chủ nghĩa hành vi cổ điển của Watson, nhưng
ơng đã có thay đổi đơi chút. Trong hệ thống của skinner, hành vi có một đặc
điểm mới và một tên gọi mới là “tạo tác”. Nó có ba dạng: hành vi vơ điều kiện,
có điều kiện và hành vi tạo tác. Ba loại này có ba cơ sở tương ứng là: bẩm sinh,
phản xạ có điều kiện và quá trình điều kiện tạo tác.
Theo “tạo tác”, nhiều trả lời do cơ thể làm ra không phải do một kích thích
khơng điều kiện nào đó gây ra, mà do từ cơ thể phóng ra, đáp ứng những kích
thích kiểu đó, Skinner gọi là S. Cịn trong trường hợp hành vi tạo tác, thì cơ thể
khi vào một hồn cảnh nào đó sẽ có những tạo tác (cử động) ngẫu nhiên, trong
đó cái đúng sẽ được củng cố, và các phản ứng kiểu đó skinner gọi là R và được
gọi là hành vi tạo tác. Với loại S, một kích thích này được thay bằng một kích
thích khác là ở chỗ tín hiệu hóa, và trong tạo tác cũng thay thế, nhưng khơng có
q trình tín hiệu hóa, loại kích thích R khơng chuẩn bị để nhận một kích thích
củng cố mà tạo ra kích thích củng cố. Và đây là một ý kiến có ý nghĩa. Và trong
luận điểm của Skinner, cơ sở của hành vi có cùng một nguyên tắc hoạt động
phản xạ của hệ thần kinh. Từ đây chính thức đưa phản xạ trong thuyết hành vi
thành một đơn vị phân tích để nghiên cứu hành vi một cách trực quan.
Theo Skinner, cơ thể con người ln nằm trong vịng của kích thích củng cố và
chỉ có thể. Đây là một cái nhìn tiêu cực hay nói cách khác là mù qng trong
cách nhìn của ơng.
Tạo tác là mối liên hệ chức năng giữa các tác động trực tiếp vào cơ thể và các
cử động trả lời trực tiếp nhằm tránh những củng cố âm và nhận những củng cố
dương.
13


1.5.2. Các luận điểm chính của Skinner.
a. Cơ thể
Cơ thể theo Skinner được hiểu như là cái tạo ra một hành vi tạo tác nào đó

tương ứng với một hồn cảnh nào đó. Với ơng, con người và động vật khơng có
một sự khác biệt nào cả như theo thuyết hành vi cổ điển, vì thế mà mang những
kết luận thu được ở động vật áp dụng vào con người. Đây là một luận điểm sai
lệch hồn tồn và nó cũng là một trong những nguyên nhân rất lớn đẫn đến sự
sụp đổ của chủ nghĩa hành vi.
Cơ thể là một con người thực hiện một loại hành vi đồng bộ, trong đó có cả
hành vi ngơn ngữ và các loại hành vi khác. Cơ thể vừa đóng vai trị kích thích,
vừa là một củng cố. Với ơng, quan hệ qua lại giữa người với người chỉ là quan
hệ qua lại giữa một cơ thể với một cơ thể khác, và luận điểm này thống trị trong
suốt thời kỳ tồn tại của chủ nghĩa hành vi. Và đây là một khuyết điểm nữa của
Skinner. Theo ông, con người chỉ là cơ thể cá thể, kẻ mang quá trình hành vi
được hình thành nhờ có hồn cảnh tác động, trong đó có cả mơi trường; ơng cịn
phân biệt ra mơi trường vật lý và môi trường sinh vật. Skinner đã hành vi hóa
tất cả q trình và thuộc tính tâm lý người, kết quả, con người chỉ là một hệ
thống tạo ra được hành vi, hệ thống ấy khơng có lý tưởng, khơng có mục đích,
khơng có kế hoạch… Tơi thực sự phê phán ý đồ hành vi hóa ấy, và xã hội cũng
đã chứng minh những luận điểm sai lầm của Skinner nói riêng và chủ nghĩa
hành vi nói chung.
b. Văn hóa
Khái niệm văn hóa là một trong những khái niệm cơ bản tạo dựng nên thuyết
hành vi xã hội của Skinnner. Trong việc hình thành hành vi người, văn hóa có
vai trong quyết định. Theo ơng, văn hóa khơng phải là cốt lõi của tri thức,
không phải là tổ hợp hay dịng tư tưởng, khơng phải là chiều hướng suy nghĩ dễ
xảy ra nhất, không phải là kết quả của mọi thành tựu hay tư liệu cần thiết cho sự
suy nghĩ. Văn hóa - ấy là mơi trường xã hội, rồi đến với cá thể nó sẽ quy về
hồn cảnh xã hội, mà đó là một mớ ngẫu nhiên được củng cố mà người này
được nhận từ người kia.
Văn hóa nằm ngồi hành vi của cá thể, và cá thể ủng hộ văn hóa bằng thực tiễn
của mình, văn hóa bao gồm các hành động của người khác. Hành vi do hồn
cảnh tạo ra, đó là tư tưởng của nền văn hóa, các củng cố xuất hiện trong đó

chính là giá trị của văn hóa.

14


Hành vi tốt, hành vi xấu, đúng hay sai không quy vào lịng tốt hay ác ý, khơng
quy về tính cách tốt hay xấu không quy về những tri thức về cái đúng cái sai.
Mà nó được quy về các hoàn cảnh bao gồm một số lớn các củng cố bằng lời nói
ngơn ngữ khai q “tốt”, “xấu”, “đúng”, “sai”. Điều này khiến con người có thể
rũ bỏ mọi trách nhiệm về hành vi của mình, đồng thời vứt bỏ mọi quan niệm về
đạo đức ra người thực tế. Theo nguyên tắc phản ứng của Skinner, con người trở
thành con rối, tất thảy chỉ thực hiện hành vi của môi trưởng mà thơi. Cuộc sống
thực chỉ cần các hồn cảnh như: thực phẩm, nước, các kích thích ngơn ngữ…
chứa đựng các củng cố đối với hành vi tạo tác của cá thể. Skinner cịn nói, “đấu
tranh giai cấp là một con đường con người kiểm tra con người một cách thô
bạo”.
c. Công nghệ hành vi.
Trong học thuyết tạo tác của mình, Skinner lập ra mộ loại quy trình “cơng nghệ
hành vi”. Đây là bước cuối cùng trong việc hành vi hóa con người. Quy trình
của cơng nghệ hành vi là do cuộc sống của con người và xã hội quy định. Đây
là một lập luận chính xác.
Theo lý thuyết của Skinner (Skinner, 1948), công nghệ hành vi là:
+ Quan niệm con người trước hết là cơ thể cá thể hay một hệ thống vật lý với
nghĩa là một hệ thống phức tạp, hệ thống này tiến hành hành vi theo một cách
nhất định.
+ Công cụ trung tâm là khái niệm tạo tác.
+ Phân tích chức năng là phương pháp xây dựng và vận hành của công nghệ
hành vi. Cái tôi là một chương trình hành vi phù hợp với hồn cảnh mà “tơi” có.
Sơ đồ của ngun tắc này vẫn là S-R
+ Cơ chế của tất cả các quá trình công nghệ hành vi người nằm trong sự kiểm

tra chế độ củng cố.
+ Về mặt đạo đức, công nghệ hành vi mang tính trung lập, tức tồn bộ thực chất
của tất cả các hoạt động có thể quan sát thấy ở con người là ở trong củng cố.
+ Trong công nghệ hành vi có sáu loại kiểm sốt: kinh tế, giáo dục, đạo đức,
nhà nước, tôn giáo và tâm lý liệu pháp.
Tư tưởng điều khiển hành vi đạt đến đỉnh cao trong việc vận vận dụng thuyết
hành vi xã hội vào thực tiễn dưới dạng công nghệ hành vi trở thành đoạn kết bi
thảm cho thuyết hành vi cấp tiến.
15


CHƯƠNG 2: ỨNG DỤNG TÂM LÝ HỌC HÀNH VI TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Đóng góp của tâm lý học hành vi
Trong giai đoạn đầu hình thành, tâm lý học hành vi đã mở ra một thời kỳ mới,
cứu thoát tâm lý học những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX ra khỏi
khủng hoảng.
Đưa ra cho tâm lý học đương đại một con đường mới để nghiên cứu tâm lý học
như một khoa học về tâm lý. Và đưa tâm lý học đi theo con đường duy vật biện
chứng, góp phần rất lớn trong việc xây dựng tâm lý học khách quan.
Lần đầu tiên trong lịch sử tâm lý, tâm lý học hành vi đưa hành vi con người, đời
sống xã hội của con người trở thành đối tượng của tâm lý học. Kiên quyết
chông lại những trường phái tâm lý học duy tâm trước đó. Xây dựng một lý
thuyết tâm lý học khách quan hoàn toàn mới.
Bên cạnh đó, chủ nghĩa hành vi đã đưa ra nhiều lập luận có giá trị cho việc giáo
dục, đào tạo con người. Đưa ra những luận điểm có ý nghĩa trong việc xây dựng
tâm lý học xã hội, nghiên cứu hành vi của con người.
Đặc biệt, học thuyết hành vi đã được nghiên cứu và áp dụng rất thành công
trong tâm lý học hiện đại khi được chỉnh sửa và kết hợp với những trường phái
khác. Đóng góp rất lớn trong tư vấn tâm lý: tiếp cận thân chủ, trị liệu hành vi, trị

liệu tâm lý, quản lý nhân sự, điều hành con người, phương pháp giáo dục…Trị
liệu hành vi được ứng dụng khá rộng rãi trong trị liệu, tham vấn, đặc biệt với
với những người mong muốn thay đổi hành vi không phù hợp. Những trường
hợp thường được sử dụng trị liệu hành vi có hiệu quả cao như: rối loạn ám sợ;
stress, trẻ em với những rối nhiễu tâm lý, cảm giác tuyệt vọng; rối nhiễu tình
dục... Người ta hay sử dụng nó trong những vấn đề liên quan đến lão khoa, nhi
khoa, hoá giải stress, điều chỉnh hành vi. Trong một số lĩnh vực khác như kinh
doanh quản lý hay giáo dục cũng có thể sử dụng liệu pháp này. Thời gian can
thiệp bằng liệu pháp này khơng dài nhưng có thể đem lại những kết quả mong
muốn do vậy nó được ứng dụng rộng rãi (Loan, 2021).
2.2.Ứng dụng trong giáo dục
Hiện nay, các kiến thức tâm lý học hành vi được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực:
quản lý, giáo dục, tuyển chọn nhân sự, xã hội… Ngay cả với một ngành đặc thù
như giáo dục đặc biệt, có những giáo viên chuyên biệt gặp khó khăn khi dạy trẻ,
cũng có thể ứng dụng tâm lý học để việc dạy được dễ dàng hơn.
16


Theo lý thuyết hành vi, hành vi của con người được học thông qua trải nghiệm
và là chức năng tương tác giữa họ và môi trường. Cả những hành vi bình
thường và bất thường đều được hình thành theo chuỗi kích thích – phản ứng
trên ba q trình cơ bản: điều kiện hóa cổ điển, điều kiện hóa tạo tác và học qua
quan sát.
Mơ hình lý giải hành vi của trẻ là do trẻ học tập qua quan sát – hay đơn giản là
sự bắt chước những người xung quanh. Cụ thể, các hành vi được hình thành
bằng cách quan sát ai đó thể hiện các hành vi này và lặp lại những hành vi đó.
Việc trẻ bắt chước ai và bắt chước những hành vi nào lại phụ thuộc vào những
củng cố mà trẻ nhận được khi thực hiện hành vi (trẻ thích hay khơng thích củng
cố đó), hoặc tần suất của những hành vi trẻ quan sát được (trẻ càng quan sát
được trong thời gian dài thì việc bắt chước càng dễ dàng và nhanh hơn). Vì vậy,

để trẻ có những hành vi tốt, cần tạo ra những hình mẫu tốt cho trẻ.
Một mơ hình khác được ứng dụng nhiều nhất trong tâm lý lâm sàng, cà trong
quản lý nhân sự và giáo dục đó là thuyết dựa trên điều kiện hóa tạo tác. Trong
mơ hình này, hành vi của trẻ được hình thành qua việc học tập. Việc học là kết
quả của thưởng và phạt. Xét dưới góc độ tâm lý lâm sàng, hành vi của trẻ được
hình thành hay mất đi đều do tác dụng của việc củng cố (cụ thể là khen thưởng
hay trừng phạt). Các hành vi không tốt của trẻ thường là kết quả của những
củng cố không tốt (củng cố sai) hoặc các mẫu hình củng cố khơng tốt (sai). Đặc
biệt, theo lý thuyết này, chúng ta sẽ củng cố tích cực cho những hành vi tốt của
trẻ hơn là phạt những hành vi không tốt của trẻ. Khi trẻ bị phạt, có thể những
hành vi khơng tốt sẽ giảm, nhưng trẻ khơng biết chúng được phép làm gì, hay
làm gì mới đúng để không bị phạt, và cũng không thể chắc chắn sẽ không gây ra
những hành vi sai phạm khác. Còn với việc khen thưởng cho hành vi tốt của trẻ,
người lớn cho trẻ biết rằng, trẻ được phép làm những hành vi nào và với những
hành vi đó trẻ sẽ nhận được sự khen ngợi.
2.3.Áp dụng tâm lý học hành vi trong kinh doanh
Nghiên cứu thuyết hành vi cho ta nhiều ứng dụng và quy tắc trong bán hàng,
chiến lược bí kíp kinh doanh:
- Khách hàng thích sự đơn giản hơn là phức tạp. Khái niệm cơ bản trong tâm lí
học hành vi – chỉ ra rằng con người thường có khuynh hướng đơn giản và có xu
hướng chọn các sản phẩm khiến họ không phải động não quá nhiều.
- Khách hàng khơng thích q nhiều sự lựa chọn. Trong khoa học hành vi, có
một nguyên tắc được gọi là Quá tải lựa chọn (Choice overload). Nguyên tắc này
17


chỉ ra rằng việc có 1 vài lựa chọn có thể là điều tốt, nhưng khi có quá nhiều lựa
chọn sẽ khiến khách hàng cảm thấy bị áp đảo. Hãy cân bằng giữa quá nhiều và
vừa đủ, không nên làm sản phẩm của mình trở nên quá phức tạp.
- Khách hàng chỉ nhớ cảm xúc mãnh liệt nhất và kết thúc trong trải nghiệm mua

sắm. Nhà kinh tế học Daniel Kahneman phát hiện ra rằng bộ não của con người
không thể ghi nhớ tất cả mọi thứ, vì vậy chúng ta thường chỉ lưu giữ những chi
tiết quan trọng. Những cảm xúc mãnh liệt và trải nghiệm đáng nhớ sẽ được ghi
nhớ trong bộ não. Đây là nền tảng của quy tắc tâm lý học đỉnh cao (peak-end
rule). Quy tắc này chỉ ra việc mọi người đánh giá một trải nghiệm dựa trên cảm
xúc mãnh liệt nhất của họ và kết thúc của trải nghiệm mua hàng, chứ không
phải tất cả mọi cảm giác của họ. Và điều này đúng kể cả khi trải nghiệm đó tốt
hay xấu.
Bởi vậy, dù cho trải nghiệm khách hàng của bạn có bắt đầu khơng tốt thì hãy cố
gắng thay đổi và chắc chắn rằng những trải nghiệm này kết thúc tốt đẹp.

18


KẾT LUẬN
Tâm lý học hành vi khá khác biệt so với các nhóm ngành khác. Một trong
những lợi ích của thuyết hành vi là nó cho phép các nhà khoa học kiểm tra được
các hành vi quan sát được theo một cách thức khoa học và có hệ thống. Tuy
nhiên, nhiều người nghĩ rằng nó khơng đầy đủ vì khơng chú ý đến một số thứ
ảnh hưởng quan trọng lên hành vi. Một trong số những thế mạnh đáng gườm
nhất của tâm lý học hành vi là khả năng quan sát và đo lường hành vi một cách
rõ ràng. Những hạn chế của cách tiếp cận này là nó khơng thể phân tích được
những q trình nhận thức và sinh lý bên trong ảnh hưởng lên hành vi. Mặc dù
hiện nay thuyết hành vi khơng cịn giữ được vị thế thống trị như trước đây
nhưng nó vẫn có một tác động lớn giúp ta hiểu rõ thêm về tâm lý học con người.
Bản thân q trình điều kiện hóa đã giúp chúng ta hiểu được nhiều loại hành vi
khác nhau, từ cách con người học tập đến quá trình phát triển của ngơn ngữ.
Nhưng có lẽ đóng góp lớn nhất của tâm lý học hành vi nằm ở ứng dụng thực
tiễn của nó. Những kỹ thuật của nó có thể đóng một vai trị mạnh mẽ trong việc
điều chỉnh các hành vi có vấn đề và khuyến khích các hành vi tích cực và có ích

hơn. Ngồi tâm lý học, các bậc cha mẹ, giáo viên, những nhà huấn luyện thú vật
và nhiều người khác có thể sử dụng những nguyên lý cơ bản của tâm lý học
hành vi để giúp huấn luyện các hành vi tích cực mới và hạn chế những hành vi
không mong muốn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hull, K. (1943). Các nguyên tắc hành vi .
Loan, T. P. (2021, 8 12). TPL. Được truy lục từ Tâm lý học hành vi và 10 ứng
dụng trong cuộc sống: />Ngọ, P. N. (2001). Tâm lý học trí tuệ. NXB Đại Học Quốc Gia.
Skinner, B. (1948). Watson 2.
Watson, J. (1913). Tâm lý học với tư cách là quan điểm của người theo chủ
nghĩa hành vi. Tập san tâm lý học Mỹ.

19



×