ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KINH TẾ HỌC
---000---
BÀI TẬP LỚN
Mơn: Kinh tế Việt Nam
Đề bài: Trình bày thực trạng tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng
kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-nay)
Mục lục
Mục lục..............................................................................................................................................................1
Lời nói đầu........................................................................................................................................................1
1.1 Tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế................................................................................................2
1.2. Tốc độ tăng trưởng của các nhóm ngành trong nền kinh tế....................................................................7
1.2.1 Nơng nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản.................................................................................................7
1.2.2 Công nghiệp- Xây dựng.....................................................................................................................10
1.2.3 Dịch vụ...............................................................................................................................................12
1.3 Tăng trưởng kinh tế nhìn từ yếu tố đầu vào............................................................................................14
1.3.1 Đầu tư và tích lũy vốn........................................................................................................................14
1.3.2 Yếu tố lao động..................................................................................................................................17
1.3.3 Đóng góp của TFP đối với tăng trưởng kinh tế.................................................................................20
1.4. Tăng trưởng kinh tế nhìn từ yếu tố đầu ra.............................................................................................21
1.4.1. Chi tiêu chính phủ............................................................................................................................21
1.4.2. Xuất khẩu rịng..................................................................................................................................23
1.5. Đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế thời kỳ đổi mới.....................................................................26
1.5.1. Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế.............................................................................26
1.5.1.1. Cơ cấu nhóm ngành kinh tế......................................................................................................26
1.5.1.2. Cơ cấu thành phần kinh tế........................................................................................................30
1.5.2 Đánh giá hiệu quả kinh tế.................................................................................................................31
1.5.2.1 Năng suất lao động của nền kinh tế..........................................................................................31
1.5.2.2. Hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.....................................................................................33
1.5.3 Đánh giá sức cạnh tranh của nền kinh tế.........................................................................................34
1.5.3.1. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước..........................................................34
1.5.3.2. Năng lực cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước.........................................................35
1.5.3.3. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung.......................................................................37
1.5.4 . Đánh giá về giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động.................................38
1.5.5 Đánh giá về xóa đói giảm nghèo.......................................................................................................40
1.5.6. Đánh giá về nâng cao phúc lợi xã hội..............................................................................................42
1.5.6.1. Về giáo dục – đào tạo................................................................................................................42
1.5.6.2. Những tiến bộ về y tế và chăm sóc sức khỏe...........................................................................43
1.5.6.3. Chỉ số đánh giá mức phát triển con người...............................................................................44
1.5.7. Thực trạng tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội.....................................................44
Lời kết..............................................................................................................................................................47
2
Lời nói đầu
Tăng trưởng kinh tế vốn là vấn đề cốt lõi, quan trọng của lý luận về phát triển kinh tế
của mỗi quốc gia. Đồng thời, nó cũng là mục tiêu hàng đầu, là thước đo cho sự tiến bộ
của mỗi nước trên thế giới. Do đó, tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế là một phần
không thể thiếu trong mỗi sự cố gắng cho nhân dân, cho quốc gia đó.
Là một nước đang phát triển, từ sau khi Đổi mới ( Từ năm 1986 đến nay), Việt Nam ln
cố gắng duy trì tốc độ tăng trưởng ở mức ổn định, chúng ta không ngừng hợp tác, học
hỏi các nước phát triển trên thế giới nhằm mục tiêu xây dựng một xã hội ngày càng hịa
bình, văn minh, từ đó cải thiện đời sống vật chất văn hóa, tinh thần của nhân dân, qua đó
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để
đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, giữ vững tình
hình chính trị, an ninh một cách ổn định, bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ,
từ đó nâng cao vị thế của đất nước trên đấu trường quốc tế.
Suy cho cùng, mọi sự cố gắng tăng trưởng kinh tế của Nhà nước, nhân dân cũng chỉ vì
muốn đem lại một cuộc sống hịa bình, ổn định, muốn đem những gì tốt nhất cống hiến
cho con người và đất nước. Tuy nhiên không phải lúc nào tăng trưởng kinh tế cũng được
đề cao, tôn vinh. Bởi sự tăng trưởng có hiệu quả phải đi kèm với chất lượng và số lượng,
phải mang tính bền vững, tích cực. Bài viết với đề tài “Trình bày thực trạng tăng trưởng
và chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-nay)” nhằm tiếp cận
thực trạng tăng trưởng kinh tế dưới nhiều phương diện, góc độ khác nhau
1
1.1 Tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế
Sau hơn 34 năm Đổi mới từ Đại hội thứ VI, dù đã trải qua nhiều thách thức, tuy nhiên,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, diện mạo đất nước đã có nhiều thay đổi, Việt Nam đã có
những bước phát triển sâu rộng trên nhiều lĩnh vực; đời sống nhân dân được cải thiện,
nền kinh tế hội nhập sâu rộng với thế giới. Nền kinh tế Việt Nam duy trì được tốc độ tăng
trưởng liên tục với tốc độ khá, thậm chí là cao so với khu vực trong suốt một thời gian dài
sau Đổi mới, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên đạt ngưỡng trong thu nhập trung
bình, đời sống nhân dân được cải thiện, từ đó tạo động lực phát triển cho các lĩnh vực,
ngành nghề trong đời sống xã hội.
Để minh chứng một cách rõ ràng nhất cho các thành quả đạt được, ta dựa trên số liệu
về tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam qua các năm. Rõ ràng rằng, so với giai đoạn trước
Đổi mới, từ năm 1976 – 1985 (đạt trung bình khoảng 2%/ năm), nền kinh tế Việt Nam đạt
được tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng, tính bình qn từ năm 1986 – 2020 đạt trung bình
là 6,06%/ năm dù đã phải đối mặt với nhiều thách thức lớn từ tình hình trong và ngồi
nước. Đây là tốc độ tăng trưởng thuộc loại cao so với các nước trong khu vực và các
vùng lãnh thổ trên đất nước. Nhìn chung, sau hơn ba thập kỷ đổi mới và phát triển, với
những thành tựu đạt được, sức bật mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam là một điều không
thể bàn cãi, gây ấn tượng mạnh mẽ với các quốc gia khác trên thế giới.
Nhìn chung, kinh tế Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Giai đoạn 19861990 được xem như là giai đoạn đổi mới, tuy phải chịu sức ép khủng khoảng kéo dài, với
việc chuyển cơ chế kinh tế, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều tín hiệu tích cực, với
tốc độ tăng trưởng trung bình đạt 4.4%/ năm, từ đó tạo ra những nhân tố mới thúc đẩy sự
chuyển biến hiệu quả trong giai đoạn 1991- 1995, mở đầu ra thời kì phát triển mới cho
những năm tiếp theo.
2
Số liệu theo Nguồn Tổng cục thống kê Việt Nam
Thời kì 1991-1995 thể hiện những bước chuyển đầu tiên của nền kinh tế theo cơ chế
thị trường với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 8,18%, nền kinh tế lúc này tăng trưởng
nhanh chóng và nhanh chóng đạt đỉnh điểm vào năm 1995 (9,5%). Năm 1995 cũng đánh
dấu việc Việt Nam – Hoa Kì bình thường hóa quan hệ, đồng thời cũng là năm Việt Nam
chính thức gia nhập ASEAN. Giai đoạn này đánh dấu bước chuyển mình đáng ấn tượng
của kinh tế Việt Nam, từ đó xây dựng dựng những nền móng cơ sở vững chắc cho cơ chế
thị trường vào những giai đoạn tiếp theo.
Giai đoạn 1996- 2000 thể hiện sự đi xuống của tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam
nói riêng, các nước trong khu vực nói chung. Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á (19971999) bắt đầu từ Thái Lan, sau đó lan rộng ra các quốc gia Đơng Á, Đơng Nam Á, thậm
chí gây tác động lớn đến các nước lớn trên thế giới như Brazil, Nga, Hoa Kỳ. Việt Nam
cũng trở thành quốc gia bị ảnh hưởng, nhưng không quá lớn như các nước trên. Tuy vậy,
nền kinh tế cũng có dấu hiệu đi xuống bởi ngoài chịu khủng hoảng kinh tế, đất nước còn
phải gánh chịu liên tiếp các thiên tai nặng nề, do đó, tốc độ tăng trưởng giảm đáng kể
trong giai đoạn này, từ 8,2% ( năm 1996) giảm sâu xuống 4,8%(năm 1999), sau đó do sự
phục hồi kinh tế mà tăng lại 6,8% (năm 2000). Tốc độ tăng trưởng giai đoạn này đạt 7%,
không đảm bảo được kế hoạch 5 năm mà Đại hội đã đề ra. Tuy nhiên, trong giai đoạn này
tốc độ tăng trưởng vẫn đạt được số dương, so với Thái Lan thậm chí đã đạt -10,51% vào
3
năm 1998 (theo Nguồn: IMF (9/2004) Statistical Appendix, World Economic outlook),
điều đó cho thấy nỗ lực của Nhà nước trong việc khắc phục hậu quả
Giai đoạn 2001-2005 đánh dấu sự phục hồi, tăng trưởng trở lại của nền kinh tế nước
nhà. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt bình quân 7,5%/năm, không những cao hơn hẳn so
với tốc độ 7% trong giai đoạn 1996-2000 của Việt Nam mà còn thuộc top các nước có
tăng trưởng cao so với trong khu vực và trên thế giới.
Trung
Quốc
Tốc độ
(%)
8,5
Thái Lan
Malaysia
Indonesia
Singapore
5,0
5,0
4,6
4,1
Hàn
Quốc
5,5
Philippines
4,5
Tốc độ tăng trưởng kinh tế một số nước giai đoạn 2000-2004
(Số liệu lấy từ World Bank và ESCAP)
Giai đoạn 2006-2010 và 2011-2015 đánh dấu giai đoạn khủng hoảng và những ảnh
hưởng của nó sau này. Với những thành tưu đạt được ở giai đoạn trước, 2006 đánh dấu
bước đà thăng tiến của sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam với tốc độ đạt 8,2% và với iệc
gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007, tốc độ tăng trưởng GDP lên tới
xấp xỉ 8,5%.Việt Nam đã được coi một trong những điểm sáng trong bản đồ kinh tế toàn
cầu lúc bấy giờ. Tuy nhiên với những dấu hiệu của lạm phát vào cuối năm 2007, sự ảnh
hưởng của khủng hoảng kinh tế tài chính năm 2008 đã kéo nền kinh tế đất nước đi xuống.
Từ khi khủng hoảng thế giới nổ ra vào năm 2008, Việt Nam ln chìm sâu trong vịng
xốy tăng trưởng chậm khi các thị trường xuất khẩu lớn của đất nước bị ảnh hưởng, tiêu
dùng trong nước giảm, ngay sau đó khủng hoảng chính trị ở Arap (tăng giá dầu vì kì vọng
nền kinh tế thế giới khởi sắc) và nền kinh tế thứ ba thế giới, Nhật Bản, phải chịu thiệt hại
nặng nề từ thiên tai tiếp tục khiến Việt Nam chịu ảnh hưởng, thiệt hại trong kinh tế. Cả
giai đoạn 2008- 2015, tốc độ tăng GDP luôn thấp hơn 7% và ngày càng đi xuống, sau khi
chạm đáy 5,3% vào năm 2009 tiếp tục giảm xuống 5,2% vào năm 2012, chưa bằng hai
phần ba so với mức trước khi khủng hoảng (2007). Năm 2015 đánh dấu mức tăng trưởng
ấn tượng với 6,7% nhưng cũng khơng đủ để kéo mức tăng trưởng trung bình của giai
đoạn này lên cao hơn so với giai đoạn 2006-2010 được. Tổng kết giai đoạn 2011-2015,
tăng trưởng trung bình đạt 5,91%, thấp hơn so với 6,32% của giai đoạn 2006-2010, thậm
4
chí là khơng đạt mức kế hoạch đề ra là 6,5-7% của giai đoạn này. Tăng trưởng giai đoạn
2011- 2015 không đạt được mục tiêu đề ra từ hai yếu tố chính: Tác động tiêu cực, nặng
nề của cuộc khủng hoảng kinh tế, suy thối tài chính tồn cầu, và những cải cách trong
nước chưa mang lại nhiều kết quả đồng thời những yếu kém từ bên trong của nền kinh tế
trở nên trầm trọng hơn.
Theo dự đoán của các chuyên gia kinh tế, nền kinh tế thế giới đang xuất hiện hiện
tượng “bốn thấp” bao gồm: tăng trưởng thấp, thương mại- đầu tư thấp, lãi suất thấp và
lạm phát thấp, điều đó cho thấy, tăng trưởng kinh tế tồn cầu đang chững lại, tiến trình
phục hồi về thương mại, sản xuất, đầu tư đang mất đà. Tuy nhiên trước tình cảnh đó, nền
kinh tế Việt Nam tiếp tục phục hồi từ 6,2% năm 2016 và đạt mốc 7,02% trong năm 2019
cho thấy tiềm năng của tăng trưởng kinh tế đất nước. Kết quả, về tăng trưởng GDP, mặc
dù môi trường kinh tế toàn cầu trở nên thách thức hơn, nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn
đứng vững nhờ sức cầu mạnh trong nước và nền sản xuất định hướng xuất khẩu. Giai
đoạn 2016-2019 đạt tốc độ tăng trưởng trung bình là 6,75%, cao hơn so với giai đoạn
2011-2015 cho thấy mức độ phục hồi tích cực của nền kinh tế Việt Nam.
2020- Năm sóng gió của nền kinh tế toàn cầu với những tổn thất nặng nề từ dịch
COVID-19. Đại dịch COVID-19 xuất hiện vào tháng 12/2019 và nhanh chóng lây lan từ
Vũ Hán (Trung Quốc) sang Việt Nam và các nước lân cận, từ đó lây lan ra tồn cầu, gây
ra thiệt hại khơng chỉ về kinh tế, chính trị mà cịn cướp đi sinh mạng của hàng triệu
người. Song, kinh tế Việt Nam vẫn hiện lên là “ngơi sao sáng” như nhận định của báo chí
quốc tế. Theo nhận định của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, “Năm 2020 có thể được xem
là năm thành cơng nhất trong 5 năm nhiệm kỳ của chúng ta bằng ý chí và tinh thần vượt
khó vươn lên …” (trích từ chương trình Tài chính kinh doanh- VTV1). GDP tăng 2,91%
là năm thấp nhất trong giai đoạn 2001-2020, thậm chí cịn thấp hơn cả đợt chạm đáy năm
1999 (4,8%) nhưng đây vẫn được coi là năm đầy bản lĩnh của Việt Nam bởi trong năm
2020, hầu hết các nước đều có tăng trưởng âm (tăng trưởng GDP toàn cầu -4,8%) như:
Thái Lan (đạt -6,1%), Hoa Kỳ (-3,5%), Campuchia( -3,52%)….(Nguồn số liệu: Theo
World bank và IMF) Như vậy, với tăng trưởng dương, Việt Nam thuộc top các nước có
tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Trong đại dịch này, nền kinh tế Việt Nam tuy có tốc
5
độ tăng trưởng dương nhưng cũng phải hứng chịu nhiều thiệt hại: nhiều doanh nghiệp
phá sản, ngừng hoạt động, nhiều người lao động phải nghỉ việc, thậm chí là thất nghiệp.
Tuy nhiên, với những gói hỗ trợ kịp thời từ nhà nước, nền kinh tế đất nước cũng dần phục
hồi và đạt được những kết quả đáng kinh ngạc trong đợt dịch thảm họa này. Bên cạnh đó,
năm 2020 cũng đánh dấu những dấu mốc mới trong nền kinh tế như: hiệp định EVFTA
có hiệu lực từ ngày 01/8/2020, mức xuất siêu đạt 19,1 tỉ USD cao nhất trong giai đoạn 5
năm bất chấp khó khăn dịch bệnh, quy mơ nền kinh tế nước ta đạt hơn 343 tỷ USD, vượt
Singapore (337,5 tỷ USD) và Malaysia (336,3 tỷ USD), đưa Việt Nam trở thành quốc gia
có nền kinh tế lớn thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á (sau Indonesia 1.088,8 tỷ USD; Thái
Lan 509,2 tỷ USD và Philipines 367,4 tỷ USD).( Số liệu được lấy từ Báo cáo triển vọng
kinh tế thế giới năm 2020 ngày 13/10/2020 của IMF và Báo cáo của Bộ Công thương).
(Nguồn ảnh: VCCI-HCM)
Sang năm 2021, thế giới vẫn đứng trước nhiều thách thức bởi đại dịch COVID-19.
Với những gì đạt được trong năm 2020, Việt Nam được bà Era Dabla Norris, Trưởng
phái đoàn Điều IV Vụ Châu Á – Thái Bình Dương của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự
đoán, kinh tế Việt Nam sẽ hồi phục trong năm 2021 với GDP đạt 6,5%, lạm phát ở mức
4%. Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam trong quý I đạt 4,48% so với cùng kỳ
năm trước, cao hơn tốc độ tăng 3,68% của quý I/2020. Như vậy, dù đứng trước tình hình
6
đại dịch đầy thách thức và khó khăn, Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục quyết liệt thực hiện hiệu
quả mục tiêu kép “vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế”.
1.2. Tốc độ tăng trưởng của các nhóm ngành trong nền kinh tế
1.2.1 Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
Kể từ sau Đổi mới (1986), ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản Việt Nam đã
đạt được những thành tựu to lớn và đóng vai trị quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội
của đất nước. Với việc Việt Nam đi lên từ một đất nước nông nghiệp, khu vực I phát triển
đã đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, tạo việc làm và thu nhập cho 70%
dân cư, là nhân tố quyết định xóa đói giảm nghèo, góp phần phát triển kinh tế đất nước.
Bất chấp những khó khăn về thị trường, thiên tai và dịch bệnh, nơng nghiệp ln duy trì
tăng trưởng ở mức tương đối khá.
Nhóm ngành nơng nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản có vai trị vơ cùng quan trọng đối
với kinh tế Việt Nam. Trong một thời gian dài (Từ năm 1986-2010), nhóm ngành này
đóng góp từ 20 đến gần 40% GDP Việt Nam, dù đã giảm xuống gần 15% vào năm 2020
nhưng đây vẫn là nhóm ngành quan trọng đối với Việt Nam vì lượng lao động hoạt động
trong nhóm ngành này rất nhiều, tính đến 2016 vẫn có hơn 40% lao động hoạt động ở
khu vực này. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, so với các nước trong khu vực, tốc độ
tăng trưởng nhóm ngành này lại có phần khơng ổn định.
Từ việc phải nhập khẩu 450 nghìn tấn lương thực vào năm 1988 và ngay sau đó, năm
1989, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 3 thế giới đã cho thấy một bước
tiến lớn trong công cuộc phát triển ngành nông nghiệp của đất nước. Trong giai đoạn
1991-2008, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản Việt Nam liên tiếp tăng trưởng, đạt
trung bình 4,1%/ năm,đồng thời giá trị sản xuất của cả ngành ln vượt mục tiêu đã đề ra
trong các kì đại hội 1991-1995 và 1996-2000 cho thấy nỗ lực, quyết tâm lớn mạnh của
đất nước ta. Đến giai đoạn 2001-2005, tốc độ tăng trưởng vẫn có phần khá cao, tuy không
bằng giai đoạn trước nhưng vẫn đạt tốc độ trung bình khoảng 3,8%/năm.
7
Nguồn: Tổng cục thống kê
Tuy nhiên, sang giai đoạn 2006-2016 thì tăng trưởng của nhóm ngành này lại khơng
đều, có xu hưởng giảm xuống. Có lúc khu vực này tăng trưởng mạnh mẽ, đạt 4,68% (năm
2008) và 4,0% ( năm 2011) nhưng cũng có lúc tụt dốc, tiêu biểu là chạm đáy 1,82% và
1,26% lần lượt vào các năm 2009 và 2016. Nguyên nhân được đưa ra là do môi trường
thiên tai ( mưa bão, lũ lụt, hạn hán, ngập mặn…) và dịch bệnh ( cúm gia cầm, dịch lợn tai
xanh,...) và một số yếu tố khác như dòng vốn đầu tư khơng ổn định, mơ hình nơng nghiệp
nhỏ lẻ,…. Đặc biệt, trong giai đoạn 2011-2016 thể hiện rõ sự tăng trưởng khơng ổn định
của nhóm ngành này, được biểu hiện ở chỗ đạt mức cao 4,0 ( năm 2011) xuống mức thấp
kỉ lục năm 2016 (1,36%), đây là mức tăng trưởng thấp nhất từ sau Đổi mới đến nay.
Trong năm 2016, do tình hình xâm nhập mặn xảy ra nghiêm trọng ở các tỉnh Đồng bằng
sông Cửu Long, hạn hán gay gắt xảy ra trên diện rộng, ở các tỉnh miền Trung, Tây
Nguyên làm nhiều diện tích gieo trồng không thể sản xuất do thiếu nước, sự cố môi
trường biển ở 4 tỉnh ven biển miền Trung; thị trường tiêu thụ các mặt hàng nông, thủy sản
sụt giảm… khiến cho GDP nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng đầu năm 2016 giảm
0,18%, tuy nhiên với sự cố gắng, nỗ lực của ban ngành, thì đến hết năm GDP của nhóm
ngành này vẫn tăng so với năm trước, tuy nhiên vẫn chạm đáy, không đạt được mục tiêu
kế hoạch đề ra.
Sang giai đoạn 2017-2020, nhóm ngành nơng nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản nước ta
tiếp tục hội nhập sâu hơn, đồng thời cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức
như đại dịch COVID-19 ảnh hưởng sâu rộng đến nền kinh tế -xã hội toàn cầu, dịch tả lợn
8
châu Phi xâm nhiễm và lan rộng trên cả nước, gây thiệt hại chưa từng có đối với ngành
chăn ni; tác động của biến đổi khí hậu dẫn đến các hình thái thời tiết cực đoan xảy ra
bất thường, hạn hán, lũ lụt, cháy rừng, sạt lở, xâm nhập mặn mức độ nghiêm trọng hơn;
tác động từ chiến tranh thương mại giữa các nền kinh tế lớn, làm cho sản xuất, xuất nhập
khẩu nông sản chủ lực luôn đứng trước những rủi ro, nhiều quy định mới về truy xuất
nguồn gốc xuất xứ, tiêu chuẩn an toàn thực phẩm ngày càng cao hơn, do đó tốc độ tăng
trưởng nhóm ngành này chậm hơn, có phần chững lại nhưng lại đạt được nhiều kết quả
khả quan.
Năm 2017, được ghi nhận là 1 năm nhiều thiên tai với 16 cơn bão, 4 áp thấp nhiệt đới
kèm mưa lớn, lũ ống, lũ quét xảy ra trên diện rộng đã gây thiệt hại cho nhóm ngành này
khoảng 60.000 tỉ đồng. Tuy nhiên, nhóm ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản đã
bứt phá đi lên, tăng trưởng đạt 2,94% vượt chỉ tiêu do Chính phủ đề ra(2,84%).
Nối tiếp thành công, năm 2018 được coi là năm tăng trưởng vượt bậc khi đạt 3,76%,
là mức tăng trưởng cao thứ hai trong suốt giai đoạn 2008-2018. Với thành tựu mức xuất
khẩu nông lâm thủy sản đạt kỷ lục với 40 tỷ USD,xây dựng nông thôn mới đã đạt 42,4%
số xã và 61 huyện, vượt chỉ tiêu Chính phủ giao cho ngành trong năm 2018, cùng với tỷ
lệ che phủ rừng đạt 41,65%, là con số rất cao nếu so với mức binh quân thế giới chỉ đạt
29% cho thấy sự nỗ lực của ban ngành và sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính
trị, các thành phần kinh tế và người dân.
Năm 2019, dù phải đối mặt với sự biến đổi khí hậu cùng dịch tả lợn châu Phi, tăng
trưởng nông nghiệp Việt Nam vẫn đạt tín hiệu tích cực khi nhiều chỉ tiêu đạt và vượt kế
hoạch đề ra, theo đó tốc độ tăng GDP toàn ngành đạt khoảng 2,2%; tỷ lệ xã đạt chuẩn
nông thôn mới 54%; kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản ước đạt 41,3 tỷ USD; tỷ lệ
che phủ rừng 41,85%.
Tới năm 2020, dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức cả ở trong nước như
đại dịch COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, tác động đến đời sống, kinh tế, xã hội,
làm đứt gãy các chuỗi cung ứng toàn cầu và gây ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất và hoạt
động xuất, nhập khẩu, tiêu thụ nông sản, cùng sự tiếp tục tác động của dịch tả lợn châu
Phi dù đã giảm mạnh nhưng chưa được khống chế hoàn toàn, cúm gia cầm bùng phát ở
9
một số khu vực và đặc biệt là lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn xảy ra ở cả 3 miền, nhất là
khu vực miền Trung và vùng Đồng bằng sơng Cửu Long, và ở ngồi nước, thị trường tiêu
thụ một số nơng sản có xu hướng giảm và chịu tác động từ chiến tranh thương mại giữa
các nền kinh tế lớn, các nước gia tăng áp dụng những biện pháp bảo hộ, hàng rào kỹ
thuật, nhưng năm 2020 vẫn là một năm thành công của ngành nông nghiệp với nhiều
điểm sáng, tồn diện, do đó tốc độ tăng trưởng GDP của ngành vẫn đạt 2,2%.
1.2.2 Công nghiệp- Xây dựng
Sau hơn 30 năm đổi mới, từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm
nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã
hội từng bước đáp ứng cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra mơi trường
thu hút nguồn lực xã hội cho phát triển, bằng chứng là sự tăng trưởng của ngành công
nghiệp – xây dựng Việt Nam trong những năm gần đây.
Trong suốt giai đoạn từ 1991-2020, tăng trưởng trung bình của cơng nghiệp – xây
dựng nhìn chung đạt mức khá cao, trung bình 9,1%/năm. Từ một nước nơng nghiệp lạc
hậu, đến năm 2019, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những quốc gia có nền
cơng nghiệp thuộc vào nhóm các quốc gia có năng lực cạnh tranh tồn cầu ở mức trung
bình cao. Theo như bảng xếp hạng của UNIDO, năng lực cạnh tranh toàn cầu của ngành
cơng nghiệp đạt vị trí thứ 42 vào năm 2019, đã tiệm cận vị trí thứ 5 trong khu vực (chỉ
thua Philippines 0,0015 điểm) và tiến gần hơn với nhóm 4 nước có năng lực cạnh tranh
mạnh nhất trong khối ASEAN.
Trong thời kỳ 1987-1990, tốc độ tăng giá trị sản xuất bình qn năm đạt 5,65%, trong
đó có năm còn bị giảm (năm 1989 giảm 3,9%),nguyên nhân là do đất nước rơi vào cuộc
10
khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài, ảnh hưởng về vốn và đầu tư do Liên Xô (cũ) và các
nước XHCN Đông Âu đổ vỡ, do bị bao vây cấm vận từ Mĩ… Hơn nữa trong thời gian
này, để khắc phục khủng hoảng, Việt Nam đã đưa ra mục tiêu nông nghiệp là mặt trận
hàng đầu, lương thực là trọng điểm số một nên ngành công nghiệp không được coi là
trọng điểm trong thời điểm này.
Trong suốt giai đoạn dài từ 1991-2007, ngành công nghiệp – xây dựng Việt Nam liên
tục duy trì được mức tăng trưởng cao, đạt mức 10,89%/năm, đây là điều chưa từng có
tiền lệ trong nước ta. Giá trị sản xuất toàn ngành trong suốt 16 năm gần như tăng trưởng
liên tục và luôn ở ngưỡng 2 chữ số, nhờ đó mà quy mơ của ngành năm 2007 xấp xỉ gấp 8
lần so với năm 1991, năm bắt đầu của thời kỳ.
Bắt đầu sang giai đoạn 2008-2009, do bị tác động từ khủng hoảng tài chính khu vực
và kinh tế thế giới, dù Nhà nước, các cơ quan liên quan và doanh nghiệp đã có nhiều cố
gắng, nhưng tăng trưởng ngành cơng nghiệp – xây dựng vẫn giảm mạnh, chỉ đạt 5,98%
và giảm xuống 5,53% vào năm 2009, xấp xỉ với tốc độ tăng trưởng GDP của cả nước
trong hai năm này. Và trong suốt từ những năm này cho đến 2013, tăng trưởng ngành
cơng nghiệp – xây dựng có phần chững lại, trung bình chỉ đạt khoản 5,78%, xấp xỉ 1 nửa
so với giai đoạn 1991-2007 nguyên do giống như sự chững lại của tăng trưởng kinh tế
của cả nước trong thời gian này.
Sang giai đoạn 2014-2019, tăng trưởng ngành công nghiệp – xây dựng có sự khả quan
hơn do sự phục hồi kinh tế trong nước và tồn cầu. Điều đó thể hiện việc ngành công
nghiệp và xây dựng dễ bị tác động mạnh bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế, song lại phục
hồi rất nhanh và tăng trưởng cao, liên tục trong giai đoạn phục hồi và tăng trưởng trở lại
của nền kinh tế tồn cầu nói chung. Cho đến năm 2019, ngành công nghiệp – xây dựng
Việt Nam vẫn ở mức tăng ổn định, thậm chí tăng trưởng cũng đạt mức xấp xỉ 9%, một
mức cao ấn tượng từ sau khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 đến nay. Đặc biệt, ngành chế
biến, chế tạo - ngành kinh tế mũi nhọn tiếp tục giữ được đà tăng trưởng cao với 11,29%,
là sự đóng góp quan trọng với tỷ lệ xấp xỉ 33% vào mức tăng chung của GDP năm 2019.
Cùng với đó, 2019 cũng đánh dấu rõ rệt giai đoạn “trưởng thành” về tốc độ tăng trưởng
của ngành xây dựng, tỷ lệ đơ thị hóa đạt 39,2%, xây dựng nhà ở tiếp tục phát triển, nhu
11
cầu nhà ở, bất động sản cũng tăng cao, và khơng có dấu hiệu suy giảm, những vùng đất
mới như Bình Thuận, Ninh Thuận, Phú Yên, Vũng Tàu, Quảng Bình, Quy Nhơn và
Quảng Ninh… đã dần lột xác về cơ sở hạ tầng, trở thành điểm du lịch đầy hứa hẹn. Bên
cạnh đó, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung cũng khiến cho tiềm năng Việt Nam trở
thành trung tâm công nghiệp mới của khu vực Đông Nam Á cao hơn.
Trong tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế năm 2020, dù gặp khó khăn với
COVID-19, khu vực cơng nghiệp và xây dựng đạt tốc độ tăng cao 3,36%, đóng góp 1,62
điểm phần trăm vào mức tăng chung. Ngành cơng nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục đóng
vai trị chủ chốt dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế với mức tăng 5,82%, đóng góp 1,25
điểm phần trăm. Chỉ số sản xuất công nghiệp của một số ngành như sản xuất thuốc, hóa
dược và dược liệu; sản xuất kim loại; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế; sản
xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học… tăng khá với tốc độ tăng
tương ứng là 27,1%; 14,4%; 11,4% và 11,3%, góp phần đưa ngành chế biến, chế tạo tăng
trưởng khả quan trong bối cảnh dịch Covid-19 làm đứt gãy chuỗi cung ứng nguyên liệu
sản xuất đầu vào. Dù dịch Covid-19 đã ảnh hưởng rõ rệt tới nền kinh tế nói chung cũng
như thị trường xây dựng nói riêng, đặc biệt là xây dựng bất động sản du lịch, nghỉ dưỡng,
nhà ở nhưng tỷ lệ đóng góp của ngành xây dựng vào GDP cả nước năm 2020 ở mức cao
bậc nhất 6,19%GDP, chỉ thấp hơn năm 2011 (6,41%GDP) cho thấy nỗ lực của nhà nước
và các doanh nghiệp trong thời điểm khó khăn này.
1.2.3 Dịch vụ
Ngành dịch vụ luôn chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế nước ta. Tuy nhiên, so với
ngành công nghiệp – xây dựng, thì trong suốt giai đoạn 1991-2009 thì ngành dịch vụ ln
có tăng trưởng thấp hơn so với ngành công nghiệp ( trừ hai năm 2008-2009). Sang tới
giai đoạn 2010-2019, tăng trưởng của ngành dịch vụ có phần chững lại hơn, nhưng luôn
tăng ở mức ổn định, khơng có q nhiều biến động như hai nhóm ngành nông, lâm
nghiệp, thủy sản và công nghiệp – xây dựng.
12
Với biểu đồ trên, có thể thấy tăng trưởng của ngành dịch vụ có sự biến động theo chu
kì kinh tế. Giai đoạn 1991-1995, ngành dịch vụ có sự phát triển mạnh mẽ với tăng trưởng
bình quân 8,7%/ năm và giảm dần xuống tăng bình quân 5,7%/ năm trong giai đoạn
1996-2000. Trong đó chạm đáy vào năm 1999 với tốc độ tăng trưởng là 2,25% - con số
thấp nhấp từ trước đến nay (hơn cả năm 2020). Nguyên nhân là do tình hình khủng hoảng
tài chính – tiền tệ tại châu Á diễn ra vào thời điểm này đã ảnh hưởng đến một số lĩnh vực
thuộc dịch vụ tiêu dùng như: thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng… Tuy nhiên trong suốt
giai đoạn từ 1986-2000, ngành dịch vụ công cộng vẫn để lại những thành tựu ấn tượng:
Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế và các lĩnh vực xã hội khác được củng cố và tăng
cường. Tại thời điểm 01/4/1999, cả nước có 90% số trẻ em 14 tuổi tốt nghiệp tiểu học;
94% dân số trong độ tuổi 15-35 biết chữ. Sau 10 năm nỗ lực phấn đấu, đến giữa năm
2000, cả nước hồn thành chương trình mục tiêu chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu
học. Chính sách cải cách tiền lương trong thời kỳ này đã thúc đẩy phát triển sản xuất làm
cho đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Đến giai đoạn 2001-2005, ngành dịch vụ dần phục hồi theo sự phục hồi của kinh tế,
tốc độ tăng trưởng tuy khơng cao như thời kì 1991-1995 nhưng vẫn duy trì được sự ổn
định.
Sang giai đoạn tiếp theo, khu vực dịch vụ tăng 7,73%/năm thời kỳ 2006-2010, trong
đó giai đoạn 2006-2007 tăng 8,57%; giai đoạn 2008-2010 tăng 7,17%. Trong suốt những
năm này, đóng góp của ngành dịch vụ vào tăng trưởng ngày càng tăng; Nhà nước đã tập
trung phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, có hàm lượng khoa học, cơng
13
nghệ cao như công nghệ thông tin, truyền thông, logistics, hàng khơng, tài chính, ngân
hàng, du lịch, thương mại điện tử... Mạng lưới thương mại và dịch vụ phát triển mạnh
trên phạm vi cả nước, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời,
ngành du lịch tiếp tục được cơ cấu lại theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ, tập trung
đầu tư cơ sở vật chất và phát triển đa dạng các sản phẩm, nhất là tại các vùng du lịch
trọng điểm. Do nhu cầu, mà tại các tỉnh, thành phố có cơng nghiệp phát triển thì ngành
dịch vụ cũng phát triển như: Hà Nội, Hồ Chí Minh, Bình Dương, Cần Thơ….
Từ năm 2010-2017, ngành dịch vụ ln duy trì được tốc độ ổn, và có những bước tiến
rõ rệt, đặc biệt là ngành dịch vụ du lịch và dịch vụ bán lẻ. Trong giai đoạn 2010-2015,
khách quốc tế đến duy trì đà tăng trưởng trung bình hàng năm cao hơn so với giai đoạn
2006 - 2010 (9,48% so với 8,95%). Năm 2015, ngành Du lịch đã đón trên 7,94 triệu lượt
khách quốc tế, tăng 1,57 lần so với năm 2010 là 5,05 triệu; khách du lịch nội địa đạt 57
triệu lượt, tăng hơn 2 lần so với 28 triệu lượt của năm 2010; tổng thu từ khách du lịch đạt
338.000 tỷ đồng, tăng hơn 3,5 lần so với 96.000 tỷ đồng của năm 2010.
Sang năm 2020, trước đại dịch COVID-19, ngành dịch vụ Việt Nam chịu ảnh hưởng
nặng nề, tăng trưởng giảm sâu xuống 2,34% do sự ảnh hưởng từ việc cách ly xã hội đến
ngành dịch vụ du lịch và ăn uống, đồng thời ngành vận tại, kho bãi cũng xuống tăng
trưởng -1,88%, ngoài ra dịch vụ bán lẻ trong 6 tháng đầu năm 2020 giảm nhưng do nỗ
lực mà đã tăng trở lại trong những tháng cuối năm, nhưng vẫn ảnh hưởng ít nhiều đến
ngành dịch vụ. Dù vậy, năm 2020 chứng kiến thành tựu nổi bật của ngành dịch vụ công
cộng trong các lĩnh vực giáo dục, y tế,.. khi nhanh chóng đưa ra những ứng phó kịp thời
trước diễn biến phức tạp của đại dịch, từ đó, tránh được những thiệt hại lớn cho kinh tế xã hội.
1.3 Tăng trưởng kinh tế nhìn từ yếu tố đầu vào
1.3.1 Đầu tư và tích lũy vốn
Vốn đầu tư ln vai trị quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế khơng chỉ ở Việt
Nam mà ở toàn bộ các nước trên thế giới. Từ năm 1991 đến nay, vốn đầu tư ở Việt Nam
luôn gia tăng cả về chất và lượng.
14
Nếu trong suốt giai đoạn từ 1986-1995, đóng góp của vốn đầu tư nhỏ hơn rất nhiều so
với TFP thì từ năm 2000 cho đến nay, đóng góp của vốn trong chiếm tỉ lệ rất lớn trong cơ
cấu GDP. Từ năm 2000, vốn đầu tư ln chiếm ít nhất 1/3 đóng góp vào GDP, đặc biệt
trong giai đoạn 2004-2010, lượng vốn đầu tư luôn chiếm trên 40%. Điều này cho thấy sự
quan trọng của vốn đầu tư trong phát triển kinh tế đất nước. Trong suốt những năm 20132019, tổng vốn đầu tư luôn chiếm từ 32-34% GDP, đến năm 2019, tổng vốn đầu tư phát
triển toàn xã hội tiếp tục xu hướng tăng trưởng tích cực; trong đó, lượng đầu tư tăng
10,2%, nâng tổng mức đầu tư lên mức 33,9% GDP so với 32,6% trong năm 2015.
Về cơ cấu nguồn vốn, vốn từ Ngân sách Nhà nước tiếp tục là động lực của tăng
trưởng kinh tế, chiếm tỉ trọng cao nhưng lại có xu hướng giảm dần theo thời gian ( từ hơn
50% vào giai đoạn 1986-1990 giảm xuống còn 33,7% năm 2020). Xu hướng giảm này là
phù hợp với quá trình thực hiện chủ trương cấu trúc lại nền kinh tế và hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường.
Đầu tư khu vực nhà nước giảm về tỉ trọng trong thời gian qua được bù đắp còn nhiều
hơn bởi đầu tư của khu vực tư nhân nhờ chính sách ưu đãi, hỗ trợ tạo điều kiện cho doanh
nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, đưa tốc độ tăng trưởng và tỉ trọng vốn đầu tư
của khu vực này lần lượt lên mức 17,3% và 46% vào năm 2019 so với mức 13% và
38,7% năm 2015, từ đó đưa đầu tư khu vực tư nhân trở thành khu vực có cơ cấu đầu tư
lớn nhất. Điều này cho thấy, kinh tế ngoài nhà nước ngày càng phát triển và có vai trị
quan trọng trong nền kinh tế nhiều thành phần, đã phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp
của các thành phần kinh tế cho sự phát triển chung của đất nước.
15
Đầu tư khu vực FDI chiếm tỉ lệ ít nhất trong cơ cấu vốn đầu tư xã hội nhưng lại có vai
trị quan trọng nhất trong tăng trưởng kinh tế nước nhà, mở ra cơ hội làm việc, gia tăng
thu nhập cho người lao động, từ đó tạo động lực phát triển các khu vực kinh tế khác của
Việt Nam. Đặc biệt, vai trò của nguồn vốn FDI lại càng trở nên đặc biệt khi số lượng và
chất lượng của nguồn vốn này ngày càng gia tăng sau khi Việt Nam gia nhập WTO
( 2007), ngay lập tức, lượng vốn đổ vào Việt Nam gia tăng chóng mặt vào năm 2008.
Do Việt Nam đã quyết liệt thực hiện các cơ chế, chính sách mở cửa thu hút FDI trong
hơn 34 năm vừa qua cùng với môi trường kinh tế tăng trưởng nổi bật, với tốc độ tăng
bình quân hàng năm đạt 6%-7% với mơi trường chính trị ổn định cũng là điều kiện thuận
lợi đã thu hút thành công các doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam. Điều đó thể hiện
qua việc tổng số dự án FDI đăng ký mới, bổ sung thêm vốn và các lượt góp vốn tăng
nhanh qua các năm, cả về số lượng lẫn giá trị, hiện nay FDI đã có mặt khắp 63 tỉnh, thành
phố.
Sự lan tỏa tác động mạnh mẽ của dòng vốn FDI vào Việt Nam vừa đem lại cơ hội phát
triển kinh tế vừa là sự thách thức đối với cơ cấu kinh tế, với tình hình phát triển hiện tại
của nước nhà. Hiện nay, nhiều dự án FDI là ngành sản xuất thơ, tính gia cơng cao, mức
độ xả thải lớn, giá trị gia tăng thấp, thiếu những ngành công nghiệp mang tính nền tảng
như: cơng nghiệp hỗ trợ, cơng nghệ cao. Năng lực phịng ngừa, kiểm sốt, bảo vệ mơi
trường của một số doanh nghiệp FDI cịn nhiều bất cập… Nguyên nhân chủ yếu là do cơ
sở hạ tầng, trang thiết bị cùng công nghệ ở Việt Nam chưa thể đáp ứng được. Do đó, dù
16
lượng vốn FDI ở Việt Nam rất nhiều nhưng tính về chất lượng vẫn thua kém rất nhiều so
với các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Indonesia,… dù các nước đó ln
có sự bất ổn về chính trị.Đồng thời, sự lan tỏa của dòng vốn FDI đến các ngành nghề
kinh tế chưa tương xứng với kỳ vọng, FDI chưa thể làm thay đổi nhiều công nghệ của
ngành công nghiệp – xây dựng, cũng như ngành du lịch. Bên cạnh đó, mức độ nội địa hóa
ở Việt Nam cịn thấp khi tỷ lệ nhập khẩu đầu vào so với giá trị sản phẩm phần lớn trên
ngưỡng 50%…
Ngoài ra, khoản vay ODA cũng chiếm thị phần lớn trong các nguồn đầu tư, khoản vay
vốn các nước khác tại Việt Nam. Ở Việt Nam, ODA tồn tại dưới ba hình thức: gồm nguồn
vốn ODA viện trợ khơng hồn lại, nguồn vốn ODA vay ưu đãivà nguồn vốn ODA hỗn
hợp .Trong những năm qua, ODA cho Việt Nam không ngừng tăng lên cả về số vốn cam
kết cũng như vốn giải ngân. Tuy nhiên, theo thời gian, hình thức này ngày càng không
phổ biến so với FDI.
Trải qua gần 35 năm Đổi mới, dòng vốn ODA ở Việt Nam tăng từ khoảng hơn 6 tỉ lên
hơn 22 tỉ cho thấy uy tín và địa vị của Việt Nam trên thế giới ngày càng sâu sắc. Với hơn
86 tỉ USD mà các nước, các doanh nghiệp đã dành cho Việt Nam trong suốt 35 năm qua
đã mang đến cho Việt Nam nguồn vốn quan trọng nhằm xây dựng và phát triển đất nước;
xóa đói giảm nghèo, xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo phát triển nguồn nhân lực...
Tuy nhiên, tình hình giải ngân ODA ở nước ta vẫn diễn ra chậm, đồng thời lượng vốn
ODA cũng giảm dần do sự phát triển về kinh tế xã hội, các nước thay vì viện trợ đã
chuyển sang quan hệ đối tác. Đây là điều vui cũng là thách thức cho nước ta.
Đứng trước những thách thức đó, Việt Nam cần phải có những biện pháp cụ thể để có
thể sử dụng tối đa hóa lợi ích từ nguồn vốn đầu tư nước ngồi, đặc biệt là sau khi kí hiệp
ước EVFTA, đây được coi là cánh cửa mới, mở ra thêm cơ hội cho thu hút đầu tư và phát
triển.
1.3.2 Yếu tố lao động
Với dân số đạt 97,58 triệu và lực lượng lao động đạt khoảng 54,6 triệu người vào năm
2020, thị trường lao động Việt Nam có nhiều lợi thế so với các nước trong khu vực và
trên thế giới.
17
Lực lượng lao động Việt Nam khá dồi dào, năng động, lao động trẻ chiếm tỷ lệ cao
cho thấy sức hút mãnh liệt từ đất nước này. Nếu khơng tính ảnh hưởng tiêu cực từ đại
dịch COVID-19 lên thị trường lao động Việt Nam, thì lực lượng lao động ở nước ta có
chiều hướng gia tăng trong giai đoạn 2015-2019 từ 53,98 lên 55,8 triệu người, trong đó tỉ
lệ người có việc làm đạt 97,84%. Ngồi ra, tỉ lệ lao động trẻ trong năm 2019 khá cao, từ
15 đến 24 tuổi đạt 12,8%, từ 25 đến 49 tuổi đạt 61,5%. Dễ hiểu vì sao thị trường lao động
Việt Nam lại có sức hút lớn đối với các cơng ty nước ngồi.
Khơng chỉ gia tăng về số lượng, chất lượng nguồn nhân lực tại nước ta ngày càng
được cải thiện về trình độ học vấn, về dân trí và trình độ chun mơn kĩ thuật.
Trải qua 10 năm ( 2009-2019), trình độ học vấn của lao động đã được nâng cao; phân
bố theo trình độ học vấn cao nhất đạt được tăng mạnh ở các nhóm trình độ cao và giảm
mạnh ở các nhóm trình độ thấp.
Bên cạnh đó, trình độ chuyên môn của người lao động cũng được cải thiện đáng kể.
Tại năm 2019, tồn quốc có 80,8% dân số từ 15 tuổi trở lên khơng có trình độ chun
mơn. Một nửa trong số 19,2% người có chun mơn là người có trình độ từ đại học trở
lên (chiếm 9,3%). Tỷ lệ dân số được đào tạo chuyên môn kĩ thuật đã tăng lên đáng kể so
với năm 2009, tăng 5,9 điểm phần trăm (năm 2009: 13,3%). Tỷ lệ dân số có trình độ đại
học trở lên tăng mạnh nhất, gấp hơn hai lần so với năm 2009 (năm 2009: 4,4%). Điều này
cho thấy 10 năm qua, giáo dục đại học và trên đại học của Việt Nam đã có những bước
chuyển mình, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của đất nước.
18
Tuy nhiên, yếu tố lao động ở nước ta vẫn cịn nhiều hạn chế:
Nguồn lực lao động phân bố khơng đồng đều các vùng, giữa thành thị và nông
thôn,đồng thời chất lượng lao động ở các vùng cũng khơng có sự tương đương nhau
Tỷ lệ thất nghiệp của khu vực nông thôn thấp hơn gần hai lần so với khu vực thành thị
(tương ứng là 1,64% và 2,93%). Hầu hết người thất nghiệp có độ tuổi từ 15-54 (chiếm
91,7% người thất nghiệp). Lao động trẻ từ 15-24 tuổi là những người thất nghiệp nhiều
nhất, chiếm gần một nửa tổng số lao động thất nghiệp cả nước (44,4%).
Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên được đào tạo ở khu vực thành thị cao hơn khu vực nông
thôn: Đào tạo trình độ cao đẳng và dưới cao đẳng ở khu vực thành thị cao hơn gần hai lần
khu vực nông thơn; đào tạo trình độ đại học và trên đại học ở thành thị cao hơn gần bốn
lần so với khu vực nơng thơn.
Phân cơng lao động có trình độ chun mơn cịn bất hợp lý. Hầu hết các lao động có
chun mơn kỹ thuật tập trung phần lớn tại những đô thị, đặc biệt là những đô thị lớn là
Hà Nội và Tp.Hồ Chí Minh. Dẫn đến tình trạng thiếu thầy, thừa thợ, thiếu nhân công, kĩ
sư,….Điều này gây ra sức ép việc làm lên các ngành nghề, vừa làm gia tăng áp lực các
vấn đề xã hội lên các đơ thị như: thất nghiệp, nhà ở…. Chính những sức ép này đã làm
xuất hiện các tình trạng lao động trẻ có chun mơn, được đào tạo nhưng khơng được
tuyển dụng hoặc phải làm trái ngành, trái nghề, do khơng có nhiều kinh nghiệm, hoặc lao
động đã được đào tạo nhưng khơng cịn được trọng dụng
Tình trạng lao động giản đơn cũng là một vấn đề cần xem xét. Nhóm lao động giản
đơn chủ yếu là ở các khu vực nông thôn, hoặc làm trong các khu công nghiệp. Trong
19
năm 2019, nhóm nghề lao động giản đơn thu hút nhiều nhân lực nhất trong nền kinh tế
với tỷ lệ 33,2%, trong đó các nhóm “dịch vụ cá nhân, bảo vệ và bán hàng”, “thợ thủ công
và các thợ khác có liên quan” và “thợ lắp ráp và vận hành máy móc thiết bị” cũng là
những nhóm nghề thu hút nhiều lực lượng lao động, tương ứng là 18,3%, 14,5% và
13,2% tổng số lao động đang làm việc .Trong thời kì cơng nghệ 4.0 như hiện nay, nhóm
lao động giản trở thành nhóm người dễ bị thất nghiệp, do đó, họ cần được thêm cơ hội để
đào tạo chuyên sâu hơn.
1.3.3 Đóng góp của TFP đối với tăng trưởng kinh tế
Dù là chỉ tiêu thể hiện chất lượng tăng trưởng nhưng đóng góp TFP vào tăng trưởng
kinh tế Việt Nam lại khơng ổn định, có lúc khá cao và cao hơn nhiều so với 2 yếu tố cịn
lại, nhưng có lúc lại tăng trưởng âm.
Trong suốt giai đoạn 1991-1995, tăng trưởng TFP chính là yếu tố quyết định tới tăng
trưởng kinh tế, sự gia tăng của TFP đóng góp từ 32-70% sự tăng trưởng kinh tế, trung
bình trong suốt giai đoạn này, tỉ lệ đóng góp của TFP đạt 61,88%, chiếm gần 2/3 đóng
góp vào tăng trưởng kinh tế.
Sang giai đoạn 1996-2008, đóng góp của TFP bị lép vế hơn so với yếu tố vốn, trong
giai đoạn này, tăng trưởng GDP dựa vào yếu tố vốn là chủ yếu. Nếu như trong giai đoạn
1996-2000 và 2001-2005 đóng góp của TFP vào tăng trưởng đạt lần lượt 34,5% và
30,2%, tuy chỉ bằng một nửa so với giai đoạn trước nhưng vẫn cịn ở mức tương đối, thì
sang 2006-2010, thậm chí đóng góp của TFP cịn ở mức suy giảm ( -5,73%) cho thấy tầm
quan trọng của TFP đối với kinh tế giảm sâu trong thời điểm này, và chạm đáy vào năm
2008 (-19,41%) trong khi đó yếu tố vốn lại tăng trưởng mạnh mẽ trong năm này, thậm chí
đạt 107,92%.
Tuy nhiên, trong 10 năm trở lại đây, đóng góp của TFP vào nền kinh tế có dấu hiệu
tăng trở lại khi tỉ trọng đóng góp ngày càng lớn. Bắt đầu từ năm 2010, đóng góp của tăng
trưởng TFP vào tăng trưởng kinh tế đã dẫn tăng trở lại, từ -14,82% (2009) lên 7,74%
( 2010) và sau đó tăng đến 47,3% vào năm 2015. Tỷ trọng đóng góp của tăng TFP vào
tăng trưởng kinh tế đang dần tăng lên cho thấy yếu tố vốn và lao động đang được sử dụng
hiệu quả hơn. Đây là sự chuyển biến tích cực của nền kinh tế theo hướng tập trung vào
20
chất lượng tăng trưởng: như nâng cao chất lượng lao động, chất lượng vốn, áp dụng các
tiến bộ kỹ thuật, công nghệ và tập trung nguồn lực vào các lĩnh vực có hiệu quả kinh tế
cao hơn.
Trong giai đoạn 2016-2020, với mục tiêu đặt ra là ở mức từ 30-35% nhưng trên thực
tế, tỉ lệ này đã cao hơn rất nhiều, đạt 45,21%, dù cho mức này đã bị ảnh hưởng rất nhiều
bởi COVID19 – năm 2020 chỉ đạt 37,48%. Đây được coi là chuyển biến rất tích cực cho
tăng trưởng kinh tế ở nước ta. Tuy nhiên khi so sánh với một số nước trong khu vực khi
các nước ở trong khu vực cơ bản đã ở mức trên 50%, ví dụ Hàn Quốc là 51,5%, Trung
Quốc 52%, Thái Lan 53%,… cho thấy Việt Nam vẫn cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa.
Trong giai đoạn tiếp theo, giai đoạn 2021 đến 2025 chỉ tiêu Đảng và Nhà nước đặt ra
là khoảng 45% cho thấy niềm tin vào sự đóng góp của TFP vào tăng trưởng nước ta. Với
những nỗ lực từ Nhà nước và nhân dân, tin rằng TFP nước ta sẽ có nhiều tín hiệu tích cực
hơn.
1.4. Tăng trưởng kinh tế nhìn từ yếu tố đầu ra
1.4.1. Chi tiêu chính phủ
Trong giai đoạn 1986 – 1990, chi ngân sách nhà nước: hướng vào thực hiện ba
chương trình kinh tế lớn và đổi mới kinh tế theo hướng thị trường. Trong đó, chi thực
hiện ba chương trình kinh tế lớn chia ra một nửa cho chương trình lương thực, thực phẩm
và một nửa cho chương trình hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Về chi cho đổi mới kinh
tế dùng để giảm dần các khoản bao cấp về vốn cho các xí nghiệp quốc doanh và xóa bỏ
bao cấp qua giá hàng tiêu dùng do Nhà nước phân phối. Về cơ cấu chi trong giai đoạn
này, chi cho xây dựng cơ bản chiếm tỷ trọng 23,3% tổng số chi ngân sách nhà nước (60%
tập trung chi cho ba chương trình kinh tế lớn, 40% cho các cơng trình giao thơng vận tải,
y tế, văn hố, giáo dục), chi tiêu dùng chiếm 76,7% tổng số chi ngân sách nhà nước (chi
quản lý hành chính chiếm 9,3%; chi sự nghiệp kinh tế xã hội chiếm 35,2%; chi quốc
phòng, an ninh, chi viện trợ, trả nợ chiếm 45,1%; chi bù giá chiếm 10,4%).
Tổng chi cho ngân sách Nhà nước giai đoạn 1991-2000 tăng hơn 9 lần so với giai
đoạn trước. Quy mô chi ngân sách nhà nước so với GDP tăng mạnh trong hai năm đầu
(năm 1991 bằng 15,9% GDP, năm 1993 tăng vọt lên đến 30,1% GDP). Từ năm 1994 trở
21
đi quy mô chi tiêu ngân sách nhà nước giảm xuống và đạt mức 23,7% GDP năm 2000.
Trong đó, chi cho đầu tư chiếm bình quân khoảng 25% tổng chi ngân sách nhà nước, chi
thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn nhất, khoảng 63,5% tổng chi ngân sách nhà nước và
dùng để trả nợ chiếm hơn 11% trong tổng chi ngân sách nhà nước.
Chi cho ngân sách Nhà nước có xu hướng tăng theo thời gian trong suốt giai đoạn
2001-2012, trong đó : mức chi đạt 26,96% GDP (2001), 2007 là 34,92% GDP, 2009-2010
trên 35%, 2012 khoảng 30%. Bình quân tốc độ tăng chi trong suốt 12 năm (2001-2012) là
19,08%. Cơ cấu chi trong giai đoạn này cũng thay đổi, trong đó chi cho đầu tư phát triển
tăng từ 26,3% giai đoạn 1996-2000 lên 30% giai đoạn 2001-2006, cho thường xuyên
giảm từ 60,7% xuống 51,8% trong các giai đoạn tương ứng,cuối cùng cho trả nợ, viện trợ
giai đoạn 2001-2006 bình quân chiếm 14,1% trong tổng chi ngân sách nhà nước. Trước
sự khủng hoảng kinh tế 2008 – 2009, chi tiêu của Chính phủ chủ yếu hướng vào chương
trình kích cầu, khuyến khích đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu. Trong đó, gói kích cầu tốn
khoảng 145,6 nghìn tỷ đồng (8 tỷ USD) với 17 nghìn tỷ đồng (1 tỷ USD) trong gói này
để hỗ trợ 4% lãi suất cho vay của các ngân hàng, chi cho đầu tư phát triển của Nhà nước
khoảng 90,8 nghìn tỷ đồng (5,3 tỷ USD), bên cạnh đó cịn có các khoản chi khác nhằm
ngăn chặn suy giảm kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội.
Giai đoạn 2012-2015: các khoản chi được điều hành chặt chẽ, thực hiện phân bổ có
hiệu quả các nguồn lực, tiếp tục giúp kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm chi
tiêu; đồng thời đã thực hiện có kết quả q trình tái cơ cấu đầu tư cơng theo định hướng
đề ra. Mức chi trong giai đoạn này đạt mức bình quân 27,78% GDP, cơ cấu chi ngân sách
chuyển dịch theo hướng tăng chi cho con người, tỷ trọng chi đầu tư đã giảm từ 21,6%
năm 2010 xuống còn 16,2% năm 2014 và năm 2015 là 17,1%, chi thường xuyên cũng ở
mức trung bình, đạt khoảng 64,8%, tăng gần 10% so với các giai đoạn trước. Trong đó,
Chính phủ đã chủ động ưu tiên đầu tư thựchiện cải cách tiền lương, chính sách an sinh xã
hội và xóa đói giảm nghèo, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào ở các xã đặc
biệt khó khăn miền núi vùng sâu, vùng xa...
Giai đoạn 2016 – 2019 cho thấy quy mô và cơ cấu chi ngân sách có bước chuyển dịch
tích cực: ln chiếm khoảng từ 25 – 30% GDP, trong đó tỷ trọng chi đầu tư phát triển
22