Tiểu Luận
PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT
HỌC MÁC - LÊNIN VỀ CON NGƯỜI
VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI. Ý NGHĨA
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUAN
ĐIỂM TRÊN.
Tên: Trương Gia Hào
MSSV: 31211027638
Mã lớp HP: 21C1PHI51002339
1. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về con người.
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống
nhất biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên qui định sự hình thành, tồn tại và phát triển
của con người chính là giới tự nhiên, vì vậy bản tính tự nhiên là một trong
những phương diện cơ bản của con người, lồi người.
- Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác ngộ sau:
Thứ nhất, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự
nhiên. Cơ sở khoa học của kết luận này được chứng minh bằng toàn bộ sự
phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết
của
Đácuyn
về
sự
tiến
hóa
của
các
lồi.
Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự
nhiên cũng là “ thân thể vơ cơ của con người”.
- Bản tính xã hội của con người được phân tích từ giác ngộ sau đây:
2
Một là, xét từ giác ngộ nguồn gốc hình thành con người, lồi người thì
khơng phải chỉ có nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên
mà có nguồn gốc xã hội của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao
động. Chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua lồi động vật
để tiến hóa và phát triển thành người. Đó là một trong những phát hiện mới
của chủ nghĩa Mác- Lênin, nhờ đó mà có thể hồn chỉnh học thuyết về nguồn
gốc loài người mà tất cả các học thuyết trong lịch sử đều chưa có lời giải đáp
đúng đắn và đầy đủ.
Hai là, xét từ góc độ tồn tại và phát triển của con người, loài người thì sự
tồn tại của nó ln ln bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các qui luật xã
hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng do đó mà cũng có sự thay đổi
tương ứng và ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân là tiền đề cho sự phát
triển của xã hội. Ngoài mối quan hệ xã hội thì mỗi con người chỉ tồn tại với tư
cách là một thực thể sinh vật thuần túy mà không thể là “con người” với đầy
đủ ý nghĩa của nó.
3
- Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan niệm khác nhau về
bản chất, “bản tính người” của con người, nhưng về cơ bản những quan niệm
đó thường là những quan niệm phiến diện, trừu tượng và duy tâm, thần bí.
Trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác đã phê phán vắt tắt nhưng
quan niệm đó và xác lập quan niệm mới của mình: “Bản chất của con người
không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”
- Hạn chế căn bản của quan niệm duy vật siêu hình, trực quan là trừu
tượng hóa, tuyệt đối hóa phương diện tự nhiên của con người, thường xem
nhẹ việc lý giải con người từ phương diện lịch sử xã hội của nó, do đó về căn
bản
chỉ
thấy
bản
tính
tự
nhiên
của
con
người.
- Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất xã hội của con người
thì sự hình thành và phát triển của con người cùng những khả năng sáng tạo
lịch sử của nó cần phải được tiếp cận từ giác độ phân tích và lý giải sự hình
thành và phát triển của những quan hệ xã hội của nó trong lịch sử xã hội.
4
- Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động
thực tiễn, thông qua hoạt động thực tiễn, tác động vào giới tự nhiên, làm cải
biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của nó thì đồng thời con
người cũng sáng tạo ra lịch sử của chính nó, thực hiện sự phát triển của lịch
sử đó.
Từ quan niệm khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin về con người có thể
thấy:
Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì
khơng thể chỉ đơn thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều căn
bản hơn, có tính quyết định phải là từ phương diện bản tính xã hội của nó, từ
những
quan
hệ
kinh
tế
–
xã
hội
của
nó.
Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và sự phát triển của xã hội chính
là năng lực sáng tạo lịch sử của con người, vì vậy phát huy năng lực sáng tạo
của mỗi con người, vì con người chính là phát huy nguồn động lực quan trọng
thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
5
Ba là, sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng
tạo lịch sử của nó phải là hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ
kinh tế – xã hội. Trên ý nghĩa phương pháp luận đó có thể thấy: Một trong
những giá trị căn bản nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chính là ở
mục tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế – xã hội áp bức và bóc lột ràng
buộc khả năng sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân – những chủ thể
sáng tạo đích thực ra lịch sử tiến bộ của nhân loại; thông qua cuộc cách mạng
đó nó cũng có thực hiện sự nghiệp giải phóng toàn nhân loại bằng phương
thức xây dựng mối quan hệ kinh tế – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa nhằm xác lập và phát triển một xã hội mà tự do, sáng tạo của người này
trở thành điều kiện cho tự do và sáng tạo của người khác. Đó cũng chính là
thưc hiện triết lý đạo đức nhân sinh cao đẹp nhất của chủ nghĩa cộng sản:
“mình vì mọi người; mọi người vì mình”.
6
2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Với quan niệm đó, C.Mác chỉ ra rằng bản chất con người khơng phải là
trừu tượng mà là hiện thực, không phải tự nhiên mà là lịch sử. Con người là
một thực thể thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội, nhưng yếu tố
xã hội mới là bản chất đích thực của con người.
Ở đây, cá nhân được hiểu với tư cách là những cá nhân sống, là người
sáng tạo các quan hệ xã hội; sự phong phú của mỗi cá nhân tuỳ thuộc vào sự
phong phú của những mối liên hệ xã hội của nó. Hơn thế, mỗi cá nhân là sự
tổng hợp không chỉ của các quan hệ hiện có, mà cịn là lịch sử của các quan
hệ đó.
Thơng qua hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi tự nhiên, xã hội,
biến đổi chính bản thân mình và đã làm nên lịch sử của xã hội lồi người.
Vạch ra vai trị của mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành bản chất của con
người, quan hệ giữa cá nhân và xã hội là một cống hiến quan trọng của triết
học mác - xit.
7
Kế thừa và quán triệt tư tưởng lý luận của C.Mác, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ln chú ý đến con người. Theo Người "chữ người, nghĩa hẹp là gia
đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là
cả lồi người".
Với ý nghĩa đó, khái niệm con người mang trong nó bản chất xã hội,
con người xã hội, phản ánh các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng trong đó con
người hoạt động và sinh sống.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường đặt mỗi cá nhân con người trong mối
quan hệ ba chiều: Quan hệ với một cộng đồng xã hội nhất định trong đó mỗi
con người là một thành viên; quan hệ với một chế độ xã hội nhất định trong
đó con người được làm chủ hay bị áp bức bóc lột; quan hệ với tự nhiên trong
đó con người là một bộ phận không thể tách rời.
Con người trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một chỉnh thể
thống nhất giữa thể lực, tâm lực, trí lực và sự hoạt động. Đó là một hệ thống
8
cấu trúc bao gồm sức khoẻ, tri thức, năng lực thực tiễn, đạo đức, đời sống tinh
thần...
Người cho con người là tài sản quý nhất, chăm lo, bồi dưỡng và phát
triển con người, coi con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển xã hội,
nhân tố quyết định thành công của cách mạng.
Nhận thức đúng đắn và khơi dậy nguồn lực con người chính là sự phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, xem con người với tư cách là nguồn
sáng tạo có ý thức, chủ thể của lịch sử.
Việc đề cao nhân tố con người, đặt con người vào vị trí trung tâm của
chiến lược phát triển là tư tưởng nhất quán của Đảng ta, trong điều kiện nền
kinh tế thị trường đang thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao
năng suất lao động, tạo ra cơ sở vật chất và văn hóa tinh thần ngày càng đa
dạng, phong phú. Lợi ích cá nhân ngày càng được chú ý, tạo cơ hội mới để
phát triển cá nhân.
9
Tuy nhiên, cơ chế này có thể dẫn tới tuyệt đối hóa lợi ích kinh tế, dẫn
đến phân hóa giàu nghèo trong xã hội, chứa đựng những khả năng đối lập
giữa cá nhân và xã hội. Do đó, chúng ta cần khắc phục mặt trái của cơ chế thị
trường, phát huy vai trò nhân tố con người, thực hiện chiến lược con người
của Đảng ta là một mục tiêu có ý nghĩa quyết định để giải quyết tốt mối quan
hệ cá nhân - xã hội: Xây dựng con người Việt Nam có tinh thần yêu nước và
yêu chủ nghĩa xã hội, có ý thức tự cường dân tộc, trách nhiệm cao trong lao
động, có lương tâm nghề nghiệp, có tác phong cơng nghiệp, có ý thức cộng
đồng, tơn trọng nghĩa tình, có lối sống văn hóa, quan hệ hài hồ trong gia
đình, cộng đồng và xã hội.
Đặc biệt, quán triệt sâu sắc tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Đảng là phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt
Nam, khơi dậy khát vọng đất nước, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10
năm (2021-2030) bổ sung, làm sâu sắc, phong phú hơn quan điểm về nguồn
lực con người: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
10
phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy nhân tố con người, coi con người là
trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển;
lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan
trọng bảo đảm sự phát triển bền vững. Phải có cơ chế, chính sách phát huy
tinh thần cống hiến vì đất nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải
hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của Nhân dân”.
Có thể khẳng định, Luận điểm của C.Mác về bản chất con người đến
nay vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn, đó là những bài học hết sức
quý báu trong việc phát huy nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững đất nước, góp phần sớm hiện thực hóa mục tiêu “đến giữa thế kỷ
XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
11