Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

Phân tích cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước và quá trình tìm đường đổi mới, xây dựng đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.46 KB, 56 trang )

HỌC VIỆN CƠNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THƠNG
BỘ THƠNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Câu 1: Phân tích cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước và quá trình tìm đường
đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc?
Cách mạng XHCN là một cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ cũ , nhất là chế độ tư
bản chủ nghĩa , bằng chế độ XHCN , trong cuộc cách mạng đó , giai cấp cơng nhân là
người lãnh đạo và cùng với quần chúng nhân dân lao động khác xây dựng một xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Theo nghĩa hẹp : cách mạng XHCN được hiểu là một cuộc cách mạng chính trị được
kết thúc bằng việc giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động giành được chính
quyền , thiết lập nên nhà nước chuyên chính vô sản - nhà nước của giai cấp công nhân và
quần chúng nhân dân lao động.
Theo nghĩa rộng : cách mạng xã hội chủ nghĩa là quá trình cải biến một cách toàn diện
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế , chính trị , văn hóa , tư tưởng , vv .
để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.


Như vậy, theo nghĩa rộng, cuộc cách mạng XHCN bao gồm cả việc giành chính quyền
về tay giai cấp cơng nhân , nhân dân lao động và cả quá trình giai cấp công nhân cùng với
quần chúng nhân dân lao động tiến hành cải tạo xã hội cũ , xây dựng xã hội mới trên tất
cả các lĩnh vực đời sống xã hội , tới khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì cuộc
cách mạng này mới kết thúc.
1. Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc (1975-1981)
a. Đại hội lần IV (14 - 20/12/1976)
 Bối cảnh
Sau đại thắng mùa xuân 1975, đất nước ta bắt đầu một kỷ nguyên mới - kỷ ngun hồ
bình thống nhất độc lập và cả nước quá độ đi lên CNXH. Quá trình thống nhất đất nước
diễn ra hết sức khẩn trương, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố


và xã hội. Trước hoàn cảnh lịch sử mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IV tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 14 đến 20-12-1976.
 Về mặt Nhà nước
- Nhân dân cả nước đã tham gia cuộc tổng tuyển cử đầu tiên bầu ra Quốc hội nước Việt
Nam thống nhất.
- Đại hội có1.008 đại biểu thay mặt hơn 1.550.000 Đảng viên trong cả nước dự đại hội,
trong đó có 214 đại biểu vào Đảng trước Cách mạng tháng Tám 1945, có 200 đại biểu đã
từng bị đế quốc giam cầm, 39 đại biểu là Anh hùng các lực lượng vũ trang và anh hùng
lao động, 142 đại biểu là nữ, 98 đại biểu đại diện các dân tộc thiểu số… Đến dự đại hội
cịn có 29 đồn đại biểu các Đảng Cộng sản, Đảng Cơng nhân, phong trào giải phóng dân
tộc và các tổ chức quốc tế.
- Đại hội nhận thấy thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước đã để lại cho nhân dân
ta

nhiều

bài

học

kinh

nghiệm

lớn:


+ Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp với sức mạnh chiến
đấu của tiền tuyến lớn với tiềm lực của hậu phương lớn, động viên đến mức cao nhất lực
lượng


của

toàn

dân,

toàn

quân

vào

cuộc

chiến

đấu

cứu

nước.

+ Nắm vững và vận dụng đúng đắn chiến lược tiến công, đẩy lùi địch từng bước.
+Không ngừng củng cố trận địa cách mạng, tạo thế và lực hơn hẳn địch để tiến lên giành
thắng

lợi

hoàn


toàn.

+ Ra sức xây dựng và tổ chức lực lượng chiến đấu trong cả nước, đặc biệt hết sức coi
trọng xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng ở miền Nam; tranh thủ sự ủng hộ quốc
tế.
+ Tạo ra một phương pháp cách mạng đúng, sử dụng bạo lực cách mạng gồm lực lượng
chính trị và lực lượng vũ trang, khởi nghĩa từng phần ở nông thôn phát triển thành chiến
tranh cách mạng, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao, kết hợp khởi nghĩa
của quần chúng với chiến tranh cách mạng; đánh địch trên ba vùng chiến lược, kết hợp ba
thứ quân, phát triển và kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp
đánh nhỏ, đánh vừa và đánh lớn; nắm vững phương châm chiến lược đánh lâu dài với tạo
thời cơ nhằm mở ra những cuộc tiến công chiến lược tiến lên thực hiện tổng cơng kích và
nổi dậy để đè bẹp quân thù giành thắng lợi cuối cùng.
- Đại hội nghe diễn văn khai mạc của đồng chí Tơn Đức Thắng; Báo cáo chính trị của
BCH Trung ương do đồng chí Lê Duẩn trình bày… Phân tích tình hình mọi mặt, Báo cáo
chính trị tại đại hội đã nêu lên ba đặc điểm lớn của đất nước khi bước vào sự nghiệp xây
dựng CNXH.
+ Một là, sau 20 năm xây dựng CNXH ở miền Bắc, chúng ta đã đạt được nhiều thành
tựu: Xố bỏ giai cấp bóc lột, xác lập quan hệ sản xuất XHCN, xây dựng được cơ sở bước
đầu của nền sản xuất lớn XHCN, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải


thiện. Tuy nhiên sản xuất nhỏ vẫn là đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế miền Bắc. Miền
Nam vừa thoát ra từ một xã hội thuộc địa kiểu mới, kinh tế về cơ bản vẫn còn là sản xuất
nhỏ.
=> Vì vậy, nước ta vẫn đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến
là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN.
+ Hai là, cả nước hoà bình độc lập, thống nhất đang tiến lên CNXH với nhiều thuận lợi
cơ bản song cũng gặp nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và các tàn dư của chủ

nghĩa thực dân mới gây ra.
+ Ba là, hoàn cảnh quốc tế có nhiều thuận lợi, nhận dược sự đồng tình của các nước tiến
bộ trên thế giới, song cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa cách mạng và phản cách mạng
còn diễn ra rất gay go phức tạp. Các thế lực phản cách mạng quốc tế có nhiều âm mưu,
hành động tinh vi thâm độc chống phá phong trào cộng sản quốc tế.
- Đại hội quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam
và thông qua Điều lệ mới của Đảng gồm có 11 chương và 59 điều. Điều lệ đã rút gọn 10
nhiệm vụ của đảng viên thành 5 nhiệm vụ, đặt lại chức vụ Tổng Bí thư thay chức Bí thư
thứ nhất, quy định nhiệm kỳ của Ban Chấp hành Trung ương là 5 năm. Đại hội đã bầu ra
Ban Chấp hành Trung ương gồm 101 uỷ viên chính thức và 32 uỷ viên dự khuyết. Bộ
Chính trị gồm có 14 uỷ viên chính thức và 3 uỷ viên dự khuyết. Đồng chí Lê Duẩn được
bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Trong Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng đã trình bày những kinh nghiệm tích
luỹ được trong mấy chục năm qua, xác định nhiệm vụ, phương châm và biện pháp công
tác Đảng trong giai đoạn mới, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo nhân dân
cả nước tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Đại hội xác định, muốn đưa sự nghiệp cách mạng XHCN đến toàn thắng, điều kiện
quyết định trước tiên là phải thiết lập và khơng ngừng tăng cường chun chính vơ sản,


thực hiện và không ngừng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Trong
đó, nắm vững chun chính vơ sản là nắm vững đường lối của Đảng, tăng cường sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân, thực hiện và phát huy quyền làm chủ của tập thể nhân dân
lao động, xây dựng nhà nước vững mạnh để tiến hành ba cuộc cách mạng về quan hệ sản
xuất, khoa học kỹ thuật và tư tưởng văn hoá, xóa bỏ chế độ bóc lột, đập tan sự phản
kháng của kẻ thù. Xây dựng chế độ làm chủ tập thể là xây dựng một xã hội trong đó
người làm chủ là nhân dân lao động, có tổ chức mà nịng cốt là liên minh cơng nơng, do
giai cấp cơng nhân lãnh đạo.
=> Nắm vững chun chính vơ sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao
động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: Cách mạng về quan hệ sản xuất, cách

mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học
- kỹ thuật là then chốt.
 Về mặt kinh tế, văn hóa, xã hội
- Báo cáo đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế và văn hoá
(1976-1980) nhằm 2 mục tiêu vừa cơ bản vừa cấp bách là bảo đảm nhu cầu của đời sống
nhân dân, tích luỹ để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
- Ra sức thực hiện các nhiệm vụ:
+ Phát triển vượt bậc về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giải quyết một cách vững
chắc nhu cầu của cả nước về lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thông dụng.
+ Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người mới xã hội
chủ nghĩa.


+ Xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách
hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công
nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu công - nông nghiệp; vừa xây dựng kinh
tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế
địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng
sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc phòng;
tăng cường quan hệ hợp tác, tương trợ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em trên cơ sở
chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước
khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và các bên cùng có lợi; làm cho nước Việt
Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế cơng - nơng nghiệp hiện đại, văn
hoá và khoa học, kỹ thuật tiên tiến, quốc phịng vững mạnh, có đời sống văn minh và
hạnh phúc.
+ Xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp nặng, đặc biệt là cơ khí, mở mang giao
thơng vận tải, xây dựng cơ bản, đẩy mạnh khoa học kỹ thuật; sử dụng hết lực lượng lao

động; hoàn thành cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, củng cố quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cải tiến mạnh mẽ công tác thương nghiệp, giá cả, tài chính,
ngân hàng; tăng nhanh nguồn xuất khẩu. Đồng thời đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng;
coi ổn định tình hình kinh tế - xã hội là nhiệm vụ bức thiết.
+ Phát triển giáo dục, văn hoá, y tế, cải cách giáo dục, đào tạo cán bộ, thanh toán hậu quả
của chủ nghĩa thực dân mới; xây dựng một hệ thống mới về quản lý kinh tế trong cả
nước.
=> Phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm hai mục đích:
- Đảm bảo nhu cầu đời sống nhân dân, đủ tích lũy để xây dựng cơ sở vật chất trên cơ sở
phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.


- Đẩy mạnh cách mạng tư tưởng xây dựng và phát triển nền văn hóa mới.
 Chính sách đối ngoại
- Báo cáo nêu rõ trong giai đoạn mới, chúng ta cần ra sức tranh thủ những điều kiện
quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, khôi phục và
phát triển kinh tế, phát triển văn hố, khoa học kỹ thuật, củng cố quốc phịng, cùng các
nước xã hội chủ nghĩa, các dân tộc trên thế giới đấu tranh vì hồ bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội, chống chủ nghĩa đế quốc.
- Trong quá trình làm việc, Đại hội đã tập trung phân tích đánh giá tình hình thế giới và
khẳng định mạnh mẽ chính sách đối ngoại nhất quán của Đảng và Nhà nước trong giai
đoạn mới là tăng cường tình đồn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các nước xã
hội chủ nghĩa, làm hết sức mình để góp phần làm cho lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa
Mác-Lênin ngày càng thắng lợi rực rỡ. Ra sức bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt
giữa nhân dân ta với nhân dân Lào và Campuchia.
- Đảng cũng không ngừng đề cao cảnh giác, thường xun củng cố quốc phịng, giữ
vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; xây dựng thành cơng Tổ quốc Việt Nam
hịa bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
- Ủng hộ sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của nhân dân các nước vì độc lập dân tộc,

dân chủ, hồ bình và tiến bộ xã hội. Thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa nước
ta với tất cả các nước khác trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng cùng có lợi.
Ra sức tranh thủ những điều kiện quốc té thuận lợi hàn gắn vết thương chiến tranh, phát
triển đất nước về mọi mặt.
 Hạn chế
Đại hội lần IV tuy thành không nhưng vẫn tồn tại là chế lớn đó là chưa tổng kết được
kinh nghiệm 21 năm xây dưng CNXH ở miền Bắc trong điều kiện thời chiến: vừa là hậu


phương chi viện cho chiến trường miền Nam và quốc tế; vừa xây dựng đất nước và kháng
chiến chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trong điều kiện không thể áp dụng đủ
các quy luật kinh tế.
c. Đại hội đại biểu toàn quốc lần V (3-1982)

 Bối cảnh
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam V diễn ra trong bối cảnh kinh tế đất nước sau 5
năm Kháng chiến chống Mỹ đang gặp những trì trệ nghiêm trọng. Bên cạnh đó Việt Nam
đang đóng quân ở Campuchia sau Chiến tranh biên giới Tây Nam từ năm 1979 và quan
hệ Việt Nam – Trung Quốc bị đổ vỡ sau Chiến tranh biên giới phía Bắc 1979. Trung
Quốc tiến hành hoạt động phá hoại biên giới trên bộ và trên biển thường xuyên.
 Về mặt Nhà nước
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, họp từ ngày 27 đến ngày 31 tháng 3
năm 1982 tại Thủ đô Hà Nội. Tham dự Đại hội có 1033 đại biểu thay mặt 1.727.000 đảng
viên hoạt động trong 35.146 đảng bộ cơ sở. Trong số đại biểu đó có 14 đảng viên từng


tham gia các tổ chức tiền thân của Đảng; 102 đại biểu hoạt động trong các cơ sở sản xuất
công nghiệp; 118 đại biểu đại diện cho các dân tộc thiểu số phía Bắc và Tây Nam; 79 đại
biểu là anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, chiến sĩ thi đua; một phần ba số
đại biểu có trình độ từ đại học trở lên, nhiều đại biểu là cán bộ hoạt động trong lĩnh vực

văn học - nghệ thuật. Đến dự Đại hội có 47 đồn đại biểu quốc tế.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã thông qua Nghị quyết Báo cáo về
xây dựng Đảng và những đề nghị cụ thể về bổ sung Điều lệ Đảng của Ban Chấp hành
Trung ương. Đại hội ban Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 116 ủy viên chính thức và
36 ủy viên dự khuyết. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương khố V bầu Bộ
Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết; Ban Bí thư gồm 10 đồng
chí. Đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng Bí thư.
- Đại hội đã thơng qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương. Nghe Báo cáo
phương hướng nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế và xã hội trong 5 năm
(1981-1985) và những năm 80 do đồng chí Phạm Văn Đồng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ
tịch

Hội

đồng

Bộ

trưởng

trình

bày.

- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng cũng đã thông qua Báo cáo về xây dựng
Đảng của Ban Chấp hành Trung ương do đồng chí Lê Đức Thọ, Uỷ viên Bộ Chính trị đề
xuất.
- Phát động phong trào cách mạng của quần chúng. Nhân dân lao động thực hiện quyền
làm chủ tập thể của mình chủ yếu bằng Nhà nước dưới sự lãnh đạo cuả Đảng. Tăng
cường Nhà nước là vấn đề cấp bách để phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đồng thời,

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, cải tiến phương pháp lãnh đạo của
các cấp uỷ đảng với chính quyền là điều kiện để phát huy vai trò và hiệu lực của Nhà
nước.
- Về nâng cao sức chiến đấu của Đảng, Báo cáo chính trị nhấn mạnh: Hiện nay nhiệm vụ


lịch sử mà Đảng phải gánh vác hết sức nặng nề. Cuộc đấu tranh để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc đang diễn ra gay gắt và phức tạp. Các loại kẻ thù trong và ngồi nước tìm mọi
cách phá hoại Đảng ta về tư tưởng, tổ chức. Vì vậy, cơng tác xây dựng Đảng càng có vị
trí đặc biệt quan trọng. Nhiệm vụ then chốt của công tác xây dựng Đảng hiện nay là tiếp
tục nâng cao tính giai cấp cơng nhân, tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng mạnh mẽ
về chính trị, tư tưởng và tổ chức nhằm bảo đảm thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng,
nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc; làm cho Đảng ta luôn luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học,
một đảng thật sự trong sạch, có sức chiến đấu cao, gắn bó chặt chẽ với quần chúng.
- Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng ta đã đặc biệt quan tâm tăng cường công tác lý
luận, nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học xã hội. làm cho công tác lý luận, khoa
học gắn chặt với nghiên cứu, xác định và phổ biến đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước. Đảng đã giành nhiều công sức xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước nhằm
triển khai và hiện thực hoá chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong
các hoạt động của thực tiễn cách mạng.
 Về kinh tế, văn hóa, xã hội
- Tiếp tục thực hiện đường lối chung và đường lối kinh tế mà Đại hội lần IV đã đề
ra.Ngồi ra, thơng qua các nhiệm vụ về kinh tế, văn hóa, xã hội, tăng cường nhà nước
XHCN, chính sách đối ngoại, xây dựng Đảng.
- Đại hội còn bổ sung đường lối xây dựng chung do Đại hội lần IV đề ra:
+ Đại hội xác định thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là lâu dài, trải qua
nhiều bước quá độ ngắn, đồng thời chỉ rõ chúng ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời
kỳ quá độ. Chặng đường đầu tiên bao gồm thời kỳ 5 năm 1981 – 1985 và kéo dài đến
năm 1990, có tầm quan trọng đặc biệt. Đại hội đã nêu ra các nhiệm vụ về chính trị, kinh

tế, văn hố xã hội, quốc phịng – an ninh trong chặng đường đầu tiên.


+ Khẳng định nước ta đang ở chặng đường đầu tiền của thời kỳ quá độ lên CNXH.
+ Nội dung bước đi và cách làm là thực hiện công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường
đầu tiên là phải tập trung sức phát triển nông nghiệp và coi nông nghiệp là trung tâm.
+ Có những bước phát triển nhận thức mới, tìm tịi đổi mới trong bước q độ lên CNXH
trước hết là phải làm kinh tế.
- Sau hơn một thập kỷ nhận thấy rõ những hạn chế của cơ chế quản lý hành chính quan
liêu bao cấp, nhưng phải tới Đại hội V Đảng mới có một chủ trương thực sự mang
tính bước ngoặt để xác lập một cơ chế quản lý mới về kinh tế thay cho cơ chế cũ. Đảng
chủ trương "đổi mới chế độ quản lý và kế hoạch hoá hiện hành, xoá bỏ cơ chế quản lý
hành chính quan liêu, bao cấp, khắc phục bằng được tình trạng bảo thủ, trì trệ, vơ trách
nhiệm, vơ kỷ luật, phát huy động lực làm chủ tập thể, nâng cao tính năng động sáng tạo,
tinh thần trách nhiệm và ý thức kỷ luật". Cả Trung ương, địa phương và cơ sở đều làm kế
hoạch kế hoạch phải thấu suốt nguyên tắc hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ
nghĩa. Điều đó có nghĩa là trong cơ chế quản lý mới này thì mọi hoạt động kinh tế phải so
sánh chi phí với hiệu quả. Các tổ chức và đơn vị kinh tế phải tự bù đắp chi phí và có lãi
để tái sản xuất mở rộng. Từ đó sẽ khiến cho các cơ sở sản xuất kinh doanh nâng cao tính
tự lập, phát huy tính chủ động sáng tạo của mình để đẩy mạnh phát triển sản xuất.
- Trong thời gian thực hiện kế hoạch 5 năm 1981-1985, một số ngành và nhiều địa
phương đã tiến hành những cuộc thử nghiệm, tìm tịi về cách làm ăn mới này nhằm khai
thác khả năng tiềm tàng của nền kinh tế phát triển sản xuất, cải tiến lưu thông, phân phối,
đáp ứng nhu cầu của đời sống nhân dân. Song, cho tới năm 1986 cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp về căn bản chưa bị xoá bỏ. Cơ chế mới chưa được thiết lập đồng bộ. Nhiều
chính sách, cơ chế đã lỗi thời chưa được thay đổi, một số thể chế quản lý mới cịn chắp
vá, khơng ăn khớp, thậm chí trái ngược nhau.
- Đảng đã đề ra được một phương hướng quản lý mới có tính khả thi, thể hiện một sự
chuyển biến đúng hướng trong quan hệ sản xuất nói chung và trong việc tổ chức và quản



lý sản xuất nói riêng. Đây tiếp tục là một khâu đột phá mới để tiến tới sự đổi mới toàn
diện và sâu sắc về kinh tế - xã hội.
- Trong lĩnh vực phân phối sản phẩm lao động, những chủ trương của Đảng tại Đại hội
V tiếp tục là một sự báo hiệu để tiến tới một sự đổi mới toàn diện nền kinh tế xã hội. Chủ
trương của Đảng về chế độ phân phối tại Đại hội lần này đang loại trừ dần hình thức phân
phối bình quân bằng việc "áp dụng nguyên tắc phân phối theo lao động, gắn chặt tiền
lương với năng suất lao động, mở rộng đúng đắn lương khoán, lương sản phẩm và tiền
thưởng, đi đôi với cung ứng theo định lượng những mặt hàng thiết yếu mà Nhà nước quy
định".
- Tuy những chủ trương mới trong phân phối đã thể hiện sự quan tâm đúng mức đến lợi
ích cá nhân người lao động, đề cao ý thức trách nhiệm và kỷ luật của người lao động,
nhưng do cơ chế hành chính quan liêu bao cấp vẫn chưa thực sự được xóa bỏ, quá trình
cải tạo xã hội chủ nghĩa mắc nhiều sai lầm,... dẫn đến tình hình phân phối ở nước ta trong
thời kỳ này vẫn chưa được cải thiện, thậm chí trầm trọng hơn trước, 'suốt 5 năm qua
(1981-1985), lĩnh vực phân phối lưu thông luôn căng thẳng và rối ren".
- Trên cơ sở phân tích hiện trạng của đất nước, Báo cáo chính trị cũng vạch rõ những
khó khăn yếu kém của nước ta trong quá trình phát triển. Về kinh tế, kết quả thực hiện
các kế hoạch kinh tế trong 5 năm 1976-1980 chưa thu hẹp được những mặt cân đối
nghiêm trọng của nền kinh tế quốc dân. Sản xuất phát triển rất chậm trong khi dân số
tăng nhanh, lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng không đủ đáp ứng nhu cầu thiết yếu
của đời sống xã hội. Đời sống nhân dân lao động gặp rất nhiều khó khăn thiếu thốn. Mặt
trận tư tưởng, văn hố, giáo dục cịn bị xem nhẹ, pháp chế xã hội chủ nghĩa chậm được
tăng cường, pháp luật, kỷ luật bị buông lỏng.
- Mặt khác, khó khăn cịn do sai lầm, khuyết điểm của các cơ quan Đảng và Nhà nước từ
Trung ương đến cơ sở trong lãnh đạo quản lý kinh tế - xã hội của đất nước. Chúng ta đã
chủ quan, nóng vội đề ra một số chỉ tiêu quá lớn về quy mô, quá cao về tốc độ xây dựng
cơ bản và phát triển sản xuất; đã duy trì quá lâu cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao



cấp, chậm đổi mới các chính sách chế độ kìm hãm sản xuất; đã quan liêu, xa rời thực tế,
không nhạy bén với những thay đổi của vận động xã hội, bảo thủ, trì trệ, lạc quan thiếu
cơ sở.
- Về những nhiệm vụ văn hố, xã hội, Báo cáo chính trị nhấn mạnh việc xây dựng nền
văn hoá mới, con người mới đã thu được nhiều thành tích. Nhưng cuộc đấu tranh giữa hai
con đường trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng, lối sống diễn ra hết sức phức tạp. Xây dựng
nền văn hoá mới, con người mới là sự nghiệp mang nội dung tồn diện. Trong đó hệ
thống giáo dục bao gồm giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp,
dạy nghề, giáo dục đại học và trên đại học có tầm quan trọng hàng đầu. Trong cơng cuộc
xây dựng nền văn hố mới, con người mới, văn hố nghệ thuật giữ một vai trị cực kỳ
quan trọng, Đảng và Nhà nước cần tăng cường quản lý, đồng thời ra sức phát triển và
nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá, văn nghệ đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ cách
mạng.
 Chinh sách đối ngoại
- Xuất phát từ tình hình thực tiễn đất nước, những biến động của tình hình quốc tế và
những âm mưu của các thế lực thù địch chống lại Việt Nam. Báo cáo nêu rõ trong giai
đoạn mới của cách mạng, Đảng phải lãnh đạo nhân dân ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược: “Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Hai nhiệm vụ chiến lược đó quan hệ mật thiết với
nhau. Xây dựng chủ nghĩa xã hội làm cho đất nước lớn mạnh về mọi mặt thì mới có đủ
sức đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược của địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Ngược lại có tăng cường phịng thủ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc mới có điều kiện để xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội.


 Tuy nhiên, Đại hội V cịn có những hạn chế:
- Chưa phân tích rõ ngun nhân dẫn đến tình trạng trì trệ của nền kinh tế, vẫn khẳng
định đường lối chung là đúng, khuyết điểm là trong khâu tổ chức thực hiện nên đã khơng
có được những sửa chữa đúng mức cần thiết.
- Chưa thấy được sự cần thiết phải duy trì nền kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời

kỳ quá độ, chưa xác định được quan điểm cụ thể về kết hợp kế hoạch với thị trường, công
tác quản lý lưu thông phân phối vẫn một chiều do kế hoạch nhà nước quyết định.
- Đại hội coi nơng nghiệp là mặt trận hàng đâu nhưng chưa có những chính sách, giải
pháp cụ thể để giải phóng lực lượng sản xuất trong nông nghiệp.
- Trên lĩnh vực đối ngoại, Đại hội chưa đưa ra giải pháp hữu hiệu để đưa đất nước thốt
khỏi thế bị bao vây cơ lập.
=> Những hạn chế trên, chính là nguyên nhân dẫn đến những khó khăn mà đất nước ta
phải vượt qua sau Đại hội.
2. Quá trình tìm đường đổi mới và xây dựng CNXH, bảo vệ đất nước
a. Quá trình tìm đường đổi mới và xây dựng CNXH
- Theo mơ hình và con đường đi lên CNXH được Đại hội Đảng lần thứ IV xác định và sự
bổ sung của Đại hội lần thứ V, trong thời kỳ 1976- 1986, bên cạnh những thắng lợi to lớn
trong bảo vệ Tổ quốc và nhiều thành tựu đáng kể trong xây dựng đất nước, tình hình kinh
tế, xã hội của Việt Nam cũng đã bộc lộ nhiều sai lầm, yếu kém và lâm vào tình trạng
khủng hoảng ngày càng trầm trọng hơn. Thực trạng đó của Việt Nam cùng với những
chuyển biến sâu rộng của cục diện thế giới đã đặt ra cho Đảng vấn đề đổi mới tư duy về
CNXH và con đường đi lên CNXH...Trong khi đó, các thế lực thù địch tìm mọi cách
chống phá thành quả cách mạng vừa giành được cũng như công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội trên đất nước Việt Nam thống nhất.
- Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần sáu khóa IV (8-1979)


+ Hội nghị Trung ương sáu được coi là bước đột phá đầu tiên về đổi mới kinh tế của
Đảng với chủ trương khắc phục những khuyết điểm sai lầm trong quản lý kinh tế và cải
tạo XHCN, phá bỏ những rào cản trong sản xuất bung ra.
- Thực hiện Nghị quyết Trung ương lần thứ sáu:
+ Tháng 9-1979 Hội đồng Chính phủ ra quyết định tận dụng đất đai nơng nghiệp hoang
hố để phát triển sản xuất.
+ Tháng 10-1979, Hội đồng Chính phủ cơng bố quyết định xố bỏ các trạm kiểm sốt
khơng cần thiết, xố bỏ ngăn sơng, cấm chợ. Người sản xuất sau khi làm tròn nghĩa vụ

với Nhà nước có quyền được đa sản phẩm dư thừa ra trao đổi trên thị trường. Những
chính sách trên được lịng dân, khuyến khích nơng dân tận dụng hoang hoá để phát triển
sản xuất. Nhà nước và nhân dân ngày càng đầu tư cao cho sản xuất nông nghiệp. Do đó,
năm 1979 sản lượng lương thực tăng 1.718.500 tấn so với năm 1978.
+ Trong khó khăn ở một số địa phương, quần chúng nhân dân mạnh dạn tìm tịi, đổi mới
tìm lối thốt, “khốn chui” trong các hợp tác xã nông nghiệp, “xé rào” trong các doanh
nghiệp Nhà nước xuất hiện, ở những nơi đó sản xuất phát triển, đời sống nhân dân được
cải thiện. Nhờ sớm nắm bắt nhu cầu thực tiễn, kịp thời tổng kết thực tiễn, ngày 22 tháng 6
năm 1980. Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thơng báo số 22 về khốn thí điểm xây lúa
trong các hợp tác xã nông nghiệp.
+ Trước hiện tượng “khốn chui” trong hợp tác xã nơng nghiệp, tại hội nghị, Ban Bí thư
đã ban hành chỉ thị 100 (1-1981) về khống sản phẩm đến nhóm người lao động trong
các hợp tác xã nông nghiệp. Theo chỉ thị, mỗi xã viên nhận mức khoang theo diện tích, tự
hồn thành tất cả các khâu từ cày cấy, chăm sóc, thu hoạch, còn những khâu khác hợp tác
xã sẽ làm.


+ Trong lĩnh vực công nghiệp, trước hiện tượng xé rào, bù giá vào lương ở thành phố Hồ
Chí Minh và tỉnh Long An, chính phủ ban hành quyết định 25 (1-1981) về quyền chủ
động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính cho xí nghiệp quốc danh.
+ Ra quyết định 26 về việc mở rộng hình thức trả lương khống theo sản phẩm và vận
dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước. Những
chủ trương, chính sách đúng đắn trên, góp phần làm cho sản xuất cơng nghiệp năm 1981
đạt kế hoạch đề ra, riêng công nghiệp địa phương tăng 7,5%.
Trên mặt trận phân phối lưu thông, ngày 23 tháng 6 năm 1980, Bộ Chính trị ra Nghị
quyết 26/NQ-TW về cải tiến công tác phân phối, lưu thông với hai việc chính là đẩy
mạnh thu mua và nắm nguồn hàng, quản lý chặt chẽ thị trường. Nghị quyết nhấn mạnh
nguyên tắc giá cả phù hợp với chi phí sản xuất và lưu thông; tạo tiền đề cần thiết để tiến
tới xoá bỏ từng bước chế độ cung cấp theo tem phiếu.
+ Chủ trương bằng mọi cách làm cho sản xuất "bung ra"; khơng cịn xem kế hoạch hố

là hình thức duy nhất để phát triển kinh tế; khẳng định sự cần thiết phải kết hợp kế hoạch
với thị trường.
+ Thực hiện điều chỉnh giá, tiền lương, tài chính cho phù hợp với thực tế.
- Cùng với những chủ trương đổi mới từng phần trong lĩnh vực kinh tế xã hội, Đảng
cịn quan tâm kiện tồn bộ máy Nhà nước, củng cố quốc phịng, an ninh, tăng cường cơng
tác xây dựng Đảng, bảo đảm cho Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đủ sức
lãnh đạo, để cách mạng tiến lên.
- Quá trình đi tới đường lối đổi mới của Đảng đã diễn ra qua nhiều trăn trở, tìm tịi, khảo
nghiệm. Có nhều hội nghị đã diễn ra để cụ thể hóa, thực hiện nghị quyết của Đại hội lần
V.
=> Nhìn tổng quát, thời kỳ 1979 – 1981. Đảng có khiều tìm tịi, đổi mới, nhưng chủ yếu
trong lĩnh vực kinh tế. Điều đó phản ánh đúng thực tiễn nước ta đang lâm vào cuộc


khủng hoảng kinh tế – xã hội. Những chủ trương, chính sách đổi mới thời kỳ này là
những giải pháp mang tính thế, nhằm tháo gỡ những khó khăn trước mắt. Qua tổ chức
thực tiễn đã đem lại nhiều kết quả, song chưa vững chắc. Điều đó chứng tỏ những tìm tịi,
đổi mới đó chưa mang tính tồn diện, chưa đủ sức giải quyết những vấn đề do thực tiễn
đặt ra, địi hỏi Đảng cần tiếp tục tìm tịi, đổi mới hơn nữa.

Một số hội nghị bàn về phát triển kinh tế xã hội, tìm tịi đổi mới đất nước:
- Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (12-1982)
+ Xác định mục tiêu kinh tế – xã hội 3 năm (1983-1985).
+ Nghị quyết của hội nghị sau này đã được cụ thể hoá, thể chế hoá thành Nghị quyết của
Quốc hội trong kỳ hợp thứ 3 Quốc hội khoá VII (6-1982) và trong kỳ hợp thứ 4 Quốc hội
khoá VII (12-1982).
- Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá V (6-1983)
+ Bàn về những vấn đề cấp bách về tư tởng và tổ chức bảo đảm thực hiện nhiệm vụ kinh
tế – xã hội.
- Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khố V (12-1983)

+ Đánh giá tình hình kinh tế – xã hội nước ta đang có nhiều chuyển biến đi lên, song vẫn
cịn nhiều khó khăn và mất cân đối lớn
+ Hội nghị xác định trong hai năm 1985 – 1985 phấn đấu bảo đảm ổn định tình hình kinh
tế – xã hội.
+ Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá V (7-1984), bàn về phân phối, lưu thơng. Hội nghị nhận định chính sách giá, lương, tiền khơng cịn phù hợp với thực tế,


hội nghị chủ trương đẩy mạnh thu mua nắm nguồn hàng, quản lý chặt chẽ thị trường tự
do và thực hiện điều chỉnh giá cả, tiền lương, tài chính cho phù hợp với thực tế.
=> Nhìn tổng quát, thời kỳ 1979 – 1981. Đảng có khiều tìm tịi, đổi mới, nhưng chủ
yếu trong lĩnh vực kinh tế. Điều đó phản ánh đúng thực tiễn nước ta đang lâm vào cuộc
khủng hoảng kinh tế – xã hội. Những chủ trương, chính sách đổi mới thời kỳ này là
những giải pháp mang tính thế, nhằm tháo gỡ những khó khăn trước mắt. Qua tổ chức
thực tiễn đã đem lại nhiều kết quả, song chưa vững chắc. Điều đó chứng tỏ những tìm tịi,
đổi mới đó chưa mang tính tồn diện, chưa đủ sức giải quyết những vấn đề do thực tiễn
đặt ra, địi hỏi Đảng cần tiếp tục tìm tịi, đổi mới hơn nữa.
- Hội nghị Trung ương lần 7 (12-1984)
+ Xác định kế hoạch đến năm 1985 là phải tiếp tục coi mặt trận xản suất nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu, trước hết là xản suất lương thực thực phẩm.
- Hội nghị Trung ương lần thứ 8 khóa V (6-1985)
+ Đây được xem là bước đột phá thứ hai trong q trình tìm tịi đổi mới kinh tế của Đảng.
+ Chủ trương xoá quan liêu, bao cấp qua giá và lương. Nội dung chính giải quyết giá, lương, tiền là : Thực hiện cơ chế một giá (tính chủ chi phí trong giá thành sản phẩm) ; bảo
đảm tiền lương thực tế cho người hưởng lương sống chủ yếu bằng lương, xoá bỏ cung
cấp bằng hiện vật ; các cơ sở sản xuất, xác địa phương chuyển hẳn mọi hoạt động sản
xuất, kinh doanh sang chế độ hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghiã, xoá bỏ mọi khâu
bù lỗ bất hợp lý trừ trường hợp cá biệt.
+ Hội nghị này đánh dấu sự đổi mới tư duy một cách căn bản trên lĩnh vực phân phối, lưu thông của Đảng. Tinh thần cơ bản là thừa nhận sản xuất hàng hoá, coi trọng thị trường.
Sau Hội nghị Trung ương lần thứ tám, ngày 14 tháng 9 năm 1985 Chính phủ tiến hành
tổng điều chỉnh giá, lương, tiền lần thứ hai, bắt đầu từ việc đổi tiền, ban hành một số giá



mới và tiền lơng mới, xố bỏ hồn tồn giá cung cấp và chế độ tim phiếu, chỉ giữ lại sổ
gạo cho người ăn lương. Đổi tiền (1 đồng mới = 10 đồng cũ), thay đổi tỷ giá hối đoán 17
đồng thành 210 đồng RCN (rúp chuyển nhượng).
+ Hậu quả lớn nhất của cuộc cải cách giá, lương, tiền lần này đã dẫn đến tình trạng lạm
phát phi mã trong 3 năm 1986-1988. Tỷ lệ lạm phát hàng năm tăng 3 con số, là hiện tư ợng chưa từng có. Vì thế năm 1986 đã phải lùi một bước, thực hiện trở lại chính sách hai
giá bán lẻ 6 mặt hàng, sau rút xuống 4 mặt hàng theo giá cung cấp mới. Đồng thời, giá
mua cũng áp dụng trở lại giá thoả thuận, đối với phần lớn nông sản phẩm mua bằng tiền,
khơng có hiện vật đối lưu. Tình hình trên, đã làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội
ở nước ta ngày càng trầm trọng hơn.
- Nguyên nhân của tình hình trên là, giải quyết giá, lương, tiền chưa đồng bộ; làm ồ ạt,
toàn diện, mức độ lớn, làm dồn dập trong một thời gian ngắn gây ra cú sốc lớn cho nền
kinh tế, đời sống, kinh tế – xã hội. Khơng tính đến khả năng tác động, hệ quả xấu đối với
ngân sách Nhà nớc. Đặc biệt thực hiện chủ trương trên nhưng vẫn giữ nguyên cơ chế cũ.
=> Là yêu cầu hết sức cấp bách, là khâu dột phá có tính quyết định để chuyển hẳn từ kinh
tế sang cơ chế hoạch toán kinh doanh XHCN.
- Hội nghị Bộ chính trị khóa V (8-1986)
+ Đưa ra một kết luận về một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế.
+ Đây được xem là bước đột phá thứ ba về đổi mới kinh tế đồng thời cũng là bước quyết
định cho sự ra đời của đường lối đổi mới của Đảng.
+ Được thể hiện qa các mặt cơ bản sau:
* Cơ cấu sản xuất: chúng ta đã chủ quan nóng vội đề ra những chủ trương quá lớn về quy
mô, quá cao về nhiệt độ, xây dựng và phát triển. Cần bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư,


phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu; ra sức phát triển công nghiệp nhẹ; công
nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc.
=> Là nguyên nhân quan trọng khiến xản suất 5 năm gần đây gần như giẫm chân tại chỗ,
năng suất lao động giảm sút.
* Cải tạo xã hội chủ nghĩa: phải xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc tr ưng của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.

* Cơ chế quản lý kinh tế: lấy kế hoạch làm trung tâm, nhưng đồng thời phải sử dụng
đúng quan hệ hàng hoá, tiền tệ, dút khoát xoá bỏ cơ chế tập trung, bao cấp; chính sách giá
phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá.
- Thực hiện Nghị quyết Đại hội IV và Đại hội V của Đảng, mặc dù cịn nhiều khó khăn,
nhưng chúng ta đã xây dựng được nhiều cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội
+ Tài sản cố định của Nhà nước năm 1980 tăng 10,2 tỷ đồng so với năm 1976.
+ Trong những năm 1981-1985 khởi công và bước đầu hồn thành hàng trăm cơng trình
tương đối lớn, hàng nghìn cơng trình vừa và nhỏ, trong đó có những cơng trình trọng
điểm như: Thủy điện Hịa Bình, xi măng Bỉm Sơn, xi măng Hà Tiên, hồ Kẻ Gỗ, hồ Dầu
Tiếng…
+ Đặc biệt, 10 năm đầu cả nước thống nhất đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội (19751985), với sự nỗ lực, năng động và sáng tạo của Đảng, nhân dân, các địa phương, các cơ
sở, các ngành đã từng bước đổi mới cơ chế quản lý, đi đến chủ trương xóa bỏ cơ chế
quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
+ Cơ chế và cách thức làm ăn mới cùng với nhiều chính sách quan trọng đã khai thác tốt
hơn năng lực sản xuất, quan tâm lợi ích người lao động, do đó đã thúc đẩy sản xuất phát


triển với hiệu quả cao hơn, nhất là sau khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IV (9-1979)…
=> Đó là những kết quả nổi bật về phát triển kinh tế - xã hội đất nước đạt được dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
b. Bảo vệ tổ quốc
Đi đôi với lãnh đạo khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế, xã hội, trong
những năm 1975-1985, bằng kinh nghiệm và bản lĩnh của mình, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã lãnh đạo quân dân ta đánh thắng hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới
Tây Nam và biên giới phía Bắc.
 Cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam
- Ngay sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, tập đoàn Khơme Đỏ do PonPot
cầm đầu ở CPC, đã tiến hành khiêu khích, xâm phạm nhiều vùng lãnh thổ nước ta từ Tây
Ninh – Hà Tiên.

- Đầu tháng 5/1975 chúng đánh chiếm đảo Thổ Chu và Phú Quốc.
- Ngày 22/12/1978, 19 sư đoàn tiến đánh Tây Ninh, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lấn
biên giới Tây Nam nước ta.
- Trước tình hình đó thực hiện quyền tự vệ chính đáng quân Việt Nam kết hợp với lực
lượng cách mạng Cam-Pu-Chia, tiến công tiêu diệt lực lương Pôn pốt, ngày 7 – 1 – 1979,
PhnomPenh được giải phóng khơme đỏ bị lật đổ.
- Ý nghĩa: đem lại hịa bình cho biên giới Tây Nam.
Cuộc đấu tranh bảo vệ biên giới phía Bắc.


- Một số nhà lãnh đạo Trung Quốc ủng hộ bọn Pơn Pốt nên đã khiêu khích ta ở dọc biên
giới phía Bắc. Họ dựng lên sự kiện "nạn kiều", cắt viện trợ, rút chuyên gia.
- Sáng 17/2/1979, Trung Quốc đã dùng 32 sư đồn tiến cơng dọc biên giới nước ta từ
Móng Cái đến Phong Thổ (Lai Châu).
- Để bảo vệ lãnh thổ, quân dân ta đã kiên quyết đánh trả. Ngày 18/3/1979, quân Trung
Quốc phải rút khỏi nước ta.
- Ý nghĩa:
+ Giữ gìn hịa bình, bảo vệ tồn vẹn lãnh thổ.
+ Khơi phục tình đồn kết, hữu nghị hợp tác giữa VN - Trung Quốc - Campuchia với tinh
thần "khép lại quá khứ, mở rộng tương lai".

=> Có thể nói, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ năm 1975 đến năm
1985, chúng ta đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy cịn
nhiều hạn chế, khó khăn, nhưng kết quả đạt được giai đoạn này có ý nghĩa quan trọng
trên con đường đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời là cơ sở vững chắc để
năm 1986, Đảng ta đề ra đường lối đổi mới đất nước phù hợp với điều kiện của Việt
Nam, đưa đất nước có những bước phát triển đột phá sau này.
Câu 2: Trình bày nội dung đường lối đổi mới tồn diện của Đại hội VI (12-1986) và
q trình Đảng lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới (1986-2018)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI

 Bối cảnh
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI diễn ra trong bối cảnh sai lầm của đợt tổng cải
cách giá - lương - tiền cuối năm 1985 làm cho kinh tế Việt Nam càng trở nên khó khăn


(tháng 12 năm 1986 giá bán lẻ hàng hóa tăng 845,3%). Việt Nam đã không thực hiện
được mục tiêu đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân
dân. Số người bị thiếu đói tăng, bội chi lớn. Nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng
trầm trọng. Tình hình này làm cho trong Đảng Cộng sản Việt Nam và ngoài xã hội có
nhiều ý kiến tranh luận xoay quanh ba vấn đề lớn:
- Cơ cấu sản xuất
- Cải tạo xã hội chủ nghĩa
- Cơ chế quản lý kinh tế
Các nguyên nhân chính của khủng hoảng:
- Chủ quan, nóng vội trong con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
- Áp dụng mơ hình xây dựng chủ nghĩa xã hội bao cấp
- Cơng nghiệp hóa theo lối giản đơn - tập trung vào công nghiệp nặng
 Thời gian và đại biểu
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam họp tại Thủ đô Hà
Nội từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986. Dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9
triệu đảng viên cả nước, 35 đoàn đại biểu các đảng anh em, các tổ chức cách mạng và bầu
bạn khắp năm châu.
- Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ nhất bầu Bộ Chính trị, Ban
Bí thư. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng. Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ được giao trách
nhiệm là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
 Nội dung cơ bản đường lối đổi mới của đại hội VI
- Đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ V. Báo cáo
chính trị khẳng định: Chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm 1981-1985: sản xuất nông nghiệp và công nghiệp

đã ngăn chặn được đà giảm sút của những năm 1979 – 1980, và đã đạt được nhiều tiến bộ
rõ rệt. Nông nghiệp tăng bình quân hằng năm 4.9% (thời kỳ 1979 - 1980 là 1,9,%). Sản
lượng lương thực bình quân hằng năm đạt 17 triệu tấn (thời kỳ 1976 - 1980 là 13,4 triệu
tấn), sản xuất cơng nghiệp tăng bình qn hằng năm 9,5% (thời kỳ 1976 - 1980 là 0,6%).


Thu nhập quốc dân tăng bình quân hằng năm là 6,4% (thời kỳ 1976 - 1980 là 0,4%). Về
xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật những năm 1981 1985, đã hồn thành mấy trăm cơng
trình vừa và nhỏ. Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến thêm một bước. Chú trọng
chăm lo đời sống nhân dân trong hồn cảnh nền kinh tế cịn nhiều yếu kém. Cuộc chiến
đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh chính trị và thực hiện nghĩa vụ quốc tế đã giành
được những thắng lợi to lớn.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) với tinh thần “nhìn thẳng vào
sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” đã nghiêm khắc chỉ ra những sai lầm trong
nhận thức và chủ trương cơng nghiệp hóa thời kỳ 1960-1985, mà trực tiếp là mười năm
từ 1975 đến 1985 như sau:
+ Một là, sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất, kỹ
thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế...Do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng
vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết nên chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế.
+ Hai là, sai lầm trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư,
thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu
công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý, thiên về xây dựng cơng nghiệp
nặng và những cơng trình quy mô lớn, không tập trung sức giải quyết về căn bản vấn đề
lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
+ Ba là, sai lầm trong việc xác định lĩnh vực cần tập trung ưu tiên. Không thực hiện
nghiêm túc nghị quyết của Đại hội Đảng V, nông nghiệp vẫn chưa thật sự coi là mặt trận
hàng đầu, công nghiệp nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Khẳng định những thành tựu các mặt đã đạt được, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật,

đánh giá đúng sự thật. Báo cáo chính trị nêu rõ tình hình kinh tế - xã hội nước ta đang
đứng trước nhiều khó khăn: sản xuất tăng chậm, khơng đáp ứng được yêu cầu nhanh
chóng ổn định đời sống nhân dân: nhiều chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm 1981 - 1985 không
đạt: hiệu quả đầu tư và sản xuất thấp; tài nguyên chưa được khai thác tốt, bị sử dụng
lãng phí; phân phối lưu thơng rối ren, căng thẳng, vật giá tăng nhanh, ngân sách thiếu
hụt; sự mất cân đối trong nền kinh tế giữa cung và cầu, giữa thu và chi, xuất khẩu và
nhập khẩu chậm được thu hẹp, thậm chí có mặt cịn gay gắt hơn trước; quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố, vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh suy yếu;
đời sống nhân dân, nhất là công nhân, viên chức và lực lượng vũ trang gặp nhiều khó
khăn; những hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển, công bằng xã hội bị vi phạm,


pháp luật kỷ cương khơng nghiêm, quần chúng giảm lịng tin đối với sự lãnh đạo của
Đảng và điều hành của Nhà nước.
- Tóm lại "chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu do Đại hội lần thứ V đề ra là về cơ bản
ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống của nhân dân". Đại hội thẳng thắn cho
rằng: "Những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương,
chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện"' Đại hội chỉ rõ
"Những sai lầm và khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những khuyết
điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân
của mọi nguyên nhân".
Từ thực tiễn cách mạng, Đại hội nêu lên 4 bài học kinh nghiêm quan trọng.
+ Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm
gốc", xây dựng và phát triển quyền làm chủ của nhân dân lao động.
+ Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
+ Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều
kiện mới.
+ Bốn là, phải chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm

quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trải qua nhiều tìm tịi, khảo nghiệm từ thực tiễn và đối mới tư duy lý luận nhận thức rõ
hơn về thời kỳ quá độ và về chủ nghĩa xã hội, những quy luật khách quan đảng vận dụng
trong thời kỳ quá độ, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện với những nội dung cơ
bản sau:
- Đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ về chủ nghĩa xã hội, về các quy luật khách quan
những đặc trưng của thời kỳ quá độ. Trong nhiều năm qua, những quan niệm lạc hậu về
chủ nghĩa xã hội, nhất là về công nghiệp hóa, về cải tạo xã hội Chủ nghĩa, về cơ chế quản
lý kinh tế, về phân phối lưu thơng chính là nguyên nhân chậm phát triển và cụ thể hoá
đường lối chung và đường lối kinh tế trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Vì vậy,
phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy. Đổi mới tư duy khơng có nghĩa là phủ nhận
những thành tựu lý luận đã đạt được, phủ nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối đúng đắn đã được xác định, trái lại chính
là bổ sung và phát triển những thành tựu ấy.


×