Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Chuyên đề 5: SỰ PHÁT TRIỂN TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG TRÊN LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.18 KB, 25 trang )

Chuyên đề 5
SỰ PHÁT TRIỂN TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG
TRÊN LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ
MỤC TIÊU
- Kiến thức:Trang bị cho học viên những kiến thức cơ bản về quá trình nhận
thức của Đảng về đổi mới tư duy lý luận trên lĩnh vực chính trị, trọng tâm là vấn đề
phát huy dân chủ, đổi mới hệ thống chính trị và xây dựng Nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam.
- Kỹ năng:Chuyên đề góp phần hình thành cho học viên phương pháp tư duy
khoa học trong nhận thức, đánh giá về quá trình nhận thức của Đảng về đổi mới tư
duy lý luận trên lĩnh vực chính trị trong thời kỳ đổi mới; biết vận dụng kiến thức
được trang bị để phân tích, đánh giá q trình thực hiện phát huy dân chủ, xây
dựng hệ thống chính trị và Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.
-Về tư tưởng: Giúp học viên củng cố niềm tin với những căn cứ khoa học về
vai trò của Đảng đối với cách mạng Việt Nam; tích cực đấu tranh chống lại các
quan điểm, nhận thức sai trái.
NỘI DUNG
1. Quan hệ giữa đổi mới kinh tế với giữ vững ổn định và
đổi mới chính trị
Từ nhu cầu của thực tiễn, Đại hội VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới toàn
diện đất nước. Toàn diện tức là đối với tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, cả
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh và đối ngoại. Toàn diện là
từ nhận thức, tư duy đến tổ chức và hành động. Toàn diện là từ Đảng, Nhà nước,
các đoàn thể nhân dân và cả xã hội, từ trung ương đến cơ sở, trong tất cả các cấp,
các ngành. Tuy nhiên, đổi mới phải có bước đi và cách làm thích hợp. Nóng vội,
chủ quan duy ý chí đã từng là một trong những nguyên nhân dẫn đến những sai
lầm trong chủ trương, đường lối trước đổi mới, vì vậy bước vào đổi mới phải tránh
cho được sai lầm cịn nóng hổi này. Vả lại, nhu cầu đổi mới là một việc cịn việc
thực hành đổi mới có kết quả lại là việc khác, nhất là lúc đầu trong điều kiện chưa
chuẩn bị đầy đủ hệ thống lý luận đổi mới cho nước ta, trong khi cải tổ, cải cách ở



Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu mới được triển khai, đã có vấp
váp. Vì vậy, vấn đề thiết yếu ngay sau khi hạ quyết tâm đổi mới là xác định đúng
quan hệ giữa đổi mới kinh tế với giữ vững ổn định và đổi mới chính trị - hai lĩnh
vực cơ bản nhất của đời sống xã hội.
Tổng kết bước đầu 5 năm đầu tiên đổi mới (1986 - 1991), Đại hội VII của
Đảng rút ra một trong những kinh nghiệm là: “Đổi mớitoàn diện, đồng bộ và triệt
để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp... Về quan hệ giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế... Đồng
thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động
của hệ thống chính trị..., việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên
cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, khơng cho phép gây mất ổn định
chính trị, dẫn đến sự rối loạn. Nhưng khơng vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới
hệ thơng chính trị, nhất là về tổ chức bộ máy và cán bộ,mối quan hệ giữa Đảng,
Nhà nước và các đoàn thể nhân dân”1.
Phải tập trung đổi mới kinh tế trước hết, vì khủng hoảng kinh tế - xã hội lúc
bấy giờ đã đến mức cực kỳ nghiêm trọng, thể hiện rõ nhất là sản xuất đình đốn,
lạm phát phi mã, đồng tiền mất giá nhanh chóng, đời sống nhân dân, nhất là những
người làm cơng ăn lương, ngày càng khó khăn.Về khả năng thực hiện, cho đến
năm 1986 Đảng ta đã có q trình tìm tịi đổi mới nhất định về cơ chế kinh tế và
quản lý kinh tế, khởi đầu từ Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (tháng 8-1979) đến
Hội nghị Trung ương 8 khóa V (tháng 6-1985) và Hội nghị Bộ Chính trị tháng 81986 trước thềm Đại hội VI với ba kết luận cơ bản, cực kỳ quan trọng, có tính chất
bước ngoặt trong quan điểm kinh tế. Tập trung đổi mới cả tư duy và chỉ đạo phát
triển kinh tế còn là quán triệt nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử: xét
đến cùng, kinh tế là nhân tố quyết định. Có đổi mới mạnh mẽ về kinh tế mới tạo
được các điều kiện cơ bản để giữ vững ổn định chính trị - xã hội và tiến hành đổi
mới chính trị thuận lợi, thậm chí mới biết rõ trong chính trị cần đổi mới những gì,
đổi mới theo hướng nào.
Mặt khác, khơng thể khơng đổi mới chính trị. Trước hết, về lơgíc, chính trị
gắn rất chặt với kinh tế, chính trị là kinh tế “cơ đọng lại”. Trong điều kiện hịa bình

1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Sđd, 1991, tr. 53-54.


xây dựng, Đảng phải lãnh đạo, Nhà nước phải quản lý tồn bộ q trình phát triển
kinh tế - xã hội, phải khơi dậy và phát huy cho được tinh thần làm chủ và tính tích
cực chính trị của nhân dân trong xây dựng kinh tế. Nếu không đổi mới chính trị,
đổi mới kinh tế sẽ gặp trở ngại; ngược lại, nếu đổi mới chính trị kịp thời, phù hợp
sẽ là điều kiện quan trọng để thúc đẩy đổi mới và phát triển kinh tế. Tuy nhiên,
chính trị là lĩnh vực rộng lớn, đụng chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và
nhạy cảm, nên phải có sự cân nhắc, nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, thận
trọng, không thể vội vàng, để các sự kiện tuột ra khởi tầm kiểm sốt, hoặc - theo
cách nói của V.I.Lênin: “cỗ xe không tuân theo tay lái”. Trên tinh thần đó, trong
những năm đầu đổi mới, Đảng ta chủ trương trước hết và cũng tiến hành từng bước
đổi mới tổchức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị - hai khâu đang có
nhiều vướng mắc, bất cập. Nếu xét kỹ hơn, bản thân việc đổi mới về tư duy chính
trị trong việc hoạch định đường lối, chính sách của Đại hội VI cũng đã là đổi mới
chính trị. Như vậy, Đảng không đặt vấn đề đổi mới hệ tư tưởng chính trị và thể chế
chính trị; trái lại, phải kiên quyết bảo vệ, kiên trì hệ tư tưởng Mác - Lênin, mục tiêu
chính trị, thể chế nhất ngun, khơng chấp nhận đa ngun chính trị và đa đảng đối
lập. Về mức độ, chúng ta chủ trương đổi mới chứ không phải là cải cách.Về mục
tiêu, Đảng ta nói rõ: đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính
trị là nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện dân chủ, tuyệt nhiên khơng có mục tiêu nào
khác. Kiên định giữ vững những vấn đề thuộc nguyên tắc bất di bất dịch, đồng thời
quyết tâm đổi mới những khâu cấp bách và đã chín muồi, đổi mới phải không làm
thay đổi bản chất, đặc trưng của hệ thống chính trị - đó là sự lựa chọn chính trị
đúng đắn và sắc sảo của Đảng khi khởi động công cuộc đổi mới. Thực tiễn đổi mới
kinh tế và ổn định, đổi mới chính trị 10 năm đầu đổi mới đã được Đại hội VIII của

Đảng đúc kết thành một trong sáu bài học là: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi
mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng
bước đổi mới chính trị”2.
Kết luận của Đại hội VIII định hướng cho việc đổi mới kinh tế, đổi mới
chính trị và kết hợp chặt chẽ hai quá trình đổi mới này trong gần 10 năm qua. Đó là
2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Sđd, tr. 71.


hàng loạt đổi mới trong nhận thức và thực tiễn đổi mới về xây dựng thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
tiến bộ và công bằng xã hội, về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế... Đó là những
đổi mới trong nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về
quy chế dân chủ ở cơ sở, về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng... Sự kết hợp
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị được thực hiện đồng bộ, tương đối ăn
khớp, vừa đòi hỏi, vừa thúc đẩy lẫn nhau. Những đổi mới đó thể hiện nhận thức
mới và cụ thể hóa con đường, bước đi quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở nước ta với nội dung ngày càng sáng rõ: đó là bỏ qua việc xác lập
vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa,
nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư
bản, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại và nền
chính trị, nền dân chủ tiến bộ. Một biểu hiện điển hình cho sự kết hợp chặt chẽ giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là việc Hội nghị Trung ương 5 khóa IX (tháng
2-2002) thảo luận ra đồng thời 5 nghị quyết, trong đó có 3 nghị quyết về kinh tế
(Nghị quyết về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể;
Nghị quyết về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện
phát triển kinh tế tư nhân; Nghị quyết về đẩy nhanh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nơng nghiệp, nơng thơn thời kỳ 2001 - 2010) và 2 nghị quyết về lĩnh vực chính trị,
tư tưởng (Nghị quyết về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở

xã, phường, thị trấn; Nghị quyết về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận
trong tình hình mới).
Một phương diện khác khó tránh khởi của vấn đề là trong q trình thực
hiện sự kết hợp giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị nảy sinh “độ vênh” nhất
định, hoặc muốn đẩy nhanh đổi mới kinh tế nên cho rằng các đổi mới chính trị q
chậm chạp, khơng căn bản, cần được đấy nhanh hơn; hoặc cho rằng đổi mới kinh
tế quá chậm, đổi mới kinh tế đang đi chệch hướng chính trị. Những mâu thuẫn này
nếu khơng được xử lý kịp thời và thỏa đáng thì sẽ khơng có đổi mới, chờ đợi lẫn
nhau, sẽ dẫn đến tình trạng đổi mới trong lĩnh vực này cản trở, kìm hãm đổi
mới trong lĩnh vực kia. Thực tế là, trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã kịp thời
phát hiện, nhìn thẳng vào sự thật, tập trung trí tuệ nghiên cứu và đưa ra lý luận


xác đáng xử lý các nhận thức lệch lạc trên vấn đề này. Tiêu biểu cho điều này
là việc Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (tháng 3-1989) nêu ra 6 nguyên tắc đổi
mới, Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 18-2-1995 của Bộ Chính trị khóa VII về
một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay nhằm tiếp tục bổ sung
và phát triển đường lối đổi mới, chấn chỉnh những nhận thức lệch lạc trong đổi
mới cả kinh tế và chính trị, trong kết hợp giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị.
Trong đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta thường xuyên phải
giải quyết mối quan hệ giữa ổn định và phát triển. Tình huống lý luận và thực tiễn
đặt ra là: một mặt, phải đổi mới và phát triển nhanh, mà đổi mới với đúng tầm mức
của nó: đổi mới cơ bản, tồn diện, triệt để, chứ khơng chỉ là cải tiến, điều chỉnh
việc này, việc kia; mặt khác, phải giữ cho được ổn định chính trị - xã hội, khơng
được để xãy ra rối loạn, vơ chính phủ. Trên lơgíc hình thức, dường như hai u cầu
này khơng thể tương hợp và trong thực tế rất dễ rơi vào tình trạng để giữ ổn định
không muốn đổi mới, nhất là đổi mới chính trị; ngược lại, muốn đổi mới nhanh, đã
đổi mới - với tính cách một cuộc cách mạng - triệt để thì khơng thể khơng chấp
nhận những đảo lộn lớn, mất ổn định trong lĩnh vực này hay lĩnh vực khác.Về vấn

đề này, ngay từ khi khởi động công cuộc đổi mới, Đảng ta đã khẳng định: giữ vững
ổn định chính trị là một nguyên tắc của đổi mới, khơng giữ được ổn định thì khơng
cịn là đổi mới theo đúng mục tiêu đã đề ra cho đổi mới, không thể tập trung sức
tiến hành đổi mới và càng khơng thể có đổi mới thành cơng- điều này là phổ biến
đối với tất cả các nước, không riêng gì Việt Nam. Lời giải cho bài tốn nằm ở việc
nhậnthức đúng mục tiêu, điều hành đúng giới hạn và có cách thức đúng trong thực
hành đổi mới, thực hiện tốt sự kết hợp giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
Mục tiêu của đổi mới là để giữ ổn định xã hội vững chắc trên cơ sở kinh tế phát
triển, đời sống của tất cả các tầng lớp nhân dân được nâng cao và xã hội dân chủ
hơn, đồng thuận hơn; là thốt khởi tình trạng ổn định khơng vững chắc, hình thức,
trì trệ và tiềm ẩn, tồn tích nguy cơ gây mất ổn định, thậm chí có thể bùng phát bất
cứ lúc nào. Do đó, mấu chốt của việc giữ vững ổn định là bằng đổi mới, để giải
phóng và tăng cường sức sản xuất xã hội, làm ra nhiều của cải hơn, tăng cường
tiềm lực kinh tế quốc gia, tăng thu nhập và cải thiện đời sống của nhân dân, thực


hiện công bằng xã hội. Đổi mới như thế sẽ vẫn giữ vững mục tiêu và bản chất chế
độ, không gây ra những đảo lộn, xáo trộn về chính trị. Về giới hạn, trên cơ s ở giữ
đúng 6 nguyên tắc đổi mới được xác định trong Nghị quyết Trung ương 6 khóa VI
và 6 định hướng lớn được xác định trong Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ Chính
trị khóa VII, hoàn toàn được phép đổi mới mạnh mẽ, triệt để. Về cách thức tiến
hành đổi mới, phải tiến hành cả “từ trên xuống” và “từ dưới lên”, chứ không chỉ
đổi mới “ở bên trên”; có bước đi vững chắc, với những vấn đề mới và khó phải
nghiên cứu kỹ, làm thí điểm để rút kinh nghiệm trước khi triển khai trên diện rộng;
đặc biệt là phải dựa vào dân, trên cơ sở dân chủ. Cách thức ấy đảm bảo tính chủ
động hồn tồn, khả năng kiểm sốt chặt chẽ các tiến trình xã hội, ngăn chặn từ
gốc các nhân tố có thể gây mất ổn định chính trị - xã hội, khủng hoảng kinh tế.
Trạng thái ổn định được tạo lập bằng cách đó là sự ổn định thực chất, có nền tảng
vững chắc, ổn định trong phát triển, không giả tạo hay chỉ được xác lập bằng sự áp
chế, bằng mệnh lệnh; đến lượt mình, sự ổn định ấy tạo môi trường thuận lợi cho

đổi mới và phát triển, địi hởi phải đổi mới khơng ngừng.
Đương nhiên, Đảng ta ý thức rõ trong ổn định có mâu thuẫn, có những vấn
đề mới phát sinh, những mất ổn định cục bộ: bởi vì sự phát triển, đổi mới tự nó là
q trình biến đổi, q trình giải quyết các mâu thuẫn chứ khơng thể đứng n, tĩnh
tại. Khơng cómâu thuẫn thì khơng có phát triển. Đổi mới để giải quyết đúng đắn và
có hiệu quả các mâu thuẫn nảy sinh. Chính nhờ có đổi mới mà phát sinh thêm mâu
thuẫn, có điều đó là những mâu thuẫn tất yếu, không tránh khởi, phát sinh một cách
tự nhiên và hợp quy luật. Đó là những mâu thuẫn mà - như các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác - Lênin đã chỉ dẫn - thực tiễn đã chứa đựng những khả năng, điều kiện
cho việc giải quyết chúng. Giải quyết tốt những mâu thuẫn đó tức là đổi mới và
phát triển, là thay thế ổn định cũ bằng thế ổn định mới cao hơn. Nói cách khác, ổn
định chân chính là ổn định trong trạng thái động chứ không phải tĩnh; ổn định kiểu
đứng yên tức là đã và đang tụt hậu.
Liên quan đến quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, giữa ổn
định và phát triển, xem xét ở chiều sâu của vấn đề, phải giải quyết tốt quan hệ giữa
“yên” và “ổn”. Thực tế cho thấy, bằng cách nào đó đảm bảo được cuộc sống bình
thường, có cải thiện cho đa số người dân là giữ được n dân, khơng xảy ra tình


trạng phản kháng phổ biến từ phía người dân. Nhưng, nếu chỉ có vậy vẫn chưa bảo
đảm chắc chắn giữ được sự ổn định chính trị, tránh được những “điểm nóng”,
những tình huống chính trị phức tạp. Tình trạng mất dân chủ, không công bằng,
nạn tham nhũng phát triển và kéo dài, các thế lực thù địch và các phần tử xấu lợi
dụng tình hình đó kích động, làm bùng lên các mâu thuẫn dân tộc và tôn giáo từ
lịch sử, các bất đồng giữa người dân đối với một bộ phận cán bộ, các khúc mắc nào
đó trong nội bộ nhân dân... có thể dẫn đến các tình huống chính trị phức tạp, thậm
chí mất ổn định chính trị - xã hội. Ý thức rõ điều đó, trong những năm đổi mới vừa
qua, cùng với những đổi mới trong lĩnh vực kinh tế, Đảng ta đã chú trọng đổi mới
chính trị, bảo đảm và phát huy dân chủ, lành mạnh hóa xã hội, củng cố vững chắc hệ
thống chính trị ở cơ sở, đấu tranh chống tiêu cực và các thủ đoạn phá hoại từ bên ngoài

và từ nội bộ. Còn rất nhiều việc phải làm, nhiều vấn đề về lý luận cần làm rõ trong đổi
mới chính trị để không chỉ giữ được ổn định bằng tăng trưởng kinh tế và đảm bảo đời
sống nhân dân, mà còn củng cố vững chắc sự đoàn kết, đồng thuận xã hội, thực hiện
đúng “ý Đảng” hợp với “lòng dân”, nhưng định hướng đổi mới chính trị của Đảng là
hướng tới sự ổn định triệt để, ổn định trong thế phát triển, khơng để xảy ra các bất
ổn chính trị bất ngờ.
2. Quan niệm về đổi mới hệ thống chính trị
Khái niệm “hệ thống chính trị” được Đảng ta chính thức sử dụng từ Hội nghị
Trung ương 6 khóa VI, từ đó khái niệm này được các văn kiện của Đảng và Nhà
nước, các tài liệu khoa học, sách báo sử dụng rộng rãi thay cho khái niệm “hệ
thống chuyên chính vô sản” trước đây. Trên tinh thần đổi mới của Đại hội VI, đổi
mới hệ thống chính trị trở thành nội dung trọng yêu và trực tiếp của đổi mới chính
trị. Nhìn lại q trình đổi mới, hồn thiện quan niệm của Đảng về hệ thống chính
trị nước ta những năm qua có thể nhận ra mấy vấn đề lớn sau:
- Việc sử dụng khái niệm hệ thống chính trị đưa lại những nhận thức mới:
nhận rõ và nhấn mạnh tính hệ thống, tính chỉnh thể và mối quan hệ giữa các bộ
phận cấu thành hệ thống - điều mà trước Đại hội VI “chưa được cụ thể hóa thành thế


chế”3; có sự tách biệt tương đối giữa hệ thống tổ chức bộ máy với các yếu tố khác của
nền chính trị; định hình rõ các tổ chức quần chúng, trong đó xác định Mặt trận Tổ
quốc và 5 đồn thể chính trị - xã hội thuộc hệ thống chính trị. Điều này khơng chỉ
khắc phục tính chất chung chung, nặng về bản chất giai cấp và mặt chuyên chính của
khái niệm “hệ thống chun chính vơ sản”, mà cịn thốt khởi sự lúng túng trong việc
cụ thể hóa cơ chế tổng thể “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm
chủ tập thể” được xác định từ Đại hội IV của Đảng.
Về mục tiêu tổng quát của hệ thống chính trị, chỉ hơn hai năm kế từ Hội nghị
Trung ương 6 khóa VI, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII thông qua đã ghi rõ: “Toàn bộ tổ chức và hoạt
động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng

bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân
dân”4. Văn kiện Đại hội VII của Đảng cũng đồng thời xác định: “Thực hiện dân
chủ xã hội chủ nghĩa là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị.
Đây vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới”5. Như vậy, trước hết,
đổi mới hệ thống chính trị khơng phải là thay đổi chế độ chính trị, mà là làm cho
chế độ chính trị đã được kiến lập ở nước ta ngày càng bền vững hơn, thể hiện đúng
đắn và đầy đủ hơn bản chất xã hội chủ nghĩa của nó, phát huy tính ưu việt và vai
trị tích cực của chính trị đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới hệ thơng
chính trị là nhằm làm cho các bộ phận cấu thành hệ thống hoạt động có hiệu lực và
hiệu quả cao hơn, khắc phục bệnh quan liêu, hình thức, trên cơ sở xác định rõ, thực
hiện đúng chức năng nhiệm vụ của từng tổ chức và xác lập cơ chế vận hành thông
suốt chặt chẽ của cả hệ thống, theo sự lãnh đạo của “hạt nhân” là Đảng Cộng sản
Việt Nam.
- Quá trình đổi mối hệ thống chính trị, tức hệ thống các tổ chức đại diện
nhân dân, gắn liền với quá trình bảo đảm quyền lực chính trị thật sự thuộc về nhân
dân, từng bước hồn thiện và nâng cao trình độ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Phải
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Sđd, tr. 110.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, Sđd, tr.19.
5
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Sđd, tr. 90.
3
4


xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng chính đáng về dân chủ của dân; căn cứ vào trình
độ giác ngộ và năng lực thực hành dân chủ của dân mà tiến hành đổi mới hệ thống
chính trị; cuối cùng, phải từ sự tiến bộ trong việc nhân dân nắm và sử dụng quyền
làm chủ của mình đối với xã hội, cộng đồng mà đánh giá kết quả của đổi mới hệ
thống chính trị. Từ Đại hội VI, Đảng ta đã xác định: “Dân biết, dân bàn, dân làm,

dân kiểm tra, đó là... thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của
mình”6. Chỉ khi nhân dân - với tư cách là người chủ và người làm chủ, là chủ
thểgốc của quyền lực chính trị - trực tiếp tham gia xây dựng, thực hiện và kiểm tra,
giám sát việc thực thi quvền lực của các tổ chức trong hệ thống chính trị thì mới có
thể xem đổi mới là thành công.
- Công việc đầu tiên trong đổi mới hệ thơng chính trị là xác định rõ vị trí,
chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức và mối quan hệ lẫn nhau giữa các tổ chức đó
trong một thiết chế chung thống nhất, khắc phục tình trạng trùng lắp, lấn sân hoặc
đùn đẩy lẫn nhau, không thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình. Từ Đại hội VII,
Đảng ta xác định rõ: Đảng là bộ phận của hệ thống chính trị, nhưng là bộ phận hạt
nhân lãnh đạo toàn bộ hệ thống ấy; Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, có
chức năng thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, quản
lý toàn diện xã hội; Mặt trận Tổ quốc là liên minh chính trị của các đồn thể nhân
dân và cá nhân tiêu biểu của các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo, là
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, có vai trị quan trọng trong củng cố khối
đại đoàn kết toàn dân, phản biện và giám sát xã hội, góp phần xây dựng Đảng, Nhà
nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
- Trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị là trong những năm đầu tập trung
đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các bộ phận cấu thành hệ thống.Sở
dĩ khẳng định như vậy là vì, các vấn đề khác của nền chính trị vẫn cần đổi mới,
nhưng đã đảm bảo các yêu cầu cơ bản và sẽ đổi mới từng bước; trong khi đó, vấn đề
bức xúc nhất là tình trạng bộ máy cồng kềnh, chồng chéo, nhiều tầng nấc trung gian
không cần thiết gây trở ngại lớn cho sản xuất và quản lý xã hội, các tổ chức của cả
Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân hoạt động kém hiệu quả; làm tốt việc đổi
mới này sẽ tạo điều kiện để đổi mới các khâu khác. Những năm gần đây, những vấn
6

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Sđd, tr. 112.



đề cải cách hành chính; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; đổi mới công tác cán bộ;
làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức... được đặt ra và chú trọng tiến
hành chính là theo đòi hỏi của đổi mới tố chức và phương thức hoạt động của tổng
thể hệ thống chính trị đặt ra từ nửa đầu những năm 90 của thế kỷ XX.
Trong đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị vấn đề mấu
chốt nhất và cũng khó nhất là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, khắc phục
cả hai khuynh hướng thường xãy ra trong thực tế: hoặc là Đảng bao biện, làm thay,
hoặc là buông lởng sự lãnh đạo của Đảng. Để đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng phải trở lại làm rõ, nhận thức đúng vấn đề Đảng cầm quyền, sự lãnh đạo của
Đảng trong điều kiện có chính quyền, dân chủ hóa và thực hiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Rất nhiều vấn đề lý luận về Đảng cầm quyền tưởng
như đã rõ, nhưng thật sự còn phải làm rõ hơn, có khơng ít vấn đề phải nhận thức
lại. Đảng lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện và trực tiếp, nhưng Đảng không làm thay
Nhà nước, không được sử dụng quyền lực nhà nước; Đảng lãnh đạo Nhà nước ban
hành luật pháp, nhưng Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và
pháp luật; Đảng giữ vai trò lãnh đạo chính trị đối với Nhà nước và cả xã hội, nhưng
lãnh đạo chính trị khơng có nghĩa là chỉ lãnh đạo chung chung, chỉ dừng ở việc đề
ra cương lĩnh, đường lối chung, không thể không quyết định những chủ trương,
chính sách lớn liên quan đến sự phát triển kinh tế - xã hội và ổn định chính trị
chung, đến quốc phòng, an ninh và quan hệ đối ngoại của quốc gia, đến công tác
cán bộ của cả hệ thống chính trị, đến đời sống chung của các tầng lớp nhân dân;…
Giải đáp vấn đề tổng quát nêu trên vừa mang tính chính trị, vừa mang tính khoa
học này và vượt lên khởi những lúng túng trong cách đặt vấn đề cải tiến lề lối làm
việc, phong cách công tác trước đó. Tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xãhội, lần đầu tiên Đảng ta nêu ra quan niệm hoàn chỉnh
về phương thức lãnh đạo của Đảng, sau đó Hội nghị Trung ương 3 khóa VII về một
số nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân. Đây là cơ sở để từng cấp xây dựng phương thức lãnh đạo của
Đảng, phương thức quản lý của chính quyền và phương thức hoạt động của Mặt

trận Tổ quốc và từng đồn thể nhân dân, cụ thể hóa thành quy chế phối hợp công


tác giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị của cấp mình.
Xét về phương diện hiệu quả lãnh đạo chính trị, có thể nói rằng, tư duy lý
luận của Đảng ta trong những năm qua về phương thức lãnh đạo của Đảng và đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng tạo ra bước đột phá quan trọng vào khâu khó
nhất, nhạy cảm nhất mà nhiều năm trước chưa tháo gỡ được. Vì vậy, đó là một
bước tiến, một cống hiến quan trọng vào sự phát triển lý luận về Đảng cầm quyền,
trong đó có sự quán triệt và bổ sung tư tưởng Hồ Chí Minh về sự lãnh đạo của
Đảng trong điều kiện có chính quyền.
Đặc biệt coi trọng đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là ở xã, phường,
thị trấn thể hiện nhận thức mới của Đảng về đổi mới chính trị. Trên cơ sở giữ vững
ổn định chính trị, xác định và thực hiện đúng phương hướng đổi mới hệ thống
chính trị nhằm phát huy cao nhất vai trò của các tổ chức trong cả hệ th ống và
quyền làm chủ của nhân dân, khi công cuộc đổi mới ngày càng đi vào chiều sâu,
Đảng ta chủ trương hướng mạnh về cơ sở, quan tâm củng cố cơ sở xã hội của
chính trị, đề cao các sáng kiến sáng tạo từ cơ sở. Theo đó, Bộ Chính trị khóa VIII
ban hành chỉ thị xây dựng Quy chế dân chủ ở cơ sở, trước hết là ở nơng thơn; sau
đó, Quốc hội, Chính phủ ban hành các nghị quyết, nghị định thực hiện chủ trương
lớn này của Đảng. Đặc biệt, Hội nghị Trung ương 5 khóa IX (tháng 3-2002) đã ra
nghị quyết về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phưòng, thị trấn. Đây là lần đầu tiên kể từ khi Đảng cầm quyền và cũng là lần đầu
tiên sau hơn 15 năm lãnh đạo đổi mới đất nước, Đảng ra một nghị quyết về đổi mới
hệ thống chính trị ở cơ sở. Nghị quyết khơng chỉ đáp ứng yêu cầu trước mắt là giải
quyết các vướng mắc trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở,
đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, mà cịn có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Củng cố
vững chắc và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ
sở, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở và phương châm “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra” là đảm bảo chắc chắn nhất cho việc giữ vững ổn định chính trị,

thúc đẩy đổi mới cả kinh tế và chính trị từ cơ sở, phịng ngừa và giải quyết từ sớm
các mâu thuẫn nội bộ nhân dân, chống tiêu cực nội bộ và làm thất bại âm mưu lôi
kéo quần chúng của các phần tử xấu. Nếu tất cả các tổ chức đảng, chính quyền,
đồn thể ở cơ sở đều thật sự gần dân, tin dân, trọng dân, nghe dân; cán bộ, đảng


viên ở cơ sở nêu gương toàn diện trước dân, lời nói đi đơi với việc làm, nghe dân
nói, nói dân hiểu, làm để dân tin, vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật
trung thành của nhân dân; các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở phối hợp
hoạt động chặt chẽ, đồng bộ, phát động được các phong trào cách mạng tích cực
đổi mới thì sẽ khơi dậy mạnh mẽ tiềm năng con người, đất đai, ngành nghề, ý chí
chính trị và truyền thống văn hóa cho thắng lợi của cơng cuộc đổi mới, cơng
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Mặt khác, chính từ những đổi mới trong tổ
chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở mà bộc lộ yêu cầu đổi mới hệ
thống chính trị ở các cấp trên cơ sở. Nhìn tổng quát, đổi mới để củng cố vững chắc
và phát huy cao độ vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở là thiết thực thực hiện
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
chính trị là ý chí và cuộc sống của hàng chục triệu quần chúng, từng bước nâng cao
vai trò tự quản cộng đồng trong quản lý xã hội; là làm theo lời dạy của Hồ Chí
Minh: đem chính trị vào giữa dân gian, cơ sở là nơi Đảng và chính quyền sống
trong lịng dân, là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ với dân.
3. Nhận thức, đổi mới tư duy lý luận của Đảng về dân chủ xã hội chủ
nghĩa và phát huy dân chủ trong điều kiện một Đảng cầm quyền, xây dựng
Nhà nước pháp quyền
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những mục tiêu lớn của
cách mạng nước ta, là một nội dung quan trọng của công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Trước đổi mới, quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin và những lời dạy của Hồ
Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã dày công nghiên cứu, phát triển nhận thức lý
luận về dân chủ và xây dựng nền dân chủ xãhội chủ nghĩa phù hợp điều kiện Việt
Nam, điển hình nhất là lý luận về chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa được xác

lập từ Đại hội IV của Đảng. Tuy nhiên, thực tiễn của đời sống chính trị và của công
cuộc đổi mới đặt ra nhiều vấn đề mới liên quan đến dân chủ. Phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế đều bình đang trước
pháp luật, cơ chế kinh tế thị trường tự nó địi hỏi phải mở rộng dân chủ về kinh tế.
Đổi mới hệ thống chính trị địi hỏi phải điều chỉnh nhiều thiết chế dân chủ để các
tổ chức chính trị, đồn thể chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng tham gia
nhiều hơn, sâu hơn vào công việc nhà nước và xã hội. Người dân - với tư cách là


chủ thể kinh tế (chủ hộ kinh tế gia đình, chủ doanh nghiệp tư nhân, tiểu chủ, nhà
đầu tư bằng việc mua cổ phần...) và cơng dân - có nhu cầu chính đáng tham gia vào
đời sống chính trị, kinh tế và xã hội chung của đất nước, của địa phương và cơ sở
nơi họ sinh sống. Việc mở cửa, hội nhập với thế giới cũng đặt ra yêu cầu mở rộng
tự do, từ làm ăn kinh tế đến trao đổi thơng tin, giao lưu văn hóa, khoa học, đến tự
do báo chí, tự do tín ngưỡng và tơn giáo. Mặt khác, sự trưởng thành của hệ thống
chính trị và dân trí được nâng cao tạo điều kiện để mở rộng hơn nữa dân chủ.
Trong những năm đổi mới vừa qua, những phát triển quan trọng trong nhận
thức về dân chủ thể hiện ở các nội dung chính sau:
- Quan niệm về dân chủ đã được mở rộng. Dân chủ được xem xét theo nhiều
khía cạnh: dân chủ vừa là chế độ chính trị, vừa là giá trị, là phương thức và nguyên
tắc tổ chức xã hội; dân chủ chung trong cả xã hội và dân chủ đối với mỗi cá nhân;
coi trọng cả dân chủ chính trị, dân chủ kinh tế và dân chủ trong các lĩnh vực văn
hóa, xã hội. Điều này phản ánh bước chuyển từ thể chế chính trị dựa trên áp lực,
tuân thủ mệnh lệnh trước đây sang thể chế hợp tác, đồng thuận, đồng trách nhiệm.
Theo đó, sự khác biệt, kể cả một số mâu thuẫn, không bị xem là sự chống đối, là
mâu thuẫn đối kháng; do vậy, không cần thiết dùng áp lực hay cưỡng chế. Người
dân có nhiều lợi ích chính đáng cần được tôn trọng và bảo vệ. Đặc biệt, dân chủ
còn là mục tiêu, là động lực mạnh mẽ cho sự phát triển nhanh và bền vững đất
nước.
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa phải tiếp thu và phát triển các giá trị của nhân

loại về dân chủ, trong đó có dân chủ tư sản. Sự khác biệt về bản chất giữa dân chủ
xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản là rõ ràng, nhưng điều đó khơng ngăn cản việc
tham khảo các thành quả của các nước tiên tiến về quản lý nhà nước, thiết kế bộ
máy tổ chức chính trị, đặc biệt là thiết kế bộ máy quản lý nhà nước, hành chính
cơng, trong đó có sự nhận thức của người dân về trách nhiệm xã hội của mỗi cá
nhân - những vấn đề cịn ít được chú ý ở nước ta, dù nội dung của chúng mang
nhiều tính kỹ thuật, chun mơn hơn là tính chính trị. Đương nhiên, điều đó khơng
đồng nghĩa với việc áp dụng máy móc các hình thức dân chủ ở nước ngồi vào
nước ta.
- Nhận thức về tính tiệm tiến lâu dài trong quá trình phát triển dân chủ: dân


chủ là kết quả của cả một quá trình lâu dài về giáo dục ý thức cũng như nâng cao
năng lực thực hành dân chủ, nên khơng thể nóng vội, thốt ly thực tiễn chính trị
nước ta.
- Phải dân chủ trong tất cả các cấp độ, từ các cơ quan lãnh đạo cao nhất của
đất nước (Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ) đến cấp cơ sở, trong đó đặc biệt
quan trọng là dân chủ ở cơ sở.
- Trong quá trình xây dựng và thực hiện dân chủ cần chống các biểu hiện
lệch lạc: dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để làm tổn hại lợi
ích nhà nước và lợi ích của cơng dân, để gây rối; kiên quyết bác bỏ luận điệu giả
trá về dân chủ, nhân quyền của các thế lực phản động.
- Về các điều kiện xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Với quan niệm chung, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một quá
trình từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện và căn cứ thực tiễn mới
của đất nước, Đảng ta quan tâm tạo dựng các điều kiện để từng bước nâng cao
trình độ dân chủ.
Để dân chủ về kinh tế, Đảng ta đề ra và thực hiện nhất quán chính sách phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần; các thành phần kinh tế đều được khuyến khích,
tạo điều kiện thuận lợi để phát triển, không giới hạn về quy mô, trong tất cả các

ngành nghề mà pháp luật không cấm, cạnh tranh tự do và bình đẳng trước pháp
luật. Theo đó, Đảng và Nhà nước thừa nhận sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu tư
liệu sản xuất, nhiều hình thức tơ chức sản xuất kinh doanh và nhiều hình thức
phân phối. Trong chế độ sở hữu cơng cộng, chúng ta cũng phân biệt quyền sở hữu
công cộng mà Nhà nước là đại diện đối với ruộng đất và vốn nhà nước ở doanh
nghiệp nhà nước với quyền sử dụng giao cho người nông dân, người lao động
trong doanh nghiệp để họ có tồn quyền và tự chịu trách nhiệm trong việc sử
dụng, chuyển nhượng, khoán, cho thuê quyền sử dụng. Có thể nói, người lao
động đã có các quyền hết sức rộng rãi ngay cả với các tư liệu sản xuất côngcộng
để phát huy năng lực sản xuất kinh doanh của mình. Các luật pháp, chính sách
kinh tế của Nhà nước trong những năm qua rõ ràng đã nêu cao vai trò tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp, doanh nhân và người lao động trong cơ
chế thị trường. Sự quản lý của Nhà nước cũng đảm bảo cho quá trình cạnh tranh


diễn ra lành mạnh, đúng pháp luật, khắc phục mặt trái và tính tự phát của cơ chế
thị trường, có sự hỗ trợ cần thiết cho một số đối tượng thuộc chính sách xã hội, ở
vùng đặc biệt khó khăn. Đây chính là một biểu hiện của đặc trưng xã hội chủ
nghĩa trong dân chủ về kinh tế.
Để xây dựng và phát huy dân chủ về chính trị, trước hết và cơ bản nhất là
đổi mới, hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền nhà nước các
cấp, đảm bảo Nhà nước thật sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Việc khẳng định và phấn đấu xây dựng Nhà nước ta thành Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đã tạo những điều kiện và cơ hội quan
trọng nhất để người dân tham gia các q trình chính trị, các công việc nhà
nước, thể hiện cả quyền, năng lực và trách nhiệm của mình trong việc xây dựng
và thực thi dân chủ. Hệ thống pháp luật được bổ sung, sửa đổi; đẩy mạnh cải
cách hành chính; tăng cường công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại và tố cáo
của công dân; tổ chức chất vấn tại Quốc hội và Hội đồng nhân dân, có truyền
hình trực tiếp; các cuộc đối thoại của cán bộ lãnh đạo với doanh nghiệp và nhân

dân; tiếp xúc cử tri; công khai trụ sở cơ quan nhà nước; lập đư ờng dây nóng;
ban hành các quy định về chế độ công chức nhà nước trong hoạt động công vụ;
chú trọng công tác thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân; ban hành Quy chế
dân chủ ở cơ sở; xử lý nghiêm minh các cơ quan và cá nhân công chức nhà nước
vi phạm, buộc tổ chức và cá nhân xử lý sai phải xin lỗi công khai và bồi thường
cho người bị xử lý oan sai;… đã tạo ra môi trường pháp lý và cơ chế để người
dân thực hiện các quyền được luật pháp quy định. Hệ thống các phương tiện
truyền thơng đại chúng rộng lớn được khuyến khích tham gia đấu tranh chống
tiêu cực, giúp các tổ chức và công dân một kênh quan trọng bày t ỏ nguyện vọng,
ý chí và các nhu cầu chính đáng của mình đối với các cơ quan có trách nhiệm.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đẩy mạnh đổi mới tổ chức và
phương thức hoạt động vừa nâng cao giác ngộ, động viên trách nhiệm của nhân
dân, vừa trực tiếp giải quyết một số nguyện vọng của dân, tổ chức để các đồn
viên, hội viên tiên hành các cơng việc tự quản và tham gia với chính quyền đảm
bảo các quyền lợi chính đáng của các tầng lớp nhân dân.
Điều kiện quyết định nhất để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước


ta là Đảng nêu gương về dân chủ và Đảng lãnh đạo tốt quá trình đổi mới hoạt động
của Nhà nước. Trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền, dân chủ trong Đảng
quy định dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, bởi trong tất cả các cơ
quan nhà nước ở các cấp đều có tố chức đảng dưới hình thức này hay hình thức
khác và hầu hết cán bộ chủ chốt của cơ quan nhà nước đều là cán bộ đảng, là đảng
viên; nguyên tắc tập trung dân chủ được áp dụng trong cả tổ chức đảng và cơ quan
nhà nước. Vì vậy, Đảng phải thể hiện sự mẫu mực về thực hành dân chủ và tập
trung dân chủ; bản thân việc này đã là sự đảm bảo cơ bản nhất cho việc thực hiện
dân chủ ở các cơ quan nhà nước. Hơn thế, Đảng phải trực tiếp lãnh đạo q trình
dân chủ hóa, bao gồm cả việc lãnh đạo Nhà nước thực hành đúng dân chủ và việc
lãnh đạo nhân dân tích cực tham gia xây dựng, giám sát các cơ quan, công chức
nhà nước trong việc bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Đảng cịn phải giúp

nhân dân nắm vững đường lơi của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước,
biết sử dụng quyền của mình để địi hỏi chính quyền thực hiện đúng dân chủ;
khơng chỉ tích cực đấu tranh chống các vi phạm quyền làm chủ của dân từ phía
chính quyền, mà cịn đấu tranh với những người dân vi phạm pháp luật, lợi dụng
dân chủ đế gây rôi, chống đơi chính quyền, làm thiệt hại lợi ích nhà nước và lợi ích
cộng đồng.
4. Sự phát triển nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
Thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội VI, trong đó nhiệm vụ trung tâm là
"phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa"; một mặt, phải mở rộng dân chủ,
trước hết là dân chủ trong lĩnh vực kinh tế, trong đó có việc Nhà nước thừa nhận
quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, quyền thừa kế hợp phápcủa công dân; mặt
khác, phải mở rộng giao lưu, thơng thương hàng hóa trong nước và quốc tế, hội
nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Những yêu cầu mới này đều phải được xác định
bằng pháp luật để làm căn cứ, làm chuẩn mực cho sự vận hành kinh tế - xã hội.
Nhận thức của Đảng về nhà nước pháp quyền cũng trải qua quá trình từng
bước vừa mạnh dạn, vừa thận trọng. Đại hội VI bắt đẩu ý thức rõ hơn về vai trò
của pháp luật, nhấn mạnh việc quản lý xã hội bằng pháp luật chứ không chỉ bằng


đạo lý. Đến Đại hội VII, Đảng ta vẫn chưa nêu khái niệm nhà nước pháp quyền,
nhưng trong văn kiện đã xác định những nội dung cải cách nhà nước theo tinh thần
nhà nước pháp quyền và quan hệ trực tiếp đến xây dựng nhà nước pháp quyền:
"Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước theo phương hướng: Nhà nước thực sự là của
dân, do dân và vì dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của
Đảng; tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện thống nhất
quyền lực nhưng phân công, phân cấp rành mạch; bộ máy tinh giản gọn nhẹ và hoạt
động có chất lượng cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật, quản
lý"1. Đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, nhận thức mới về vấn

đề nhà nước pháp quyền được thể hiện khá toàn diện, cụ thể. Hội nghị khẳng định: Tiếp
tục xây dựng và từng bước hồn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp
luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nưóc pháp quyền
Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đồn kết tồn dân,
lấy liên minh giữa giai cấp cơng nhân với nơng dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng,
do Đảng lãnh đạo.
Như vậy, đến đây, lần đầu tiên trong văn kiện của Đảng chính thức sử dụng
khái niệm nhà nước pháp quyền Việt Nam, đồng thời đã chỉ ra những nguyên tắc,
những đặc trưng cơ bản của nó, những nội dung cần tiếp tục thực hiện trên tất cả các
mặt theo định hướng nhà nước pháp quyền. Có thể nói, đó là một bước tiến khá dài
trên con đường nhận thức về nhà nước pháp quyền ở nước ta.
Tại Hội nghị Trung ương 8 khóa VII chuyên đề bàn về Nhà nước, Đảng đã
ra nghị quyết về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính nhà nước. Hội
nghị đã nêu 5 quan điểm cơ bản cần nắm vững trong q trình xây dựng và kiện
tồn Nhà nước.
Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII (tháng 6-1997) ra nghị quyết "về phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cơng hịa xã hơi chủ
nghĩa Viêt Nam trong sạch, vững mạnh", Trung ương Đảng khẳng định tiếp tục
thực hiện nghị quyết Trung ương 8 khóa VII và nhấn mạnh ba yêu cầu: tiếp tục
phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân qua các hình thức dân


chủ đại diện và dân chủ trực tiếp; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước trong
sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
với Nhà nước. Ba yêu cầu trên quan hệ chặt chẽ với nhau, dựa trên nền tảng chung là
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, thực hiện
đại đồn kết dân tộc mà nòng cốt là liên minh giữa cơng nhân với nơng dân và trí
thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hội nghị Trung ương 4 khóa IX (tháng 11-2001) tiếp tục khẳng định bản
chất của Nhà nước ta, nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền cũng như mơ hình
tổng thể của bộ máy nhà nước. Những tư tưởng đó đã được bổ sung vào Hiến pháp
năm 1992 (Điểu 2).
Nhìn lại quá trình nhận thức về Nhà nước pháp quyền trong sự nghiệp đổi
mới thông qua các văn kiện của Đảng và Nhà nước, có thể nêu những nhận xét
chính sau đây:
- Nhận thức về Nhà nước pháp quyền đã trải qua một quá trình khơng đơn
giản, nhưng rõ ràng đã có một bưốc tiến dài trên con đường tiếp cận, nhận thức và
vận dụng nó. Tuy các văn kiện cịn sử dụng những tến gọi khác nhau: "nhà nước
pháp quyền Việt Nam”, "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa", ”Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghla của dân, do dân, vì dân”, nhưng thực chất là thống nhất với
nhau ở những yêu cầu, những đặc trưng cơ bản của nó. Đó là các đặc trưng cơ bản
sau:
Một là, Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Dân ở đây là nhân dân lao động,
nền tảng là liên minh giữa công nhân với nơng dân và trí thức, trên cơ sở đại đồn
kết toàn dân tộc.
Hai là, Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi
trọng giáo dục, nâng cao đạo đức, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Ba là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyển lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
Bốn là, quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động
của Nhà nước.


Năm là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đơi với nước.
Trong q trình đổi mới theo hướng dân chủ và pháp quyền, phải xây dựng
một hệ thông pháp luật mới, phát triển về chất, từ "pháp luật thời bao cấp" chuyển
sang "pháp luật của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", đáp ứng

được yêu cầu sản xuất kinh doanh trong nước và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, Nhà nước ta đã ban hành một khối lượng lớn
văn bản pháp luật, nhiều bộ luật mới ra đời (Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động...),
tham gia ký kết nhiều hiệp định quốc tế. Thủ tục ban hành pháp luật chặt chẽ hơn
nhiêu. Nhờ vậy, hệ thống pháp luật đã đáp ứng được yêu cầu quản lý trong điều
kiện của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Theo yêu cầu của Nhà nước pháp quyền, trong đổi mới tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước đã thu được những kết quả bước đầu quan trọng - như Hội
nghị Trung ương ba khóa IX đánh giá – là có tiến bộ rõ rệt từ cơ cấu tổ chức đến
cơ chế hoạt động, từ lập pháp, hành pháp đến tư pháp". Nhìn tổng quát, đến nay ở
nước ta đã định hình một Nhà nước cơ bản đáp ứng được và thích nghi dần với
những địi hệi của kinh tế thị trường, hội nhập.
Quốc hội đã chụyển từ Quốc hội có phần hình thức sang một Quốc hội hoạt
động thực chất, tranh luận, trí tuệ. Kết quả nổi bật trong hoạt động của Quốc hội ở
thời kỳ đổi mới là một mặt, tăng thêm tính dân chủ (thảo luận, tranh luận...), mặt
khác tăng thêm tính pháp quyền; Quốc hội thực hiện đúng chức năng của mình
theo luật. Chế độ bầu cử đại biểu Quôc hội đã đổi mới theọ yêu cầu dân chủ và
pháp quyền. Theo đó, có thêm nhiều chế định mới, cách làm mới, như có ứng cử
viên tự do, tăng thêm đại biểu chuyên trách, chú ý tiêu chuẩn đại biểu để nhằm
nâng cao chất lượng hoạt động của Quổc hội.
Chính phủ đã có những đổi mới rõ rệt từ cơ cấu tổ chức đến phương thức
hoạt động, về cơ cấu tổ chức, cùng với việc thu gọn bộ máy, đã thực hiện phân biệt
chức năng quản lý hành chính nhà nước với chức năng quản lý sản xuất kinh
doanh, đưa nhiều xí nghiệp ra khởi "Bộ chủ quản", hình thành hệ thơng tổ chức
công ty. Nhờ phân biệt bộ là phạm trù hành chính, với ngành là phạm trù kinh tế kỹ thuật, đã tiên hành sáp nhập nhiều bộ với nhau, làm chức năng quản lý hành
chính đa ngành, đa lĩnh vực. Qua đổi mới, đội ngũ cán bộ, công chức cũng có sự


phát triển, thích nghi dần với yêu cầu quản lý trong điều kiện mới. Cơ chế hoạt
động của Chính phủ cũng có sự đổi mới quan trọng. Chính phủ chủ yếu quản lý ở

tầm vĩ mơ thơng qua các chính sách, kế hoạch, pháp luật, tập trung xây dựng
những ngành kinh tế mũi nhọn có sức cạnh tranh cao; tạo ra được môi trường ổn
định cho sản xuất trong nước và đầu tư nước ngoài; xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo
điểu kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư; tiến hành kiểm tra, thanh tra chặt chẽ trong
quá trình quản lý nhà nước. Đã tiến hành một bước cải cách hành chính, nhất là thủ
tục hành chính, loại bở nhiều "giấy phép con", nhiều "vùng cấm" gây phiền hà, tạo
nên bầu khơng khí thơng thống, cởi mở, dân chủ, thuận lợi cho sản xuất kinh
doanh.
Hệ thống các cơ quan tư pháp cũng đã có một bước cải tiến theo yêu cầu dân
chủ và pháp quyền. Tòa án nhân dân thực hiện đúng hai cấp xét xử, thực hiện đúng
nguyên tắc "độc lập xét xử, chỉ tuân theo pháp luật". Tịa án nhân dân tối cao tập
trung vào cơng tác tổng kết, hướng dẫn các tòa án áp dụng pháp luật thống nhất,
làm tốt chức năng giám đốc xét xử, quản lý tòa án địa phương về một số lĩnh vực.
Chất lượng hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân được nâng cao, hướng vào làm
tốt chức năng công tô' và kiểm sát hoạt động tư pháp, chuyển chức năng kiểm sát
chung cho các cơ quan khác. Đã kiện toàn một bước tô chức thi hành án; chấn
chỉnh các trại giam để giáo dục, cải tạo tốt phạm nhân; củng cố và tăng cường các
tổ chức bổ trợ tư pháp; xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, có
phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực chuyên môn cao. Đặc biệt là, từ khi thực
hiện Nghị quyết sơ' 08- NQ/TW ngày 2-01-2002 của Bộ Chính trị khóa VII "về
một số nhiệm vụ trọng tâm cơng tác tư pháp trong thời gian tới" và chương trình
cơng tác tư pháp của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp, lĩnh vực hoạt động tư pháp đã
có một bước chuyển tích cực từ nhận thức đến tổ chức thực tiễn, từng bước đáp
ứng sự mong đợi của nhân dân.
Trong gần 20 năm đổi mới, chính quyền địa phương cũng đã có một bước
chuyển biến rõ nét theo yêu cầu xây dựng Nhà nưóc pháp quyền, về tổ chức, đã
sửa đổi Luật về Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, trong đó quy định khi bầu
cử phải có ứng cử viên tự do; danh sách ứng cử viên được nhân dân loại trừ từ
dưới lên; số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân nhiều hơn. Đã thực hiện một bước



phân cấp theo hướng mở rộng và tăng quyền hạn cho chính quyến địa phương.
Hoạt động của chính quyển địa phương củng đã có đổi mới, giảm bớt hình thức, đi
vào thực chất, thiết thực và dân chủ hơn. Hội đồng nhân dân có vai trị lớn trong
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Uỷ ban nhân dân các cấp thích nghi dần với
những yêu cầu quản lý mới trong điều kiện kinh tế thị trường.
- Dân trí được nâng cao một bước quan trọng theo hướng dân chủ và pháp
quyền, nhất là ý thức về quyền và nghía vụ của cơng dân đốì với cộng đồng xã hội
có bước phát triển quan trọng trong gần 20 năm đổi mới đất nước. Cùng với sự
tăng thêm hiểu biết về xã hội, về dân chủr pháp luật, ý thức về quyền con người...
lại xuất hiện những nhu cầu mới về dân chủ và pháp quyền, đòi hỏi Nhà nước phải
tiếp tục đổi mới.
5. Nhận thức mới và sự phát triển lý luận về Đảng và công tác xây đựng
Đảng
Nước ta bước vào cơng cuộc đối mới tồn diện trong lúc chủ nghĩa xã hội
thế giới khủng hoảng nghiêm trọng, đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX Đảng
Cộng sản Liên Xô và nhiều Đảng Cộng sản ở các nước Đông Âu mất quyền lãnh
đạo, tan rã. Trong xã hội ta xuất hiện những ý kiến hoài nghi vai trò lãnh đạo của
Đảng, về giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, lý luận Mác - Lênin về
Đảng Cộng sản nói riêng; có ý kiến nêu vấn đề: liệu Đảng có lãnh đạo được việc
xây dựng nền kinh tế thị trường hay không? Nhận thức sâu sắc tư tưởng của các
nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Đảng
ta kiên định lập trường giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, ý thức rõ sứ mệnh lịch
sử của Đảng trong lãnh đạo công cuộc đổi mới, khẳng định rõ: thắng lợi của công
cuộc đổi mới phụ thuộc một cách quyết định vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
Từ đó, Đảng đã nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng trong điều kiện mới, trước hết là đổi mới tư duy về Đảng và công tác xây
dựng Đảng.
Tại Đại hội VI, Đảng ta đã khẳng định: phải chăm lo xây dựng Đảng vững
mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức để từ đó tác động quyết định đến sự phát triển

của cách mạng nước ta.


Đại hội VII của Đảng đặt vấn đề phải tiến hành mạnh mẽ hơn, quyết liệt
hơn, tạo nên bước chuyển biến căn bản của công tác xây dựng Đảng, phải đổi mới,
chỉnh đốn Đảng. Hội nghị Trung ương ba khóa VII khẳng định: "Nhiệm vụ cách
mạng trong giai đoạn mới đòi hỏi Đảng ta phải khẩn trương tự đổi mới, tự chỉnh
đốn. Đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối
với tồn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đối với vận mệnh chế độ ta và
Đảng ta”.
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mói, chúng ta đã đạt được những thành
tựu to lớn, cho phép đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Tình hình chính trị thế giới diễn biến phức tạp, nhiều vấn đề khơng có lợi
cho sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Tình hình đó đặt trước Đảng ta những thách
thức mới. Đảng ta đã xác định: Trong giai đoạn hiện nay, lãnh đạo kinh tế là nhiệm
vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Để Đảng lãnh đạo thực hiện
thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, đưa đất nước vững bước tiến lên trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, Hội
nghị Trung ương sáu (lần 2) khóa VIII ra Nghị quyết quan trọng về một số vấn đề
cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng và phát động toàn Đảng tiến
hành Cuộc vận động, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình
nhân kỷ nệm 30 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và kỷ niệm lần
thứ 70 Ngày thành lập Đảng.
Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã có tác dụng to lớn trong việc
nâng lên năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đáp ứng yêu cầu thực hiện
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, 2001 - 2010 do Đại hội IX của Đảng
đề ra.
Về phương diện nhận thức lý luận liên quan đến vấn đề Đảng và công tác
xây dựng Đảng, trong những năm qua, Đảng ta đã có những tiến bộ đáng ghi nhận:
- Xác định rõ hơn bản chất của Đảng: Đảng là đội tiên phong của giai cấp

công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc.
- Quy định rõ hơn vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của Đảng: Đảng lãnh
đạo HTCT, đồng thời là bộ phận của hệ thống đó.


- Xác định rõ nền tảng tư tưởng của Đảng: Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tẳng tư tưởng, kim chỉ nam chỉ hành động.
- Nhận thức rõ yêu cầu đối với Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền: Cương lĩnh
bổ sung phát triển năm 2011 chỉ rõ: Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp
phần phát triển chủ nghĩa MLN, tư tưởng Hồ Chí Minh; khơng ngừng làm giàu trí
tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức
giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra.
- Xác định đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về vị trí, nội dung, nhiệm vụ cơng tác
xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN.
- Trên lĩnh vực xây dựng Đảng về chính trị, Đảng ta luôn khẳng định phải
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
- Trên lĩnh vực xây dựng Đảng về tư tưởng, khẳng định sự cần thiết phải đẩy
mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nâng cao nhận thức, vận
dụng sáng tạo CN Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với điều kiện Việt Nam.
- Xây dựng Đảng về tổ chức, khẳng định tính đồng bộ, toàn diện trong xây
dựng Đảng ở mọi cấp, thấy rõ hơn, sâu hơn sự tác động qua lại giữa xây dựng tổ
chức Đảng ở cơ sở và cấp trên cở sở.
- Phương thức lãnh đạo của Đảng ngày càng được nhận thức rõ hơn qua các
thời kỳ
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Nhận thức của Đảng về giải quyết mối quan hệ đổi mới kinh tế với đổi
mới chính trị trong cơng cuộc đổi mới ?
2. Qúa trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về phát huy dân chủ trong quá

tronhf đổi mới ?
3. Qúa trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về hệ thống chính trị trong
quá tronhf đổi mới ?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tài liệu tham khảo bắt buộc


1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Trung ương, Báo cáo tổng kết
một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 – 2016), Nxb Chính
trị Quốc gia, H. 2015.
2. Đinh Thế Huyng, Phùng Hữu Phú…. (Chủ biên), 30 năm đổi mới và phát
triển ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2015.
3. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, H.
2008.
4. Giáo trình Lịch sử Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2, Nxb Quân đội
nhân dân, H. 2008.
5. Hỏi đáp Lịch sử Đảng CSVN, Nxb Quân đội nhân dân, H. 2004.
- Tài liệu tham khảo khơng bắt buộc
1. Nguyễn Đức Bình (Chủ biên), Về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2004.
2. Hồ Chí Minh, Về chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, NXB CTQG, H, 1998, trang 42-376.
3. Nguyễn Trọng Phúc (2001): Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Trọng Phúc (2007): Đổi mới ở Việt Nam thực tiễn và nhận thức lý
luận, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Sự, Con đường đổi mới đưa đất nước thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế xã hội 91986-1996), Nxb Quân đội nhân dân, H. 2014.




×