Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

THU HOẠCH TÁC PHẨM QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VÀ QUẢN LÝ NGÀNH GIÁO DỤC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.58 KB, 33 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ QUỐC PHỊNG

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


THU HOẠCH TÁC PHẨM
QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VÀ QUẢN LÝ
NGÀNH GIÁO DỤC
Số phách

Người chấm

(Do Phòng SĐH ghi)

(Ký, ghi rõ họ tên)

Điểm
Bằng số

Bằng chữ

.......................................................................................................................................................

Số phách
(Do Phòng SĐH ghi)

Họ và tên:
Ngày sinh:
Lớp:


Chuyên ngành:
Ngày thực hiện:

1

GIÁO DỤC HỌC


MỞ ĐẦU
Giáo dục và đào tạo là một hoạt động xã hội rộng lớn có liên quan trực
tiếp đến lợi ích, nghĩa vụ và quyền lợi của mọi người dân mọi tổ chức kinh
tề xã hội đồng thời có tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển nhanh hay
chậm của một quốc gia. Giáo dục và đào tạo phải đi trước một bước, giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát
triển. Do vậy, bất kỳ quốc gia nào trên thế giới dù lớn hay nhỏ, dù giàu hay
nghèo, dù phát triển hay đang phát triển bao giờ cũng quan tâm đến đổi mới
giáo dục và đào tạo mà trong đó khâu quan trọng là quản lí Nhà nước về
giáo dục và đào tạo.
Đối với đất nước ta, sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới và 10
năm thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010, hệ thống giáo
dục đã phát triển rõ rệt về qui mơ, đa dạng về loại hình trường và hình thức
đào tạo; bước đầu điều chỉnh cơ cấu hệ thống, cải tiến chương trình, qui
trình đào tạo, nguồn lực xã hội được huy động nhiều hơn và đạt được kết
quả tích cực; chất lượng đào tạo ở một số ngành, một số lĩnh vực từng bước
được cải thiện. Hệ thống giáo dục đại học đã bước đầu cung cấp nguồn lao
động chủ yếu có trình độ cao phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội,
q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo đảm an ninh quốc
phòng và hội nhập kinh tế quốc tế. Hệ thống các văn bản quản lý nhà nước
về giáo dục đã được hồn thiện đáng kể, đã có nhiều mơ hình các trường
quản lý tốt, trình độ quản lý của các cơ sở giáo dục và đào tạo cũng được

nâng lên một bước. Tuy nhiên, chất lượng và công tác quản lý giáo dục đối
với các trường chưa đổi mới đáng kể để phù hợp với các qui luật chi phối
hoạt động của hệ thống giáo dục và đòi hỏi của phát triển xã hội. Phương
pháp quản lý nhà nước đối với các trường đại học, cao đẳng còn hạn chế,
yếu kém, chưa có qui chế phối hợp với các bộ, ngành, chưa phân cấp cho
chính quyền địa phương, chưa tạo đủ điều kiện để các cơ sở đào tạo thực
hiện quyền và trách nhiệm tự chủ, chưa có đủ khả năng đánh giá chất lượng
2


giáo dục của tồn bộ hệ thống. Cơng tác quản lý ở các trường chưa phát huy
được trách nhiệm và sự sáng tạo của đội ngũ nhà giáo, các nhà quản lý. Vì
vậy, việc đào tạo nguồn nhân lực của hệ thống giáo dục nhìn chung chưa
đáp ứng nhu cầu của đổi mới kinh tế xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế và
nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI. Để giải quyết vấn đề này, văn kiện hội
nghị lần thứ chín ban chấp hành Trung ương Đảng khố IX đã đưa ra giải
pháp then chốt đó là: đổi mới và nâng cao năng lực quản lý Nhà nước trong
giáo dục và đào tạo, đẩy mạnh đổi mới nội dung chương trình và phương
pháp giáo dục theo hướng hiện đại cùng với đổi mới cơ chế quản lý. Đó là
chủ trương lớn của Đảng nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng quản lý giáo
dục trong tình hình mới; đồng thời là định hướng chỉ đạo các khâu, các bước
của quá trình đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục ở nước ta.
Để góp phần tìm ra những cơ sở lý luận và thực tiễn giúp xây dựng các
giải pháp đổi mới công tác quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo đồng
thời cung cấp thêm cho bạn đọc tài liệu tham khảo về công tác quản lý hành
chính nhà nước đối và quản lý ngành giáo dục và đào tạo, Nhà xuất bản Đại
học Sư phạm phối hợp với Viện Nghiên cứu sư phạm của Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội xuất bản cuốn sách “Quản lý hành chính nhà nước và
quản lý ngành giáo dục dục và đào tạo”, do phó giáo sư, tiến sĩ Phạm Viết
Vượng chủ biên ấn hành năm 2007. Đây là một cơng trình khoa học tổng

hợp cung cấp những nội dung cơ bản vấn đề quản lý nhà nước về giáo dục
và đào tạo đồng thời cũng góp phần quan trọng cung cấp cơ sở lý luận vào
quá trình xây dựng, hoàn thiện các biện pháp tiến hành đổi mới công tác
quản lý giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay.

3


NỘI DUNG
Tác phẩm “Quản lý nhà nước và quản lý ngành về giáo dục và đào tạo”
được bố cục thành 5 chương gồm:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về Nhà nước, quản lý hành chính nhà
nước và cơng vụ, công chức
Chương 2: Đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục
và đào tạo
Chương 3: Điều lệ, quy chế, quy định của Bộ Gi áo dục và đào tạo đối
với giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông
Chương 4: Luật Giáo dục và Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em
Chương 5: Thực tiễn giáo dục Việt Nam
Nội dung cơ bản xuyên suốt của tác phẩm là tập trung vào: nghiên
cứu những vấn đề chung về nhà nước và quản lý hành chính nhà nước; Các
cơ sở lý luận về công tác quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo: Khái
niệm, tính chất, đặc điểm, nguyên tắc và nội dung quản lý nhà nước về
giáo dục, hệ thống tổ chức và bộ máy quản lý giáo dục ở nước ta, những
vấn đề cơ bản về đội ngũ cán bộ, công chức trong lĩnh vực giáo dục; Quan
điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về giáo dục và đào tạo; Hệ thống
công cụ quản lý Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Bên cạnh đó,
tác phẩm cịn trình bày những vấn đề về thực tiễn giáo dục Việt Nam trong
10 năm đầu tiên hành công cuộc đổi mới và những năm đầu thực hiện
Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001 – 2010. Nhằm góp phần làm

sáng tỏ những nội dung cơ bản của tác phẩm cùng với sự tâm huyết của
bàn thân về giáo dục và đào tạo nước nhà hiện nay, song do điều kiện hạn
chế nên trong khuôn khổ bài thu hoạch, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu và
trình bày vấn đề: Những nội dung cơ bản của công tác quản lý nhà nước
về giáo dục và đào tạo trong tác phẩm “Quản lý hành chính nhà nước và
quản lý ngành giáo dục đào tạo”. Ý nghĩa đối với công tác quản lý nhà
nước về giáo dục và đào tạo ở các nhà trường quân sự hiện nay.
4


I. Những nội dung cơ bản của công tác quản lý nhà nước về giáo
dục và đào tạo trong tác phẩm “Quản lý hành chính nhà nước và quản
lý ngành giáo dục đào tạo”
1.1. Khái niệm quản lý hành chính nhà nước và quản lý nhà nước về
giáo dục và đào tạo.
Khái niệm quản lý hành chính nhà nước và quản lý nhà nước về giáo
dục và đào tạo được tác giả trình bày tập trung ở trong chương 1. Theo tác
giả, quản lý là một khái niệm được xem xét ở hai góc độ: Theo góc độ chính
trị xã hội, quản lý được hiểu là sự kết hợp giữa tri thức với lãnh đạo, vận
hành sự kết hợp này cần có một cơ chế quản lý phù hợp. Cơ chế đúng hợp ý
thì xã hội phát triển, ngược lại cơ chế sai thì xã hội phát triển chậm hoặc rối
ren. Theo góc độ hành động quản lý được hiểu là chỉ huy, điều khiển, điều
hành. Theo C.Mác, quản lý, quản lý xã hội là chức năng được sinh ra từ tinh
chất xã hội hoá lao động. Từ cơ sở lý luận trên, quản lý được hiểu là sự tác
động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm chỉ huy, điều
hành, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi của cá nhân hướng đến mục
đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật khách quan. Quản lí là một
yếu tố khơng thể thiếu được trong đời sống xã hội. Xã hội phát triển càng
cao thì vai trị của quản lí càng lớn, phạm vi càng rộng và nội dung càng
phong phú, phức tạp.

Quản lí nhà nước ra đời cùng với sự xuất hiện của Nhà nước, là sự
quản lí của Nhà nước đối với xã hội và cơng dân. Quản lí nhà nước là sự chỉ
huy, điều hành xã hội để thực thi quyền lực Nhà nước; là tổng thể về thể chế,
về tổ chức và cán bộ của bộ máy nhà nước có trách nhiệm quản lí cơng việc
hàng ngày của nhà nước, do các cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp và
tư pháp) có tư cách pháp nhân công pháp (công quyền) tiến hành bằng các
văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn mà nhà nước đã giao cho trong việc tổ chức và điều chỉnh các quan hệ
xã hội và hành vi của công dân. Khái niệm “quản lý nhà nước” và khái niệm
5


“nhà nước quản lý” khác biệt nhau. “Quản lý nhà nước” là dạng quản lý xã
hội thực thi quyền lực nhà nước, dạng quản lý này được thể hiện trong các
cơ quan hành chính nhà nước cịn “Nhà nước quản lý” là nói đến các chủ thể
quản lý, đó là hệ thống tổ chức của các cơ quan nhà nước, trong đó có các
cơ quan hành chính nhà nước. Hành chính là một hoạt động xã hội rộng và
rất phức tạp. Trong cuộc sống, mọi hoạt động của con người đều mang tính
xã hội; các cá nhân ln có quan hệ hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau. Khi hoạt động
có từ hai người trở lên để thực hiện một mục tiêu chung, mà nếu chỉ có một
người khơng thể làm được, thì sẽ xuất hiện yếu tố tổ chức và quản lí hoạt
động. Hành chính là một dạng của sự quản lí các hoạt động đó. Theo nghĩa
rộng, hành chính là sự thi hành chính sách và pháp luật của Chính phủ tức là
hoạt động quản lí hành chính Nhà nước. Quản lí hành chính nhà nước là một
hình thức quản lí, mà chủ thể quản lí là Nhà nước. Hành chính nhà nước là
một bộ phận quản lí của Nhà nước – nó là hoạt động của cơ quan hành pháp,
thực thi quyền hành pháp bằng quyền lập quy và quyền hành chính. Theo
nghĩa hẹp, hành chính là cơng tác hành chính của các cơ quan nhà nước ở
địa phương như: quản lí hộ khẩu, trật tự, an ninh cơng cộng, quản lí cơng
văn giấy tờ khơng thuộc văn bản pháp luật,… và có cả nghĩa thơng thường

như hỗ trợ, dịch vụ hành chính,… Từ phân tích trên, có thể định nghĩa quản
lí hành chính Nhà nước như sau: Quản lí hành chính Nhà nước là sự tác
động có tổ chức, và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá
trình và hành vi hoạt động của cơng dân do các cơ quan có tư cách pháp
nhân cơng pháp trong hệ thống hành pháp và quản lí hành chính nhà nước
tiến hành bằng những văn bản quy phạm pháp luật dưới luật để thực hiện
những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã
hội, duy trì trật tự an ninh cơng, bảo vệ quyền lợi công và phục vụ nhu cầu
hàng ngày của nhân dân.
Đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo, quản lí nhà nước về giáo dục và
đào tạo là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối
6


với các hoạt động giáo dục và đào tạo, do các cơ quan quản lí giáo dục của
nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ
do nhà nước ủy quyền nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, duy trì
trật tự, kỉ cương, thoả mãn nhu cầu giáo dục và đào tạo của nhân dân, thực
hiện mục tiêu giáo dục và đào tạo của nhà nước. Quản lí nhà nước về giáo
dục và đào tạo chính là việc nhà nước thực hiện quyền lực cơng để điều hành,
điều chỉnh tồn bộ các hoạt động giáo dục và đào tạo trong phạm vi toàn xã
hội để thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà nước. Trong khái niệm quản lí nhà
nước về giáo dục có 3 yếu tố cơ bản là: chủ thể, đối tượng và mục tiêu quản lí
nhà nước về giáo dục. Chủ thể quản lí nhà nước về giáo dục là các cơ quan
quyền lực nhà nước (cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp),
chủ thể trực tiếp là bộ máy quản lí giáo dục từ trung ương đến cơ sở (các cơ
quan quản lí nhà nước về giáo dục được quy định cụ thể trong điều 87 của
Luật Giáo dục). Đối tượng của quản lí nhà nước về giáo dục là hệ thống giáo
dục quốc dân, là mọi hoạt động giáo dục và đào tạo trong phạm vi cả nước.
Mục tiêu quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo, về tổng thể đó là bảo đảm

trật tự, kỷ cương trong các hoạt động giáo dục và đào tạo, để thực hiện được
mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và phát triển
nhân cách của công dân. Mỗi cấp học, ngành học có những mục tiêu cụ thể
được quy định trong Luật Giáo dục và các điều lệ nhà trường.
Tóm lại, quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo là sự quản lí của các
cơ quan quyền lực nhà nước, của bộ máy quản lí giáo dục từ trung ương đến
cơ sở đối với hệ thống giáo dục quốc dân và các hoạt động giáo dục của xã
hội nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất
nước và hồn thiện nhân cách cho cơng dân.
1.2. Tính chất, đặc điểm, nguyên tắc và nội dung quản lí nhà nước
về giáo dục và đào tạo
Quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo là quản lí nhà nước về một
lĩnh vực cụ thể, cho nên nó có những tính chất chung của quản lí nhà nước
7


và quản lí hành chính nhà nước, cụ thể như sau: Tính lệ thuộc vào chính trị
được biểu hiện cụ thể ở việc cơng tác quản lí nhà nước về giáo dục phục
tùng và phục vụ nhiệm vụ chính trị; tuân thủ chủ trương đường lối của Đảng
và Nhà nước; Tính xã hội của quản lý nhà nước về giáo dục biểu hiện giáo
dục là sự nghiệp của nhà nước và của tồn xã hội. Trong quản lí nhà nước về
giáo dục cần phải coi trọng tính xã hội và dân chủ hố giáo dục. Giáo dục và
đào tạo ln phát triển trong mối quan hệ với sự phát triển của kinh tế xã
hội; Tính pháp quyền thể hiện trong công tác quản lý phải tiến hành bằng
pháp luật, phải tuân thủ hành lang pháp lí mà nhà nước đã quy định cho một
hoạt động quản lí các hoạt động giáo dục và đào tạo, tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa; Tính chun mơn nghiệp vụ thể hiện là cán bộ – công chức
hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo cần được đào tạo có trình độ
tương ứng với yêu cầu về tiêu chuẩn các ngạch, chức danh đã được quy
định. Việc tuyển dụng cán bộ – công chức tuân theo các tiêu chuẩn nghiệp

vụ, chức danh mà nhà nước đã ban hành; Tính hiệu lực, hiệu quả của công
tác quản lý nhà nước về giáo dục lấy chất lượng, hiệu quả và sự bảo đảm trật
tự kỷ cương trong giáo dục và đào tạo làm thước đo.
Đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo, một hoạt động mang tính xã hội
cao, quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo ở cấp cơ sở thực chất là thực
hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền do nhà nước phân cấp và thực tế là
thực thi quản lí hành chính nhà nước đối với các cơ sở giáo dục và đào tạo. Vì
vậy hoạt động quản lí nhà nước đối với giáo dục và đào tạo có những đặc
điểm sau:
Hoạt động quản lí Nhà nước về giáo dục là sự kết hợp giữa quản lí hành
chính và quản lí chun mơn. Quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo ở cơ
sở thực chất là triển khai các hoạt động hành chính nhà nước trong quá trình
chỉ đạo các hoạt động giáo dục ở cơ sở. Nó vừa theo ngun tắc quản lí hành
chính nhà nước vừa theo nguyên tắc hành chính giáo dục đối với một cơ sở
giáo dục. Đây là đặc điểm quan trọng nhất trong hoạt động quản lí nhà nước
8


về giáo dục và chỉ đạo với nhà trường. Hành chính giáo dục thực chất là triển
khai chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do nhà nước ủy quyền, thay mặt nhà
nước triển khai sự nghiệp giáo dục và vào tạo và điều hành, điều chỉnh các
hoạt động giáo dục và đào tạo trên địa bàn nhằm bảo đảm các quy định, quy
chế về giáo dục và thực hiện được mục tiêu giáo dục mà nhà nước quy định.
Do đó, các hoạt động quản lí như: bảo đảm mơi trường giáo dục, đảm bảo
điều kiện giáo dục, bảo đảm trật tự, kỉ cương nhà trường; thanh tra, kiểm tra
để bảo đảm quá trình giáo dục và đào tạo thực hiện đúng quy định của nhà
nước về mục tiêu, nội dung, quy chế là hoạt động mang nhiều tính quản lí
hành chính đồng thời lại mang nhiều tính quản lí chun mơn. Hai nội dung
này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Khi thực hiện tốt những quy chế
chun mơn chính là bảo đảm trật tự, kỷ cương trong các hoạt động sư phạm.

Mặt khác khi chú ý thích đáng tới việc bảo đảm môi trường kinh tế – xã hội,
môi trường giáo dục tốt thì chúng cũng góp phần khơng nhỏ trong việc nâng
cao chất lượng hiệu quả giáo dục.
Hoạt động quản lí Nhà nước về giáo dục là hoạt động mang tính quyền
lực nhà nước trong hoạt động quản lí. Đặc điểm này phản ánh rõ hoạt động
quản lý nhà nước về giáo dục để triển khai có hiệu quả trước hết là phải có tư
cách pháp nhân và yêu cầu về tính hợp pháp trong quản lí. Phương tiện quản
lí nhà nước về giáo dục và đào tạo là các văn bản pháp luật và pháp quy.
Phương pháp chủ yếu để quản lí nhà nước là phương pháp hành chính tổ
chức. Trong quản lí nhà nước phải tuân thủ thứ bậc chặt chẽ hoạt động quản lí
theo sự phân cấp rõ ràng và mệnh lệnh – phục tùng là biểu hiện rõ nhất của
tính quyền lực trong quản lí nhà nước. Tính quyền lực nhà nước ở đây cũng
chính là việc cán bộ quản lí giáo dục cấp dưới cần nhận thức đầy đủ rằng cấp
dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng trung ương trong
q trình quản lí giáo dục.
Hoạt động quản lí Nhà nước về giáo dục là sự kết hợp nhà nước – xã
hội trong q trình triển khai quản lí. Đối với Việt Nam, giáo dục và đào tạo
9


là một hoạt động mang tính xã hội cao và Đảng ta cũng đã nhấn mạnh tư
tưởng giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của nhà nước và của tồn xã hội. Vì
vậy hoạt động quản lý Nhà nước về giáo dục không chỉ là sự nghiệp, trách
nhiệm của Đảng, Nhà nước mà cịn là trách nhiệm của tồn thể nhân dân,
cách tổ chức và cá nhân trong toàn xã hội.
Hoạt động quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo phải tuân thủ theo
các nguyên tắc cơ bản sau:
Kết hợp quản lí theo ngành và quản lí theo lãnh thổ. Đây là một
nguyên tắc quan trọng trong quản lý giáo dục. Mọi cơ sở giáo dục thực hiện
chức năng, nhiệm vụ giáo dục và đào tạo theo sự chỉ đạo ngành dọc, nhưng

đồng thời phải tuân thủ sự quản lí hành chính của địa phương theo quy định
phân cấp của nhà nước. Mọi hoạt động quản lí không thể tách rời sự chỉ đạo
theo ngành dọc và theo lãnh thổ. Cụ thể: sự nghiệp giáo dục, hệ thống giáo
dục quốc dân là một hệ thống nhất. Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan quản
lí nhà nước về giáo dục và đào tạo thống nhất trong phạm vi cả nước. Chính
quyền địa phương quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo theo phân lãnh
thổ của mình thơng qua cơ quan chun mơn, theo nhiệm vụ, quyền hạn do
nhà nước quy định phù hợp với cơ chế phân cấp.
Tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí Nhà nước về giáo
dục và đào tạo. Trong công tác quản lý giáo dục, nhà nước thống nhất quản lí
hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung… quy chế
thi cử và hệ thống văn bằng. Bên cạnh đó phân cấp rõ ràng về quản lí giáo
dục cho địa phương và tạo điều kiện để cơ sở phát huy chủ động và sáng tạo.
Nội dung quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo Quản lí nhà nước
đối với các cấp quản lí đào tạo bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
Hoạch định chính sách cho giáo dục và đào tạo. Lập pháp và lập quy cho
các hoạt động giáo dục và đào tạo. Thực hiện quyền hành pháp trong quản lí
giáo dục; Tổ chức bộ máy quản lí giáo dục; Huy động và quản lí các nguồn
lực để phát triển sự nghiệp giáo dục và thanh tra, kiểm soát nhằm thiết lập
10


trật tự kỷ cương pháp luật trong hoạt động quản lí giáo dục và phát triển sự
nghiệp giáo dục. Tuy nhiên nội dung hoạt động quản lý nhà nước về giáo
dục và đào tạo ở các cấp độ khác nhau khơng hồn tồn giống nhau. Cụ thể:
Đối với cấp vĩ mô là Bộ Giáo dục và Đào tạo, cơ quan thay mặt Chính phủ
thực hiện quyền quản lí nhà nước về giáo dục thực hiện những nội dung sau:
Xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển ngành; Xây dựng cơ chế chính
sách và quy chế quản lí nội dung và chất lượng giáo dục và đào tạo; Tổ chức
thanh tra, kiểm tra và thẩm định. Đối với cấp địa phương thực hiện những

nội dung chủ yếu sau: Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục ở
địa phương và chỉ đạo thực hiện; Quản lí chun mơn nghiệp vụ các trường
theo sự phân cấp và quản lí nhà nước về các hoạt động giáo dục ở địa
phương; Thực hiện kiểm tra, thanh tra giáo dục ở địa phương. Đối với cơ sở
giáo dục và đào tạo thực hiện những nội dung sau: Tổ chức thực hiện chủ
trương, chính sách giáo dục thông qua việc thực hiện mục tiêu, nội dung
giáo dục và bảo đảm các quy chế chuyên mơn; Quản lí đội ngũ sư phạm, cơ
sở vật chất, tái chính… theo các quy định chung, thực hiện kiểm tra nội bộ
bảo đảm trật tự an ninh trong nhà trường; Điều hành các hoạt động của nhà
trường theo Điều lệ nhà trường đã được ban hành và giám sát sự tuân thủ
điều lệ đó.
1.3. Cơ cấu tổ chức quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo
Cơ cấu tổ chức quản lí nhà nước về giáo dục là tập hợp các bộ phận
(đơn vị hay cá nhân) có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chun mơn
hố, có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn nhất định, được bố trí theo những
cấp khác nhau nhằm thực hiện chức năng quản lí và mục tiêu chung đã được
xác định. Cơ cấu tổ chức quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo được
phân chia thành nhiều hình thức khác nhau tùy theo tính chất, nội dung, mục
đích và phạm vi quản lý gồm:
Cơ cấu trực tuyến: Đặc trưng cơ bản của kiểu cơ cấu này là chỉ rõ mối
quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới được quy định theo nguyên tắc trực tuyến
11


(đường thẳng). Người thủ trưởng thực hiện tất cả các chức năng quản lí và
chịu trách nhiệm trực tiếp trước mọi hoạt động của cấp dưới. Người thừa
hành (bộ phận hay cá nhân) chỉ nhận nhiệm vụ và chịu trách nhiệm với một
cấp trên trực tiếp.
Cơ cấu chức năng:Đặc trưng cơ bản của kiểu cơ cấu này là thủ trưởng
ủy quyền trực tiếp cho các khối chức năng được ra quyết định và trực tiếp

giải quyết các cơng việc có liên quan đến những chức năng do mình đảm
nhiệm. Như vậy các cấp cơ sở và những người thừa hành đồng thời chịu sự
chỉ đạo và quyết định của người lãnh đạo trực tiếp và người lãnh đạo các
khối chức năng.
Cơ cấu trực tuyến – tham mưu: Đặc trưng của kiểu cơ cấu này là lấy cơ
cấu trực tuyến làm nền tảng, thủ trưởng và những người lãnh đạo trực tuyến
được sự giúp đỡ của một bộ phận tham mưu tư vấn trong việc đề ra quyết định.
Thủ trưởng và người lãnh đạo trực tuyến vẫn toàn quyền quyết định trong
phạm vi tổ chức của mình. Các bộ phận tham mưu không được quyền ra lệnh
trực tiếp cho người thừa hành mà chỉ hoàn toàn với tư cách tư vấn (giúp việc)
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả các quyết định của người lãnh đạo.
Cơ cấu trực tuyến – chức năng: Đặc trưng của kiểu cơ cấu này khác với
cơ cấu chức năng là nhiệm vụ, vai trò của các bộ phận chức năng chỉ giữ vai
trò tham mưu, tư vấn, đề xuất cho thủ trưởng và hướng dẫn phần chun mơn
của mình cho lãnh đạo tuyến. Mọi quyền quyết định vẫn thuộc về thủ trưởng.
Cơ cấu chương trình – mục tiêu: Đặc trưng của kiểu cơ cấu này là vấn
đề điều phối việc thực hiện những chương trình – mục tiêu, đề án hay dự án
nhằm vào những mục tiêu nhất định, trong thời gian nhất định người thủ
trưởng có thể hình thành các bộ phận đặc biệt: bộ phận tham mưu (Hội
đồng, Ủy ban…), cử lãnh đạo đề án M1, M2. Khi chương trình hồn thành,
các bộ phận điều hành, quản lí đề án, dự án tự giải thể.
Nguyên tắc của quản lí giáo dục là những lao động cơ bản, những yêu
cầu, những tiêu chuẩn chỉ đạo việc xây dựng và tổ chức hoạt động của các
12


cơ quan quản lí giáo dục. Cơ cấu tổ chức quản lí nhà nước về giáo dục được
tổ chức, xây dựng theo các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc tính đẳng cấu hay nguyên tắc tính phù hợp giữa cơ cấu tổ
chức của cơ quan quản lí với tính phức tạp của chức năng, nhiệm vụ quản lí,

tính đa dạng của các mục tiêu quản lí, quy mơ và độ phức tạp của đối tượng
quản lí với các điều kiện quản lí.
Nguyên tắc bảo đảm khả năng quản lí được hay nguyên tắc đảm bảo
khối lượng có thể kiểm tra được. Một cán bộ lãnh đạo hay một cơ quan điều
hành chỉ có thể quản lí có hiệu quả với một số lượng tối ưu các đối tượng
quản lí (số người, số khâu đơn vị, bộ phận dưới quyền). Nếu vượt quá giới
hạn thì hiệu quả quản lí sẽ bị giảm sút.
Ngun tắc nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm phải được quy định rõ
ràng và tương xứng với nhau. Nhiệm vụ và quyền hạn giao cho từng người,
từng bộ phận, từng cấp phải rõ ràng, hợp lí, khơng có sự chồng chéo, quyền
hạn phải đi đôi tương xứng với trách nhiệm. Nếu chỉ giao nhiệm vụ mà
không giao quyền hạn là không đảm bảo điều kiện tối thiểu cho việc hoàn
thành nhiệm vụ. Ngược lại, giao quyền hạn mà không xác định rõ trách
nhiệm hay không tương xứng với trách nhiệm sẽ sinh ra lạm quyền.
Nguyên tắc đảm bảo tính linh hoạt. Cơ cấu tổ chức quản lí phải linh
động và dễ thích nghi, nghĩa là dễ có khả năng cải tiến và biến đổi tuỳ theo
mục đích chung và riêng của quản lí, tuỳ theo chất lượng của các thành tố
trong quan hệ quản lí và những điều kiện của quản lí để đáp ứng những u
cầu mới của tình hình thực tế, đồng thời cũng có khả năng tự hồn thiện khi
đã có nhiều kinh nghiệm tích luỹ.
Cơ cấu tổ chức quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo được xây dựng
chủ yếu theo các phương pháp sau:
Phương pháp xây dựng theo mẫu: Dựa trên các mơ hình cơ cấu tổ chức
quản lí tương tự có sẵn trong thực tế, ở đó các nhiệm vụ quản lí được thực
hiện một cách trơi chảy, có chất lượng cao (kể cả trong nước hoặc ngoài
13


nước) từ đó đưa ra một mơ hình cơ cấu tổ chức lí tưởng trên cơ sở phân tích
cơ cấu tổ chức hiện tại, các điều kiện quản lí cụ thể của cơ quan quản lí, rồi

so sánh với mơ hình lí tưởng xác định tính đồng nhất của chức năng, nhiệm
vụ quản lí, của kết quả cuối cùng (sản phẩm), tính tương tự của các đặc điểm
về con người, xã hội, lãnh thổ… từ đó điều chỉnh cải tiến cho sát gần với mơ
hình lí tưởng và mơ hình của đơn vị mình sao cho phù hợp và khả thi.
Phương pháp thử nghiệm và loại suy. Đối với phương pháp này thì
được tiến hành theo các bước sau: Làm thực nghiệm theo mơ hình dự kiến ở
một số vùng điển hình (thành phố, đồng bằng, trung du, miền núi…); Từ kết
quả thực nghiệm chọn ra một số mơ hình hợp lí; Vận dụng các mơ hình đó
theo đặc điểm của từng vùng.
Phương pháp phân tích – tổng hợp: Đối với phương pháp này thì được
tiến hành theo các bước sau: Căn cứ vào các văn bản pháp quy, từ chức
năng, nhiệm vụ chung của cơ quan quản lí phân tích, liệt kê tất cả các nhiệm
vụ của đối tượng quản lí; Nhóm chúng lại thành các nhóm nhiệm vụ phải
quản lí; Từ các nhóm nhiệm vụ mà xác định các bộ phận, thiết kế cơ cấu các
tầng bậc của cơ quan quản lí.
Phương pháp kết cấu hố các mục tiêu quản lí: Phương pháp này dựa
vào việc thiết lập một hệ thống các mục tiêu quản lí. Cơ cấu được xây dựng
trên quan điểm hệ thống, bao quát tất cả các hoạt động của cơ quan, đồng
thời sử dụng cách mô tả cơ cấu bằng biểu đồ cho các phương án thành lập
và hoạt động của bộ máy quản lí.
II. Quan điểm, mục tiêu của Đảng, nhà nước về giáo dục và đào tạo
hiện nay
Giáo dục và đào tạo đóng vai trị chủ yếu trong việc gìn giữ, phát triển
và truyền bá nền văn minh nhân loại. Ngày nay giáo dục có vị trí đặc biệt
quan trọng trong đời sống con người. Giáo dục đã trở thành một hệ thống
được tổ chức rộng khắp ở mọi quốc gia, được tiến hành trên một cơ sở khoa
học vững chắc. Giáo dục không chỉ là sản phẩm của xã hội mà đã trở thành
14



nhân tố tích cực, một động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội loài người
được thể hiện trong chiến lược phát triển đất nước của các quốc gia. Điều này
dễ nhận thấy trong xã hội hiện đại, khi mà các quốc gia đang đua nhau về
kinh tế, mà thực chất là sự cạnh tranh về khoa học và cơng nghệ. Bản chất của
khoa học cơng nghệ là trí tuệ của con người. Giáo dục hiện đại giúp các quốc
gia giành thắng lợi trong cuộc đua tranh đó. Phát triển giáo dục trở thành quốc
sách hàng đầu, “đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”; điều đó được
thể hiện trong chiến lược phát triển đất nước, trong chính sách của các quốc
gia. Tổ chức UNESCO đã đề cập đến những yếu tố cốt lõi liên quan đến
chất lượng cuộc sống của con người trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò
của giáo dục và đào tạo. Theo quan điểm này việc nâng cao phẩm chất con
người chủ yếu thông qua giáo dục - đào tạo, làm cho cá nhân có thể phát
triển tối đa tiềm năng của mình.
Giáo dục đào tạo nâng cao phẩm chất cho trong cá nhân, đồng thời làm
cho xã hội phát triển. Giáo dục và đào tạo là nguồn lực hàng đầu cho phát
triển kinh tế, vì lẽ giáo dục - đào tạo đem lại kiến thức khoa học, trình độ
chuyên môn, kĩ năng, kĩ xảo, đạo đức, tư cách, tinh thần trách nhiệm, kỷ luật
lao động, óc tìm tịi, sáng tạo…cho con người. Song muốn đạt được các yếu
tố trên địi hỏi phải có nền giáo dục phát triển, mà muốn cho giáo dục phát
triển thì yếu tố đầu tiên phải kể đến là quản lí Nhà nước về giáo dục và đào
tạo. Việt Nam là đất nước có truyền thống giáo dục từ Cách mạng tháng 8
đến nay, truyền thống đó ngày càng được vun đắp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
có tầm nhìn rất xa đối với giáo dục - đào tạo, coi đây là lĩnh vực quan trọng
cho sự phát triển. Người cho rằng “Vì lợi ích trăm năm phải trồng người”
hay “ Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Ngày nay khoa học và cơng nghệ
có những bước tiến xa so với nền khoa học công nghệ truyền thống. Muốn
nắm bắt được công nghệ mới, con người phải có trình độ học vấn do giáo
dục - đào tạo cung cấp, từ đó con người sẽ trở thành động lực thúc đẩy cơng
nghiệp hố hiện đại hoá đất nước. Như vậy giáo dục và đào tạo có vai trị rất
15



lớn và có ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cho nên Nhà
nước thống nhất quản lí về giáo dục và đào tạo. Vì thơng qua quản lí Nhà
nước về giáo dục và đào tạo, việc thực hiên các chủ trương chính sách quốc
gia nâng cao hiệu quả đầu tư cho giáo dục, chú ý thực hiện các mục giáo
dục, nâng cao chất lượng giáo dục mới được triển khai, thực hiện có hiệu
quả. Quản lí Nhà nước về giáo dục và đào tạo có thể được coi là khâu then
chốt của then chốt nhằm đảm bảo thực hiên thắng lợi của mọi hoạt động
giáo dục và đào tạo, tiến tới mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài cho đất nước và hoàn thiện nhân cách con người.
2.1. Thực trạng giáo dục đào tạo và công tác quản lý nhà nước về
giáo dục và đào tạo ở nước ta.
Hơn 25 năm qua, cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước đã đạt được
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Cùng với sự phát triển chung
của mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, lĩnh vực giáo dục và đào tạo tiếp tục
phát triển mạnh mẽ trên cả ba mặt: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Về thành tựu của phát triển giáo dục, đào tạo, Đại hội XI
của Đảng đánh giá: "Đổi mới giáo dục đạt được một số kết quả bước đầu.
Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo trên 20% tổng chi ngân sách;
việc huy động các nguồn lực xã hội cho giáo dục, đào tạo, phát triển giáo
dục-đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số được quan tâm. Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển. Đến năm
2010, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học
cơ sở. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng, năm 2010 đạt 40% tổng số lao động
đang làm việc"1. Quy mô giáo dục và mạng lưới cơ sở giáo dục phát triển,
đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân. Trong giai đoạn 2001 - 2010,
tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đi học tăng nhanh, trong đó mẫu giáo 5 tuổi tăng
từ 72% lên 98%; tiểu học từ 94% lên 97%; trung học cơ sở từ 70% lên 83%;
trung học phổ thông từ 33% lên 50%; quy mô đào tạo nghề tăng 3,08 lần,

1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr 153

16


trung cấp chuyên nghiệp tăng 2,69 lần; quy mô giáo dục đại học tăng 2,35
lần. Năm 2010, số sinh viên cao đẳng và đại học trên một vạn dân đạt 227;
tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt 40%, bước đầu đáp ứng được nhu cầu của
thị trường lao động. Mạng lưới cơ sở giáo dục phát triển rộng khắp trong
toàn quốc đã mở rộng cơ hội học tập cho mọi người, bước đầu xây dựng xã
hội học tập. Đã xóa được "xã trắng" về giáo dục mầm non; trường tiểu học
có ở tất cả các xã, trường trung học cơ sở đã có ở hầu hết các xã hoặc liên
xã; trường trung học phổ thơng có ở tất cả các huyện. Các tỉnh và huyện có
đơng đồng bào dân tộc thiểu số đã có trường phổ thơng dân tộc nội trú, phổ
thông dân tộc bán trú. Mạng lưới trung tâm giáo dục thường xuyên, trung
tâm học tập cộng đồng phát triển mạnh. Các cơ sở đào tạo nghề, trung cấp
chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học được thành lập ở hầu hết các địa bàn
đông dân cư, các vùng, các địa phương, kể cả ở vùng khó khăn. Cả nước đã
hồn thành mục tiêu xố mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo
dục trung học cơ sở và đang đẩy mạnh thực hiện phổ cập giáo dục mầm non
cho trẻ em năm tuổi và phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; một số địa
phương đang thực hiện phổ cập giáo dục trung học. Chất lượng giáo dục ở
các cấp học và trình độ đào tạo có tiến bộ. Trình độ hiểu biết, năng lực tiếp
cận tri thức mới của học sinh, sinh viên được nâng cao một bước. Số đông
học sinh, sinh viên tốt nghiệp có hồi bão lập thân, lập nghiệp và tinh thần
tự lập; đại bộ phận sinh viên tốt nghiệp đã có việc làm. Phát triển giáo dục
và đào tạo đã chuyển theo hướng đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ; đã mở thêm nhiều ngành nghề

đào tạo mới, bước đầu đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động. Chất lượng
giáo dục mũi nhọn đã được coi trọng thông qua việc phát triển hệ thống
trường chuyên, trường năng khiếu và thực hiện các chương trình đào tạo
chất lượng cao, chương trình tiên tiến ở nhiều trường đại học và cao đẳng
nghề. Công bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục đã được cải thiện, đặc biệt
người dân tộc thiểu số, con em các gia đình nghèo, trẻ em gái và các đối
17


tượng bị thiệt thòi ngày càng được quan tâm. Về cơ bản, đã đạt được sự bình
đẳng nam nữ trong giáo dục phổ thông và giáo dục đại học. Giáo dục ở vùng
đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa tiếp tục phát triển. Một số
chính sách miễn, giảm học phí, cấp học bổng, cho vay đi học và hỗ trợ khác
đối với học sinh, sinh viên thuộc diện chính sách đã mang lại hiệu quả thiết
thực trong việc thực hiện công bằng xã hội và phát triển nguồn nhân lực chất
lượng ngày một cao. Công tác quản lý giáo dục có bước chuyển biến tích
cực theo hướng: khắc phục các tiêu cực trong ngành, chuẩn hóa đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục; đổi mới cơ chế tài chính của ngành giáo
dục; tăng cường phân cấp quản lý giáo dục, quyền tự chủ và trách nhiệm của
các cơ sở giáo dục; ứng dụng rộng rãi cơng nghệ thơng tin; hình thành giám
sát xã hội đối với chất lượng giáo dục và đào tạo; xây dựng hệ thống quản lý
chất lượng từ Trung ương đến địa phương và các cơ sở giáo dục; đẩy mạnh
cải cách hành chính trong tồn ngành; mở rộng mơi trường giáo dục thân
thiện, khuyến khích tính tích cực, chủ động trong học sinh, sinh viên; đổi
mới và tăng cường giáo dục truyền thống và văn hóa dân tộc. Đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục tăng nhanh về số lượng, nâng dần về chất
lượng, từng bước khắc phục một phần bất hợp lý về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu
phổ cập giáo dục và phát triển các cấp học và trình độ đào tạo. Ngân sách
Nhà nước đầu tư cho giáo dục tăng nhanh, từ 15,3% năm 2001 lên 20% tổng
chi ngân sách năm 2010. Công tác xã hội hoá giáo dục đã đạt được những

kết quả quan trọng, nhất là huy động các nguồn lực để đầu tư xây dựng cơ
sở vật chất trường học, mở trường và đóng góp kinh phí cho giáo dục. Các
nguồn đầu tư cho giáo dục ngày càng được kiểm soát chặt chẽ và tăng dần
hiệu quả sử dụng. Giáo dục ngồi cơng lập phát triển, đặc biệt trong giáo
dục nghề nghiệp và đại học. Trong 10 năm vừa qua, tỷ trọng quy mơ đào
tạo ngồi cơng lập trong tổng quy mô đào tạo tăng: sơ cấp nghề tăng từ 28%
lên 44%, trung cấp và cao đẳng nghề tăng từ 1,5% lên 5,5%, trung cấp
chuyên nghiệp tăng từ 5,6% lên 27,2%, cao đẳng tăng từ 7,9% lên 19,9%,
18


đại học tăng từ 12,2% lên 13,2%. Cơ sở vật chất nhà trường được cải thiện.
Tỷ lệ phòng học kiên cố tăng từ 52% năm 2006 lên 71% năm 2010. Nhà
cơng vụ cho giáo viên và kí túc xá cho học sinh, sinh viên đã được ưu tiên
đầu tư xây dựng và tăng dần trong những năm gần đây. Có được những
thành tựu trên là do giáo dục và hoạt động quản lý nhà nước về giáo dục đã
thường xuyên nhân được sự lãnh đạo của Đảng, quan tâm của Quốc hội; sự
chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và chính quyền các cấp; sự quan tâm,
tham gia đóng góp của các đoàn thể, tổ chức xã hội trong và ngoài nước, của
toàn dân đối với giáo dục đã quyết định sự thành công của sự nghiệp giáo
dục. Sự ổn định chính trị, những thành quả phát triển kinh tế - xã hội, đời
sống nhân dân được cải thiện và hội nhập quốc tế trong thời kỳ đổi mới đã
tạo môi trường thuận lợi cho phát triển giáo dục. Đầu tư cho giáo dục trong
tổng chi ngân sách nhà nước đã liên tục tăng qua các năm.
Bên cạnh những thành tựu nền giáo dục nước ta nói chung và cơng tác
quản lý nhà nước về giáo dục ở nước ta nói riêng cịn có một số hạn chế, yếu
kém như: Quy mô và chất lượng đào tạo, giáo dục nước ta chưa đáp ứng
được đòi hỏi lớn và ngày càng cao về nhân lực của các mục tiêu kinh tế –xã
hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thực hiện cơng nghiệp hố và hiện đại hố
đất nước, tiến tới xây dưng xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Cơ cấu

hệ thống giáo dục nói chung, quy mơ giáo dục chuyên nghiệp, nhất là đào
tạo công nhân kỹ thuật cịn q nhỏ, phương thức đào tạo cịn có những lạc
hậu điều này dẫn đến làm mất cân đối về cơ cấu trình độ trong đội ngũ lao
động ở nhiều ngành sản xuất, không đáp ứng được yêu cầu thời kỳ cơng
nghiệp hố hiện đại hố đất nước. Những biểu hiện tiêu cực thiếu kỷ cương
trong giáo dục - đào tạo vẫn có chiều hướng gia tăng. Vấn đề công bằng
trong giáo dục và đào tạo chưa được thực hiện tốt. Đội ngũ giáo viên nhìn
chung thiếu và khơng đồng bộ về cơ cấu. Phương pháp giảng dạy còn cổ
điển và lạc hậu, quản lý giáo dục còn yếu kém, chưa tạo ra những hiệu lực
cao trong điều hành cả ở vĩ mô và vi mô. Cơ sở vật chất – kỹ thuật còn thiếu
19


thốn và xuống cấp nghiêm trọng (trường, lớp, thư viện và phịng thí nghiêm,
trang thiết bị dạy học) cho học sinh, sinh viên thực tập còn kém chất lượng
gây lãng phí cho ngân sách giáo dục. Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục chậm
đổi mới và hoạt động kém hiệu quả gây khó khăn cho cơng tác quản lý giáo
dục. Việc phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý còn hạn chế. Quản lý giáo
dục vẫn còn nhiều bất cập, cịn mang tính bao cấp, ơm đồm, sự vụ và chồng
chéo, phân tán; trách nhiệm và quyền hạn quản lý chuyên môn chưa đi đôi
với trách nhiệm, quyền hạn quản lý về nhân sự và tài chính. Hệ thống pháp
luật và chính sách về giáo dục thiếu đồng bộ, chậm được sửa đổi, bổ sung.
Sự phối hợp giữa ngành giáo dục và các bộ, ngành, địa phương chưa chặt
chẽ. Chính sách huy động và phân bổ nguồn lực tài chính cho giáo dục chưa
hợp lý; hiệu quả sử dụng nguồn lực chưa cao. Đầu tư của Nhà nước cho giáo
dục chưa tập trung cao cho những mục tiêu ưu tiên; phần chi cho hoạt động
chun mơn cịn thấp. Quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở
giáo dục chưa được quy định đầy đủ, sát thực.
Một bộ phận nhà giáo và cán bộ quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ giáo dục trong thời kỳ mới. Đội ngũ nhà giáo vừa thừa, vừa thiếu

cục bộ, vừa không đồng bộ về cơ cấu chuyên mơn. Tỷ lệ nhà giáo có trình
độ sau đại học trong giáo dục đại học còn thấp; tỷ lệ sinh viên trên giảng
viên chưa đạt mức chỉ tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển giáo dục 2001 2010. Vẫn còn một bộ phận nhỏ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có biểu
hiện thiếu trách nhiệm và tâm huyết với nghề, vi phạm đạo đức và lối sống,
ảnh hưởng khơng tốt tới uy tín của nhà giáo trong xã hội. Năng lực của một
bộ phận nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục còn thấp. Các chế độ chính
sách đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, đặc biệt là chính sách
lương và phụ cấp theo lương, chưa thỏa đáng, chưa thu hút được người giỏi
vào ngành giáo dục, chưa tạo được động lực phấn đấu vươn lên trong hoạt
động nghề nghiệp. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo chưa đáp
ứng được các yêu cầu đổi mới giáo dục. Nội dung chương trình, phương
20


pháp dạy và học, công tác thi, kiểm tra, đánh giá chậm được đổi mới. Nội
dung chương trình cịn nặng về lý thuyết, phương pháp dạy học lạc hậu,
chưa phù hợp với đặc thù khác nhau của các loại hình cơ sở giáo dục, vùng
miền và các đối tượng người học; nhà trường chưa gắn chặt với đời sống
kinh tế, xã hội; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu xã hội; chưa
chú trọng giáo dục kỹ năng sống, phát huy tính sáng tạo, năng lực thực hành
của học sinh, sinh viên. Cơ sở vật chất kỹ thuật của nhà trường cịn thiếu và
lạc hậu. Vẫn cịn tình trạng phòng học tạm tranh tre, nứa lá ở mầm non và
phổ thông, nhất là ở vùng sâu, vùng xa; thư viện, phịng thí nghiệm, phịng
học bộ mơn và các phương tiện dạy học chưa đảm bảo về số lượng, chủng
loại và chất lượng so với yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục, nhất là ở
các trường đại học. Quỹ đất dành cho các cơ sở giáo dục chưa đạt chuẩn quy
định. Nghiên cứu và ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học giáo dục
còn hạn chế, chưa đáp ứng kịp các yêu cầu phát triển giáo dục. Chất lượng
và hiệu quả nghiên cứu khoa học trong các trường đại học còn thấp; chưa
gắn kết chặt chẽ đào tạo với nghiên cứu khoa học và sản xuất.

Nguyên nhân của những yếu kém trên trước hết việc thấu triệt quan
điểm “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu”, "đầu tư cho giáo dục là
đầu tư phát triển" chưa thực sự được thấm nhuần và thể hiện trên thực tế;
không ít cấp ủy Đảng và chính quyền chưa quán triệt đầy đủ đường lối của
Đảng về phát triển giáo dục và chưa quan tâm đúng mức trong việc chỉ đạo
và tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010. Tư duy về
giáo dục chậm đổi mới. Một số vấn đề lý luận mới về phát triển giáo dục
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế chưa được nghiên cứu đầy đủ. Chưa nhận thức đúng vai trò quyết
định của đội ngũ nhà giáo và sự cần thiết phải tập trung đổi mới quản lý nhà
nước về giáo dục. Chưa nhận thức đầy đủ và thiếu chiến lược, quy hoạch
phát triển nhân lực của cả nước, của các bộ ngành, địa phương; thiếu quy
hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Các chính sách tuyển và
21


sử dụng nhân lực sau đào tạo còn nhiều bất cập. Ngoài ra nền giáo dục nước
ta bị ảnh hưởng tiêu cực bởi cơ chế thị trường, việc thi hành kỷ cương kỷ
luật và pháp chế ngành còn chưa nghiêm. Bệnh chạy theo thành tịch, chủ
nghĩa hình thức cịn năng nề, dẫn đến đánh giá sai lệch kết quả thực của giáo
dục. Công tác quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo còn yếu kém, bất cập
và chậm đổi mới. Nặng về kinh nghiêm, thiếu cơ sở lý luận và khoa học. Sự
lãnh đạo của đạo của tổ chứ đảng và chính quyền địa phương nhiều lúc,
nhiều nơi còn chưa sát sao và thiếu thường xuyên liên tục. Bên cạnh đó có
những nơi lại can thiệp sâu lấn sân vào hoạt động chuyên môn cuả hoạt
động giáo dục và đào tạo gây cản trở công tác phát triển giáo dục. Sự suy
thoái về lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, giáo viên, giảng viên
cũng gây khơng ít khó khăn cho sự phát triển giáo dục và đào tạo.
Kế thừa các quan điểm đã được trình bày trong văn kiện đại hội Đảng
lần thứ IX, X, XI; Luật Giáo dục 2005 sửa đổi, bổ sung 2009 và trên cơ sở

tổng kết việc thực hiện Chiến lược phát triển Giáo dục giai đoạn 2001 –
2010, cùng với các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội khác, Chính phủ
Việt Nam đã cơng bố quyết định phê duyệt “Chiến lược phát triển giáo dục
2011 – 2020” (Quyết định số 711/2012/QĐ–TTg ngày 13/06/2012 của Thủ
tướng Chính phủ). Đây là văn bản pháp lý mang tính định hướng cho giáo
dục và quản lý nhà nước về giáo dục trong thời gian tới. Quan điểm chỉ đạo
của Đảng, Nhà nước ta về giáo dục gồm các nội dung:
Thứ nhất, Phát triển giáo dục phải thực sự là quốc sách hàng đầu, là sự
nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước, nâng cao vai trò các tổ chức, đồn thể chính
trị, kinh tế, xã hội trong phát triển giáo dục. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư
phát triển. Thực hiện các chính sách ưu đãi đối với giáo dục, đặc biệt là
chính sách đầu tư và chính sách tiền lương; ưu tiên ngân sách nhà nước dành
cho phát triển giáo dục phổ cập và các đối tượng đặc thù.

22


Thứ hai, Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, tiên tiến, hiện
đại, xã hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng. Thực hiện cơng bằng xã hội trong giáo dục, nâng cao chất
lượng giáo dục vùng khó để đạt được mặt bằng chung, đồng thời tạo điều
kiện để các địa phương và các cơ sở giáo dục có điều kiện bứt phá nhanh, đi
trước một bước, đạt trình độ ngang bằng với các nước có nền giáo dục phát
triển. Xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội bình đẳng để ai cũng được học, học
suốt đời, đặc biệt đối với người dân tộc thiểu số, người nghèo, con em diện
chính sách.
Thứ ba, Đổi mới căn bản, tồn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn
hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa, hội nhập quốc tế, thích ứng với
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển giáo dục gắn

với phát triển khoa học và công nghệ, tập trung vào nâng cao chất lượng,
đặc biệt chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng
thực hành để một mặt đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đảm bảo an ninh quốc phòng; mặt
khác phải chú trọng thỏa mãn nhu cầu phát triển của mỗi người học, những
người có năng khiếu được phát triển tài năng.
Thứ tư, Hội nhập quốc tế sâu, rộng về giáo dục trên cơ sở bảo tồn và
phát huy bản sắc dân tộc, giữ vững độc lập, tự chủ, định hướng xã hội chủ
nghĩa. Mở rộng giao lưu hợp tác với các nền giáo dục trên thế giới, nhất là
với các nền giáo dục tiên tiến hiện đại; phát hiện và khai thác kịp thời các cơ
hội thu hút nguồn lực có chất lượng.
Mục tiêu theo Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 – 2020
được xác định: Đến năm 2020, nền giáo dục nước ta được đổi mới căn bản
và tồn diện theo hướng chuẩn hố, hiện đại hố, xã hội hố, dân chủ hóa và
hội nhập quốc tế; chất lượng giáo dục được nâng cao một cách toàn diện,
gồm: giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, năng lực sáng tạo, năng lực thực
hành, năng lực ngoại ngữ và tin học; đáp ứng nhu cầu nhân lực, nhất là nhân
23


lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và xây dựng nền kinh tế tri thức; đảm bảo công bằng xã hội trong giáo
dục và cơ hội học tập suốt đời cho mỗi người dân, từng bước hình thành xã
hội học tập.
2.2. Nội dung và biện pháp đổi mới công tác quản lý nhà nước về
giáo dục hiện nay
Theo Luật Giáo dục năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), nội dung
quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo gồm: Xây dựng và chỉ đạo thực hiện
chiến lược, quy hoạnh, kế hoạch, chính sách phát triển giáo dục; Ban hành và
tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục; ban hành điều lệ

nhà trường; ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của các cơ sở giáo
dục; Quy định mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục; tiêu chẩn nhà giáo;
tiêu chuẩn cơ sở vật chất và thiết bị trường học; việc biên soan, xuất bản, in
và phát hành sách giáo khoa, giáo trình, quy chế thi cử và cấp văn bằng chứng
chỉ; Tổ chức quản lý việc bảo đảm chất lượng giáo dục và kiểm định chất
lượng giáo dục; Thực hiện công tác thống kê, thông tin về tổ chức và hoạt
động giáo dục; Tổ chức bộ máy quản lý giáo dục; Tổ chức, chỉ đạo việc đào
tạo, bồi dưỡng, quản lý nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; Huy động, quản
lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục; Tổ chức, quản lý
công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong lĩnh vực giáo dục;
Tổ chức, quản lý công tác hợp tác quốc tế về giáo dục; Quy định việc tặng
danh hiệu vinh dự cho người có nhiều cơng lao đối với sự nghiệp giáo dục;
Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục; giải quyết khiếu
nại, tố cáo và sử lý hành vi vi phạm pháp luật về giáo dục.
Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo là việc nhà nước thiết lập
quyền lực công để điều hành điều chỉnh toàn bộ hoạt động giáo dục - đào
tạo trong phạm vi toàn xã hội nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà
nước. Do đó một nền giáo dục dù phát triển hay chưa phát triển phụ thuộc
rất nhiều vào vai trò quản lý của nhà nước. Để đổi mới, nâng cao hiệu quả
24


quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo trong thời gian tới, trong cần thực
hiện một số giải pháp chủ yếu sau:
Một là, Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
đồng bộ làm cơ sở triển khai thực hiện đổi mới căn bản và tồn diện giáo dục.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, thực hiện thống nhất đầu mối quản lý và
hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về giáo dục. Thực hiện đồng bộ
phân cấp quản lý, hoàn thiện và triển khai cơ chế phối hợp giữa các bộ,
ngành và địa phương trong quản lý nhà nước về giáo dục theo hướng phân

định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền gắn với trách nhiệm và tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội
của các cơ sở giáo dục đi đôi với hồn thiện cơ chế cơng khai, minh bạch,
đảm bảo sự giám sát của cơ quan nhà nước, của các tổ chức chính trị xã hội
và nhân dân. Bảo đảm dân chủ hóa trong giáo dục. Thực hiện cơ chế người
học tham gia đánh giá người dạy, giáo viên và giảng viên tham gia đánh giá
cán bộ quản lý, cán bộ quản lý cấp dưới tham gia đánh giá cán bộ quản lý
cấp trên, cơ sở giáo dục tham gia đánh giá cơ quan quản lý nhà nước về giáo
dục. Hoàn thiện cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân, xây dựng khung trình
độ quốc gia về giáo dục tương thích với các nước trong khu vực và trên thế
giới, đảm bảo phân luồng trong hệ thống, đặc biệt là phân luồng sau trung
học cơ sở, trung học phổ thông và liên thơng giữa các chương trình giáo
dục, cấp học và trình độ đào tạo; đa dạng hóa phương thức học tập đáp ứng
nhu cầu nhân lực, tạo cơ hội học tập suốt đời cho người dân. Phân loại chất
lượng giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và đại học theo các tiêu
chuẩn chất lượng quốc gia, các cơ sở giáo dục chưa đạt chuẩn phải có lộ
trình để tiến tới đạt chuẩn; chú trọng xây dựng các cơ sở giáo dục tiên tiến,
trọng điểm, chất lượng cao để đào tạo bồi dưỡng các tài năng, nhân lực chất
lượng cao cho các ngành kinh tế - xã hội. Thực hiện quản lý theo chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục và quy hoạch phát triển
nhân lực của từng ngành, địa phương trong từng giai đoạn phù hợp tình
25


×