Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Chuyên đề 3: XÂY DỰNG ĐẢNG THỜI KỲ CẢ NƯỚC QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (1975 1985)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.3 KB, 23 trang )

Chuyên đề 3
XÂY DỰNG ĐẢNG THỜI KỲ CẢ NƯỚC QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI (1975- 1985)
MỤC TIÊU
- Về kiến thức: chuyên đề nhằm cung cấp cho học viên những kiến thức về
công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Về kỹ năng: Trên cơ sở kiến thức được trang bị, học viên rút ra được
những vấn đề cần thiết để giải quyết những vấn đề đặt ra trong công tác xây dựng
Đảng hiện nay.
- Về tư tưởng: Củng cố niềm tin đối với Đảng, khơi dậy niềm say mê nghiên
cứu khoa học, quán triệt sâu sắc các vấn đề cơ bản lịch sử xây dựng Đảng trong
nghiên cứu và giảng dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
NỘI DUNG
1. Đặc điểm tình hình, mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng
Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất. Cả dân tộc
trong niềm vui chiến thắng, thiết tha với độc lập dân tộc và CNXH, sẵn sàng bước
vào công cuộc tái thiết đất nước với tinh thần độc lập, tự lực, tự cường. Đây là thời
kỳ Việt Nam có những điều kiện thuận lợi cơ bản để thực hiện mục tiêu xây dựng
CNXH. Đó là: Đảng và nhân dân ta có kinh nghiệm xây dựng CNXH (cả thành
cơng và chưa thành công) qua thực tiễn xây dựng CNXH ở miền Bắc những năm
1954-1975; nước ta có nguồn nhân lực và tài nguyên phong phú; ở miền Nam, ta
tiếp nhận gần như nguyên vẹn cơ sở hạ tầng, cơ sở kinh tế của chế độ cũ; vị thế của
Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế sau chiến thắng 1975… Trên thế giới,
xu thế đấu tranh cho hồ bình, độc lập, dân tộc có chiều hướng phát triển. Cuộc đấu tranh
của nhân loại tiến bộ vì độc lập tự do, hịa bình và phát triển vẫn đang dâng cao.
Tuy nhiên, có một thực tế là vừa ra khỏi chiến tranh, đi lên CNXH từ xuất phát
điểm thấp, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, kỹ thuật lạc hậu, năng xuất lao
động kém, chúng ta cũng đứng trước rất nhiều khó khăn, gay go, thách thức. Trước
tiên phải kể đến hậu quả nặng nề của chiến tranh. Đế quốc Mỹ ném xuống Việt



Nam 7,85 triệu tấn bom- tương đương với 640 quả bom nguyên tử ném xuống
Hirôsima, giết hại hơn 2 triệu người, 2 triệu người tàn tật, hơn 2 triệu người bị
nhiễm độc, 5 vạn trẻ em bị dị dạng, phá huỷ nhiều cơ sở kỹ thuật, phúc lợi... Riêng
miền Nam, Mỹ rải gần 500.000 tấn chất độc hoá học, gấp 2,5 lần so với Chiến tranhthế
giới thứ hai. Bên cạnh đó, trình độ phát triển kinh tế- xã hội khơng đồng đều ở hai
miền; tàn dư thực dân, phong kiến còn tồn tại phổ biến ở miền Nam. Chúng ta phải
chuyển nền kinh tế cả nước từ chỗ nhận viện trợ khơng hồn lại (với giá trị khoảng
một nửa tổng sản phẩm xã hội hàng năm), sang nền kinh tế chủ yếu dựa vào sức mình.
Trong khi đó, chúng ta phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh quy mô lớn, liên
tiếp ở biên giới phía Tây Nam và phía Bắc trong suốt 5 năm đầu. Sau đó, cịn tiếp
tục chiến đấu trong nhiều năm để chống lại cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt,
bảo vệ vùng biên giới phía Bắc và làm nhiệm vụ quốc tế giúp đỡ nhân dân
Campuchia.
Từ phía quốc tế (và cả trong nước), các thế lực thù địch ln tìm mọi cơ hội
để chống phá cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, nước Mỹ bị tổn thương nghiêm trọng
bởi sự thất bại trong cuộc chiến tranh ViệtNam, tăng cường mọi thủ đoạn, thực hiện
bao vây, cấm vận, cản trở cơng cuộc xây dựng hồ bình của nhân dân ta. Hệ thống
XHCN cũng đã bắt đầu bộc lộ những khó khăn và trì trệ trong phát triển kinh tế xã hội.
Trước tình hình mới, nhiệm vụ đặt ra cho cách mạng Việt Nam lúc này là
phân tích chính xác tình hình thực tiễn, nhận thức đúng những thuận lợi và khó
khăn, tiến hành thống nhất nước nhà về mặt nhà nước, đề ra đường lối xây dựng
CNXH phù hợp, đúng đắn, thực hiện thành công nhiệm vụ đưa đất nước quá độ lên
CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trách nhiệm này đặt ra đối với Đảng CSVN – Đảng cầm quyền là hết sức
nặng nề. Để có thể đảm đương và thực hiện tốt nhiệm vụ mới, yêu cầu đối với
công tác xây dựng Đảng là phải tiến hành toàn diện, nhằm xây dựng Đảng thực sự
trong sạch, vững mạnh, thích ứng với tình hình và điều kiện mới.
2. Chủ trương, biện pháp xây dựng Đảng
a. Xây dựng Đảng về tư tưởng



Đại hội lần thứ IV của Đảng (1976), Đại hội lần thứ V của Đảng (1982) đã
đưa ra những yêu cầu mới đối với lĩnh vực xây dựng Đảng về tư tưởng: Xây dựng
Đảng về tư tưởng phải đảm bảo thật sự vững mạnh; làm cho Đảng ta luôn luôn giữ
vững bản chất cách mạng và khoa học. Thực hiện mục tiêu này, các biện pháp cụ
thể được đề ra là:
(1). Quán triệt đường lối của Đảng, đấu tranh khắc phục những quan điểm
không đúng, trái với đường lối của Đảng; tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác –
Lênin; đấu tranh chống các biểu hiện hữu khuynh, bệnh chủ quan, chủ nghĩa cá
nhân, bè phái, công thần, địa vị…, xây dựng phương pháp tư tưởng của giai cấp
công nhân; bồi dưỡng phẩm chất đạo đức văn minh của giai cấp vơ sản; nâng cao
ý chí chiến đấu, tinh thần cách mạng tiến công; xây dựng ý thức tôn trọng quyền
làm chủ tập thể của nhân dân, chống thói quan liêu, bệnh cửa quyền…; giữ gìn,
bảo vệ sự đồn kết, thống nhất của Đảng; rèn luyện ý thức tổ chức, kỷ luật; đẩy
mạnh giáo dục kiến thức cho đảng viên.
(2). Nâng cao chất lượng của công tác tư tưởng, trước hết là tính khoa học và tính
chiến đấu của cơng tác ấy. Công tác giáo dục lý luận Mác – Lênin phải đi kịp bước phát
triển của những vấn đề lý luận và thực tiễn của cách mạng trong nước, tiếp thu kinh
nghiệm từ các nước XHCN.
Thực hiện định hướng trên, nhiệm vụ đặt ra đối với công tác xây dựng Đảng
về tư tưởng là:
(1). Quán triệt đường lối cách mạng XHCN, nâng cao lập trường giai cấp
công nhân trong cuộc đấu tranh giữa hai con đường TBCN và XHCN. Phải kết
hợp chặt chẽ giữa lý luận với tình hình và kinh nghiệm thực tế trong q trình cụ
thể hố đường lối; triệt để khai thác một cách sáng tạo kho tàng lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, những kinh nghiệm phong phú của ĐCS Liên Xô và của các
đảng anh em, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới;
đồng thời phải rất coi trọng tổng kết tình hình thực tế; xây dựng lập trường cách
mạng kiên định của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh giữa hai con đường,
khắc phục các thiên hướng hữu và “tả”; xác định lập trường kiên định cho cán bộ,

đảng viên.
(2).Xây dựng lập trường kiên định chống đế quốc Mỹ và các thế lực phản


động khác, luôn luôn đề cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng bảo vệ Đảng, bảo vệ
Tổ quốc XHCN. Cần làm rõ cuộc đấu tranh này là gay go, phức tạp, lâu dài và
không khoan nhượng; khắc phục mọi biểu hiện lơ là cảnh giác cách mạng; đề
phòng mọi biểu hiện của tư tưởng thoả hiệp, tư tưởng mệt mỏi, xả hơi trong cán
bộ, đảng viên và nhân dân.
(3).Không ngừng tăng cường đoàn kết quốc tế và giáo dục tinh thần quốc tế
vô sản cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Phải giáo dục cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân hiểu một cách sâu sắc quan điểm và đường lối quốc tế của Đảng ta; phải
không ngừng giáo dục tinh thần quốc tế vô sản cho cán bộ, đảng viên và nhân dân,
khắc phục mọi tư tưởng dân tộc hẹp hòi hoặc dân tộc nước lớn.
Một cách tổng quát, công tác tư tưởng lúc này tập trung vào những việc chủ
yếu:
Tuyên truyền thắng lợi, phát huy truyền thống cách mạng, động viên toàn
Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
giai đoạn mới.
Xây dựng khối đại đoàn kết, thực hiện hoà hợp dân tộc.
Hướng đất nước đi theo con đường XHCN, nâng cao hiểu biết về đường lối
cách mạng XHCN.
Nâng cao ý thức giữ vững hồ bình, tinh thần cảnh giác cách mạng, ý thức
độc lập, tự chủ, bảo vệ Tổ quốc XHCN trong điều kiện mới, nhất định không chịu
khuất phục trước bất cứ thế lực xâm lược nào.
Tuyên truyền cổ vũ cho một số nhân tố mới, đặc biệt trong việc đổi mới cơ
chế quy luật kinh tế theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (khoá IV), tinh thần
Đại hội V.
b. Xây dựng Đảng về chính trị
Tinh thần cơ bản đối với xây dựng Đảng về chính trị được thể hiện nhất

quán qua Nghị quyết Đại hội IV và Đại hội V của Đảng. Các Đại hội chỉ rõ yêu
cầu: Nâng cao chất lượng lãnh đạo chính trị của Đảng, cả về mặt xây dựng
đường lối, chính sách cũng như về mặt tổ chức thực hiện đường lối; xây dựng
Đảng vững mạnh về chính trị.


Thực hiện các chủ trương trên, Đại hội IV của Đảng đã đề ra đường lối
chung về cách mạng XHCN trên phạm vi cả nước, đề ra các chính sách đối nội, đối
ngoại quan trọng; đề ra đường lối chung về kinh tế trong thời kỳ quá độ lên XHCN
ở nước ta. Những phương hướng và mục tiêu lâu dài do Đại hội đề ra cơ bản là
đúng. Trong việc xác định đường lối, Đảng ta đã vận dụng và phát triển chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, tiếp tục
phát triển đưòng lối cách mạng XHCN đã được định ra từ Đại hội III của Đảng (91960) và được bổ sung trong quá trình thực hiện. Đây là Đại hội tồn thắng của sự
nghiệp giải phóng dân tộc, Đại hội thống nhất nước nhà và cả nước đi lên CNXH.
Bên cạnh những thành tựu, Đại hội còn một số hạn chế như: Chưa tổng kết kinh
nghiệm xây dựng CNXH ở miền Bắc; chưa nhấn mạnh tính bức thiết của việc khắc
phục hậu quả chiến tranh; dự kiến thời gian phấn đấu để hồn thành về cơ bản q trình
đưa nước ta từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN trong khoảng 20 năm là
không hiện thực. Như vậy, hạn chế lớn nhất của Đại hội là chưa tìm ra và tơn trọng
quy luật khách quan trong xây dựng CNXH ở một nước có hồn cảnh như nước ta.
Đường lối của Đại hội IV được cụ thể hoá và tổ chức thực hiện qua hàng
loạt các Hội nghị Trung ương những năm 1976-1981:
Hội nghị lần thứ 2 BCH Trung ương Đảng (cuối tháng 6 - đầu tháng 71977), bàn về nông nghiệp và quyết định tập trung mọi lực lượng cho phát triển
nông nghiệp với ba mục tiêu chính là: Bảo đảm lương thực, thực phẩm cho tồn xã
hội và có dự trữ; cung ứng ngun liệu nơng sản, lâm sản, hải sản cho công nghiệp;
tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu.
Các năm tiếp sau, các Hội nghị BCH Trung ương liên tục được tổ chức,
nhằm vạch ra phương hướng, nhiệm vụ, chủ trương, biện pháp thực hiện kế hoạch
Nhà nước hàng năm. Đặc biệt, Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (8-1979), trong hồn
cảnh đất nước có nhiều khó khăn, khủng hoảng kinh tế – xã hội bắt đầu xuất hiện,

đã họp bàn biện pháp tháo gỡ với phương hướng tập trung phát triển hàng tiêu
dùng và hàng cơng nghiệp địa phương, nhằm khắc phục tình trạng khan hiếm
nghiêm trọng các mặt hàng thiết yếu. Đây là bước khởi đầu trong chuyển biến về
tư duy kinh tế của Đảng. Hội nghị thông qua hai Nghị quyết quan trọng (20 –
NQ/TW và 21 – NQ/TW) với cốt lõi là tháo gỡ từng bước những ràng buộc của cơ


chế tập trung quan liêu bao cấp, mở hướng cho sản xuất “bung ra”, kích thích lực
lượng sản xuất phát triển, đáp ứng yêu cầu bức xúc của đời sống. Tiếp sau đó, Bộ
Chính trị ra Nghị quyết 26 – NQ/TW (23-6-1980) về cải tiến công tác phân phối
lưu thông, nhằm tháo gỡ những rối ren, căng thẳng trong lĩnh vực phân phối. Nghị
quyết nhấn mạnh nguyên tắc: Giá cả phù hợp với chi phí sản xuất và lưu thơng, tạo
những tiền đề cần thiết để tiến tới xoá bỏ từng bước chế độ cung cấp theo tem phiếu.
Ngày 13-1-1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 100- CT/TW về cải tiến cơng tác
khốn, mở rộng khốn sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã
nơng nghiệp. Nội dung cơ bản của Chỉ thị 100 là cải tiến mạnh mẽ các hình thức
khốn của đội sản xuất đối với xã viên, mở rộng khoán sản phẩm. Chỉ thị 100 đã
tạo đà đi lên, ngăn chặn sự sa sút của nền nơng nghiệp nước ta. Tuy nhiên, Khốn
100 vẫn còn nhiều bất cập, cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp của Nhà
nước vẫn chưa được tháo gỡ, cơ chế khốn có nhiều mặt bất hợp lý, mức khốn
khơng ổn định, bộ máy quản lý của hợp tác xã cịn cồng kềnh, kém hiệu quả. Tiếp
đó, Chính phủ đã ban hành Quyết định 25-CP (ngày 21-1-1981) và 26-CP (ngày
21-1-1981) để tháo gỡ khó khăn trong các xí nghiệp quốc doanh, các đơn vị sản
xuất kinh doanh của Nhà nước. Hai chỉ thị này nhằm thúc đẩy người lao động hăng
hái sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng thu nhập. Các quyết định này đã giúp
cho các cơ sở tháo gỡ được một phần khó khăn trong sản xuất, khuyến khích người
lao động thi đua tăng năng suất, làm thêm giờ, tiết kiệm nguyên vật liệu, phát huy
sáng kiến. Nhờ đó, tình trạng trì trệ trong sản xuất công nghiệp giảm dần.
Các nghị quyết, chỉ thị đó của Đảng và chính phủ là sự tổng kết tình hình
thực tiễn từ cơ sở lúc đó và là kết quả của cả quá trình đấu tranh khắc phục những

tư tưởng giáo điều, bảo thủ, trì trệ, đồng thời ngăn ngừa khuynh hướng lệch lạc,
buông lỏng quản lý. Việc thực hiện những chủ trương mới này có tác dụng thúc
đẩy công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển, làm cho phần lớn các cơ sở quốc
doanh được duy trì và phát triển được sản xuất.
Tiếp sau Đại hội IV và các Hội nghị Trung ương khóa IV, Đại hội đại biểu
tồn quốc lần thứ V (3-1982) đã có những bước tiến mới về đổi mới tư duy trong
việc tìm con đường đi lên CNXH: Về nội dung, cách thức cơng nghiệp hố trong


chặng đường đầu tiên; về việc cần phải cụ thể hoá đường lối xây dựng CNXH
thành những chặng đường với những biện pháp và nhiệm vụ phù hợp; bước đầu
đưa ra chủ trương đổi mới cơ chế quản lý… Tuy nhiên, Đại hội vẫn chưa vạch ra
được đường lối đổi mới tồn diện. Trong nhiều chủ trương vẫn cịn có sự mâu
thuẫn và chưa thấy được sự cần thiết phải duy trì nền kinh tế nhiều thành phần
trong suốt thời kỳ quá độ, chưa xác định được những quan điểm cụ thể về kết hợp
kế hoạch với thị trường, công tác quản lý lưu thông, phân phối vẫn một chiều do kế
hoạch Nhà nước quyết định. Đại hội coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, nhưng
chưa có chính sách, giải pháp cụ thể và đồng bộ để giải phóng lực lượng sản xuất
trong nông nghiệp.
Từ Đại hội V (1982) đến năm 1985, BCH Trung ương tiến hành 11 hội nghị,
trong đó có nhiều hội nghị bàn về kinh tế – xã hội, cụ thể:
Hội nghị lần thứ 3 (12-1982) xác định mục tiêu về kinh tế – xã hội 3 năm
(1983-1985) là cơ bản ổn định tình hình kinh tế – xã hội. Hội nghị nhấn mạnh
nhiệm vụ phải củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới trong nông nghiệp và
thủ công nghiệp; giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng; thiết lập
trật tự trong lĩnh vực lưu thơng phân phối, nhanh chóng ổn định đời sống nhân dân.
Hội nghị đã thể hiện một bước tiến mới trong nhận thức về lãnh đạo, quản lý kinh
tế của Đảng trong sự nghiệp xây dựng CNXH.
Hội nghị lần thứ 6 (7-1984) bàn sâu về phân phối, lưu thông. Hội nghị nêu ra
hai loại công việc cần làm ngay: Một là, đẩy mạnh thu mua, nắm nguồn hàng, quản

lý chặt chẽ thị trường tự do; hai là, thực hiện điều chỉnh giá cả, tiền lương, tài
chính cho phù hợp với thực tế. Hội nghị lần thứ 7 (12-1984) bàn về kế hoạch Nhà
nước năm 1985 với trọng tâm là đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm, hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, khi nhấn mạnh chủ trương coi nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu, Hội nghị chưa chỉ rõ những chính sách thiết thực để tập trung
cho nông nghiệp. Từ tháng 4 đến tháng 5-1985, Hội nghị Bộ Chính trị đã nghe báo
cáo của Tiểu ban giá - lương – tiền. Hội nghị cho rằng, để thực hiện mục tiêu ổn
định tình hình kinh tế – xã hội, việc đầu tiên cần làm là xoá bỏ chế độ quan liêu,
bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh XHCN, bắt đầu bằng việc giải
quyết giá, lương, tiền. Hội nghị lần thứ 8 (6-1985) họp bàn chuyên về giá - lương –


tiền. Hội nghị chủ trương dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung, bao cấp, thực hiện
đúng hạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN. Hội nghị quyết định tiến hành cuộc
điều chỉnh lớn và toàn diện về giá - lương – tiền lần thứ hai. Hội nghị lần thứ 9
(12-1985) bàn về kế hoạch Nhà nước năm 1986. Hội nghị nêu ba nhiệm vụ của kế
hoạch năm 1986 là: Tập trung giải quyết những nhu cầu bức thiết nhất để từng bước
ổn định tình hình kinh tế - xã hội.
Như vậy, đây là những năm đất nước đương đầu với rất nhiều khó khăn và
rơi vào tình trạng khủng hoảng về kinh tế – xã hội. Trong khó khăn, đã hình thành
tư duy mới, tạo nên những bước chuyển quan trọng.
c. Xây dựng Đảng về tổ chức
Xây dựng Đảng về tổ chức được coi là một trong những lĩnh vực quan trọng
của cơng tác xây dựng Đảng. Vì thế, Đại hội IV (1976) và Đại hội V (1982) của
Đảng đều hết sức chú trọng. Các Đại hội đã nêu lên những yêu cầu cụ thể đối với
xây dựng Đảng về tổ chức: Xây dựng bằng được cơ cấu tổ chức bảo đảm chế độ làm
chủ tập thể XHCN; kiện toàn cơ sở Đảng, ra sức nâng cao tư cách đảng viên và chất
lượng đội ngũ đảng viên của Đảng.
Trên cơ sở đó, các Đại hội chỉ ra những nhiệm vụ cần kíp:
(1). Kiện tồn hệ thống tổ chức và bộ máy của Đảng; (2). Ra sức nâng cao chất

lượng, xây dựng và kiện toàn các chi bộ, đảng bộ cơ sở; (3). Nâng cao chất lượng
đội ngũ đảng viên; (4). Xây dựng đội ngũ cán bộ lớn mạnh phù hợp với yêu cầu của
giai đoạn mới.
Chi bộ cơ sở vững mạnh là những chi bộ: Nắm vững đường lối, chính sách
của Đảng, nắm vững tình hình, đặc điểm của đơn vị cơ sở để xác định vị trí, nhiệm
vụ chính trị của mình; phát huy mạnh mẽ và thật sự bảo đảm quyền làm chủ tập thể
của quần chúng lao động; thường xuyên giữ vững chế độ và nâng cao chất lượng
sinh hoạt chi bộ; bố trí, bồi dưỡng tốt đội ngũ cốt cán, làm cho đội ngũ ấy thật sự
vững vàng, gương mẫu, có năng lực lãnh đạo; xác định rõ hơn nữa nhiệm vụ, chức
năng của các tổ chức cơ sở Đảng và chuyển hướng cơ cấu của tổ chức cơ sở Đảng
cho phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ mới; gắn liền hoạt động với việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị xây dựng huyện, quận, thành phố, xã, phường… xây dựng các
tổ chức sản xuất, kinh doanh, các đơn vị chiến đấu và phát động các phong trào


quần chúng.
Kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng cần phải được tiến hành từ Trung
ương đến cơ sở; kiện toàn BCH các cấp của Đảng; giải quyết tốt một số vấn đề
về hệ thống tổ chức của Đảng ở những ngành và những lĩnh vực hoạt động có
những đặc điểm riêng.
Để bảo đảm chất lượng đội ngũ của Đảng, công tác phát triển Đảng là một
việc phải làm thường xuyên, kịp thời; đồng thời, cần kiên quyết đưa ra khỏi Đảng
tất cả những phần tử cơ hội, thoái hoá, tê liệt ý chí cách mạng, khơng đủ tư cách
đảng viên, khơng cịn tín nhiệm với quần chúng. Phải giáo dục để đảng viên trở
thành những người có giác ngộ lý tưởng cộng sản, tuyệt đối trung thành với cách
mạng; có hiểu biết nhất định về lý luận Mác – Lênin, nắm được đường lối, chính
sách của Đảng; liên hệ chặt chẽ với quần chúng, làm tốt công tác tuyên truyền, vận
động, tổ chức quần chúng; chăm lo xây dựng Đảng, có ý thức tổ chức và kỷ luật,
có tinh thần tự phê bình và phê bình, bảo vệ Đảng, bảo vệ sự đoàn kết thống nhất
của Đảng; thật sự xứng đáng là người chiến sĩ tiên phong của giai cấp công nhân.

Xây dựng đội ngũ cán bộ phải dựa trên nhận thức đúng đắn thành phần xã
hội xuất thân và nắm vững phương hướng lựa chọn cán bộ; có chính sách bồi
dưỡng, đào tạo, bố trí, sử dụng đúng cán bộ, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, cán bộ
quản lý và cán bộ khoa học, kỹ thuật; cải tiến cơng tác cán bộ một cách tồn diện
và nâng cao chất lượng các mặt nghiệp vụ công tác cán bộ, nghiên cứu tốt các
chính sách, chế độ cụ thể. Bên cạnh đó, phải thường xuyên chăm lo xây dựng và
thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; cần tiến hành đổi mới
việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; đổi mới phương pháp chọn và quản lý cán bộ; bố
trí đúng và bảo đảm tính kế thừa trong việc xây dựng đội ngũ cốt cán; ra sức nâng
cao phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, bảo đảm sự vững vàng của Đảng
trong mọi tình thế; đổi mới một cách có hệ thống các chính sách, chế độ đãi ngộ
khen thưởng đối với cán bộ cho phù hợp với cơ chế quản lý mới.
Trên những định hướng lớn mà Đại hội IV và V của Đảng đề ra, đồng thời
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng Đảng về tổ chức thích ứng với thời kỳ cách
mạng mới, công tác xây dựng Đảng về tổ chức được tiến hành với các nội dung:


Xây dựng các tổ chức của Đảng trong hệ thống chính trị
Xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ đất nước
trong giai đoạn mới, việc xây dựng và củng cố hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung
ương đến cơ sở gắn liền với q trình xây dựng và củng cố hệ thống chính trị của
chế độ xã hội mới do Đảng lãnh đạo và gắn với những trọng tâm sau:
- Xây dựng tổ chức của Đảng gắn với việc điều chỉnh quy mô địa giới các
cấp quản lý hành chính – lãnh thổ.
Trước năm 1975, do điều kiện chiến tranh ác liệt, đất nước bị chia cắt thành
hai miền, một số vùng do điều kiện kinh tế chậm phát triển, giao thông liên lạc
kém, nên hệ thống tổ chức của Đảng phải phân ra nhiều cấp, nhiều hình thức tổ
chức quản lý khác nhau. Đó là mơ hình tổ chức sáu cấp, năm cấp, bốn cấp – phụ
thuộc vào các khu vực và tình hình cụ thể. Mơ hình tổ chức đó đã được kiểm
nghiệm là phù hợp với tình hình thực tế, đáp ứng được yêu cầu lãnh đạo của Đảng

trong thời chiến.
Khi đất nước thống nhất, cách mạng chuyển sang giai đoạn mới, Đảng đã
chủ trương xây dựng, củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức lãnh đạo và quản lý phù
hợp với tình hình và yêu cầu mới. Để thực hiện tốt các chủ trương nêu trong Nghị
quyết 24 của BCH Trung ương, các Nghị quyết 254, 255 của BCT (khoá III) về
một số nhiệm vụ cấp bách trước mắt, năm 1975, đã thành lập các Uỷ ban quân
quản, từng bước củng cố chính quyền các cấp ở miền Nam. Đã giải thể Trung ương
Cục miền Nam, giải thể cấp Khu, tổ chức lại địa giới hành chính – lãnh thổ tỉnh và
thành phố trực thuộc Trung ương. Sau Đại hội lần thứ IV của Đảng (1976), Đảng
đã lãnh đạo Quốc hội, thành lập Chính phủ và các cơ quan tư pháp của nước
CHXHCN Việt Nam, thống nhất các tổ chức chính trị – xã hội của cả nước. Đó là
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa căn bản, lâu dài trong công tác tổ chức của
Đảng.
Đã tiến hành điều chỉnh địa giới hành chính – lãnh thổ, sáp nhập 71 tỉnh
thành trước đây thành 35 tỉnh, 3 thành phố và 1 đặc khu trực thuộc Trung ương.
Đến năm 1985, kết thúc quá trình xây dựng cấp huyện theo cơ cấu kinh tế mới (từ
465 còn 425 huyện). Theo hướng đó, cũng đã điều chỉnh lại địa giới các xã,


phường.
Cùng với việc điều chỉnh địa giới, hệ thống tổ chức của Đảng cũng được sắp
xếp lại cho phù hợp, tạo ra sự chuyển biến sâu sắc, nhằm tăng cường sự lãnh đạo
và quản lý, nhất là về quản lý kinh tế. Các cấp uỷ Đảng đã được củng cố, kiện toàn
từ BCH Trung ương đến các cấp uỷ địa phương, cơ sở. Đại hội đại biểu toàn quốc
của Đảng, các Đại hội đại biểu các đảng bộ được tiến hành một cách nề nếp.
Các ban và cơ quan sự nghiệp của Đảng cũng không ngừng được xây dựng,
củng cố. Tuy nhiên, do vẫn áp dụng các cơ chế và chính sách quản lý cũ, nên dần
dần phát triển hệ thống các ban và cơ quan Đảng ở các cấp khá lớn, lúc cao nhất
lên đến 18 ban với các chức năng đươc chia nhỏ để nghiên cứu, tham mưu và quản
lý cán bộ của các ngành như công nghiệp, nông nghiệp, lưu thông phân phối, dân

vận, dân tộc, thế giới, chính trị, tư tưởng, nội chính… và hàng chục đơn vị sự
nghiệp khác. Thời kỳ 1981-1985, mặc dù đã được cải tiến, nhưng ở các cấp Trung
ương vẫn có tới 17 đầu mối. Hệ thống các ban Đảng ở địa phương cũng mở ra
nhiều đầu mối.
- Xây dựng tổ chức của Đảng trong hệ thống chính trị gắn với cải tiến tổ
chức và cơ chế quản lý kinh tế – xã hội.
Về xây dựng tổ chức Đảng trong cơ quan chính quyền, từ năm 1978, với
Nghi quyết Trung ương 4 (khố IV), đã tiến hành kiện tồn tổ chức, đáp ứng yêu
cầu cải tiến cơ chế quản lý theo hướng phân biệt chức năng quản lý Nhà nước về
kinh tế với chức năng trực tiếp quản lý sản xuất kinh doanh. Đã lập các bộ quản lý
tổng hợp nền kinh tế quốc dân và các bộ quản lý nhiều ngành kinh tế – kỹ thuật
theo hai cấp (bộ – xí nghiệp), hoặc 3 cấp (bộ – liên hiệp xí nghiệp – xí nghiệp).
Tuy nhiên, do cơ chế quản lý cũ kéo dài, nên một số chủ trương về kiện toàn tổ
chức, nâng cao chất lượng bộ máy các cấp… đã khơng được thực hiện. Bộ máy
vẫn cịn phình ra quá lớn. Ở cấp Trung ương, thời kỳ cao nhất (1981-1985) có tới
26 bộ, 8 uỷ ban và cơ quan ngang bộ, gần 20 tổng cục; trong các bộ ngành, năm
1981 đã lập tới 766 vụ, cục, 2430 phòng, 120 viện nghiên cứu. Ở các địa phương
cũng có tình trạng tương tự.
Về xây dựng tổ chức Đảng trong các cơ quan dân cử, Mặt trận và các đoàn
thể cũng đã có một số bước tiến mới. Đảng đã lãnh đạo cải tiến tổ chức hoạt động


của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, đổi mới cơng tác bầu cử… Các đồn thể
được chăm lo xây dựng, coi đây là điều kiện để thực hiện tốt cơng tác vận động
quần chúng. Qua đó, hoạt động của một số đoàn thể được đổi mới, đem lại hiệu
quả trên nhiều mặt. Các tổ chức xã hội – nghề nghiệp, nhân đạo… phát triển phong
phú, đa dạng. Cuối năm 1985, có khoảng hơn 100 tổ chức tồn quốc.
Cơng tác xây dựng tổ chức Đảng trong quân đội nhân dân, công an nhân
dân được đẩy mạnh. Đã xây dựng được một hệ thống tổ chức bảo đảm sự lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp của Đảng về mọi mặt.

Xây dựng các tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên
Chuyển sang giai đoạn cách mạng mới, Đảng đã quan tâm chỉ đạo nâng cao
sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo toàn diện của các tổ chức cơ sở Đảng.
Đã có nhiều cố gắng trong việc bồi dưỡng, phát huy những nhân tố mới, củng
cố các cơ sở yếu kém, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ cấp uỷ viên và
cán bộ chủ chốt cơ sở. Việc kiện toàn các tổ chức cơ sở đảng với cuộc vận động xây
dựng cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh theo năm yêu cầu gắn liền với kiện toàn cơ
sở, xây dựng huyện đang được xúc tiến; qua cuộc vận động, diện cơ sở đảng yếu
kém ở nhiều nơi được thu hẹp dần.
Các cấp uỷ và tổ chức đảng ở miền Nam từ tỉnh, thành phố đến cơ sở được xây
dựng đều khắp, có một số đảng bộ có tiến bộ nhanh trong lãnh đạo kinh tế, văn hoá.
Trong số gần 15 vạn chi bộ cả nước thuộc 35.146 tổ chức cơ sở đảng, đã có 39.766 chi
bộ mới được thành lập từ sau Đại hội lần thứ IV của Đảng.
Từ năm 1979, công tác phát triển đảng viên được đẩy mạnh. Tính đến tháng
12-1981, Đảng ta hiện có 1.727.784 đảng viên, hoạt động trong 35.146 đảng bộ cơ
sở. Trong số đảng viên được kết nạp từ sau Đại hội lần thứ IV của Đảng, thì 59%
đã được kết nạp trong quân đội. Trong bảy năm (1979-1985) đã kết nạp được
431.922 đảng viên. Trong đó thành phần cơng nhân là 13,2%; phụ nữ là 15,68%;
dân tộc thiểu số là 7,22%; văn hóa cấp III chiếm 42,94%, đại học 5,57%, tuổi trẻ
chiếm 86,32%. Đảng bộ quân đội phát triển khá mạnh, có năm số đảng viên
quân đội được kết nạp chiếm tới 63,28% tổng số đảng viên mới kết nạp trong
tồn quốc. Chất lượng đảng viên nói chung tốt, gồm những đồng chí trẻ, nhiệt


tình, có trình độ văn hóa khá, bảo đảm đúng nguyên tắc, thủ tục kết nạp. Việc
kết nạp đảng viên mới đã góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ của Đảng, lập
thêm nhiều chi bộ đảng. Công tác phát triển đảng viên mới được đẩy mạnh ở
những vùng quan trọng như đồng bằng, đô thị, biên giới…. Trong 10 năm đó,
Đảng đã đưa ra khỏi đội ngũ của mình nhiều người không đủ tư cách đảng viên.
Để tăng cường giáo dục và quản lý đảng viên, ngày 26-11-1979, Ban Bí thư

ra Chỉ thị số 83-CT/TW về việc phát thẻ đảng viên. Việc phát thẻ Đảng được tiến
hành lần đầu tiên trong Đảng là một cuộc sinh hoạt chính trị sâu rộng, đã nâng cao
ý thức đảng, tinh thần trách nhiệm của đảng viên. Đầu năm 1982, Ban Tổ chức
Trung ương đã tổ chức Hội nghị tổng kết nghiệp vụ làm thẻ, phát thẻ và quản lý
thẻ. Sau gần ba năm phát thẻ, đã có 99% số tổ chức cơ sở Đảng phát thẻ; 96% số
đảng viên chính thức và 85% số đảng viên dự bị được phát thẻ.
Công tác cán bộ
Đảng và Nhà nước ta cũng chăm lo đào tạo cán bộ đáp ứng các yêu cầu của
nhiệm vụ kinh tế, quốc phòng; đã điều động gần 10 vạn cán bộ cho các tỉnh, thành
phố miền Nam, các huyện biên giới và đi làm nhiệm vụ quốc tế; gần đây đã mở các
lớp bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cao cấp, trung cấp của Đảng và Nhà
nước những kiến thức mới về quản lý kinh tế. Từ năm 1976-1982, có thêm 34 vạn
cán bộ đã tốt nghiệp tại các trường, lớp trung học chuyên nghiệp và đại học. Mỗi lần
đại hội bầu cử cấp uỷ, khoảng trên dưới 1/3 số cấp uỷ viên ở các cấp đã được đổi
mới; số cấp uỷ viên có phẩm chất, có kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý, đã qua
các trường Đảng, số xuất thân từ công nhân được tăng thêm. Trong các tỉnh uỷ,
thành uỷ, số cấp uỷ viên có trình độ đại học nói chung chiếm 27,7% (ở miền Bắc
là 42%; có tỉnh như Hải Hưng 81%); ở các huyện uỷ, số đồng chí có trình độ đại
học và trung học chuyên nghiệp là 24,6% (ở miền Bắc là 32%). Đó là một sự phát
triển mới về trình độ kiến thức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo so với trước Đại hội toàn
quốc lần thứ IV của Đảng.
Trong 10 năm (1976-1985) đã cử 35.250 lượt cán bộ được đi đào tạo, bồi
dưỡng dài hạn và ngắn hạn ở các trường. Đã thay đổi, bố trí hàng loạt cán bộ cho
yêu cầu nhiệm vụ mới, bố trí xen kẽ giữa cán bộ lâu năm, vững vàng về chính trị
với những cán bộ trẻ, năng động. Việc đánh giá, sử dụng cán bộ nói chung khơng


nặng về lý lịch, thành phần, bằng cấp, mà chú ý kết hợp các tiêu chuẩn, lấy hiệu
quả công việc làm căn cứ chủ yếu để đánh giá cán bộ.
Công tác bảo vệ Đảng

Để chống lại các thế lực thù địch ln tìm các chống phá Đảng ta, Đảng đã
chú trọng giáo dục ý thức cảnh giác bảo vệ Đảng cho cán bộ đảng viên, đề ra
những biện pháp thiết thực ngăn chặn trong việc phát triển đảng viên, quản lý đảng
viên, giới thiệu sinh hoạt Đảng, trong việc tuyển dụng, đề bạt, sử dụng cán bộ… để
ngăn ngừa kẻ địch chui vào hàng ngũ, phá hoại Đảng. Thông qua công tác quản lý
đảng viên, quản lý cán bộ, phát hiện kịp thời những cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến
chất về chính trị, về phẩm chất đạo đức, kịp thời đưa ra khỏi Đảng.
d. Về phương thức lãnh đạo của Đảng
Đại hội IV (1976) và Đại hội V (1982) của Đảng trong điều kiện, tình hình
mới bước đầu đã đề cập đến sự cần thiết phải làm cho phương thức lãnh đạo của
Đảng ngày một tốt hơn, hiệu quả hơn. Các Đại hội đã chỉ ra những yêu cầu và mục
tiêu mới đối với phương thức lãnh đạo của Đảng, sửa đổi phương pháp làm việc
của Đảng, nhằm tạo ra một sự chuyển biến mới trong việc nâng cao chất lượng
lãnh đạo của Đảng, đáp ứng những yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ
mới :
Cần chú ý xây dựng một hệ thống các mối quan hệ đúng đắn giữa Đảng, Nhà
nước và nhân dân; không xem nhẹ vai trị của các đồn thể quần chúng và việc xây dựng
mối quan hệ đúng đắn giữa Đảng, Nhà nước với các tổ chức quần chúng; hiểu đúng nội
dung của làm chủ tập thể XHCN.
Cải tiến sự lãnh đạo của Đảng gắn với việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và
việc tinh giản bộ máy, khắc phục quan liêu và bảo thủ trong bộ máy của Đảng và
Nhà nước.
Phải nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng; Đảng lãnh đạo mọi tổ chức
trong hệ thống chuyên chính vô sản; cần khắc phục một cách kiên quyết và dứt
khốt tình trạng lẫn lộn chức năng giữa cơ quan đảng và cơ quan nhà nước kéo dài đã
từ lâu; các đoàn thể quần chúng phải tham gia xây dựng Đảng, xây dựng bộ máy nhà
nước, góp phần kiểm tra đảng viên, cán bộ, nhân viên nhà nước thực hiện đường lối,


chính sách của Đảng, làm nghĩa vụ của mình đối với nhân dân lao động.

Phải đổi mới phương pháp làm việc, xây dựng phong cách làm việc lêninnít
của Đảng. Trước hết phải dứt khoát đổi mới phương pháp chuẩn bị và ra các quyết
định, nhất là đối với các vấn đề kinh tế, theo hướng nâng cao tính khoa học trong
phương pháp làm việc; ra quyết định đúng và tổ chức thực hiện các quyết định để
biến nó thành hiện thực.
Trên thực tế, sau khi thống nhất đất nước, Đảng lãnh đạo nhân dân cả nước
xây dựng CNXH và đã trải qua 10 năm (1975- 1985) với nhiều thách thức, vượt
qua nhiều khó khăn to lớn về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội, đối ngoại… và đã
giành được những thắng lợi to lớn. Việc thống nhất đất nước về mặt Nhà nước,
đánh thắng hai cuộc chiến tranh biên giới ở phía Tây Nam và phía Bắc, bảo vệ tồn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bước đầu khơi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến
tranh, khôi phục sản xuất, ổn định đời sống xã hội, … đã tạo ra những điều kiện
thuận lợi mới, thắng lợi mới. Tuy nhiên trong 10 năm này, Đảng ta cũng phạm
những sai lầm, khuyết điểm về chỉ đạo chiến lược do chủ quan, duy ý chí, khơng
tơn trọng quy luật khách quan, làm cho đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã
hội trầm trọng.
Để bước ra khỏi khủng hoảng, một trong những bước đi cần thiết là phải
thực hiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý”. Thực
hiện cơ chế lãnh đạo nói trên, cần phải thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung
dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách ở trong Đảng và các đoàn thể nhân
dân, thực hiện chế độ thủ trưởng trong các cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức
kinh tế. Đảng không bao biện công việc của Nhà nước, phải ra sức củng cố bộ máy
Nhà nước đủ mạnh, làm cho Nhà nước thể hiện sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và
quyền làm chủ thực sự của nhân dân, tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng, công
tác quản lý của Nhà nước về kinh tế, văn hố, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối
ngoại…
Đảng chủ trương coi trọng chất lượng, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả sản xuất
và cơng tác trong khi kiện tồn bộ máy tổ chức của các ngành, các cấp, cấp trên phải
hướng về và phục vụ cho cơ sở một cách thiết thực. Phải xuất phát từ yêu cầu thực tế



mà xây dựng tổ chức và bố trí cán bộ, khắc phục tình trạng tập trung quan liêu, cồng
kềnh, phân tán, lỏng lẻo. Tập trung kiện toàn những khâu xung yếu, tinh giản bộ
máy. Đề cao chế độ trách nhiệm tập thể và cá nhân, làm cho Nghị quyết của Đảng,
kế hoạch của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh.
Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khố IV đề ra vấn đề bố
trí lại đội ngũ cán bộ theo yêu cầu nhiệm vụ mới, tăng cường cán bộ cho những
ngành then chốt, cấp huyện và cơ sở, nâng cao năng lực và phẩm chất cán bộ, đảng
viên, kiện toàn tổ chức, cải tiến chế độ làm việc, quyền hạn cân xứng với trách
nhiệm, tổ chức thực hiện dứt điểm các nghị quyết, chủ trương, thực hiện nghiêm túc
chức trách, quyền hạn của từng tổ chức, từng người.
3. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân
3.1. Thành tựu, hạn chế
Trong xây dựng Đảng về tư tưởng
Đảng đã đưa ra những phương hướng công tác tư tưởng về cơ bản là đúng
đắn. Công tác tư tưởng được đẩy mạnh. Hệ thống trường đảng các cấp được mở
rộng, công tác giáo dục lý luận chính trị được tăng cường. Trên một triệu đảng viên
đã được học tập, bồi dưỡng về chính trị, lý luận theo các chương trình khác nhau.
Báo chí, đài phát thanh, vơ tuyến truyền hình, cơng tác văn hố, văn nghệ và các
cơng cụ tun truyền khác của Đảng, Nhà nước đã góp phần tăng cường một bước
mặt trận tư tưởng của Đảng. Công tác tư tưởng đã góp phần thúc đẩy cơng cuộc cải
tạo XHCN, phát triển kinh tế, văn hoá, động viên cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc,
giữ gìn an ninh, chính trị, trật tự xã hội… tạo ra sự nhất trí, tin tưởng của đông đảo
cán bộ, đảng viên và nhân dân, thúc đẩy các đơn vị cơ sở, các cấp, các ngành phấn
đấu vươn lên trong sản xuất, kinh doanh theo phương hướng xoá bỏ cơ chế quản lý
tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh tế, kinh doanh XHCN và
thực hiện cơ chế quản lý mới. Những cố gắng trong công tác xây dựng Đảng về tư
tưởng đã góp phần nâng cao trình độ và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, bảo
đảm thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng, góp phần giữ vững ổn định đổi mới trong
thời kỳ mới.

Cán bộ, đảng viên và nhân dân vẫn cịn lo lắng về đời sống của mình và lo
ngại về hiệu lực điều hành công việc kinh tế và xã hội của Đảng và Nhà nước. Bên


cạnh những biểu hiện chủ quan, nóng vội, trong Đảng cịn những biểu hiện tư
tưởng bảo thủ; vừa có tình trạng tập trung quan liêu, thiếu dân chủ, vừa có tình
trạng cục bộ, phân tán, bng lỏng kỷ cương của Đảng và pháp luật của Nhà nước;
ý chí phấn đấu cách mạng giảm sút, một bộ phận đảng viên và quần chúng có tâm
trạng bi quan, thiếu cảnh giác, dễ bị tác động chiến tranh tâm lý của địch. Những
hiện tượng tiêu cực trong xã hội, tình trạng thối hố, biến chất trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên, nhân viên nhà nước vẫn rất nghiêm trọng.
Công tác tư tưởng của các tổ chức đảng cũng có nhiều khuyết điểm. Công
tác tuyên truyền giáo dục chưa được kết hợp chặt chẽ với việc thực hiện các chủ
trương về giá cả, tiền lương, tiền tệ, không kịp thời hướng dẫn tư tưởng và hành động
chống lại những hiện tượng tiêu cực, những hành động sai lầm, giáng trả những thủ
đoạn chiến tranh tâm lý, chiến tranh phá hoại của kẻ thù. Việc giáo dục phẩm chất
cách mạng cho cán bộ, đảng viên chưa có hiệu quả đáng kể. Tính giáo dục, tính chiến
đấu trong sinh hoạt chính trị, tư tưởng của các tổ chức đảng, các cơ quan nhà nước và
các đồn thể quần chúng cịn yếu. Ở nhiều nơi, các cấp uỷ đảng và chi bộ chưa có ý
thức chỉ đạo công tác tư tưởng từng ngày, từng giờ; nhiều cán bộ, đảng viên chưa coi
trọng công tác tuyên truyền, giáo dục trong nhân dân.
Sau chiến thắng chống Mỹ, công tác tư tưởng đã thiếu giáo dục sâu rộng về
chuyển biến giai đoạn, chưa đánh giá đúng tình hình, chưa lường hết các khó khăn
và những diễn biến về tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng để đưa ra các
biện pháp chủ động ngăn chặn các mặt tiêu cực. Việc giáo dục về cuộc đấu tranh
giữa hai con đường XHCN và TBCN chưa được tiến hành thường xun và sâu
sắc. Cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao giác ngộ về cách mạng XHCN,
về lý tưởng cộng sản trong Đảng, trong nhân dân, nhất là trong thanh niên, bị xem
nhẹ. Việc giáo dục tư tưởng làm chủ tập thể cho cán bộ, đảng viên và quần chúng
thiếu cụ thể, thiết thực.

Trong đấu tranh chống địch, sự hiểu biết của đông đảo cán bộ, đảng viên và
nhân dân lao động về bản chất và tư tưởng phản động của một số lực lượng thù
địch, của đế quốc Mỹ cịn chưa sâu sắc. Tình hình thiếu cảnh giác cách mạng là
nghiêm trọng. Công tác tư tưởng đã không kịp thời vạch cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân thấy hết âm mưu và thủ đoạn thâm độc của chúng nhằm phá hoại nội bộ


Đảng ta, phá hoại sự đồn kết nhất trí của Đảng, làm suy yếu Nhà nước chun
chính vơ sản, làm sa đoạ đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân viên nhà nước, phá hoại
cơ sở quần chúng của Đảng, phá hoại nền kinh tế nước ta.
Trong Đảng và cơ quan nhà nước, bên cạnh tư tưởng nóng vội, tình trạng
thiếu nhạy bén, quan liêu, bảo thủ nặng nề đang là một nguyên nhân chủ yếu của
tình trạng trì trệ trong Đảng. Tình hình đó đang hạn chế việc tiếp thu sâu sắc và
chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách, kìm hãm sức sáng tạo của quần
chúng, của cán bộ, đảng viên, cản trở việc đổi mới cơ chế quản lý, việc sửa đổi các
chính sách, chế độ đã lạc hậu.
Đảng ta có truyền thống đồn kết thống nhất về đường lối. Nhưng những năm
1975-1985, việc cụ thể hoá đường lối còn chậm, việc làm quán triệt đường lối chưa
sâu sắc. Trên một số vấn đề về chủ trương để thực hiện đường lối cịn chưa thật
thơng suốt hoặc thiếu sự nhất trí cao ở các cấp, các ngành. Bên cạnh tình hình đó,
trong cán bộ, đảng viên, do phương pháp tư tưởng không đúng đắn (như chủ quan,
phiến diện, giản đơn...), hoặc do những động cơ không trong sáng xuất phát từ chủ
nghĩa cá nhân, cùng những tư tưởng không vô sản khác như gia trưởng, phong
kiến, đặc quyền, đặc lợi, cơ hội, kèn cựa, địa vị… nên đã gây nên tình trạng thiếu
đồn kết, kém hợp tác, thậm chí bè cánh trong một số cán bộ ở khơng ít địa
phương, cơ quan, đơn vị.
Trong xây dựng Đảng về chính trị
Đây cũng là những năm tư duy mới được từng bước hình thành và phát triển
(về cải tạo quan hệ sản xuất; đổi mới cơ cấu kinh tế; cơ chế quản lý). Quá trình ra
đời của tư duy mới cũng là quá trình khắc phục tư duy cũ khơng cịn phù hợp. Nhìn

tồn cục, sự phát triển của tư duy mới đã trải qua một quá trình thảo luận, tranh
luận những quan điểm khác nhau, cuối cùng, qua hoạt động thực tiễn đã đạt được
sự thống nhất trên một số vấn đề cơ bản về quan điểm kinh tế.
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những sai lầm khuyết điểm về lãnh đạo kinh tế.
Đây là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai
lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.
Trong xây dựng Đảng về tổ chức
Công tác xây dựng Đảng về tổ chức trong những năm 1976-1985 đã có


những thành tựu nhất định. Chúng ta đã xây dựng và từng bước kiện toàn hệ thống
tổ chức của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng trong cả nước, đã sử dụng
bộ máy ấy để lãnh đạo và tổ chức nhân dân thực hiện những công tác lớn có ý
nghĩa chiến lược về cải tạo và xây dựng kinh tế, văn hoá, phát triển sản xuất, về tổ
chức đời sống nhân dân, tăng cường quốc phịng, giữ gìn trật tự, an ninh, đánh
thắng quân... xâm lược và làm trịn nghĩa vụ quốc tế. Cơng tác xây dựng chi bộ cơ
sở, phát triển đảng viên, công tác cán bộ, công tác bảo vệ nội bộ không ngừng được
chú trọng và có những thành tích to lớn, góp phần làm cho Đảng trong sạch, vững
mạnh, đảm đương tốt trọng trách của mình trước đất nước.
Cơng tác tổ chức cũng rất trì trệ, chậm chuyển hướng, khơng đi kịp tình hình
và nhiệm vụ. Chúng ta chưa xây dựng được một cơ cấu tổ chức đồng bộ và mạnh
từ trung ương cho đến cơ sở. Cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân lao động làm chủ
tập thể, Nhà nước quản lý, chưa thể hiện trong nền nếp sinh hoạt hằng ngày của
các cấp uỷ đảng, các cơ quan nhà nước và các đoàn thể quần chúng ở mọi cấp, mọi
ngành.
Tổ chức đảng có nơi chưa trong sạch. Nhiều tổ chức cơ sở đảng yếu kém
kéo dài. Chất lượng sinh hoạt chi bộ thấp, tính năng động chủ quan của nhiều đảng
bộ cơ sở yếu. Tình hình đó đã ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Trong cơ cấu tổ chức của Đảng và Nhà nước từ
Trung ương đến cơ sở nói chung, bộ máy tổ chức còn cồng kềnh, nặng nề mà hiệu

lực lại thấp, chế độ trách nhiệm không rõ ràng.
Cơng tác cán bộ cịn bảo thủ, trì trệ về nhiều mặt. Đào tạo, bồi dưỡng, bố trí,
sử dụng, đề bạt cũng như chính sách, chế độ đãi ngộ. Đó là một nguyên nhân hết
sức trọng yếu của sự trì trệ trong công tác tổ chức và nhiều việc khác. Việc bố trí
đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các cấp, các ngành những năm qua tuy có những tiến bộ
nhưng cịn bảo thủ, chắp vá. Cơng tác quản lý cán bộ chậm được đổi mới. Công tác
kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng cũng
như kiểm tra việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ và việc thi hành kỷ luật
trong Đảng cịn rất yếu.
Những khuyết điểm trong cơng tác xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức đã
làm cho bộ máy của Đảng kém hiệu lực và có một sức ỳ rất lớn. Kẻ địch đã lợi


dụng và khoét sâu các khuyết điểm đó để làm tăng thêm những khó khăn trong đời
sống kinh tế – xã hội, làm giảm sút lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo và
quản lý kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
Thành tựu, hạn chế trong phương thức lãnh đạo của Đảng
Đại hội Đảng lần thứ IV, V …, các Hội nghị Ban chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị… đã đầu tư nhiều cơng sức tìm tịi các giải pháp để nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng, nhằm lãnh đạo nhân dân ta đẩy lùi khó khăn, vượt
qua khủng hoảng, nhất là tìm tịi cải tiến phương pháp lãnh đạo và phương thức hoạt
động của Đảng bộ các cấp. Đại hội V của Đảng đã đặt ra yêu cầu phải khơng ngừng
tổng kết thực tiễn, sửa đổi những hình thức và phương pháp khơng thích hợp, xây
dựng ở các ngành, các cấp cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước
quản lý”. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đất nước đang lâm vào khủng hoảng
chưa tìm ra lối thoát, Đảng đã chỉ ra những vấn đề vướng mắc trong cơ chế lãnh đạo
của Đảng ở các cấp, trước hết ở cấp Trung ương, và đã cố gắng đề ra những giải
pháp khắc phục. Nhờ cố gắng đổi mới phương thức lãnh đạo, Đảng đã lãnh đạo
nhân dân ta phấn đấu, khắc phục khó khăn, đạt được những thành tựu quan trọng.
Trong chủ trương và phương thức lãnh đạo, Đảng ta đã phạm “sai lầm

nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến
lược và tổ chức thực hiện”1. Những khuyết điểm trong cách lãnh đạo là: Phong
cách lãnh đạo và lề lối làm việc mang nặng chủ nghĩa quan liêu, lời nói khơng đi
đơi với việc làm, khơng tn thủ quy trình làm việc và ra quyết định. Việc chỉ đạo
điều hành thường không tập trung, thiếu kiên quyết và nhất quán. Trong các Đảng
bộ và các cấp uỷ có sự vi phạm nguyên tắc Lê nin nít trong sinh hoạt Đảng, trước
hết là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách…. Nhiều
cán bộ Đảng vẫn áp dụng phương thức lãnh đạo trong chiến tranh để chỉ đạo nhiều
cơng tác lớn. Vẫn cịn tình trạng bao biện, buông lỏng lãnh đạo của cấp uỷ Đảng
đối với cơ quan Nhà nước, đó là một nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng kinh tế - xã
hội.

1

Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự thật, H, 1987, tr.26


3.2. Nguyên nhân hạn chế trong công tác xây dựng Đảng những năm
1975-1985

Nguyên nhân của những hạn chế nói trên là do khuyết điểm trong công
tác tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng.
Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt là những sai
lầm về chính sách kinh tế, là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động
giản đơn, nóng vội, là khuynh hướng bng lỏng trong quản lý kinh tế, xã hội,
không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng. Đó là những
biểu hiện của tư tưởng tiểu tư sản vừa "tả" khuynh, vừa hữu khuynh. Cơng tác dự
báo, đánh giá tình hình cịn nhiều yếu kém; phản ứng chậm trước những vấn đề
mới phát sinh.
Trong lĩnh vực tư tưởng, đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và sự yếu

kém về vận dụng các quy luật trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Về tổ chức, khuyết điểm lớn nhất là thiếu quy hoạch và chậm đổi mới cán bộ;
chậm củng cố đội ngũ cán bộ của Đảng; vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong
sinh hoạt đảng, phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc mang nặng chủ nghĩa quan
liêu; tổ chức bộ máy quá lớn, chồng chéo và kém hiệu lực; giáo dục và quản lý cán
bộ, đảng viên thiếu chặt chẽ. Chưa kịp thời xử lý những biểu hiện trì trệ, thiếu trách
nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ. Trình độ, năng lực, tinh thần trách nhiệm, tính năng
động, sáng tạo trong một bộ phận cán bộ, công chức chưa cao.
Trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành có lúc cịn bị động, lúng túng, có lúc
chưa bám sát kế hoạch, chương trình cơng tác đề ra, còn chạy theo sự vụ, sự việc.
Trong quá trình xây dựng kế hoạch, nghị quyết chưa nhận định và lường hết những
thuận lợi, khó khăn, thách thức để đề ra nhiệm vụ và giải pháp có tính khả thi cao.
Cơng tác kiểm tra, giám sát có lúc chưa sâu; chưa kịp thời phát hiện, uốn
nắn những thiếu sót, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh.
CÂU HỎI ƠN TẬP
1. Nội dung công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ cả nước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội 1975-1985?


2. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong công tác xây
dựng Đảng trong thời kỳ 1975-1985?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tài liệu tham khảo bắt buộc:
1. Lê Mậu Hãn, Đảng Cộng sản Việt Nam, các Đại hội và Hội nghị Trung
ương, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2000.
2. Nguyễn Trọng Phúc, Lịch sử công tác xây dựng Đảng (1930-2011), Nxb,
Chính trị quốc gia, H.2012.
3.Mạch Quang Thắng, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia, H. 1995.
- Tài liệu tham khảo không bắt buộc:

1. Các tổ chức tiền thân của Đảng, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung
ương xuất bản, Hà Nội, 1977.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc và Nghị
quyết Hội nghị các khóaVI, VII, VIII, IX, X và XI (Phần viết về công tác xây dựng
Đảng).
3. Tiểu ban tổng kết công tác xây dựng Đảng; Tổng kết công tác xây dựng Đảng
thời kỳ 1975- 1995, Lưu hành nội bộ, Nxb. Chính trị Quốc gia . H. 1995.
4. Mạch Quang Thắng, Đảng Cộng sản Việt Nam-Những vấn đề cơ bản về
xây dựng Đảng, Nxb Lao Động, H, 2007.
5. Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh – Viện
Lịch sử Đảng: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập I,1920-1945, Nxb. Sự thật, H.
1982.




×