Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Phân tích thực trạng kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.56 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA TẠI CHỨC
MÔN HỌC: LỊCH SỬ KINH TẾ
ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG KINH TẾ VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ
1986 ĐẾN NAY
TP.Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2007
I. LỜI MỞ ĐẦU
Từ sau công cuộc đổi mới tháng 12 năm 1986 cho đến nay nước ta đã
đạt được những thành tựu nhất định. Trải qua các kỳ đại hội, Đảng ta đã tổng
kết, đánh giá và đề ra những mục tiêu chiến lược cho từng thời kỳ, từng giai
đoạn. Nó vừa phản ánh thực trạng của nền kinh tế trong nước đồng thời phù
hợp với xu hướng chung của nền kinh tế thế giới thông qua việc nắm bắt kịp
thời những thnh tựu mới nhất kịp thời nhất của nền kinh tế thế giới. Với đường
lối chiến lược đó, trong thời gian qua nền kinh tế nước ta đã có những chuyển
biến với những mốc son chói lọi.
1. Tốc độ tăng trưởng từ năm 1986 đến 2011
Việt Nam chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nền kinh tế từ
năm 1986. Kể từ đó, Việt Nam đã có nhiều thay đổi to lớn, trước hết là sự đổi
mới về tư duy kinh tế, chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
bao cấp, sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đa dạng hóa và đa phương hóa các quan
hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện mở cửa, hội nhập quốc tế. Con đường đổi mới
đó đã giúp Việt Nam giảm nhanh được tình trạng nghèo đói, bước đầu xây
dựng nền kinh tế công nghiệp hóa, đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi
đôi với sự công bằng tương đối trong xã hội.
Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 là văn bản luật đầu tiên góp phần tạo
ra khung pháp lý cho việc hình thành nền kinh tế thị trường tại Việt Nam.
Năm 1991 Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty ra đời. Hiến pháp sửa
đổi năm 1992 đã khẳng định đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường và khu vực đầu


tư nước ngoài. Tiếp theo đó là hàng loạt các đạo luật quan trọng của nền kinh
tế thị trường đã được hình thành tại Việt Nam như Luật đất đai, Luật thuế,
Luật phá sản, Luật môi trường, Luật lao động và hàng trăm các văn bản pháp
lệnh, nghị định của chính phủ đã được ban hành nhằm cụ thể hóa việc thực
2
hiện luật phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Cùng với việc xây dựng luật, các thể chế thị trường ở Việt Nam cũng
từng bước được hình thành. Chính phủ đã chủ trương xóa bỏ cơ chế tập
trung, bao cấp, nhấn mạnh quan hệ hàng hóa - tiền tệ, tập trung vào các biện
pháp quản lý kinh tế, thành lập hàng loạt các tổ chức tài chính, ngân hàng,
hình thành các thị trường cơ bản như thị trường tiền tệ, thị trường lao động,
thị trường hàng hóa, thị trường đất đai… Cải cách hành chính được thúc đẩy
nhằm nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế, tạo môi trường thuận lợi và
đầy đủ hơn cho hoạt động kinh doanh, phát huy mọi nguồn lực cho tăng
trưởng kinh tế. Chiến lược cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010 là một
quyết tâm của Chính phủ Việt Nam, trong đó nhấn mạnh việc sửa đổi các thủ
tục hành chính, luật pháp, cơ chế quản lý kinh tế… để tạo ra một thể chế
năng động, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.
Nhìn chung, những cải cách kinh tế mạnh mẽ trong gần hai thập kỷ đổi
mới vừa qua đã mang lại cho Việt Nam những thành quả bước đầu rất đáng
phấn khởi. Việt Nam đã tạo ra được một môi trường kinh tế thị trường có tính
cạnh tranh và năng động hơn bao giờ hết. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần được khuyến khích phát triển, tạo nên tính hiệu quả trong việc huy động
các nguồn lực xã hội phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Các quan hệ kinh tế đối
ngoại đã trở nên thông thoáng hơn, thu hút được ngày càng nhiều các nguồn
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng thị trường cho hàng hóa xuất khẩu
và phát triển thêm một số lĩnh vực hoạt động tạo ra nguồn thu ngoại tệ ngày
càng lớn như du lịch, xuất khẩu lao động, tiếp nhận kiều hối...
2. Tốc độ tăng trưởng chung của các nhóm ngành
3

Biểu đồ tăng trưởng kinh tế 1986 - 2005
Cùng với tốc độ tăng cao của GDP, cơ cấu kinh tế trong nước đã có sự
thay đổi đáng kể. Từ năm 1990 đến 2005, tỷ trọng của khu vực nông nghiệp
đã giảm từ 38,7% xuống 20,89% GDP, nhường chỗ cho sự tăng lên về tỷ
trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng từ 22,7% lên 41,03%, còn khu
vực dịch vụ được duy trì ở mức gần như không thay đổi: 38,6% năm 1990 và
38,10% năm 2005. Trong từng nhóm ngành, cơ cấu cũng có sự thay đổi tích
cực. Trong khu vực nông nghiệp, tỷ trọng của ngành nông và lâm nghiệp đã
giảm từ 84,4% năm 1990 xuống 77,7% năm 2003, phần còn lại là tỷ trọng
ngày càng tăng của ngành thủy sản. Trong cơ cấu công nghiệp, tỷ trọng của
ngành công nghiệp chế biến tăng từ 12,3% năm 1990 lên 20,8% năm 2003,
chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao. Cơ cấu của khu vực dịch vụ
thay đổi theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của các ngành dịch vụ có chất lượng
cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch…
Cơ cấu các thành phần kinh tế ngày càng được chuyển dịch theo hướng
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước, trong đó kinh tế tư nhân được phát triển
4
không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà
pháp luật không cấm. Từ những định hướng đó, khung pháp lý ngày càng
được đổi mới, tạo thuận lợi cho việc chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, quan liêu, bao cấp, sang nền kinh tế thị trường, nhằm giải phóng
sức sản xuất, huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả, tạo đà cho tăng
trưởng và phát triển kinh tế.
Khi sửa đổi Luật doanh nghiệp (năm 2000), các doanh nghiệp tư nhân
đã có điều kiện thuận lợi để phát triển. Bộ luật này đã thể chế hóa quyền tự do
kinh doanh của các cá nhân trong tất cả các ngành nghề mà pháp luật không
cấm, dỡ bỏ những rào cản về hành chính đang làm trở ngại đến hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp như cấp giấy phép, thủ tục, các loại phí…
Tính trong giai đoạn 2000-2004, đã có 73.000 doanh nghiệp tư nhân đăng ký

mới, tăng 3,75 lần so với giai đoạn 1991-1999. Cho đến năm 2004, đã có
150.000 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động theo Luật doanh nghiệp, với
tổng số vốn điều lệ là 182.000 tỷ đồng. Từ năm 1991 đến năm 2003, tỷ trọng
của khu vực kinh tế tư nhân trong GDP đã tăng từ 3,1% lên 4,1%, kinh tế
ngoài quốc doanh khác từ 4,4% lên 4,5%, kinh tế cá thể giảm từ 35,9% xuống
31,2%, và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 6,4% lên 14%. Từ
1/7/2006, Luật Doanh nghiệp 2005 (áp dụng chung cho cả doanh nghiệp trong
nước và đầu tư nước ngoài) đã có hiệu lực, hứa hẹn sự lớn mạnh của các
doanh nghiệp bởi sự bình đẳng trong quyền và nghĩa vụ của các doanh
nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu.
Trong khu vực doanh nghiệp nhà nước, những chính sách và biện pháp
điều chỉnh, sắp xếp lại doanh nghiệp, đặc biệt là những biện pháp về quản lý
tài chính của công ty nhà nước, quản lý các nguồn vốn nhà nước đầu tư vào
doanh nghiệp, hay việc chuyển các công ty nhà nước thành công ty cổ phần
theo tinh thần cải cách mạnh mẽ hơn nữa các doanh nghiệp nhà nước, ngày
5
càng được coi trọng nhằm nâng cao tính hiệu quả cho khu vực kinh tế quốc
doanh. Với chính sách xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, tỷ
trọng của khu vực kinh tế nhà nước có xu hướng giảm đi, từ 40,1% GDP năm
1991 xuống còn 38,3% năm 2003, kinh tế tập thể giảm từ 10,2% xuống 7,9%
trong thời gian tương ứng. Trong các năm 2002-2003, có 1.655 doanh nghiệp
nhà nước được đưa vào chương trình sắp xếp và đổi mới, năm 2004 là 882
doanh nghiệp và năm 2005 dự kiến sẽ là 413 doanh nghiệp.
Việt Nam đã sử dụng một cách hiệu quả các thành tựu kinh tế vào mục
tiêu phát triển xã hội như phân chia một cách tương đối đồng đều các lợi ích
của đổi mới cho đại đa số dân chúng; gắn kết tăng trưởng kinh tế với nâng
cao chất lượng cuộc sống, phát triển y tế, giáo dục; nâng chỉ số phát triển con
người (HDI) của Việt Nam từ vị trí thứ 120/174 nước năm 1994, lên vị trí thứ
108/177 nước trên thế giới năm 2005; tăng tuổi thọ trung bình của người dân
từ 50 tuổi trong những năm 1960 lên 72 tuổi năm 2005, giảm tỷ lệ số hộ đói

nghèo từ trên 70% đầu những năm 1980 xuống dưới 7% năm 2005
3. Tăng trưởng kinh tế nhìn từ yếu tố đầu vào
Kể từ khi thực hiện cơ chế kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập, Việt
Nam (VN) đã đạt được những thành tựu lớn lao về kinh tế. Giai đoạn 1991-95
tốc độ TTKT đạt trung bình 8,2%/năm; 1996-2000: 6,7%; 2001-05: 7,5%;
năm 2006: 8,17%; 2007: 8,48%; 2008: 6,23%; dự kiến 2009 là 6,5%. Đây là
những tốc độ tăng thuộc loại cao so với các nước trong khu vực và thế giới
trong cùng khoảng thời gian. Năm 2008, tốc độ TTKT của VN thấp hơn so
với các năm trước, nhưng trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang chịu ảnh
hưởng của khủng hoảng kinh tế-tài chính thì đây lại là mức tăng trưởng cao.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), năm 2009 VN có đủ cơ sở để
đạt tốc độ tăng trưởng 6,5% trong bối cảnh tốc độ chung của thế giới là 0,5%.
Nhờ tốc độ TTKT cao, quy mô GDP của VN tăng lên nhanh chóng, năm 2005
đã gấp 3 lần năm 1990. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 195 USD năm
6

×