Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

4. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ UY TÍN NGƯỜI CÁN BỘ VÀ VẬN DUNG NÂNG CAO UY TÍN NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ GIÁO DỤC HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.53 KB, 19 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ UY TÍN NGƯỜI CÁN BỘ VÀ VẬN
DUNG NÂNG CAO UY TÍN NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
GIÁO DỤC HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, anh hùng
giải phóng dân tộc, danh nhân văn hố thế giới. Trong q trình lãnh đạo cách
mạng, Người rất coi trọng, quan tâm đến việc đào tạo cán bộ, đặc biệt là uy tín
của người cán bộ lãnh đạo quản lý.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người lãnh đạo có uy tín sẽ được nhân dân
u mến, q trọng và hết lịng giúp đỡ, do đó làm việc gì cũng thuận lợi, thành
cơng. Uy tín của người cán bộ còn là lòng tin của quần chúng đối với phẩm chất,
năng lực và các giá trị xã hội của nhân cách người cán bộ đó. Người cán bộ có
uy tín là người nói phải đi đơi với làm, biết giữ lời hứa, nói tốt phải làm tốt. Bởi
vì lời nói, việc làm phản ánh cơ đọng nhất tồn bộ những phẩm chất nhân cách
người cán bộ. Chính những phẩm chất này mới có khả năng thu hút, lơi cuốn
mọi người và mới tạo được lòng tin với quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng, uy tín của người cán bộ khơng phải tự nhiên có được, nó được hình thành
và phát triển phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng trước hết phụ thuộc vào quá
trình tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức, năng lực và khả năng thu phục nhân tâm,
xây dựng lòng tin với quần chúng nhân dân của người cán bộ lãnh đạo.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa hiện nay. Quan tâm đến vấn đề đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý các cấp là một nhiệm vụ có vai trị đặc biệt quan trọng để
thực hiện thành công công cuộc đổi mới. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã xác định: “Xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp,… đáp ứng u cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa,

1



hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” 1. Muốn vậy chúng ta cần: “đặc biệt nhấn
mạnh, muốn có được sức mạnh và uy tín thì Đảng phải tự rèn luyện, tự củng cố,
đổi mới, chỉnh đốn, khơng ai có thể làm thay được. Từng tổ chức đảng, mỗi cán
bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành
phải nhận thức sâu sắc, đầy đủ các yêu cầu cấp bách của nhiệm vụ xây dựng,
chỉnh đốn Đảng trong tình hình hiện nay”2.
Thực tiễn hiện nay, tình trạng giảm sút và mất uy tín ở một bộ phận khơng
nhỏ cán bộ lãnh đạo - quản lý, trong đó có cán bộ lãnh đạo - quản lý giáo dục, đã
ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín của tổ chức Đảng, Nhà nước, ngành giáo dục. Việc
củng cố và nâng cao uy tín của cán bộ lãnh đạo - quản lý nói chung, cán bộ lãnh
đạo - quản lý trong giáo dục nói riêng là một yêu cầu quan trọng. Trong giai đoạn
hiện nay, theo đánh giá của Nghị quyết trung ương 4 khóa XI: " Đa số cán bộ,
đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống,
có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng” 3. Tuy nhiên, bên cạnh đó
vẫn cịn “ Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng
viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt
lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỉ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi,
tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vơ ngun tắc..."4.
Vì vậy, để lấy lại lịng tin của nhân dân vào Đảng và chế độ thì vấn đề
chỉnh đốn Đảng và xây dựng uy tín người cán bộ lãnh đạo, quản lý là vấn đề hết
sức quan trọng, cấp thiết hiện nay. Xuất phát từ những lý do trên, trong phạm vi
bài tiểu luận này, tác giả chọn nghiên cứu vấn đề: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về
uy tín người lãnh đạo quản lý - Vận dụng xây dựng uy tín người lãnh đạo
quản lý giáo dục hiện nay".

1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành trung ương khóa XI, Nxb Chính trị
Quốc Gia, Hà Nội 2012, tr26.

2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành trung ương khóa XI, Nxb Chính trị
Quốc Gia, Hà Nội 2012, tr97.
3
Sđd, tr21.
4
Sđd, tr22.

2


NỘI DUNG
1. Tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về uy tín và xây dựng uy tín người
cán bộ lãnh đạo quản lý
* Tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về uy tín người cán bộ lãnh đạo
quản lý
Chủ tịch Hồ Chí minh là người đặc biệt coi trọng, quan tâm đến vấn đề
cán bộ và công tác cán bộ. Bởi theo Người: “Cán bộ là cái dây truyền của bộ
máy. Nếu dây truyền khơng tốt, khơng chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ
máy cũng tê liệt”5. Khơng những thế, Người cịn xem: cán bộ là cái gốc của mọi
việc, “là tiền vốn của Đoàn thể” 6. Có vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách,
cơng tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành cơng, tức là có lãi. Khơng có cán bộ tốt
thì hỏng việc, tức là lỗ vốn. Vì thế, một yêu cầu bắt buộc đối với người cán bộ
lãn đạo quản lý phải là người có đủ đức, đủ tài, có uy tín trước dân. Người cán
bộ có uy tín là người được dân tin, dân phục, dân yêu và dân sẽ giúp đỡ, như vậy
việc gì cũng thành cơng. Do đó: “Đảng viên nào không được dân tin, dân phục,
dân yêu thì chưa xứng đáng là người đảng viên của Đảng lao động Việt Nam” 7.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ có uy tín phải là người có đạo đức
cách mạng. Chính vì thế, chữ Tín theo quan niệm này không phải chỉ là sự
thuyết phục bằng lời nói, việc làm để cho mọi người tin ở mình, mà điều quan

trọng hơn là phải nói cái gì, và làm như thế nào để gây dựng và giữ được niềm
tin, sự tin tưởng đó của quần chúng. Vì, lời nói và việc làm vừa là hình thức biểu
hiện vừa là kết quả và là thước đo phản ánh một cách cơ đọng nhất tồn bộ
những những phẩm chất nhân cách của người lãnh đạo.
* Tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng uy tín người cán bộ
lãnh đạo quản lý
Để có uy tín trước nhân dân, địi hỏi người cán bộ lãnh đạo phải ln có
5

Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 54.
Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 46.
7
Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 190.
6

3


đủ những phẩm chất - năng lực đáp ứng được những u cầu của tình hình thực
tiễn đặt ra. Chính vì vậy, ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể khác nhau của cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc, cơng cuộc xây dựng, bảo vệ tổ quốc, Hồ Chí Minh lại
đề ra những tiêu chí cụ thể để xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ.
Trong thời kỳ chúng ta chưa có chính quyền, đang phải hoạt động bí mật thì vấn
đề đầu tiên, có tính chất sống cịn là vấn đề cán bộ và trong công tác cán bộ Hồ
Chí Minh hết sức quan tâm đến việc xây dựng “tư cách” người cán bộ cách
mạng. Để lãnh đạo được quần chúng, nhất thiết người cán bộ phải có đủ tư cách.
Tư cách người cán bộ cách mạng được xem xét, đánh giá trong các mối quan hệ:
với bản thân mình, với con người và với đồn thể. Ngay khi chuẩn bị cho lớp
cán bộ đầu tiên, Hồ Chí Minh đã đề ra hệ tiêu chuẩn có tính bắt buộc mà người
cán bộ cần phải phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện để trở thành người có tư cách đạo

đức cách mạng, đó là: “Tự mình phải: Cần kiệm. Hịa mà khơng tư. Cả quyết
sửa lỗi mình. Cẩn thận mà khơng nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn lại. Chịu khó. Hay
nghiên cứu, xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, khơng kiêu ngạo. Nói
thì phải làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. ít lịng ham muốn về vật chất. Bí
mật”8. Bởi, lớp cán bộ cách mạng đầu tiên này nếu khơng kiên trì, khơng nhẫn
lại, khơng dám xả thân thì khơng thể lãnh đạo quần chúng làm cách mạng; đối
với người khác, là xem xét cán bộ trong việc ứng xử, giải quyết công việc trong
mối quan hệ với mọi người để lãnh đạo quần chúng thực hiện mục tiêu của cách
mạng. Vì vậy, Hồ Chí Minh u cầu: Với từng người phải khoan thứ. Với đoàn
thể phải nghiêm. Có lịng bày vẽ cho mọi người. Trực mà khơng táo bạo. Hay
xem xét người. Tư cách người cán bộ cịn được thể hiện qua mối quan hệ với
cơng việc, người cán bộ phải có tính chủ động, sáng tạo, tính quyết đốn, tính kỷ
luật và lịng quả cảm. Đây là những địi hỏi khơng thể thiếu đối với người cán bộ
nhằm làm cho họ có sức hút, sức hấp dẫn lơi cuốn quần chúng. Vì, thiếu một
trong những đức tính trên thì khó có thể hồn thành được nhiệm vụ, nhất là lúc
gặp khó khăn và tình hình thay đổi. Việc tuyển chọn cán bộ, theo Hồ Chí Minh,
phải căn cư vào công tác, vào những người hăng hái nhiệt tình, biết hy sinh, biết
8

Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 260.

4


cách làm việc và giải quyết các vấn đề sát với hoàn cảnh, sát với quần chúng,
biết cách cổ động và thuyết phục quần chúng, được quần chúng tín nhiệm để bổ
sung cán bộ cho Đảng, cho phong trào. Ngoài ra, để trở thành người cán bộ lãnh
đạo không chỉ căn cứ vào điều kiện trung thành mà còn phải có sự nhận thức
chính trị đúng đắn và kinh nghiệm cơng tác. Nhất là phải có năng lực phân tích
tình hình một cách đúng đắn, giải quyết vấn đề một cách mau lẹ, gặp khó khăn

nguy cấp khơng hoảng hốt bối rối. Phải có năng lực tổ chức biết sắp đặt công
việc và chọn người phụ trách, phải được quần chúng, đảng viên tín phục, hơn
nữa phải có năng lực sư phạm khéo léo để vận động, thuyết phục, lôi kéo quần
chúng theo mình, ủng hộ mình.
Sau khi chúng ta giành được chính quyền (thời kỳ vừa kháng chiến vừa
kiến quốc), điều kiện mới bắt đầu, người cán bộ cách mạng từ trong điều kiện
hoạt động bí mật, bị khủng bố, bị đặt ra ngồi vịng pháp luật. Họ trở thành cơng
chức, có chức vụ, có quyền lực, làm cơng tác lãnh đạo quản lý trong các cơ quan
của Đảng và Nhà nước ta. Lúc này họ rất dễ thay đổi, biến chất, họ có thể đứng
trên dân, quan liêu, hách dịch, xa dân, thu vén lợi ích cá nhân nếu như họ không
tự tu dưỡng, rèn luyện, không thường xuyên được giáo dục và được tổ chức
kiểm tra, giám sát. Nếu ở thời kỳ trước, đạo đức cao nhất của người cán bộ là
lòng trung thành, dám xả thân cho cách mạng, thì trong thời kỳ có chính quyền,
ngồi những tiêu chí đó, cán bộ cịn phải biết cách làm việc, biết chống lại
những căn bệnh mới như trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, kiêu ngạo, chia rẽ…
Nhận rõ vấn đề này, Hồ Chí Minh đã đặc biệt chú ý đến đến việc xây dựng đội
ngũ cán bộ với tư cách vừa là người lãnh đạo vừa là cơng bộc của dân. Vì thế,
ngay từ ngày đầu khi mới giành được chính quyền, Hồ Chí Minh đã yêu cầu
người cán bộ cách mạng phải làm việc theo ngun tắc: “Việc gì có lợi cho dân,
ta phải hết sức làm; việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh…phải u dân,
kính dân thì dân mới u ta, kính ta” 9. Cán bộ: “các cơ quan của chính phủ từ
tồn quốc đến các làng, đều là cơng bộc của dân” 10. Cho nên, đạo đức của người
9

Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 57.
Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 56.

10

5



cán bộ lúc này là ln ln làm việc vì Đảng, vì dân, chí cơng vơ tư thể hiện bản
lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng, lịng tự tin và năng lực hồn thành nhiệm
vụ trước bất kỳ khó khăn nào. Yêu cầu đối với người cán bộ giai đoạn này là
phải vừa “hồng” vừa “chuyên”. Cho nên, muốn đánh giá cán bộ phải lấy uy tín
và hiệu quả cơng việc là tiêu chí cơ bản, thước đo chủ yếu. Do vậy, một yêu cầu
bắt buộc đặt ra với người lãnh đạo phong trào, lãnh đạo quần chúng nhân dân là
phải biết xây dựng và củng cố uy tín cơng tác của mình; được quần chúng tin
cậy, thừa nhận; là người biết tập hợp quần chúng, tổ chức các hoạt động và các
phong trào quần chúng.
2. Thực trạng về uy tín đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý trong giai
đoạn hiện nay
* Những ưu điểm về uy tín của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý
Hiện nay, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là nhân tố tiên phong, nòng cốt
trong mọi phong trào, mọi lĩnh vực, họ đã trở thành nhân tố quan trọng bậc nhất
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa
XI) đã chỉ rõ: “Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước trưởng
thành và tiến bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng
cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được
nhân dân tin tưởng. Thành tựu 25 năm đổi mới là thành quả của toàn Đảng, tồn
dân, tồn qn, trong đó có sự đóng góp to lớn của đội ngũ cán bộ, đảng
viên”11.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý được tôi luyện, trưởng thành qua thử
thách, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần độc lập tự chủ, trung thành
với lý tưởng cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, có ý chí,
nghị lực để vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đưa sự nghiệp Đổi mới ngày càng
thu được nhiều thắng lợi.
Trong giai đoạn hiện nay, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã
11


Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành trung ương khóa XI, Nxb Chính trị
Quốc Gia, Hà Nội 2012, tr21.

6


thích nghi hơn với cơ chế thị trường và tích lũy được thêm nhiều kinh nghiệm,
việc hoạch định chính sách, khả năng cụ thể hóa đường lối, chủ trương được
nâng lên rõ rệt, tính chủ động, sáng tạo được phát huy. Bệnh kinh nghiệm, giáo
điều, tính ỷ lại, thụ động từng bước được khắc phục, làm cho uy tín của người
cán bộ đối với quần chúng và nhân dân ngày càng được nâng cao.
* Nhược điểm trong uy tín của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý
Bên cạnh những ưu điểm về uy tín nói trên, Nghị quyết Trung ương 4
(khóa XI) cũng nhấn mạnh: “Một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên, trong
đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp,
suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau
về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng,
chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy
tiện, vơ ngun tắc…”, “ Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật
cơng tâm, khách quan, khơng vì u cầu cơng việc, bố trí khơng đúng sở trường,
năng lực, ảnh hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo, ...” 12 Điều đó làm giảm uy tín
của Đảng, làm xói mịn lịng tin của nhân dân vào chế độ, vào đội ngũ cán bộ
của Đảng.
Chất lượng đội ngũ cán bộ còn nhiều yếu kém, bất cập chưa đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới cả trong lĩnh vực xây dựng Đảng, quản lý Nhà
nước, quản trị doanh nghiệp và hội nhập kinh tế quốc tế. Từ nhận thức đến lãnh
đạo, tổ chức thực hiện mơ hình phát triển cũng như bản lĩnh hội nhập và xử lý
những tình huống phát sinh cịn nhiều lúng túng.
Một bộ phận không nhỏ trong đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các cấp hiện nay

thường ngộ nhận mình có uy tín. Những người này thường tự đánh giá rất cao về
mình, ln tỏ ra mình là nhân vật quan trọng, có uy tín mà khơng cần trau dồi uy
tín. Cũng có những cán bộ, thay vì tu dưỡng, rèn luyện để có được uy tín thì họ
dùng nhiều thủ đoạn để tạo dựng "uy tín" giả: như ve vãn, lôi kéo, lập bè cánh;
12

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành trung ương khóa XI, Nxb Chính trị
Quốc Gia, Hà Nội 2012, tr22.

7


cơng kích, nói xấu, hạ uy tín người khác và đề cao mình. Trước mặt cấp trên họ
xun xoe, nịnh bợ lấy lịng, tỏ vẻ mình là đệ tử thân cận; sau lưng thì họ sẵn sàng
trở mặt, nói xấu, bịa đặt. Họ chỉ làm và tìm mọi cách dành lấy những việc dễ
làm, dễ nổi tiếng; không ngại ngùng tơ vẽ thành tích và “tranh cơng đổ lỗi”.
Ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị xuất hiện tình trạng khơng lành
mạnh là cả một nhóm người vì lợi ích nhóm, họ tán tụng, tâng bốc đề cao nhau.
Khi phạm khuyết điểm, sai lầm, họ vào hùa với nhau để tìm cách lấp liếm, bao
che, gìn giữ “uy tín”, biến tội thành cơng, thổi phồng thành tích. Họ khơng xấu
hổ tự vơ về mình đủ thứ danh hiệu; tiến cử nhau vào vị trí này, vị trí nọ; thổi “uy
tín” của nhau lên tận mây xanh…
3. Vận dụng những tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng uy tín
người cán bộ lãnh đạo quản lý trong giai đoạn hiện nay.
Trong sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa tồn diện đất
nước hiện nay, người lãnh đạo quản lý càng được khẳng định rõ nét tầm quan
trọng của mình. Uy tín của người lãnh đạo có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát
triển của tổ chức. Cán bộ lãnh đạo, nhất là cán bộ chủ chốt muốn thực thi được
chức trách của mình thì phải có uy tín. Chức vụ càng cao càng phải có uy tín
càng cao. Khơng có uy tín thì khó thuyết phục, tập hợp, lãnh đạo người dưới

quyền. Uy tín chính là điều kiện bảo đảm hiệu quả công tác của người lãnh đạo.
Nếu người lãnh đạo có uy tín - được dân tin, dân phục, dân yêu thì dân sẽ ủng
hộ, giúp đỡ và như vậy mọi công việc sẽ được thực hiện một cách nhanh chóng
với hiệu quả cao. Thực tế đã cho thấy là cùng một tổ chức bộ máy, cùng một cơ
chế chính sách giống nhau nhưng ở cơ quan, đơn vị, địa phương nào có người
lãnh đạo giỏi, có uy tín thì ở đó đời sống của người lao động khơng ngừng được
cải thiện, đơn vị hồn thành xuất sắc nhiệm vụ và ngược lại. Để gây dựng được
lòng tin, sự khâm phục và tình cảm quý mến của quần chúng đối với mình thì
người lãnh đạo phải đứng trên lập trường giai cấp công nhân để bảo vệ lợi ích
của nhân dân. Muốn vậy trước hết địi hỏi người lãnh đạo phải thích ứng được
với những chuyển biến của tình hình mới, đáp ứng được những yêu cầu đòi hỏi
8


của thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong giai đoạn hiện nay những tiêu chuẩn chung đối với người lãnh đạo
quản lý được Đại hội X nêu ra là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính
trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có chun mơn nghiệp vụ đáp
ứng u cầu của thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa” 13. Như vậy,
những tiêu chuẩn chung của người cán bộ được thể hiện trên 3 mặt cơ bản:
Phẩm chất chính trị tư tưởng; Đạo đức, lối sống; Trình độ, năng lực và chuyên
môn công tác. Ba mặt này có quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với nhau tạo thành “tư
cách” của người cán bộ và cũng là những tiêu chí để người cán bộ hướng tới
trong q trình xây dựng uy tín của mình.
Thứ nhất, phẩm chất chính trị tư tưởng: đây là linh hồn của người lãnh
đạo, nó thể hiện ở lập trường chính trị, ở khuynh hướng hoạt động của người
lãnh đạo. Bản lĩnh chính trị vững vàng là cơ sở cho việc xử lý một cách tỉnh táo
các tình huống phát sinh trong thực tiễn. Đây là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến
sự thành công hay thất bại của người lãnh đạo trong việc xử lý các tình huống,
vấn đề nhạy cảm. Trong giai đoạn hiện nay trước những vấn đề phức tạp và nhạy

cảm của cuộc sống người lãnh đạo cần phải thể hiện được bản lĩnh của mình để
gây dựng lịng tin trong quần chúng cũng như đứng vững trước những tác động
nhiều chiều của cuộc sống; đương đầu với những thách thức, cám dỗ của cuộc
sống và để tự tin trong hành động “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm”.
Những biểu hiện của phẩm chất chính trị tư tưởng ở người lãnh đạo qua một số
khía cạnh cơ bản như: người lãnh đạo ln có ý thức chính trị trong mọi cơng
việc của mình; có khả năng phát hiện các khuynh hướng chính trị và nhận ra các
vấn đề chính trị trong đời sống hàng ngày; biết vận dụng đúng đắn, sáng tạo các
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào trong cơng việc
của mình và biết đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc, phản động để
bảo vệ các quan điểm của Đảng một cách khoa học.

13

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
2006, tr. 293

9


Thứ hai, đạo đức lối sống: nói tới đạo đức là nói tới tính nhân, tính thiện
ở mỗi con người, là nói tới luân thường đạo lý của con người, là nói tới những
chuẩn mực xã hội mà mỗi người phải tuân theo. Như vậy, đạo đức chính là cái
cốt bên trong, là khuynh hướng tốt trong tâm của mỗi người, nó chi phối tồn bộ
những suy nghĩ bên trong và hành vi bên ngoài của chủ thể khiến cho những
người xung quanh có được sự chuyển hóa, an vui và lợi ích. Đạo đức của người
cán bộ được Hồ Chí Minh đúc kết trong bốn chữ: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Đạo
đức của người lãnh đạo được thể hiện qua mối quan hệ và cách xử thế của họ
với chính mình; với những người bị lãnh đạo, với cơng việc và với mơi trường.
Trong quan hệ với chính mình, người cán bộ phải cần cù chịu khó, khơng

ngại khó, khơng ngại khổ; sự tiết kiệm, khơng xa hoa lãng phí; sự liêm khiết,
trong sạch, không tham nhũng, không lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình để
mưu cầu lợi ích riêng, sách nhiễu nhân dân; sự chính trực, ngay thẳng, công tâm
luôn làm theo kỷ cương phép nước, theo đúng pháp luật.
Trong quan hệ với công việc, người cán bộ phải nhiệt tình với cơng việc,
có tình u với cơng việc, đam mê và say mê làm việc; có lương tâm với cơng
việc, trung thực trong cơng việc; có tinh thần, ý thức trách nhiệm với công việc,
làm việc hết mình, làm đến nơi đến chốn, cẩn thận và theo đuổi cơng việc đến
cùng; có bản lĩnh trong cơng việc, thể hiện ở tinh thần dám nghĩ, dám làm và
dám chịu trách việm với cơng việc mình làm; có sáng kiến trong cơng việc, đó là
sự sáng tạo trong cơng việc mà khơng chấp nhận sự trì trệ lạc hậu, bảo thủ trong
cách nghĩ và cách làm; có nguyên tắc trong cơng việc; đồng thời phải ln có ý
thức hợp tác trong công việc với người khác để đạt tới mục tiêu chung.
Trong quan hệ với cấp dưới, người lãnh đạo phải khoan dung độ lượng
với mọi người, ln nhìn thấy những nhân tố tích cực, tiến bộ ở người khác;
nhiệt tình giúp đỡ mọi người; chân thành với mọi người, khơng dùng thủ đoạn
với cấp dưới, u q, hịa đồng với mọi người; khiêm tốn, tôn trọng mọi người,
không lên mặt quan cách, hách dịch với cấp dưới; trung thực, nói ln đi đơi với
làm; thực tế, khơng xa rời cuộc sống mà phải luôn bám sát những nhu cầu và lợi
10


ích thiết thực của quần chúng; gương mẫu trong đạo đức và lối sống; đối xử
công bằng với mọi người, khơng thiên vị, tư tình cá nhân (chí cơng vơ tư).
Thứ ba là trình độ, năng lực và chun mơn cơng tác: người lãnh đạo
trước hết phải có tri thức, sự hiểu biết, có sự nhạy bém trong suy nghĩ và hành
động cũng như tầm nhìn xa trơng rộng. Trong hệ thống tri thức mà người lãnh
đạo cần có thì tri thức về lý luận đóng vai trị là nền tảng, mà trước hết là những
tri thức về chính trị-xã hội, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước. Những tri thức lý luận đóng vai trị định hướng của hoạt động

lãnh đạo.
Năng lực chun mơn nghiệp vụ là khả năng hồn thành các cơng việc
của người lãnh đạo. Để có được năng lực chun mơn nghiệp vụ địi hỏi họ phải
có kiến thức chun mơn theo từng lĩnh vực nghề nghiệp, từng cương vị công
tác mà đòi hỏi tất yếu đối với người lãnh đạo. Sự thành thạo về kiến thức chuyên
môn nghiệp vụ sẽ giúp cho người lãnh đạo dễ dàng sử dụng các công cụ,
phương tiện kỹ thuật vào xử lý công việc. Đồng thời, nó cũng là điều kiện để
người lãnh đạo lôi cuốn mọi người và kiểm tra công tác của họ.
Năng lực tổ chức là khả năng sắp xếp, động viên, lơi kéo các nguồn lực để
hiện thực hóa các vấn đề lý luận, các chủ trương, chính sách, quyết định, chỉ thị,
dự án…thành các hành động, việc làm cụ thể trong đời sống xã hội. Người có
năng lực tổ chức là người biết xây dựng các kế hoạch làm việc một cách khoa
học; biết sắp xếp, bố trí con người theo đúng sở trường của họ; là biết ra các
quyết định một cách kịp thời, chính xác; là biết giúp đỡ và động viên mọi người
làm việc .v.v…
Trong phong cách làm việc, yêu cầu quan trọng nhất hiện nay với người
lãnh đạo là tính dân chủ trong cơng tác. Tính dân chủ trước hết là biết lấy lợi ích
của nhân dân, của đất nước làm mục tiêu; tôn trọng lợi ích và quyền làm chủ của
nhân dân; biết làm chủ bản thân, điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với
lợi ích chung của tồn xã hội. Đây là yếu tố quan trọng tạo ra bầu khơng khí tâm

11


lý xã hội, quy định tình trạng quan hệ của người lãnh đạo đối với mọi người
trong quá trình hoạt động của mình. Phong cách dân chủ cũng có nghĩa là biết
lắng nghe và tôn trọng người khác; biết gần gũi và sâu sát, gắn bó mật thiết với
quần chúng; biết đồng cảm và chia xẻ với mọi người; biết đối thoại và chia xẻ
cùng quần chúng v.v…
Từ sự phân tích trên đây có thể thấy, uy tín là kết quả tổng hợp của nhiều

nhân tố thuộc về sự nỗ lực chủ quan của người cán bộ lãnh đạo quản lý trên cả
hai mặt phẩm chất và năng lực, phải hội đủ cả "Tâm" "Tầm" "Trí", mà nổi bật
nhất là những phẩm chất sau:
Sự gương mẫu, gương mẫu đến mực thước về các mặt, trước hết là về mặt
phẩm chất đạo đức, có lối sống trong sạch, tận tụy, khiêm tốn, “mình vì mọi
người”; sự thấu cảm và chia sẻ.
Có học thức, năng lực lãnh đạo và quản lý giỏi; tầm hiểu biết sâu rộng,
bao gồm cả nhãn quan chính trị, trình độ nhận thức và vốn sống; sự đổi mới và
khả năng thích nghi; khát vọng và hồi bão.
Có tinh thần trách nhiệm, có năng lực tổ chức, thể hiện ở chỗ hồn thành
xuất sắc chức vụ mà mình đảm trách.
Nắm vững kỹ năng lãnh đạo, ứng xử có văn hóa; có quan hệ đúng đắn,
trước hết là với những người cùng cộng tác hoặc có quan hệ trực tiếp với mình;
biết tự kiểm sốt, tự kiềm chế.
Để xây dựng, củng cố và nâng cao uy tín của người cán bộ lãnh đạo
quản lý, xin kiến nghị một số giải pháp sau:
Một là, người cán bộ lãnh đạo cần nuôi dưỡng khát vọng vươn lên, thực
hiện lý tưởng của Đảng, phục vụ nhân dân, khơng được lấy uy tín làm mục đích
mà phải coi đó là phương tiện, điều kiện để thực hiện mục đích lãnh đạo quản
lý. Như thế uy tín sẽ được giữ gìn và bảo vệ từ mọi phía, nhất là từ phía nhân
dân và cấp dưới. Mỗi cán bộ lãnh đạo phải có phương hướng, biện pháp để tu
dưỡng, rèn luyện, giữ gìn và nâng cao uy tín của mình. Đây là biện pháp quan
12


trọng và quyết định nhất. Phải thường xuyên tự giác tu dưỡng rèn luyện, bồi
dưỡng phẩm chất và năng lực cần thiết, có thái độ nghiêm khắc với bản thân, đề
cao tính tự chủ, tự kiềm chế, tự điều chỉnh, đặc biệt là ln đề cao tự phê bình và
phê bình.
Hai là, các cấp ủy đảng, các cơ quan, đơn vị cần tạo điều kiện để cán bộ

lãnh đạo phát huy hết phẩm chất, năng lực của mình, quan tâm củng cố và nâng
cao uy tín của người cán bộ lãnh đạo bởi uy tín của cá nhân họ cũng là uy tín
của tổ chức. Sự quan tâm đó sẽ góp phần giữ vững và nâng cao uy tín thực của
người cán bộ lãnh đạo, đồng thời khắc phục những hiện tượng tạo uy tín giả.
Ba là, thường xuyên kiểm tra, giám sát uy tín của đội ngũ cán bộ lãnh đạo
bằng cách lấy phiếu tín nhiệm của tổ chức, ý kiến đóng góp của cán bộ cấp dưới,
của nhân dân một cách nghiêm túc và trung thực.
Bốn là, tổ chức thực hiện nghiêm túc tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 4 và lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
khóa XI và tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động học tập, làm theo tấm gương đạo
đức, lối sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Kiên quyết thực hiện các nhóm giải
pháp cấp bách về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đi đôi với việc tăng cường giáo dục
đạo đức Hồ Chí Minh cho cán bộ, cơng chức. Cần có quy chế để từng cán bộ,
công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý các cấp từ Trung ương trở
xuống phải đăng ký học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với
những nội dung cụ thể sao cho sát hợp với chức năng, nhiệm vụ công tác của
mình và phải có kiểm điểm gắn liền với kiểm điểm công tác hàng tháng.
4. Vận dụng nâng cao uy tín người lãnh đạo quản lý giáo dục trong
giai đoạn hiện nay
Hoạt động quân sự là hoạt động đặc thù, biểu hiện ở sự vất vả, khó khăn,
gian khổ, nguy hiểm, thậm chí có thể phải hy sinh cả tính mạng của người thực
hiện hoạt động. Vì vậy, phải làm sao để mọi giáo viên, học sinh chấp hành tốt
pháp luật trong mọi hoạt động; làm sao để họ ln ln chủ động tự giác, tích

13


cực trong thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo; làm thế nào để họ ln đổi mới,
sáng tạo, tích cực nghiên cứu, đó là nhiệm vụ của người lãnh đạo, quản lý giáo
dục. Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ này, địi hỏi người lãnh đạo quản lý phải có

năng lực và trình độ chun mơn tốt, có phẩm chất nhân cách cao đẹp và phong
cách làm việc hiệu quả. Nói cách khác, là họ phải xây dựng được uy tín cao cho
chính bản thân mình.
Uy tín của người lãnh đạo quản lý giáo dục được hình thành và phát triên
trong quá trình hoạt động, giao tiếp sư phạm với sự tu dưỡng phấn đấu không
ngừng nhằm thực hiện tốt mọi nhiệm vụ trên cương vị, chức trách được giao.
Trong điều kiện hoạt động sư phạm, uy tín của người cán bộ được hình thành
phụ thuộc rất lớn vào các nhân tố, trong đó những nhân tố thuộc về chủ thể và
những nhân tố thuộc về khách thể.
Những nhân tố thuộc về chủ thể: Phẩm chất chính trị- đạo đức biểu hiện
tập trung ở lập trường giai cấp vững vàng; ý chí cách mạng kiên định; tinh thần
trách nhiệm cao; lối sống trung thực, giản dị, lành mạnh; năng lực lãnh đạo, chỉ
huy sáng tạo, khoa học; kĩ năng giao tiếp, quan hệ và hợp tác với đồng sự và cấp
dưới; những nét tính cách đặc trưng tạo nên giá trị xã hội của nhân cách người
cán bộ cách mạng; vị thế xã hội mà chủ thể đang chiếm giữ: được Đảng, Nhà
nước, quân đội giao cho cấp bậc, chức vụ, quyền hạn và trách nhiệm; kinh
nghiệm, vốn sống, tuổi tác và sức khoẻ…
Những nhân tố thuộc về khách thể : Trình độ nhận thức và ý thức giác ngộ
chung của tập thể; bầu khơng khí tâm lí trong tập thể sư phạm trường học,
truyền thống xây dựng và phát triển của tập thể; uy tín của tập thể mà người cán
bộ là thành viên; sự quan tâm, giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi của cấp trên;
những tác động tích cực của mơi trường xã hội rộng lớn…
Những nhân tố thuộc về chủ thể và những nhân tố thuộc về khách thể nằm
trong mối quan hệ thống nhất, tác động tổng hợp để hình thành nên uy tín người
cán bộ. Những nhân tố thuộc về khách thể đóng vai trò rất quan trọng trong sự

14


hình thành uy tín bởi nó trực tiếp tạo ra sự thừa nhận, tin tưởng, và tuân theo; tạo

ra sự tín nhiệm của tập thể đối với người cán bộ. Những nhân tố thuộc về chủ
thể có ý nghĩa quyết định sự hình thành uy tín cán bộ vì nó trực tiếp tạo ra sức
cảm hố, thu hút, lơi kéo; tạo ra cái uy của người cán bộ.
Bàn về uy tín người cán bộ lãnh đạo bộ đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
dạy: Qn sự giỏi, song nếu khơng có đạo đức cách mạng thì khó thành cơng.
Muốn có đạo đức cách mạng thì phải có: Trí - Tín - Nhân - Dũng - Liêm. Như
vậy, chữ "Tín" là một nội dung đặc biệt quan trọng trong nội dung đạo đức cách
mạng của Hồ Chí Minh. Chữ tín có nội dung là: “nói cái gì phải cho tin - nói và
làm cho nhất trí - làm thế nào để cho dân tin - cho bộ đội tin ở mình”14.
Trên cơ sở tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Uy tín, và thơng qua
việc phân tích các nhân tố tạo nên uy tín, cũng như xuất phát từ tầm quan trọng
của uy tín, xin đề xuất một số biện pháp rèn luyện và xây dựng uy tín người lãnh
đạo quản lý giáo dục như sau:
Trước hết, mỗi người lãnh đạo, quản lý giáo dục phải tự nhận thức rõ ý
nghĩa chính trị - xã hội to lớn của nghề nghiệp sư phạm, thấy được trách nhiệm
cao cả của mình đối với nhân dân, với đất nước. Ý thức được điều đó, họ mới có
ý chí và bản lĩnh để vượt qua mọi khó khăn gian khổ, tồn tâm, tồn ý cống hiện
sức lực và trí tuệ để thực hiện nhiệm vụ trên cương vị, chức trách được giao.
Đây là nhân tố tiền phong và quyết định tạo ra uy tín cao.
Thứ hai, mỗi người cán bộ phải tích cực, chủ động khơng ngừng nâng
cao trình độ lý luận chính trị, trình độ chun mơn nghiệp vụ sư phạm và trình
độ tri thức, hiểu biết chung trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội và lĩnh vực giáo
dục. Đây là con đường để người lãnh đạo, quản lý khẳng định và phát triển năng
lực của mình đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ, đối với các đơn vị làm cơng tác
nghiên cứu, giảng dạy thì rèn luyện, nâng cao trình độ để khơng chỉ có uy tín
lãnh đạo, và lãnh đạo thơng qua các quy định hành chính mà cịn phải bằng “ uy
tín cao về học thuật” để cấp dưới khâm phục, làm tấm gương để họ học tập, tự
14

Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, , tr. 223, 224.


15


giác làm theo. Đặc biệt, ngày nay, với sự phát triển khơng ngừng của khoa học
kĩ thuật cơng nghệ nói chung và khoa học - kĩ thuật - công nghệ giáo dục nói
riêng, nếu khơng có ý thức tự học, từ nghiên cứu, tự rèn luyện họ sẽ nhanh
chóng lạc hậu so với thời đại, không đáp ứng được yêu cầu của tình hình nhiệm
vụ cách mạng.
Thứ ba, cần tích cực tự giác trong rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách
mạng, phát triển và hoàn thiện nhân cách người lãnh đạo, quản lý giáo dục. Phải
luôn luôn thấm nhuần và rèn luyện mình theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư. Phải thực hiện nếp sống văn minh,
lành mạnh, giản dị, cởi mở và khiêm tốn. Không ngừng nâng cao tinh thần đoàn
kết xây dựng tập thể và xây dựng phong cách lãnh đạo quản lý phù hợp với tình
hình nhiệm vụ và chức trách được giao. Có như vậy mới đủ sức cảm hố, thu
hút lơi kéo mọi thành viên của tập thể.
Thứ tư, người lãnh đạo quản lý luôn luôn phải “làm gương” trong mọi
lĩnh vực: như tinh thần trách nhiệm cao trong mọi hoạt động, nói đi đơi với làm,
gương mẫu trong lối sống, trong giao tiếp ứng xử hàng ngày và đặc biệt là
gương mẫu trong thực hiện nhiệm vụ, “ người đứng đầu làm trước và phải thực
sự gương mẫu để cho các cấp noi theo” 15. Tấm gương cao đẹp của người lãnh
đạo quản lý như “mệnh lệnh” không lời, làm cho mọi quân nhân tự giác tu
dưỡng, rèn luyện, học tập và làm theo. Điều này vừa là kết quả và đồng thời
cũng là mục tiêu cuối cùng trong hoạt động lãnh đạo quản lý giáo dục.
Thứ năm, người lãnh đạo quản lý phải thường xuyên tiếp xúc, đối thoại
trực tiếp với cấp dưới, chủ động nắm bắt tâm tư, đánh giá, dự báo diễn biến tư
tưởng của cán bộ thuộc quyền và có biện pháp giải quyết kịp thời. Chủ động
phòng ngừa đấu tranh, phê phán những biểu hiện “ tự diễn biến”, “ tự chuyển
hóa” trong nội bộ theo chức trách, phạm vi đơn vị mình. Giữ gìn sự đồn kết,

thống nhất, sự đồng thuận trong tập thể sư phạm.
15

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành trung ương khóa XI, Nxb Chính trị
Quốc Gia, Hà Nội 2012, tr27.

16


Thứ sáu, người lãnh đạo quản lý phải biết tự phê bình và phê bình theo
đúng ngun tắc, khơng được nể nang, hữu khuynh, “ im lặng là vàng” hoặc có
thái độ cực đoan, lợi dụng phê bình để đả kích người khác, phải có tinh thần tự
giác cao, thương u đồng chí, đồng đội và có dũng khí đấu tranh thẳng thắn,
chân tình. Đồng thời biết lắng nghe, thấu hiểu ý kiến cấp dưới, không quan liêu
hay tự cao tự đại, coi thường ý kiến phê bình của cấp dưới, như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã dạy: “ Tơi làm điều xấu, các đồng chí trơng thấy, phải phê bình cho tơi
sửa chữa ngay. Nếu tơi có vết nhọ trên trán, các đồng chí trơng thấy, lại lấy cớ
‘nể Cụ” khơng nói là tơi mang nhọ mãi. Nhọ ở trên trán thì khơng quan trọng
nhưng nếu có vết nhọ ở trong óc, ở tinh thần, mà khơng nói cho người ta sửa tức
là hại người”.16
Ngoài ra, phải chú trọng nâng cao trình độ nhận thức, giác ngộ chính trị,
xây dựng tập thể đơn vị vững mạnh về mọi mặt là cơ sở, điều kiện quan trọng để
hình thành lịng tin, sự tín nhiệm của người giáo viên, học sinh đối với cán bộ
lãnh đạo quản lý giáo dục; sự chăm lo, bồi dưỡng, tạo điều kiện về mọi mặt của
lãnh đạo quản lý cấp trên là nhân tố thuận lợi củng cố uy tín cho cán bộ cấp dưới
hồn thành nhiệm vụ; kịp thời phát hiện, xác định rõ nguyên nhân nảy sinh uy
tín giả trong tập thể sư phạm trường học. Thông qua giáo dục, sinh hoạt tập thể
để vạch rõ tính chất vơ căn cứ của các loại uy tín giả đó, làm cho nó mất hiệu
lực trong tập thể.


16

Hồ Chí Minh(2011), Tồn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr260.

17


KẾT LUẬN
Uy tín khơng phải từ trên trời rơi xuống. Nó là kết quả của sự phấn đấu
rèn luyện gian khổ, bền bỉ của bản thân cán bộ. Người cán bộ lãnh đạo quản lý
phải được dân tin, dân phục, dân yêu. Người lãnh đạo cần phải xây dựng uy tín
tuyệt đối trong tập thể bằng chính tài năng, đức độ, nghị lực, bằng ảnh hưởng tư
tưởng và hành động thực tế của mình chứ khơng phải bằng danh hiệu và chức vụ
hoặc bằng thủ đoạn và tiểu xảo. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Khơng
phải ta cứ viết lên trán chữ “Cộng sản” mà được họ yêu mến. Quần chúng chỉ
quý mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình
phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
Trong hoạt động giáo dục, việc hình thành uy tín cho người cán bộ lãnh
đạo quản lý lãnh đạo là vô cùng quan trọng và là một q trình lâu dài, phức tạp
trong đó yếu tố quyết định để có uy tín là sự nỗ lực phấn đấu rèn luyện của
chính bản thân họ. Tuy nhiên về phía tổ chức Đảng, cán bộ cấp trên cần nhận rõ
sự cần thiết và trách nhiệm của mình trong tạo dựng uy tín cho cấp dưới. Mỗi
cán bộ lãnh đạo quản lý cũng phải ý thức rõ uy tín rất khó khăn mới hình thành
được, người có uy tín có thể mất đi uy tín một cách dễ dàng, nhanh chóng nếu
khơng được giữ gìn và củng cố. Vì vậy, địi hỏi mỗi cán bộ lãnh đạo quản lý
phải coi việc tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, nhân cách
người lãnh đạo quản lý là công việc thường xuyên, liên tục, trong suốt cả cuộc
đời giáo viên.

18



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2006.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2012.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Trung ương 6 khóa XI, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2012.
5. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Hà Nội( Nguyễn
Bá Dương chủ biên), Tâm lý học quản lý dành cho người lãnh đạo, Nxb CTQG,
H.1999.
10. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Chính
trị học, Giáo trình Tâm lý học lãnh đạo quản lý( Hệ cao cấp lý luận chính trị),
Nxb Chính trị hành chính, H.12013.
11. Tổng cục Chính trị, Tâm lý học lãnh đạo - quản lý bộ đội, Nxb
QĐND, H.2002.
12. PGS.TS Vũ Dũng, Giáo trình Tâm lý học quản lý, Nxb Đại học sư
phạm, H.2007.

19




×