Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Tư duy lý luận của đội ngũ hiệu trưởng các trường tiểu học hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn (qua thực tế ở tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 114 trang )

Đại học quốc gia hà nội
Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị




Đỗ Thị Thanh Hương




Tư duy lý luận Của đội ngũ Hiệu trưởng
các trường tiểu học hiện nay - một số vấn đề
lý luận và thực tiễn (qua thực tế ở tỉnh Thanh Hóa)







Luận văn thạc sĩ Triết học













Hà nội - 2009
Đại học quốc gia hà nội
Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị
-



Đỗ Thị Thanh Hương



Tư duy lý luận Của đội ngũ Hiệu trưởng
các trường tiểu học hiện nay - một số vấn đề
lý luận và thực tiễn (qua thực tế ở tỉnh Thanh Hóa)




Luận văn thạc sĩ Triết học



Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80




Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. Hồ Trọng Hoài








Hà nội - 2009
Mục lục
Mở đầu 1
Chương 1. Tư duy lý luận và vai trò của tư duy lý luận đối với hoạt
động quản lý của đội ngũ hiệu trưởng các trường tiểu học .7
1.1. Tư duy lý luận - khái niệm và đặc điểm 7
1.1.1. Tư duy lý luận 7
1.1.2. Một số đặc điểm cơ bản của tư duy lý luận 18
1.2. Thực chất hoạt động quản lý và vai trò của tư duy lý luận đối với hoạt
động quản lý của hiệu trưởng các trường Tiểu học 22
1.2.1. Thực chất hoạt động quản lý của người hiệu trưởng tiểu học 22
1.2.2. Vai trò của tư duy lý luận đối với hoạt động quản lý của hiệu trưởng
tiểu học 27
Chương 2. Thực trạng tư duy lý luận của đội ngũ hiệu trưởng các
trường tiểu học ở Thanh Hoá hiện nay .31
2.1. Năng lực tư duy lý luận của đội ngũ Hiệu trưởng các trường tiểu học ở
Thanh Hóa hiện nay - Ưu điểm và nguyên nhân 31
2.1.1. Ưu điểm 31
2.1.2. Nguyên nhân 41
2.2. Năng lực tư duy lý luận của đội ngũ Hiệu trưởng các trường tiểu học ở
Thanh Hóa hiện nay - Hạn chế và nguyên nhân 42

2.2.1. Hạn chế 42
2.2.2. Nguyên nhân 49
Chương 3. Phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao trình độ tư duy lý
luận cho đội ngũ Hiệu Trưởng các trường tiểu học ở Thanh Hoá
hiện nay .59
3.1. Phương hướng 59
3.1.1. Mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng tư duy lý luận cho đội ngũ hiệu trưởng
các trường tiểu học ở Thanh Hóa trong thời kỳ mới 65
3.1.2. Định hướng đổi mới nội dung đào tạo, bồi dưỡng để thực hiện nâng
cao tư duy lý luận cho đội ngũ các hiệu trưởng tiểu học 67
3.1.3. Định hướng đổi mới phương thức bồi dưỡng để thực hiện nâng cao tư
duy lý luận cho đội ngũ các hiệu trưởng tiểu học 69
3.2. Một số giải pháp chủ yếu 69
3.2.1. Đề cao giáo dục và tự giáo dục 70
3.2.2. Cải thiện môi trường kinh tế xã hội 70
3.2.3. Tăng cường hoạt động thực tiễn 72
3.2.4. Đổi mới chương trình, nội dung, phương thức đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ hiệu trưởng tiểu học cho phù hợp với nhu cầu thực tiễn và đặc
điểm đối tượng. 73
3.2.5. Tăng cường đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ và rèn
luyện phương pháp tư duy lý luận cho đội ngũ hiệu trưởng các trường
tiểu học 74
3.2.6. Đổi mới công tác cán bộ của Ngành Giáo dục theo hướng sử dụng
đúng người, đúng việc, khuyến khích đội ngũ cán bộ quản lý học tập,
rèn luyện nâng cao trình độ văn hóa, trình độ tư duy lý luận 76
Kết luận 78
Danh mục tài liệu tham khảo 80
Phụ lục 86



1
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Để tiếp tục đổi mới giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu của đất nước
trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, vấn
đề vai trò cực kỳ quan trọng là phải nâng cao năng lực quản lý và đổi mới cơ
chế quản lý đối với giáo dục và đào tạo. Yêu cầu đổi mới quản lý trường học
là rất bức thiết, bởi các vấn đề phức tạp nảy sinh đều có căn nguyên từ khâu
quản lý trường học. Tuy vậy, muốn đổi mới quản lý trường học thì trước hết
phải nâng cao năng lực quản lý của hiệu trưởng (và các phó hiệu trưởng, gọi
chung là cán bộ quản lý).
Năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý trường học phụ thuộc vào
rất nhiều yếu tố, trong đó có một yếu tố rất quan trọng mà lâu nay chưa được
coi trọng đúng mức, nhất là đối với đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học,
đó là năng lực tư duy lý luận. Bởi vì nhờ tư duy lý luận mà người quản lý có
thể nắm bắt chính xác bản chất của các hiện tượng. Đó là cơ sở để đưa ra các
quyết định một cách chính xác và kịp thời.
Hiện nay nhìn chung công tác quản lý giáo dục của các nhà trường
đang còn nhiều bất cập, thậm chí là yếu kém. Vì vậy, đã hạn chế nhiều đến sự
tiến bộ của giáo dục và đào tạo, trước hết là về chất lượng dạy và học, và có
khi còn là chỗ dựa cho tiêu cực nảy sinh. Đối với bậc tiểu học thì những hạn
chế này càng dễ nhận ra và càng đáng lưu tâm trước hết, vì đây là bậc học,
nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, có số trường lớp và số học sinh rất
đông đảo, và vì chất lượng và hiệu quả của giáo dục tiểu học liên quan đến
hầu như mọi gia đình và tất cả cộng đồng xã hội. Biểu hiện khá phổ biến ở
bậc học này là: giáo điều, rập khuôn, đến mức cứng nhắc, không dám đổi
mới, rụt rè trong sáng tạo, thiếu tầm nhìn rộng và lâu dài, hay lúng túng trước
những phát sinh mới, thường hay dùng các biện pháp đối phó "ăn đong" hơn
là các giải pháp "đón đầu", ra quyết định quản lý giáo dục thường dựa vào


2
kinh nghiệm và uy quyền hơn là sự thông tuệ lý luận. Những biểu hiện này
suy cho cùng có nguyên nhân từ năng lực tư duy quản lý giáo dục còn thấp,
vẫn nặng về tư duy kinh nghiệm, chưa đạt đến trình độ cao của tư duy lý luận.
Mấy chục năm qua, ngành giáo dục và đào tạo đã rất chú ý bồi dưỡng
nghiệp vụ quản lý giáo dục cho đội ngũ cán bộ quản lý các trường học nói
chung và các trường tiểu học nói riêng. Ví dụ ở Thanh Hóa có 729 trường tiểu
học với hơn 1750 cán bộ quản lý thì đã có 69% được đi học bồi dưỡng nghiệp
vụ quản lý giáo dục, trong đó hiệu trưởng gần như 100%. Nhưng do nhiều
nguyên nhân nên chất lượng và hiệu quả bồi dưỡng còn thấp, người học xong
không phát huy được kết quả bồi dưỡng để nâng cao trình độ quản lý nhà
trường. Xét vào nội dung và phương pháp bồi dưỡng thì thấy có một thiếu sót
kéo dài là: do quá nhấn mạnh yêu cầu bồi dưỡng thiết thực mà đã coi nhẹ yêu
cầu bồi dưỡng tiềm năng, đặc biệt là tiềm năng trí tuệ; nội dung bồi dưỡng
chưa coi trọng việc nâng cao trình độ tư duy lý luận, vì thế cả việc dạy và học
chưa gắn nhiều với phần chuyên môn nghiệp vụ quản lý giáo dục, quản lý nhà
trường tiểu học. Bên cạnh đó, việc chọn cử cán bộ quản lý vẫn theo lối mòn
cũ "sống lâu lên lão làng", tức là quá coi trọng tiêu chí kinh nghiệm và sự
từng trải.
Từ thực trạng đã nêu ở trên và là một cán bộ giảng dạy của Học viện
Quản lý giáo dục nên tác giả đã chọn đề tài: "Tư duy lý luận của đội ngũ
hiệu trưởng các trường tiểu học hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn" (Qua thực tế ở tỉnh Thanh Hoá) làm Luận văn Thạc sỹ của mình, với
mong muốn có được đóng phần vào sự đổi mới trong công tác quản lý nhà
trường ở bậc học này của đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề trình độ lý luận và năng lực tư duy lý luận của người cán bộ
lãnh đạo đã được nhiều tác giả nghiên cứu, đặc biệt là về mặt lý luận, với

3

những góc cạnh và hình thức thể hiện khác nhau, đã được đăng tải trên nhiều
sách, báo, tạp chí. Có thể kể đến như:
- Hồ Văn Thông: “Một số vấn đề tư duy và đổi mới tư duy hiện nay” -
Tạp chí Cộng sản, số 10 - 1987.
- GS.TS Nguyễn Ngọc Long: “Năng lực tư duy lý luận trong quá trình
đổi mới” của, Tạp chí Cộng sản, số 10 - 1987.
- GS.TS Phạm Ngọc Quang: “Yêu cầu mới về năng lực, trí tuệ của
Đảng trong giai đoạn hiện nay” Tạp chí Triết học, số 2 - 1994.
- Vũ Văn Viên: “Rèn luyện, nâng cao năng lực tư duy khoa học cho
sinh viên, học sinh”, Tạp chí Đại học và giáo dục chuyên nghiệp 2 - 1992.
Trong các bài báo trên các tác giả đã trình bày một cách tổng quát vai
trò của tư duy và tiếp cận ở tầm vĩ mô những yêu cầu về năng lực tư duy
trong giai đoạn hiện nay.
Vấn đề tư duy cũng thu hút nhiều tác giả chọn làm đề tài nghiên cứu
cho các luận văn Tiến sỹ, Thạc sỹ. Trong đó:
- Nguyễn Đình Trãi: “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ
giảng viên dạy lý luận Mác - Lênin ở các trường chính trị tỉnh”. Luận án Tiến
sỹ Triết học.
- Vũ Đình Chuyên: “Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán
bộ quản lý, lãnh đạo cấp huyện ở nước ta hiện nay” (qua thực tế tỉnh Kiên
Giang) - Luận văn thạc sỹ Triết học, Hà Nội - 2000.
- Vũ Ngọc Hoằng: “Nâng cao năng lực tư duy luận cho đội ngũ sĩ quan
chỉ huy ở đồn biên phòng trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sỹ Triết
học, Hà nội - 2004.
- Kiều Hồng Mai: “Nâng cao tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo cấp
huyện trong tình hình hiện nay qua khảo sát ở tỉnh Hà Tây”, Luận văn thạc sỹ
Triết học

4
Các công trình này đã phân tích thực trạng, nguyên nhân và đã đưa ra

một số giải pháp nhằm nâng cao tư duy lý luận với đối tượng, phạm vi mà tác
giả khảo sát
Vấn đề năng lực quản lý của cán bộ quản lý giáo dục nói chung thì
cũng đã được bàn thảo, giảng giải nhiều trong các trường lớp bồi dưỡng
nghiệp vụ quản lý giáo dục ở Trung ương cũng như ở các tỉnh, được chọn làm
đề tài nghiên cứu cho các luận văn Thạc sĩ, Tiến sỹ chuyên ngành quản lý
giáo dục, liên quan đến đề tài của luận văn, phải kể đến những công trình sau:
- Nguyễn Minh Đức: “Hệ thống biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ quản lý trường tiểu học tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn mới”, luận văn
thạc sỹ Quản lý giáo dục, Hà Nội - 1999.
- Lê Thị Mười: “Các biện pháp nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ
cán bộ quản lý các trường tiểu học quận Hai Bà Trưng”, luận văn thạc sỹ
Quản lý giáo dục, Hà Nội - 2003.
- Trần Văn Hạnh: “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo
dục trường tiểu học hiện nay ở tỉnh Thanh Hoá”, luận văn thạc sỹ Quản lý
giáo dục, Hà Nội - 2000
Các công trình nghiên cứu nói trên đã nghiên cứu các khía cạnh khác
nhau và đã có một số kết quả trong việc nghiên cứu những điều kiện khách
quan và chủ quan ảnh hưởng tới năng lực tư duy. Tuy nhiên, vấn đề tư duy lý
luận với tư cách là một phẩm chất của người hiệu trưởng trường tiểu học với
tư cách là một luận văn Thạc sỹ triết học, thì chưa có một tác giả nào đi sâu
nghiên cứu. Hơn nữa, việc đánh giá thực trạng tư duy lý luận và đề ra những
giải pháp cụ thể nhằm nâng cao tư duy lý luận cho đội ngũ hiệu trưởng trường
tiểu học còn rất mới mẻ. Vì vậy, với đề tài luận văn này tác giả hy vọng sẽ
góp phần nhỏ bé của mình vào công tác xây dựng và phát triển đội ngũ hiệu
trưởng tiểu học cũng là góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo đáp
ứng yêu cầu đổi mới đất nước hiện nay.

5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:

* Mục đích:
Phân tích thực trạng tư duy lý luận của đội ngũ hiệu trưởng các trường
tiểu học ở tỉnh Thanh Hoá hiện nay, và đề xuất một số giải pháp góp phần
nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ này đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo của đất nước.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích vai trò của tư duy lý luận trong hoạt động quản lý của người
hiệu trưởng trường tiểu học.
- Khảo sát thực trạng trình độ tư duy lý luận của đội ngũ hiệu trưởng
trường tiểu học (qua thực tế của giáo dục Thanh Hóa).
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao trình độ tư duy lý
luận cho đội ngũ hiệu trưởng các trường tiểu học, đáp ứng yêu cầu nâng cao
chất lượng giáo dục và đào tạo của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Năng lực tư duy lý luận của đội ngũ hiệu trưởng tiểu học.
- Phạm vi nghiên cứu: Năng lực tư duy lý luận của đội ngũ hiệu trưởng
tiểu học của tỉnh Thanh Hóa, biểu hiện qua hoạt động quản lý trong những
năm gần đây.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn vận dụng lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về con
người, về năng lực tư duy lý luận của người quản lý nói chung và đội ngũ
hiệu trưởng tiểu học nói riêng. Luận văn còn kế thừa kết quả nghiên cứu của
tác giả đi trước về vấn đề này.

6
- Luận văn sử dụng các tài liệu của cấp ủy Đảng, Chính quyền và các
tài liệu liên quan đến đề tài của Ngành, Sở và kết quả khảo sát của tác giả ở
các hiệu trưởng trên địa bàn Thanh Hóa.
- Để hoàn thành luận văn này, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên

cứu như phân tích và tổng hợp, lịch sử và lôgic, cụ thể và trừu tượng, phương
pháp hệ thống, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp thống kê và các
phương pháp khác.

7
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ những yêu cầu phát triển năng lực tư duy lý
luận cho cán bộ quản lý giáo dục cấp tiểu học, đặc biệt là cho hiệu trưởng các
trường tiểu học trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
- Bước đầu đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm bồi dưỡng nâng cao
tư duy lý luận chính trị cho hiệu trưởng các trường tiểu học trên địa bàn
Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác giảng dạy,
học tập, nghiên cứu và tiến hành công tác quản lý của hiệu trưởng các trường
tiểu học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1. Tư duy lý luận và vai trò của tư duy lý luận đối với hoạt
động quản lý của đội ngũ hiệu trưởng các trường tiểu học.
Chương 2. Thực trạng tư duy lý luận của đội ngũ hiệu trưởng các
trường tiểu học ở Thanh Hoá hiện nay.
Chương 3. Phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao trình độ tư duy lý
luận cho đội ngũ hiệu trưởng các trường tiểu học ở Thanh Hoá hiện nay.


8
Chương 1
Tư duy lý luận và vai trò của tư duy lý luận
đối với hoạt động quản lý của đội ngũ Hiệu trưởng các trường tiểu học


1.1. Tư duy lý luận - khái niệm và đặc điểm
1.1.1. Tư duy lý luận
1.1.1.1. Khái niệm tư duy
Để xác định nội dung của khái niệm tư duy lý luận, nhằm phân tích vai
trò của tư duy lý luận đối với hoạt động quản lý của đội ngũ hiệu trưởng các
trường tiểu học, trước hết phải làm rõ nội dung khái niệm tư duy và tư duy lý
luận.
Tư duy là đối tượng nghiên của nhiều khoa học như: triết học, tâm lý
học, sinh lý học thần kinh, ngôn ngữ học, lôgíc học Mỗi khoa học nghiên
cứu tư duy ở một góc độ khác nhau. Chẳng hạn, tâm lý học nghiên cứu tư duy
trong mối quan hệ với hành vi của con người, sinh lý học thần kinh nghiên
cứu tư duy trong mối quan hệ với hoạt động sinh lý của bộ não người. Triết
học nghiên cứu tư duy trong quá trình nhận thức với các mối quan hệ giữa tri
thức và hiện thực, giữa chủ thể và khách thể
Trong lịch sử triết học, nhiều nhà triết học khi đề cập đến lý luận nhận
thức cũng đã đề cập đến các cấp độ khác nhau của tư duy. Chẳng hạn: Đê-mô-
crít (460 - 370 TCN) đã nêu ra 2 dạng nhận thức: "mờ tối" - nhận thức qua
cảm giác là nền tảng cho nhận thức "trong sáng" - nhận thức thông qua lôgic,
phán đoán và trí tuệ. Nhưng ông chưa thấy được sự chuyển hoá giữa chúng và
cũng mới thấy sự khác nhau giữa chúng đơn thuần về mặt lượng. Ông coi tư
duy là hỗn hợp các nguyên tử trong cơ thể con người [48, tr.172-173]; Pla-tôn
(427 - 347 TCN) cho rằng, mọi tri thức đều mang tính khái quát cao, đem lại
chân lý và cơ sở cho khoa học, còn sản phẩm của kinh nghiệm, nhận thức cảm

9
tính chỉ là những kiến giải, tưởng tượng về các sự vật đơn nhất. Theo ông,
trong linh hồn con người đã chứa đựng tiềm tàng mọi tri thức, mọi sự có thể
hiểu biết. Vì vậy, ông xem phương pháp cơ bản của nhận thức là sự hồi
tưởng, là sự liên kết các chân lý được hồi tưởng lại. Chỉ có linh hồn trí tuệ

mới có thể nhận biết chân lý; tri thức là cái có trước các sự vật cảm tính, nhận
thức cảm tính có sau nhận thức lý tính và nhận thức không phải là sự phản
ánh sự vật mà chỉ là sự hồi tưởng, là sự liên kết cái chân lý được hồi lại. Chỉ
có linh hồn trí tuệ mới có thể nhận biết chân lý; tri thức là cái có trước các sự
vật cảm tính, nhận thức cảm tính có sau nhận thức lý tính và nhận thức không
phải là sự phản ánh sự vật mà chỉ là sự hồi tưởng lại những linh hồn đã trải
qua trước khi nhập vào thể xác [48, tr.469]. A-rit-xtốt (384 - 322 TCN), là
người đầu tiên khám phá ra những quy luật cơ bản của lôgíc hình thức, đã
khẳng định khả năng nhận thức thế giới của con người và coi quá trình nhận
thức là sự khám phá chân lý đích thực về bản chất của sự vật. Ông đề cao vai
trò của nhận thức cảm tính, coi đó là giai đoạn đầu tiên và là điểm xuất phát
của mọi quá trình nhận thức; tiếp theo là nhận thức kinh nghiệm, cao hơn là
nhận thức nghệ thuật, và nhận thức khoa học là dạng cao nhất. Ông đánh giá
cao nhận thức lý tính với những thao tác tư duy như trừu tượng, khái quát
hoá… Thế nhưng, ông lại thần thánh hóa nhận thức lý tính coi nó như một
thuộc tính của linh hồn thượng đế [48, tr.8-9].
Lốc - cơ (1632 - 1704) coi kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi
tri thức, ông hiểu kinh nghiệm không chỉ là khả năng nhận thức cảm tính mà
là cả bản thân lý tính. Theo ông, giai đoạn đầu tiên của nhận thức kinh
nghiệm tạo ra "ý niệm giản đơn", sau đó là giai đoạn lý tính với các hoạt động
so sánh, phân tích… và kết quả là các phạm trù, khái niệm chung thể hiện
những đặc tính giống nhau của một nhóm sự vật tạo ra "ý niệm phức tạp", các
"ý niệm giản đơn" là các sản phẩm tự nhiên mang tính quy luật của các sự vật

10
tác động vào con người, còn "ý niệm phức tạp" lại là kết quả của hoạt động lý
tính chủ quan [48, tr.329-330]. Béc-cơ-li (1685 - 1753) lại đặc biệt đề cao
cảm giác, ông đồng nhất ý niệm của con người với cảm giác. Các khái niệm
trừu tượng được cấu thành bởi cảm giác, chúng là kết quả của sự so sánh và
phân tích các cảm giác. Với ông, cảm giác là điểm xuất phát và là dạng nhận

thức cơ bản, cả thế giới chỉ là sự tổ hợp của các cảm giác [48, tr.30].
Phơ - bách (1804 - 1872) cho rằng, nhận thức là một quá trình gồm hai
giai đoạn: nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Ông nhấn mạnh bản chất
sinh học của con người - chủ thể của nhận thức là con người nói chung với tư
cách là sinh vật đau khổ có cảm giác, có tư duy, con người đó đứng ngoài xã
hội phụ thuộc một cách thụ động vào giới tự nhiên. Theo ông, lý tính có vai
trò nối liền những cái rời rạc mà con người nhận thức được. Ông cho rằng,
con người đọc được quyển sách về tự nhiên là nhờ có tư duy. Tư duy là giai
đoạn cao của nhận thức [48, tr.450- 452]. Hê-ghen (1770 - 1831) cho rằng, tư
duy rộng hơn năng lực chủ quan thuần tuý. Ông hiểu tư duy không chỉ là ý
thức cá nhân của con người mà còn hiểu nó là ý niệm tuyệt đối sáng tạo ra thế
giới và con người. Theo ông, "tư duy cho nó" là ý niệm tuyệt đối tạo nên bản
chất của toàn bộ hiện thực còn "tư duy cho nó" mới là tư duy đích thực, tư
duy phát triển ở giai đoạn cao nhất, tư duy của mỗi con người phải hoạt động
theo những quy luật chung của tư duy, tức "tư duy tự nó" [48, tr.230-232].
Qua xem xét một số quan điểm cơ bản về lý luận nhận thức trong lịch
sử triết học, ta thấy dù theo lập trường duy tâm hay duy vật, trong sự kế thừa
lẫn nhau, các nhà triết học trước Mác đã đạt những thành quả nhất định trong
việc phân định các giai đoạn nhận thức, khẳng định vai trò của cảm giác, của
kinh nghiệm hoặc của lý tính tư duy. Tuy nhiên, vẫn chưa có quan điểm nào
giải quyết một cách đúng đắn về quá trình nhận thức, về mối quan hệ biện
chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính trên lập trường duy vật

11
biện chứng. Vì vậy, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng nhận thức triết học về
tư duy của các nhà triết học trước Mác vẫn còn hạn chế.
Triết học duy vật biện chứng nghiên cứu tư duy trong mối quan hệ với
thế giới khách quan thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Tư duy
hình thức cao nhất của sự phản ánh tích cực hiện thực khách quan bởi con
người. Đó là trình độ phản ánh khái quát hóa, trừu tượng hóa và mang tính

sáng tạo, hướng vào nhận thức bản chất, vào quy luật vận động và phát triển
của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Tư duy là quá trình con
người so sánh các tài liệu thu nhận được từ cảm tính, phân tích, suy xét, luận
chứng để rút ra các tri thức mới. Tư duy diễn ra dưới các hình thức khái niệm,
phán đoán, suy luận. Kết quả của tư duy bao giờ cũng phản ánh khái quát các
mối liên hệ cơ bản, phổ biến ở nhiều sự vật, hiện thực và được biểu đạt dưới
dạng ngôn ngữ - vỏ vật chất của tư duy.
Đó là quá trình suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng, kết hợp các khái niệm,
phạm trù theo các nguyên tắc, các quy luật của lôgic hình thức và lôgic biện
chứng nhằm đạt đến chân lý.
ở trình độ của tư duy thì sự vật hiện tượng được phản ánh khái quát
dưới các hình thức khái niệm, phán đoán, suy lý, tức là được diễn đạt bằng
ngôn ngữ, ra ngôn ngữ để có thể tiếp tục phát triển và lưu giữ.
Tư duy chỉ phát sinh và phát triển trong hoạt động thực tiễn của con
người và chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng đắn của tư duy.
Trình độ của tư duy biến đổi theo sự phát triển của kinh tế xã hội, và
khác nhau giữa các cá thể con người, biến đổi theo thời gian đối với một cá
thể con người.
Nhìn chung căn cứ vào trình độ phản ánh thế giới hiện thực, người ta
có thể chia tư duy thành hai cấp độ là tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận.

12
Tư duy kinh nghiệm là trình độ thấp của tư duy, đó là sự phản ánh về
sự vật, hiện tượng ở những biểu hiện bề ngoài. Tư duy kinh nghiệm thường
dừng lại ở việc mô tả sự vật, hiện tượng hoặc quá trình đơn nhất nào đó.
1.1.1.2. Khái niệm tư duy lý luận
Sự xuất hiện của tư duy lý luận là do nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn.
Hoạt động thực tiễn của con người càng ngày càng phong phú, đa dạng, nhu
cầu con người ngày càng cao hơn đã kích thích nhận thức, đặt ra nhiều vấn đề
mới phải nhận thức, khi tư duy kinh nghiệm không đáp ứng được những nhu

cầu đòi hỏi của cuộc sống, tất yếu tư duy phải được nâng lên ở trình độ cao
hơn.
Tư duy lý luận là trình độ cao nhất của tư duy. ở cấp độ này, thế giới
hiện thực được nhận thức ở trình độ lý luận dưới dạng các khái niệm, phạm
trù, quy luật, đóng vai trò phương pháp luận trong nhận thức khoa học và hoạt
động thực tiễn. Tư duy lý luận dựa trên các phương tiện, phạm trù, quy luật.
Các khái niệm, phạm trù, quy luật về một lĩnh vực nào đó được sắp xếp theo
một trật tự lôgíc nhất định, hình thành một hệ thống lý luận, đóng vai trò
phương pháp luận trong nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn.
Tư duy lý luận là hình thức cao nhất của tư duy, nó chính là quá trình
tiếp cận một cách sáng tạo, nắm bắt, nhận thức và tái hiện lại hiện thực khách
quan. Là hình thức cao nhất của tư duy, tư duy lý luận nắm bắt, vận dụng các
khái niệm, phạm trù theo những nguyên tắc logic chặt chẽ nhằm đạt đến chân
lý. Đương nhiên quá trình này không phải giản đơn, ngẫu nhiên, rời rạc mà là
có quy trình, có hệ thống cũng như mang tính chỉnh thể cao.
Tư duy lý luận - có khả năng phản ánh khái quát, gián tiếp những thuộc
tính, mối liên hệ bên trong, bản chất của sự vật, hiện tượng. Từ đó, các sự vật,
hiện tượng ấy được phản ánh một cách chính xác, sâu sắc. Hơn nữa, những
sản phầm của tư duy lý luận (những tri thức, những quan điểm, quan niệm của

13
con người) phải đạt tới trình độ lý luận. Thông qua những giả thuyết và lý
thuyết với tư cách là những công cụ chủ yếu của tư duy lý luận, trên cơ sở đó,
tư duy lý luận nâng nhận thức của con người lên một trình độ cao hơn về chất;
nó không những nhận thức được thực chất của cái đã, đang có mà còn là cái
sẽ xảy ra, tức là những dự báo khoa học về sự vật, hiện tượng trong thế giới
khách quan. Đây chính là sức mạnh của tư duy lý luận, nên nó đem lại nhận
thức sâu sắc, đầy đủ, hệ thống, mang tính chỉnh thể về quy luật, bản chất của
hiện thực khách quan. Hơn nữa, với tư duy lý luận, chủ thể tư duy mang đặc
tính khoa học và sử dụng những tri thức lý luận lên hàng đầu, và sử dụng

những tri thức đạt được như là công cụ, phương pháp khoa học để tìm tòi,
phát hiện những mâu thuẫn và những vấn đề mới nảy sinh, trên cơ sở đưa ra
những biện pháp, giải pháp mới để giải quyết. Đây là điều mà tư duy thông
thường không thể có được. Tư duy lý luận còn có khả năng phê phán và tự
phê một cách sâu sắc và triệt để. Chính khả năng này, đã đảm bảo cho nhận
thức của chúng ta thực sự phát huy để đạt tới một nỗ lực cao của ý chí nhằm
nhận thức đúng bản chất của sự vật, hiện tượng. Có thể thấy rằng, tư duy lý
luận đã chuyển “cái” logic khách quan thành “cái” logic chủ quan, chuyển tất
yếu hiện thực thành những quy luật của lý tính. Hơn nữa, tư duy lý luận là
hình thức tư duy mà nó biểu hiện gồm 2 mặt, nội dung và phương pháp,
chúng thống nhất biện chứng với nhau. Nội dung của tư duy lý luận bao gồm
những hệ thống tri thức đã được khái quát hóa thành khái niệm, phạm trù về
chúng. Còn khi nói đến phương pháp tư duy là cách thức vận hành hay logic
của khái niệm. Sự vận dụng, kết hợp của các khái niệm đó với nhau. Từ đó,
mà xuất hiện những tri thức khách quan chân chính khoa học.
Tư duy lý luận, nếu xét về nội dung và cấu trúc có thể hiểu theo ba
nghĩa sau:

14
Nghĩa thứ nhất: tư duy lý luận với tư cách là quá trình vận động để
khám phá, nắm bắt, tái tạo hiện thực. Nếu xét kỹ hơn theo nghĩa này, tư duy
chứa đựng trong nó bốn quá trình khác nhau:
+ Quá trình xâm nhập, tìm hiểu, nắm bắt hiện thực khách quan (hay
quá trình thu thập thông tin).
+ Trên cơ sở có được những dữ liệu về thông tin vè sự vật, tư duy phân
loại, so sánh, phân tích, tổng hợp. Đây chính là quá trình xử lý thông tin của
tư duy lý luận.
+ Trên cơ sở đã có những tri thức tổng hợp nhất định về sự vật, hiện
tượng khách quan, tư duy lý luận sử dụng các thao tác tư duy trừu tượng hóa,
khái quát hóa, hệ thống hóa, tích hợp hóa. Đó chính là quá trình sáng tạo lại

hiện thực khách quan dưới dạng tinh thần theo con đường khái quát hóa, trừu
tượng hóa đi sâu vào nắm bắt quy luật bản chất của hiện thực khách quan.
+ Khi đã có hình ảnh về hiện thực khách quan ở cấp độ bản chất của
nó, chủ thể tư duy sử dụng nó như là công cụ, phương tiện (phương pháp luận
và phương pháp) làm cho hoạt động thực tiễn của con người đạt được mục
đích hiệu quả. Đây chính là quá trình cải tạo hiện thực khách quan của tư duy
lý luận thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Các quá trình này của tư duy không biệt lập tách rời nhau, mà chúng
hòa quyện, đan xen, xâm nhập chuyển hóa, bổ sung và làm điều kiện, tiền đề
cho nhau, từ đó tư duy lý luận tiến gần tới khách thể nghiên cứu.
Nghĩa thứ 2: tư duy lý luận được hiểu như là phương pháp tư duy. Đây
là cách nhìn nhận, đánh giá vốn có của tư duy trong quá trình phản ánh tái tạo
hiện thực khách quan. Tư duy lý luận hiểu theo nghĩa này được hiểu thông
qua các cấp đối lập của nó: tư duy logic đối lập với tư duy phi lôgic, là tư duy
khoa học đối lập với tư duy kinh nghiệm… Nhờ có tư duy lý luận mà chủ thể
tác động khoa học rất coi trọng và biết sử dụng nó như một phương pháp để

15
phát hiện mâu thuẫn và những tình huống có vấn đề, biết tìm kiếm sáng tạo
những phương pháp, biện pháp để giải quyết tình huống ấy.
Nghĩa thứ 3: tư duy lý luận với tư cách là kết quả của quá trình tư duy,
những kết quả đã có, đã hình thành như là sản phẩm của trí tuệ cao có được
do sự tích lũy tri thức trong hoạt động hàng ngày của con người về hiện thực.
ở đây, tư duy lý luận là cái được khái quát lên, hình thành lên từ kinh nghiệm.
Bởi thế nó có thể hiểu là cái đối lập, cái phủ định của tư duy kinh nghiệm trên
một “tầng nấc”, trình độ cao hơn về chất so với tri thức kinh nghiệm.
Tư duy kinh nghiệm thể hiện một cấp độ tư duy con người, nó cũng thể
hiện năng lực trừu tượng hóa của trí tuệ con người tuy còn ở trình độ thấp,
chủ yếu là duy cảm chứ chưa hẳn là duy lý. Bằng tư duy kinh nghiệm, xuất
phát từ thực tiễn cuộc sống, người ta có thể đúc rút ra được những kết luận

khá chính xác về sự vật, hiện tượng riêng lẻ, song chưa thể khái quát được
mối liên hệ cơ bản của các sự vật, hiện tượng. Trình độ tư duy đó mới chỉ
dừng lại ở sự mô tả những đặc điểm, thuộc tính, những mối quan hệ, liên hệ
của các sự vật, hiện tượng hơn là đi sâu phân tích làm rõ bản chất, các quy
luật của sự vật, hiện tượng ấy (tư duy kinh nghiệm là trình độ tư duy phản ánh
sự phát triển tinh thần, tư tưởng, văn hóa xã hội nông thôn cổ truyền. Ví dụ:
các kinh nghiệm trong lao động sản xuất; chống thiên tai, giặc ngoại xâm thể
hiện trong ca dao, tục ngữ…).
Vì thế tư duy kinh nghiệm là tư duy tiền khoa học, tiền lý luận, mang
tính chất tác động trực tiếp cải biến khách thể hiện thực.
Tư duy kinh nghiệm là lối tư duy của những người ít am hiểu về lý luận
khoa học. Tư duy kinh nghiệm hướng vài cái cụ thể, biểu hiện cụ thể là trực
quan, cảm tính, lẻ tẻ, vụn vặt. Kết quả của nhận thức cũng chính là cái cụ thể,
vẫn chưa vươn xa hơn cái cụ thể cảm tính, chưa phải là cái cụ thể trong tư duy
theo đúng nghĩa khoa học.

16
Vì tư duy kinh nghiệm mới chỉ dừng lại ở sự mô tả những đặc điểm
riêng lẻ, các mối liên hệ bên ngoài, ngẫu nhiên nên tri thức kinh nghiệm rất
hạn chế: hời hợt, vụn vặt, giản đơn, đơn nhất. Nhưng lại được coi như cái phổ
biến, cái chung, cái bản chất… Với lối tư duy, suy nghĩ chủ yếu bằng kinh
nghiệm về cả nội dung và phương pháp. Thể hiện như về phương pháp các
thao tác tư duy chỉ dựa trên nếp nghĩ quen thuộc, những lối mòn hình thành
một cách tự phát, vừa cứng nhắc, phi khoa học, phi logic. Tư duy dừng lại ở
trình độ đó, không những không thể nói tới sự sáng tạo mà còn dễ mắc sai
lầm.
Tư duy lý luận là tư duy dựa trên tri thức lý luận và phương pháp nhận
thức khoa học thì bộc lộ những cái chung, cái bản chất của hiện thực khách
quan. Từ đó, chúng được phản ánh một cách chính xác và sâu sắc vấn đề,
đồng thời, tri thức lý luận được hình thành trên cơ sở khái quát tri thức kinh

nghiệm nhờ sức mạnh ở sự trừu tượng hóa và khái quát hóa của tư duy.
Tư duy của chúng ta được khởi nguồn, phát sinh, phát triển trong quá
trình thực tiễn lao động sản xuất. Từ đó, con người mới đúc rút kinh nghiệm
rồi hệ thống hóa, khái quát hóa thành lý luận. Đến một chừng mực nhất định,
lý luận mới tách ra hoạt động tương đối độc lập, tuy nhiên chúng vẫn có mối
liên hệ mật thiết với thực tiễn.
Thực tế chứng minh rằng, tư duy lý luận ngày càng đóng vai trò trong
sự phát triển của các khoa học cũng như thực tiễn xã hội. Sự ra đời và phát
triển của các khoa học vẫn dựa trên cơ sở thực tiễn ngày càng phức tạp, sự tác
động trở lại của các khoa học đối với thực tiễn ngày càng to lớn và chủ động.
Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa
học thì không thể không có tư duy lý luận” [28, tr.489].
Như vậy, tư duy lý luận và thực tiễn sinh động đa dạng, phong phú đó
có một vòng khâu nối tiếp nhau: Thực tiễn - lý luận và lý luận - thực tiễn.

17
Thực tiễn sẽ mù quáng tự phát, quanh co nếu không có lý luận dẫn đường.
Ngược lại, lý luận sẽ lạc hậu, bảo thủ, sáo rỗng, kinh nghiệm, mất đi tính khoa
học nếu xa rời thực tiễn.
Trên cơ sở gắn với thực tiễn, tư duy lý luận không những tư duy bằng
tri thức lý luận mà còn tư duy bằng phương pháp khoa học. Một phương pháp
rất quan trọng của tư duy lý luận khoa học là từ trừu tượng đến cụ thể trong tư
duy. Các Mác đã đánh giá rất cao khả năng trừu tượng hóa của tư duy: “…khi
phân tích hình thái kinh tế, người ta không thể dùng kính hiển vi hay những
phản ứng hóa học. Sức trừu tượng hóa phải thay thế cho cả hai cái đó” [27,
tr.16]. Tư duy lý luận khoa học chứa đựng trong nó khả năng trở thành
phương pháp. Bởi lẽ, lý luận là lập trường, quan điểm, nguyên lý, quy luật mà
phương pháp là hệ thống những nguyên tắc chuẩn mực, yêu cầu, thao tác
được rút ra từ những tri thức lý luận để điều chỉnh hoạt động của con người
nhằm đạt được những mục đích nhất định.

Nếu như trong tư duy kinh nghiệm, các phương pháp và thao tác logic
được hình thành một cách tự phát, ngẫu nhiên, dựa trên những tri thức kinh
nghiệm thì ở tư duy lý luận các phương pháp được hình thành trên những tri
thức lý luận và được nhận thức, sử dụng một cách chủ động và tự giác.
Nếu nhận thức lý luận bằng tư duy kinh nghiệm, chủ thể tư duy chỉ
dừng lại ở trình độ kinh nghiệm thì không tránh khỏi thái độ tuyệt đối hóa
kinh nghiệm và coi thường lý luận; sẽ rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm mà
“những người kinh nghiệm chủ nghĩa là những người vẫn còn là trừu tượng”
[19, tr.38].
Do đó, không thường xuyên trau dồi học tập, tích lũy tri thức và kinh
nghiệm mới, thì đến một lúc nào đó, nguồn kinh nghiệm sẽ bị cạn kiệt hoặc
trở nên mất giá trị trước những biến đổi. Chính vì vậy, nhận thức lý luận bằng
kinh nghiệm chứa đựng nguy cơ kìm hãm con người trong tình trạng lạc hậu,

18
và ngày càng lạc hậu trước biến đổi, phát triển không ngừng của hiện thực
khách quan.
Hạn chế đáng lưu ý của kiểu tư duy kinh nghiệm là nó không có khả
năng phê phán và tự phê phán một cách sâu sắc và triệt để như tư duy lý luận.
Tư duy kinh nghiệm, chủ thể tư duy thường chỉ tin vào kinh nghiệm của bản
thân (mắt thấy tai nghe) và lấy đó làm chuẩn mực, mà ít thấy, hoặc không tiếp
thu những kinh nghiệm của người khác, không thấy được cái mới, cái tích cực
bên ngoài và càng không có khả năng phát hiện cái đang tồn tại đã trở nên lạc
hậu, lỗi thời đang cản trở mình. Song lại có một thái cực khác với tư duy kinh
nghiệm là áp dụng một cách máy móc kinh nghiệm của người khác, nơi khác,
mà không có sự chọn lọc, cân nhắc trước những điều kiện hoàn cảnh cụ thể. ở
thái cực này, người mang tư duy kinh nghiệm đã thiếu quan điểm lịch sử - cụ
thể, nhất định rơi vào bệnh “giáo điều kinh nghiệm”. Người kinh nghiệm chủ
nghĩa thường tầm thường hóa lý luận, kinh nghiệm hóa lý luận, cố cắt xén,
“chế biến” lý luận cho phù hợp với kinh nghiệm của mình. Và do đó, những

người kinh nghiệm chủ nghĩa đã hạ thấp lý luận xuống trình độ kinh nghiệm,
khó có thể tiếp thu được chủ nghĩa Mác - Lênin một cách thực chất, thấu đáo,
khách quan, khoa học.
Khác với tư duy kinh nghiệm, tư duy lý luận khoa học gắn liền với khả
năng phê phán và tự phê phán, chính điều này đảm bảo cho nhận thức thực sự
là một hoạt động nỗ lực cao của lý trí. Người có trình độ tư duy lý luận khoa
học biết cách vượt qua giới hạn của kinh nghiệm, lấy sức mạnh của tư duy lý
luận khoa học để nắm lấy thực chất, bản chất, quy luật vận động của sự vật,
hiện tượng, tìm tòi cái tất yếu, những mối liên hệ mang tính quy luật, khi mà
tư duy kinh nghiệm không thể vượt xa hơn thì tư duy lý luận khoa học bắt đầu
tỏ là ưu thế vốn có của nó.

19
Trong thời đại công nghệ thông tin, tư duy biện chứng vẫn còn nguyên
giá trị, vẫn là đỉnh cao của trí tuệ nhân loại, tư duy đó đã được bổ sung, phát
triển, hoàn thiện trong tình hình mới. Thời đại ngày nay, đang đòi hỏi tư duy
biện chứng duy vật cần hoàn thiện hơn nữa. Đồng thời, cũng tạo ra những tiền
đề khách quan cho sự phát triển hoàn thiện phương pháp tư duy đó. Song,
điều quan trọng là mỗi chủ thể phải không ngừng đổi mới nâng cao năng lực
trình độ tư duy của mình ngang tầm với thời đại mới.
Cái cần cho ta hiện nay đó là tư duy lý luận biện chứng duy vật Mác-xít
một loại hình tư duy được hình thành trên cơ sở đúc kết, chắt lọc những tri
thức tinh túy nhất của khoa học và nó là sản phẩm kết tinh của tư duy nhân
loại. Bao chứa trong đó hạt nhân cơ bản và hợp lý của khoa học hiện đại là
yếu tố duy vật và yếu tố biện chứng - mà hạt nhân của tư duy lý luận Mác-xít
là tư duy triết học Mác-xít.
Lý luận Mác - Lênin là một minh chứng thuyết phục cho vai trò lý luận
khoa học trong tiến trình lịch sử cũng như trong điều kiện hiện nay. Do đó, để
trình độ tư duy gắn với kết quả của việc rèn luyện năng lực tư duy, nên ta phải
hiểu trình độ tư duy như là cấp độ ở những khả năng, hoạt động nhạy bén của

những yếu tố tạo nên năng lực tư duy và năng lực liên kết sử dụng các yếu tố
đó với tư cách như những phương pháp tư duy khoa học. Tuy nhiên, sự so
sánh, phân biệt giữa trình độ tư duy lý luận và năng lực tư duy lý luận chỉ
mang tính tương đối. Năng lực tư duy thế nào nhất định sẽ thể hiện một trình
độ tư duy như thế đó. Trình độ tư duy là nói đến mức độ đạt được về mặt
phương pháp và mặt nội dung tư duy, để đạt đến trình độ tư duy lý luận cao
đòi hỏi chủ thể không ngừng phấn đấu nâng cao năng lực tư duy lý luận.
Đồng thời, bên cạnh đó cũng có một số nhân tố ảnh hưởng đến trình độ tư duy
lý luận. Trước hết phải nói đến sự tác động của cơ sở sinh học (tức những yếu
tố bẩm sinh) và trình độ học vấn ở mỗi người.

20
Tóm lại, cái chúng ta cần hiện nay chính là tư duy lý luận biện chứng
duy vật. Tư duy đó đang ngày càng khẳng định, chứng minh cho vai trò to lớn
của lý luận khoa học và cách mạng đối với tiến trình lịch sử nhân loại.
1.1.2. Một số đặc điểm cơ bản của tư duy lý luận
Nếu xét theo lĩnh vực phản ánh, lĩnh vực nhận thức thì có nhiều loại
hình tư duy: tư duy hình tượng, tư duy kỹ thuật, tư duy thực hành, tư duy lý
thuyết. Nếu xét theo mức độ nông sâu, rộng hẹp của quá trình và kết quả tư
duy thì thường có 2 cấp độ: tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận, khác nhau
về chức năng, đối tượng, phương pháp. Sau đây là đặc điểm cơ bản của tư duy
lý luận:
Thứ nhất: Tư duy lý luận phản ánh thế giới hiện thực một cách gián
tiếp, khái quát cao. Tư duy là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, nảy sinh
trên cơ sở nhận thức cảm tính. Đặc trưng chung của tư duy là sự phản ánh
khái quát, trừu tượng hoá. Tư duy lý luận là trình độ cao của tư duy, nên tư
duy lý luận có đặc điểm là phản ánh khái quát, trừu tượng cao khách thể hiện
thực. Nếu tư duy kinh nghiệm có đối tượng là những khách thể hiện thực
riêng lẻ tồn tại trong không gian, thời gian với sự thống nhất giữa cái chung
và cái riêng, giữa đặc thù và phổ biến… thì tư duy lý luận có đối tượng là

những khách thể trừu tượng, những khái niệm, những phạm trù, những quy
luật. Từ những cái trừu tượng, tư duy lý luận tiến hành tổng hợp, khái quát
thành cái cụ thể trong tư duy. Bởi thế, sản phẩm, kết quả mà tư duy lý luận có
được là sự phản ánh khái quát, trừu tượng cao đối với khách thể hiện thực.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ:“Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm
của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại
trong quá trình lịch sử” [62, tr.497].

21
Tuy nhiên, do phản ánh khái quát và trừu tượng nên tư duy lý luận dễ
xa rời thực tế, dễ sa vào ảo tưởng. Bởi vậy muốn xác định tính chân lý của các
tư tưởng thì lý luận phải gắn liền với thực tiễn.
Thứ hai: Tư duy lý luận phản ánh một cách sâu sắc bản chất của sự vật
hiện tượng. Tư duy kinh nghiệm do giới hạn phản ánh ở từng lĩnh vực, từng
sự kiện riêng lẻ nên tư duy kinh nghiệm thường dừng lại ở mô tả, phân loại
các dữ liệu thu nhận được từ quan sát và thí nghiệm, tư duy kinh nghiệm tuy
đã mang tính trừu tượng và khái quát, song mới chỉ là bước đầu còn nhiều hạn
chế. Tư duy lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao, chủ yếu hướng
vào phân tích, tổng hợp, khái quát chủ yếu tìm ra mối liên hệ bên trong quy
định sự tồn tại, vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng, nên tư duy lý
luận đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, về tính quy luật của các sự vật
khách quan. Vì vậy, tư duy lý luận có khả năng đưa ra những dự báo khoa
học, định hướng cho hoạt động thực tiễn. V.I.Lênin khẳng định: “Không có lý
luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng” [3, tr.30].
Thứ ba: Tư duy lý luận phản ánh sự vật hiện tượng trong tính chỉnh
thể, hệ thống. Thế giới khách quan tồn tại rất đa dạng, phong phú nhưng bất
kỳ một sự vật, hiện tượng nào cũng tồn tại trong một chỉnh thể thống nhất
giữa cái nên trong ổn định, bản chất, bị che đậy với cái bên ngoài phong phú,
sinh động, ngẫu nhiên, hiện tượng. Nhiệm vụ của tư duy lý luận không dừng
lại ở nhận thức hiện tượng, bề ngoài mà phải đi sâu vào bản chất, gạt bỏ cái

ngẫu nhiên, bề ngoài để nắm bắt cái tất yếu, cái quy luật. Tư duy lý luận dựa
trên các khái niệm, phạm trù, quy luật và bằng các thao tác tư duy. Các khái
niệm, phạm trù, quy luật của một lĩnh vực nào đó đựơc sắp xếp theo một trật
tự lôgíc nhất định. Bằng cách đó, tư duy lý luận tái hiện lại quá trình hình
thành và phát triển của khách thể nghiên cứu với toàn bộ các mặt và các quan

×