Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ. Ý NGHĨA TRONG VIỆC ĐỔI MỚI VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO Ở CÁC NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.11 KB, 36 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ QUỐC PHỊNG

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


TIỂU LUẬN

TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ. Ý NGHĨA TRONG VIỆC
ĐỔI MỚI VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO Ở
CÁC NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

Số phách

Người chấm

(Do Phòng SĐH ghi)

(Ký, ghi rõ họ tên)

Điểm
Bằng số

Bằng chữ

.......................................................................................................................................................

Số phách
(Do Phòng SĐH ghi)


Họ và tên:
Ngày sinh:
Lớp:
Chuyên ngành:
Ngày thực hiện:

1

GIÁO DỤC HỌC

24/10/ 2021


PHẦN MỞ ĐẦU
Lịch sử phát triển của xã hội Việt Nam nói chung và
lịch sử phát triển của nền giáo dục Việt Nam nói riêng trải
qua hàng nghìn năm lịch sử là sự kết tinh đặc sắc của tinh
hoa giáo dục nhân loại; truyền thống văn hóa, giáo dục của
dân tộc; quan điểm khoa học, cách mạng của nền giáo dục
Mácxit và đặc biệt là tinh hoa trong tư tưởng giáo dục của
chủ tịch Hồ Chí Minh. Việc nghiên cứu, ứng dụng sáng tạo
các giá trị tốt đẹp trong các tư tưởng về giáo dục của các
bậc tiền nhân trong lịch sử vào công cuộc đổi mới, xây
dựng và phát triển nền giáo dục nước nhà trong thời kì hiện
nay là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bảo đảm tính
kế thừa trong q trình chấn hưng nền giáo dục. Kế thừa và
phát triển sâu sắc các giá trị tư tưởng giáo dục, Đảng và
Nhà nước ta đang quyết tâm lãnh đạo cơng cuộc cải cách
căn bản, tồn diện nền giáo dục nước nhà nhằm đào tạo ra
con người vừa hồng, vừa chuyên thực hiện thắng lợi hai

mục tiêu chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Một trong
những tư tưởng quý báu trong kho tàng văn hóa của nhân
loại, thấm đẫm truyền thống phương Đơng, có ảnh hưởng
sâu sắc đến sự phát triển của nền giáo dục Việt Nam là tư
tưởng giáo dục trong học thuyết Nho học của Khổng Tử.
Nho học là dòng văn hố Trung Hoa cổ đại, nó đã
góp phần làm nên tính cách con người, tâm lý dân tộc
Trung Hoa và ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triền văn
hoá Phương Đơng trong đó có tư tưởng về giáo dục của
Khổng Tử. Mặc dù những tu tưởng giáo dục của Khổng
Tử được đưa ra cách đây 25 thế kỷ nhưng hiện nay nó
2


vẫn mang ý nghĩa thời sự. Đặc biệt hiện nay khi cánh cửa
của nền kinh tế tri thức đang mở rộng hướng nhân loại
vào kỷ nguyên khoa học và công nghệ, khi mà việc học
tập thường xuyên, suốt đời của mỗi con người trở thành
hiện thực. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
của Đảng tiếp tục quán triệt các quan điểm cơ bản về
giáo dục và đào tạo đã thể hiện trong nghị quyết Trung
ương 2 (khố VIII), Đại hội đại biểu tồn quốc lần X, kết
thúc Hội nghị TW lần thứ VI (khoá IX), khẳng định:
Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Tiếp tục kế thừa
văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần XI khẳng định:
Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát
triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan

trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con
người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với
phát triển khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu;
đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Đổi
mới toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển
của xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh tiến bộ đã đạt được, giáo
dục ở nước ta vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập mà Đảng
quan tâm nhất là chất lượng và hiệu quả giáo dục còn
thấp. Đối với các nhà trường quân đội là một bộ phận của
hệ thống giáo dục quốc gia, nghiên cứu và vận dụng linh
hoạt tinh hoa văn hóa giáo dục của nhân loại nói chung
và tư tưởng giáo dục của Khổng Tử nói riêng là một vấn
đề quan trọng bảo đảm cho quá trình giáo dục đào tạo
trong các nhà trường quân sự phát triển hài hòa, thống
3


nhất giữa tính hiện đại và tính truyền thống góp phần tích
cực vào q trình xây dựng và phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.

NỘI DUNG
Phần I
TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ
1.1. Sơ lược về cuộc đời của Khổng Tử
Khổng Tử sinh ở nước Lỗ, tên là Khâu, tự Trọng Ni.
Ông sinh vào năm 551 mất năm 479 (TCN). Vào thời kì
đó, nước Lỗ có nền kinh tế, văn hoá phát triển vào bậc
nhất ở Trung Hoa (tức là cuối thời Xuân Thu (722 - 481

TCN) và đầu thời kì Chiến Quốc (453 - 221 TCN). Cha
của Khổng Tử là Thúc Lương Ngột (Khổng Khúc Lương);
Khổng Tử lên ba tuổi thì cha mất. Vốn tính siêng năng,
hiếu học, Khổng Tử đã học nhiều thầy, và suốt đời tự học.
Tương truyền, từ lúc cịn trẻ tuổi, ơng đã làm một chức
quan nhỏ cho một nhà quý tộc nước Lỗ là Mạnh Hy Tử,
trơng coi việc thu thóc, coi việc giữ cừu, bị, dê; ơng cần
mẫn, liêm khiết. Khổng Tử nổi tiếng là người chăm chỉ,
liêm chính, suốt đời tự học, đi sâu vào việc "Đạo" và
nghiên cứu về "Lễ" nên học vấn của ông uyên bác, được
người đời ngợi ca và kính nể. Ơng là người học rộng, chí
lớn, hằng mong đem sự hiểu biết của mình để giúp đời
(trong lúc xã hội đang loạn ly) nên ông đã vào nghề dạy
4


học tõ lúc hai mươi tuổi và chu du khắp thiên hạ để truyền
đạo lý của mình. Mãi đến khi 51 tuổi, Khổng Tử mới
được phong làm quan nước Lỗ, chức "Trung đô ấp tể"...
Khổng Tử là người đầu tiên mở phong trào đi du thuyết
khắp các nước mong tìm được một ơng vua biết sử dụng
thầy trị ơng; nhưng không nơi nào hiểu và làm theo lời
khuyên của Khổng Tử. Sau khi Khổng Tử mất, tư tưởng
của ông ngày càng ảnh hưởng lớn và được các học trị của
ơng truyền bá sâu rộng ở Trung Hoa. Lúc sinh thời,
Khổng Tử có đến 3000 học trị theo học, trong đã cã 72
người (thất thập nhị hiền) tài giỏi trên nhiều lĩnh vực như:
Nhan Uyên nổi tiềng về đức hạnh, Tử Cống nổi tiếng về
hùng biện, Tăng Sâm, Tử Hạ nổi tiếng về văn học, Tử Lộ
nổi tiếng về võ bị, Nhiễm Hữu nổi tiếng về chính trị, Tử

Hoa nổi tiếng về ngoại giao, Nhiễm Ung có tư cách của
một ơng vua... Điều đã nói lên rằng, Khổng Tử đã đào tạo
nên một đội ngũ đơng đảo những người có tài, có đức
trong bộ máy xã hội phong kiến Trung Hoa.
Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử của Khổng Tử
được để lại tập trung nhất ở tác phẩm "Luận Ngữ", đã là
những lời dạy của ơng được học trị chép lại. "Luận Ngữ"
đã trở thành một trong những sách kinh điển trong bộ "Tứ
Thư" và được đem ra giảng dạy ở Trung Hoa trong suốt
thời kì phong kiến. Ngày nay, tuy còn nhiều ý kiến luận
bàn khác nhau về Khổng Tử, song ai cịng nhận thấy rằng,
cả cuộc đời ơng là "học khơng biết chán, dạy khơng biết
mỏi". Ơng khơng chỉ là một nhà triết học tiêu biểu mà còn
là nhà giáo dục vĩ đại xét trên cả hai phương diện, lý luận

5


và thực tiễn giáo dục. Nhiều tư tưởng giáo dục của ơng
cịn có giá trị q báu đối với thời đại ngày nay.
1.2. Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
a. Vai trò, ý nghĩa của giáo dục
Theo Khổng Tử, giáo dục có một vai trị quan trọng
đối với sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Ông cho rằng,
mỗi một quốc gia, dân tộc muốn tồn tại và phát triển cần
phải có 3 yếu tố là: Thứ (Dân đơng), Phú (Dân giàu) và
Giáo (Dân phải được giáo dục). Đối với một dân tộc, theo
ông giáo dục là nhân tố không thể thiếu được, một dân tộc
dốt không thể mạnh được. Khổng Tử đã nhận ra rằng: Giáo
dục, phát triển trí đức là chìa khóa để phát triển kinh tế,

đồng thời phát triển kinh tế là cơ sở cho phát triển giáo dục
và dân trí. Và Khổng Tử cũng cho rằng giáo dục có ảnh
hưởng trực tiếp đến việc thực thi lẽ công bằng, đến tôn ti trật
tự, đến thái độ của mỗi người đối với cuộc sống cộng đồng.
Đối với mỗi con người, ông luôn đánh giá cao vai trị của
giáo dục đến sự hình thành và phát triển của nhân cách. Đối
với Khổng Tử, ý nghĩa hết sức quan trọng của giáo dục là
cải tạo nhân tính. Ngài khơng hay nói nhân tính thiện ác, vì
nhân tính, đối với ngài, được hoà lẫn trong cả thiện lẫn ác.
Ngài chỉ coi trọng về hiệu quả giáo dục là phần hậu thiên.
Thiện ác của nhân loại đều do phần giáo dục hậu thiên quyết
định. “Tu Đạo” và “Minh Đức”. Đó là mục đích tối cao của
giáo dục trong việc cải tạo nhân tính theo Khổng Tử. Khổng
Tử khơng quan niệm giáo dục để tạo nhân tính ấy chỉ có
tính chất mở mang trí thức, giải thích vũ trụ mà thơi. Khổng
Tử chú trọng đến nhân cách đầy đủ, lấy giáo dục để mở
mang cả Trí, Tình lẫn Ý, hay là Trí, Nhân, Dũng, miễn sao
6


dạy người ta hồn thành con đường đạo lí. Khổng Tử cho
rằng người ta ở đời, ai cũng có cái tính trời phú cho. Tính đó
thì ai cũng như ai, thế nhưng vì tập qn, vì ảnh hưởng của
mơi trường xã hội mà thành ra mỗi người một khác: “Thiên
mệnh chi vị tính” nhưng “tính tương cận, tập tương viễn”.
Như thế, thiện ác của nhân loại đều do phần giáo dục hậu
thiên quyết định. Vì vậy, muốn dẫn nhân loại trở về chỗ
thiện bản nhiên thì phải dùng giáo dục: “Tu đạo chi vị
giáo: Giáo dục là tu sửa cái đạo làm người”. Hơn nữa,
Khổng Tử không quan niệm việc giáo dục cải tạo nhân cách

ấy chỉ có tính cách mở mang tri thức, giải thích vũ trụ
mà “Tu đạo” và “Minh đức” mới là mục đích tối cao của
việc cải tạo nhân tính: “Đại học chi đạo tại minh minh đức Cái học làm người lớn ở chỗ làm rạng sáng cái
đức”.Hay “tự minh thành vị chi giáo - Tự sáng tỏ đến chỗ
thành thật gọi là giáo dục”. Vì thế, Khổng Tử chú trọng đặc
biệt đến nhân cách con người, lấy giáo dục để mở mang cả
trí, tình lẫn ý hay là trí, nhân, dũng. Sau hết, giáo dục có ý
nghĩa trọng yếu phi thường nên bất cứ một cá nhân nào dù
có thiên tài lỗi lạc đến đâu mà nếu khơng để cho giáo dục
uốn nắn thì cũng khơng thể hồn thành nhân cách được. Bởi
vì Khổng Tử quan niệm “trí” khơng phải ngẫu nhiên mà có
nhưng là kết quả của q trình học hỏi. Khơng học dù thiện
đến đâu cũng bị cái ngu muội, cái phóng đãng, lầm lạc, phản
loạn làm biến chất. Ngài nói với học trị Tử Lộ rằng: “Hiếu
nhân bất hiếu học, kì tế dã ngu. Hiếu trí bất hiếu học, kì tế
dã tặc. Hiếu trực bất hiếu học, kì tế dã giảo. Hiếu dũng bất
hiếu học, kì tế dã loạn. Hiếu cương bất hiếu học, kì tế dã
cuồng: Người ưa làm điều nhân mà chẳng ưa học hỏi thì
7


mối hại che lấp là cái ngu muội. Người ưa trí xảo mà chẳng
ưa học thì mối che lấp là sự phóng đãng. Người ưa tín thật
mà chẳng ham học thì mối che lấp là sự thiệt thịi. Người ưa
sự ngay thẳng mà khơng học hỏi thì mối che lấp là tính gắt
gao. Người ưa dũng cảm mà khơng học hỏi thì mối che lấp
là sự phản loạn. Người ưa cương quyết mà chẳng ưa học
hỏi thì mối che lấp là sự cuồng bạo”.
b. Mục đích giáo dục
Khi đề cao vai trò của giáo dục, Khổng Tử cũng đã

bộc lộ rõ mục đích giáo dục là đào tạo ra lớp người
quân tử có đủ phẩm chất và năng lực để nhận
chức của triều đình, trung thành phục vụ chế độ và làm
lực lượng nòng cốt để ổn định và cải biến xã hội, hướng
tới xây dựng xã hội lý tưởng. Theo Khổng Tử: Người
quân tử là những người nhân nghĩa, trung chính. Người
quân tử là người cao thượng nhất, là người: Học đạo thì
yêu người. Người quân tử trước hết phải tu dưỡng đạo đức
thì mới có thể làm việc lớn (tề gia, trị quốc, bình thiên hạ).
Khổng Tử quan niệm: “Người quân tử ăn không được đầy
đủ, ở không được yên vui, làm việc siêng năng và thận
trọng với lời nói, tìm người đạo đức để sửa mình; như vậy
mới được coi là người ham học”. Ngoài ra cốt lõi trong
phẩm chất của người quân tử theo Khổng Tử là chữ
“Nhân”. Người có "nhân" là người làm được năm
điều:"cung, khoan, tín, mẫn, huệ". "Nhân" cịn là biết
thương người (ái nhân) và biết ghét người. Như vậy,
"nhân": là đức tính hoàn thiện, là cái gốc đạo đức của con
người. Nên "nhân" là đạo làm người, đạo của người quân
tử. Chữ “Nhân” của người quân tử còn được thể hiện ở
8


việc giải quyết đúng các mối quan hệ ứng xử đối với bản
thân mình và đối với người khác. "Kỷ sở bất dục vật thi ư
nhân" (Điều gì mình khơng muốn thì đừng làm cho người
khác)."Mình muốn lập thân thì cùng giúp người lập thân"
(Kỷ dục lập nhi lập nhân)."Mình muốn thành đạt thì cùng
giúp người thành đạt" (Kỷ dục đạt nhi đạt nhân). Ngoài ra
người quân tử là người phải tin vào mệnh trời (quân tử uý

thiên mệnh). Quân tử có ba điều sợ: Sợ mệnh trời. Sợ lời
nói của thánh nhân. Sợ đại nhân (người có đức lớn). Như
vậy, người quân tử phải: Tuân theo mệnh trời. Nói theo
sách thánh hiền. Noi gương bậc đại nhân trong xã hội.
Tóm lại, mục đích giáo dục người qn tử theo Khổng Tử
gồm 3 điều đó là: Học dĩ chí dụng nghĩa là người quân tử
học để ứng dụng cho có ích với đời, với quốc gia, xã hội.
Ơng nói rằng: Đọc ba trăm bài Kinh thi, trao cho chính
quyền mà khơng đạt được, sai đi ra ngồi bốn phương mà
khơng biết đối phi được, thế thì học nhiều để mà làm gì?.
Như vậy, việc học của người quân tử là để đem kiến thức
đã thành đạt của mình ra làm quan, tham gia việc chính trị
để giúp ích cho đời, cho xã hội. Học để hoàn thành nhân
cách. Học của người qn tử là học để cho mình, chứ
khơng phải học cho ai do đó giáo dục chú trọng vào việc
dưỡng thành nhân cách của người học để ứng dụng với
đời sống theo con đường: cách vật, trí tri, thành ý, chính
tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Học để tìm tịi
chân lí. Khổng Tử hết sức phản đối cái học cầu lợi, học để
tranh đấu quyền lợi, để chỉ chú trọng vào mục đích là tìm
kiếm chân lí trong việc giáo dục. Chân lí ở đây tức là đạo
lí, nên ngài định nghĩa giáo dục là “tu sửa đạo lí gọi là
9


giáo dục: Tu đạo chi vị giáo”. Khổng Tử khuyên mọi
người dốc lòng tin, ham sự học, giữ cho vững, dẫu chết
cũng không thay đổi và làm cho cái đạo hay hơn
lên. “Nước có đạo mà mình nghèo và hèn là xấu hổ; nước
khơng có đạo mà mình giàu và sang là xấu hổ” cho nên,

việc học vấn, đối với ngài chỉ có một mục đích duy nhất là
đạt cho được đạo lí mà đem ra giúp đời.
c. Nội dung giáo dục của Khổng Tử
Nội dung giáo dục luân lý đạo đức của Khổng Tử
được thể hiện trong “Luận ngữ”. “Luận ngữ” chủ trương
rèn luyện tính thiện cho dân bằng phương pháp “cất nhắc
người tốt, dạy dỗ người không tốt thì dân khun nhau
làm điều thiện”. Mục đích giáo dục điều thể hiện cho dân
không làm điều ác, không phạm tội. Nếu khơng giáo hóa
dân, để dân phạm tội rồi giết, như vậy tàn ngược. Với
quyết định này, thì trước hết phải dạy cho dân biết điều
thiện, ác để mà thực thi. Bên cạnh giáo dục đạo đức,
chúng ta có thể suy thấy nội dung dạy học của ông gồm 4
mặt: “những kẻ theo ta ở nước Trần, nước Sái nay đều
không đến trường cua ta nữa. Môn đức hạnh: thì có Nhan
Un, Mẫu Tử - khiên, Nhiễm Bá - ngưu, Trọng Cung;
khoa ngơn ngữ: thì có Tể Ngã, Tử Cống ; mơn chính trị,
thì có Nhiễm Hữu, Qúy Lộ; mơn văn học: thì có Tử Du,
Tử Hạ”. Ở đây Khổng Tử chưa hẳn phân ngành để dạy,
nhưng trên thực tế thì có 4 nội dung đó, và biết phân biệt
ra 4 mặt như vậy mà dạy, “tùy tính chất mà dạy”, thì quả
thật đây là một tiến bộ rất lớn trong lịch sử giáo dục mà
đến nay còn nguyên giá trị. Chính cơng việc truyền dạy
của ơng đã có tác dụng tích cực rất lớn đối với lịch sử văn
10


hóa. Những chủ trương của Khổng Tử, là những nội dung
giáo dục nhằm phục vụ quan điểm chính trị, nhằm cải tạo
xã hội đương thời. Ơng tuyệt nhiên khơng phải dạy “văn

học”, dạy “ngôn ngữ”. Khổng Tử rất coi trọng việc học
Kinh Thi, khơng học Kinh Thi thì khơng biết gì để nói.
Theo Khổng Tử, Kinh Thi có thể làm cho phấn khởi, có
thể làm cho ta đồn kết, có thể làm cho ta biết căm thù,
gần thì để thờ cha mẹ, xa thì thờ vua, nhưng căn bản là bồi
dưỡng đức hạnh, kiến thức, để “thờ cha”, “thờ vua”.
Ngoài ra, nội dung giáo dục của Khổng Tử còn thể
hiện trong việc giáo hóa huấn luyện kỹ năng thực hành
cho dân. Khổng Tử cho rằng “Bậc thiện dạy dân bảy năm
thì có thể dùng dân vào việc chiến đấu được”, “đưa dân
không được dạy dỗ ra đánh giặc, tức là bỏ dân”. Quan
niệm này thể hiện trong quan niệm của Khổng Tử ít nhiều
quý trọng sinh mệnh con người, dù đó là tính mạng của tứ
dân bách tính tầm thường. Tuy nhiên trong lĩnh vực huấn
luyện kỹ năng thực hành cho dân, Khổng Tử không tránh
khỏi những hạn chế xã hội.Trung Hoa thuở ấy là xã hội
nông nghiệp, thế mà Khổng Tử không dạy cách làm ruộng
làm vườn. Khi Phàn Trì xin ơng dạy cách trồng cây, thì
ơng đã trách rằng: “Gã Phàn Trì chí nhỏ hẹp lắm thay!”.
Người bề trên chỉ cần học đủ lễ, nghĩa, tín thì dân chúng
bốn phương sẽ đem đến phục dịch mình. Cần khi phải học
nghề cày cấy”. Khổng Tử coi việc làm ruộng là của kẻ
tiểu nhân, còn kẻ sỹ “hà tất phải học làm ruộng”. Đây là tư
tưởng xem thường chân tay của Khổng Tử. Không chỉ
xem thường kẻ lao lực, Khổng Tử cịn khơng tin vào khả
năng nhận thức của họ. Khổng Tử viết “Dân khả sự do
11


chi, bất khả sự tri chi”, đây là chủ trương “ngu dân” của

Khổng Tử. Tuy nhiên, ông chủ trương “hữu giáo vơ lồi”,
đây là mâu thuẫn giữa tư tưởng thân dân và lập trường q
tộc của ơng. Về sau tư tưởng này được Mạnh Tử khắc
phục. Giáo dục con người theo Khổng Tử là dạy học “đạo
lý”, để tạo ra con người có đủ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín,
dũng, hiếu bằng văn chương, lục kinh và lục nghệ. Ơng
khơng dạy mọi người về những vấn đề như quái dị, bạo
lực, phản loạn và mê tín quỉ thần. Nội dung giáo dục của
Khổng Tử còn tập trung thể hiện ở chữ Nhân đó là u
người. Nhân cịn có nghĩa là Trung thứ. Tức là cái gì mà
mình muốn làm thì cũng phải giúp người khác được như
vậy. Nhân còn bao gồm Hiếu đễ. Hiếu đễ là tiêu chuẩn
trong gia đình. Hiếu là tiêu chí của con cái đối với cha mẹ.
Đễ là tiêu chí của người em đối với anh chị và người lớn
tuổi. Khổng Tử xem Hiếu đễ là cái gốc của nhân. Đức
Nhân là bậc thang giá trị cao nhất trong thang bậc đạo đức
của con người. Theo Khổng Tử, chỉ có người nhân mới có
thể có được cuộc sống an vui lâu dài với lịng nhân của
mình và dẫu có ở vào hồn cảnh nào, cũng có thể yên ổn,
thanh thản. Đối với lễ tế, Khổng Tử khẳng định lễ tế rất
quan trọng đối với người quân tử, nếu biết lễ tế thì việc
cai trị thiên hạ hết sức dễ dàng, giống như bỏ một vật lên
tay mình: “Người nào biết ý nghĩa của cuộc tế lễ thì tri
thiên hạ cũng như coi bàn tay mình” (Bất tri giã tri kỳ
thuyết giả chi ư thiên hạ giã, kỳ như thị chư tư hồ. Chỉ kỳ
chưởng). Do vậy, Khổng Tử dạy học trị phải có sự kính
cẩn, nghiêm túc, cẩn thận trong khi hành lễ. Nội dung
quan trọng nhất của Lễ mà Khổng Tử giáo dục học trò là
12



pháp điển của chế độ phong kiến. Ngay từ đầu, mục đích
của Khổng Tử là biến xã hội từ “loạn thành trị” cho nên
việc giảng dạy Lễ của Khổng Tử cũng khơng nằm ngồi
mục đích chính trị mà ơng theo đuổi. Khổng Tử giáo dục
học trò cách thức và biện pháp để có thể khơi phục và
củng cố lễ chế nhà Chu. Khổng Tử là người đã đem lễ tiết
nhà Chu cải biến thành một phạm trù đạo đức được coi là
mực thước cho các hành vi của con người trong xã hội.
Một nội dung quan trọng nữa trong tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử là tư tưởng “Chính danh định phận”. Bên cạnh
việc giảng dạy đạo lý, đạo làm người, Khổng Tử còn dạy
học trò văn chương và lục nghệ. “Văn” là gồm thi, thư, lễ,
nhạc, xuân thu; còn “Lục nghệ” là nội dung chương trình
các trường cơng lúc bấy giờ gồm sáu môn: lễ, nhạc, xạ
(bắn cung), ngự (đánh xe), thư (viết chữ), số (toán pháp).
Như vậy, trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, cùng với
quan điểm về vũ trụ và con người, học thuyết về luân lý,
đạo đức, chính trị- xã hội là một trong những vấn đề cốt
lõi và là thể thống nhất gắn bó hữu cơ với nhau. Những
phạm trù đạo đức căn bản nhất trong tư tưởng giáo dục
của Khổng Tử là nhân, lễ, nghĩa,.. Và một hệ thống quan
điểm chính trị- xã hội như: nhân trị, chính danh, quân tử,
tiểu nhân.
d. Phương pháp giáo dục
Khổng Tử rất coi trọng cách giáo dục theo lịch trình
đúng đắn với điều kiện tâm sinh lý. Ni cho tình cảm nảy
nở, rồi đưa vào khn phép, rồi điều hồ các mâu thuẫn
xung đột ở tâm. Vì vậy, khổng tử bảo rằng khởi hứng bằng
kinh thi, uốn nắn bằng kĩ thuật phép tắc, hoàn thành ở

13


nhân. Một trong những giáo li sâu sắc nhất của khổng tử,
là việc ông xây dựng những câu chuẹnn cách ngôn chứ
không giảng giải một cách trực tiếp cách cư xử cho ác
môn đồ. Khổng tử đã đề ra một hệ thống về phương pháp
giáo dục, với các hình thức phong phú đặc sắc. Phương
pháp thứ nhất: phương pháp đối thoại giữa thầy và trị
nhằm phát huy tính năng động chủ quan và tích độc lập
sáng tạo của người học. Ơng nói: “Kẻ nào khơng bực tức
vì khơng hiểu được thì ta khơng chỉ bảo cho mà biết
được.Kẻ nào chẳng hậm hực vì khơng tỏ được ý kiến của
mình thì ta chẳng khai phá cho mà nói ra được. Kẻ nào đã
biết một góc nhưng khơng chịu căn cứ vào đó để biết ln
ba góc kia thì ta chẳng dạy cho kẻ ấy nữa.”. Ơng ln u
cầu người học phải quan sát tinh tường và biết suy luận từ
một vật, một việc mà biết được những cái khác, từ cái này
biết cái kia “ biết một mối mà thông suốt cả - Dư nhất dĩ
quán nhi”. Phương pháp thứ hai: phương phá gắn học đi
đơi với hành, lời nói kết hợp với việc làm. Ơng nói “Nói
nhiều mà làm ít người quân tử lây làm hổ thẹn.”. Ông
khuyên mọi người hãy “ nghe nhiều, thấy nhiều, để ghi
nhớ và lựa chọn những điều hay mà học theo, nhờ vậy
mới trở nên bậc trí giả.”.”Làm trước nói, rồi sau đó cứ
theo đó mà dạy -Tiền hành kỳ ngơn, nhi hậu tùng chi.”.
Khổng tử còn đòi hỏi những người học phải biết kết hợp
việc học với tự đào sâu suy nghĩ: “Học mà chẳng chịu suy
nghĩ thì chẳng được thơng minh”, “Suy nghĩ mà chẳng
học thì dạ chẳng n.”. “Học mà khơng suy nghĩ thì bị lừa

dối, suy nghĩ mà khơng học thi sinh ra nghi ngại hoang
mang”. “ Học mà không tư thì vu vơ, tư mà khơng học thì
14


càng quấy”. Việc học mà Khổng Tử nói dường như khơng
những chỉ việc đọc sách mà cịn bao gồm mọi tri thức cảm
tính. Phưong pháp thứ ba: phương pháp “ơn cũ biết mới”.
Thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng học tâp. Khổng Tử
nói: “ơn cố nhi tri tận, khả dĩ vi sử hy”. Muốn vậy, theo
Khổng Tử người học không được tự mãn, tự phụ và giấu
dốt “việc gì mình biết, nhận là biết, việc gì mình chẳng
biết nhận là chẳng biết. Như thế mới là nói thật”. Ơng
thường xun khun học trị “phải ráng sức mà học,
dường như mình chẳng kịp theo người, chỉ sợ mình bị tụt
lại phía sau”. Thậm chí ơng cịn nói: “Trong ba người đi
đường, ắt có người là thầy mình. Mình chọn điều phải của
người này để theo, mình xét điều quấy, điều bất thiện chí
của người kia mà sửa đổi lấy mình”. Phương pháp thứ tư:
phương pháp “ tuỳ tính chất mà dạy”. Các học trị của
Khổng Tử có tài năng khác nhau, có những chuyên môn
sở trường khác nhau, đặc điểm nhân cách khác nhau.
Khổng Tử do hiểu rõ đối tượng, ông đã tìm cách dạy phù
hợp với từng người. Cùng một câu trả lời về nội dung chữ
hiếu, Khổng Tử đã trả lời cho Tử Do rằng: “Ngày nay
người ta cho hiếu là có thể ni được cha mẹ, đến như
giống chó, giống ngựa đều có người ni, ni mà khơng
kính, thì lấy gì phân biệt người với súc vật?” Nhưng lại
nói với Tăng Hạ rằng “cái khó là cái giữ được vẻ mặt hịa
vui”. Sở dĩ như vậy vì ơng biết Tử Do vẫn ni nấng cha

mạ nhưng thái độ cịn thiếu tơn kính, cịn Tăng Hạ thì ni
nấng, kính trọng cha mẹ nhưng nét mặt lúc nào cũng
không được vui. Phương pháp thứ năm: phương pháp đi
tuần tự từ dễ đến khó. Theo ơng “dạy” trước hết những
15


điều người ta có thể hiểu được rồi mới dần dần nâng cao
lên. Phương pháp thứ sáu: Khổng Tử sử dụng những sự
kiện thực tế giúp cho học trò của mình khái quát rút ra kết
kuận chỉ đạo trong hoạt động sau này của mình. Phương
pháp thứ bảy: Khổng Tử cũng dùng phương pháp đàm
thoại như Sơcrat. Ơng thường đặt vấn đề để hỏi học trò
sau khi học sinh trả lời, ơng kết luận, cũng có khi học trị
khơng hiểu điều gì hoặc nghĩ điều gì khơng ra thì hỏi ơng,
ơng chỉ dẫn cho. Ơng thường xun khuyến khích học trị
làm điều đó. Phương pháp thứ tám: Khổng Tử dùng
phương pháp thuyết phục bằng gương mẫu của chính bản
thân mà giáo dục. Ơng gọi cách giáo dục đó là thân giáo.
Ơng đánh giá người có đạo đức thơng qua hành vi, cuộc
sống chứ khơng qua lời nói “Người có đức tất có lời,
người có lời chưa chắc có đức “(Hữu đức giả tất hữu
ngôn. hữu ngôn bất tất hữu đức) Khổng Tử thức được
rằng mọi hành vi của ông đều khơng qua mắt học trị của
mình. Có lân ơng nói: “khâu này cũng may. Nếu có sai
lầm, nhất định người ta đều biết”. Phương pháp thứ chín:
người học phải nêu cao tính tích cực, độc lập trong tư duy.
Người học phải có sự tìm tịi, khám phá, sáng tạo trong
học tập. Trên cơ sở hướng dẫn, gợi mở của Thầy, học trị
phải tự tìm ra chân lý. Khổng Tử nói: Vật có 4 góc, "chỉ

cho một góc mà khơng tìm ra được 3 góc khác, thì ta
khơng dạy lại nữa" (Cử nhất ngung, bất dĩ tam ngung
phản, tắc bất phục dã). Khổng Tử yêu cầu rất cao ở người
học, người học không được trông chờ ở sự làm thay, "bầy
sẵn" của Thầy, mà người học phải có sự độc lập suy nghĩ,
phán đốn, suy luận ... tức là phải có thao tác tư duy để
16


tìm ra chân lý. Phương pháp thứ mười: học tập cẩn trọng,
tích cực, kiên trì và tư duy linh hoạt để đi đến mục tiêu,
chân lý. Khổng Tử đòi hỏi người học: Học cho rộng (Bác
học). Hỏi cho kỹ (Thẩm vấn). Nghĩ cho cẩn thận (Thận
tư). Phân biệt cho rõ ràng (Minh biện). Làm cho hết sức
(Dốc hành), ông yêu cầu người học phải nỗ lực ý chí cao
để đạt tới mục tiêu, chân lý. Học phải đến nơi đến chốn,
đạt đến chỗ tường minh: Khổng Tử khuyên người học
phải tránh 4 điều: Khơng suy đốn chủ quan (vơ ý).
Khơng khẳng định tuyệt đối (vô tất). Không câu nệ cố
chấp (vơ cố). Khơng tự cho mình mới là đúng (vơ ngã).
Ngồi ra ơng cũng u cầu người thầy giáo phải biếtDụ:
ví von. Đạo: hướng dẫn. Trợ: giúp đi. Khải: mở mang.
Phát: khêu gợi. Ơng nói: "Bất phẫn bất phát, bất phỉ bất
phát" (nếu học trị khơng phẫn, khơng bực tức vì khơng
hiểu được thì thầy khơng giải, khơng hậm hực vì khơng
nói ra được thì thầy khơng khơi mở). Theo Khổng Tử,
giáo dục phải tuân theo lô gic: Tri (hiểu biết), Tình (tình
cảm), ý (ý chí), Hành (hành động).
Khổng Tử rất đề cao giáo dục đạo đức, đồng thời đề
cao việc nêu gương tốt, coi trọng sự thống nhất giữa lời nói

và hành động. Ơng địi hỏi mỗi người cần phải thực hiện
các chuẩn mực ứng xử: "Thận ngơn": Nói năng thận trọng.
"Thận hành": Hành động thận trọng. "Vô tranh": Không cố
tranh giành với người khác. "Quan nhân": Quan sát người
để xét mình và học gương tốt. Kết giao bằng hữu: Chọn
bạn tốt cùng nhau học tập. Thân giáo trọng ư ngôn giáo: Sự
làm gương quan trọng hơn lời nãi. Dĩ thân tác tắc: Lấy bản
thân mình làm gương (cho người noi theo). Thái quá còng
17


như bất cập v.v... Ngồi ra ơng đặc biệt coi trọng sự tu
dưỡng của cá nhân (theo con đường khắc kỷ). Ông nêu:
Phải khắc kỷ: Tự chế ngự bản thân mình. Tự tụng: Tự mình
biện luận với mình. Tự tỉnh: Tự kiểm điểm mình. Tự trách:
Tự trách cứ, địi hỏi mình. Tự giới: Tự giới hạn những điều
khơng được làm.
e. Tư tưởng về người thầy giáo
Theo Khổng Tử, đối với người thầy giáo cần coi
trọng cả đức dục và trí dục, đồng thời kết hợp chặt chẽ
giữa đức dục và trí dục trong dạy học (Cả tri thức và đạo
đức - đặc biệt là đạo đức). Đối với người thầy giáo cần có
thái độ khiêm tốn và tinh thần ham học: "Học nhi bất
yếm" (Học không biết chán), "Phát phẫn vong thực" (Phân
phát đạo lý đến quên ăn), "Giáo học tương trưởng" (Người
dạy và người học tương tác thúc đẩy nhau phát triển),
quan tâm đến học trò, am hiểu về học trò, tận tâm, tận lực,
"hối nhân bất quyện" (Dạy khơng biết mỏi), hiểu học trị,
đánh giá đúng học trị và ln u cầu cao ở học trị.,
thương u, q mến học trò và làm gương cho học trò

noi theo "Dĩ thân tác tắc" (Lấy bản thân làm gương),
"Thân giáo trọng ư ngôn giáo" (Dạy bằng cách làm gương
hơn dạy bằng lời nói).
Những phương pháp này phản ánh kinh nghiệm thực
tiễn dạy học và yêu cầu về mặt nghề nghiệp giáo dục của
Khổng Tử. Đây chỉ là một số quan điểm cá biệt trong hệ
thống tư tưởng của Khổng Tử, tuy nhiên xét về phương
pháp dạy học vào thời bấy giờ thì đó là những ý kiến xuất
sắc, có ý nghĩa sáng tạo, có ảnh hưởng tích cực rất lớn đối

18


với sự phát triển của học thuyết giáo dục và sự nghiệp giáo
dục sau này của Trung Quốc và Việt Nam.
1.3. Những giá trị và hạn chế trong tư tưởng giáo dục
của Khổng Tử
Mặc dù tư tưởng giáo dục của Khổng Tử có ảnh hưởng
lớn đối với sự phát triển giáo dục của Trung Quốc và nhiều
nước châu Á khác trong đó có Việt Nam, những ảnh hưởng
đó khơng đơn thuần mang tính tích cực mà bên cạnh đó có
những hạn chế. Trước hết về mục đích giáo dục: mục đích
giáo dục bao trùm của Khổng Tử là nhằm đào tạo những
con người phù hợp với địa vị xã hội mà mình có, nghĩa là
sống đúng với danh của mình. Nếu tầng lớp thường dân
được giáo dục để biết phục tùng người trên, thì người quân
tử được giáo dục để làm người cai trị. Trong đó, Khổng Tử
ưu tiên cho mục đích đào tạo lớp người cai trị. Về đối tượng
giáo dục: với tư tưởng “hữu giáo vơ lồi”, có thể nói, Khổng
Tử là người đầu tiên chủ trương “bình dân” trong giáo dục.

Ông đã vượt qua đẳng cấp, danh phận trong xã hội góp phần
đưa sự nghiệp giáo dục con người đến với mọi lớp người ở
mọi phạm vi và trình độ. Ơng đã phá vỡ đặc quyền của tầng
lớp quan lại, quý tộc làm cho giáo dục mang tính chất phổ
cập bình dân. Tuy nhiên, cũng cịn nhiều điểm mâu thuẫn và
hạn chế là, dù coi giáo dục là bình đẳng giữa mọi người
nhưng trong giáo dục Khổng Tử lại phân biệt từng loại
người khác nhau, từng trình độ khác nhau, đó là tư tưởng
phân chia đẳng cấp. Theo Khổng Tử, vị trí của phụ nữ là ở
trong nhà và bếp núc, lo nuôi sống và phục vụ gia đình. Đây
cũng là hạn chế mang tính lịch sử trong tư tưởng giáo dục
của Khổng Tử. Với tư tưởng “hữu giáo vơ lồi”, Khổng Tử
19


đã để lại trong lịch sử nhân loại một quan niệm to lớn: mọi
người đều có quyền được giáo dục và xã hội cần giáo dục
cho tất cả mọi người. Về nội dung giáo dục: nội dung chủ
yếu mà Khổng Tử muốn truyền dạy cho mọi người là giáo
dục “đạo làm người”. Trong bối cảnh hỗn loạn của thời kì
Xuân Thu- Chiến Quốc khi trật tự xã hội bị đảo lộn, đạo đức
bị suy đồi, nhân luân xáo trộn…thì việc Khổng Tử đưa ra
nội dung giáo dục đạo đức cho con người là hết sức quan
trọng và có ý nghĩa to lớn nhằm thiết lập sự ổn định của xã
hội. Khổng Tử coi trọng dạy luân lý, đạo đức cho con người,
khiến con người sống hoà thuận. Nội dung cơ bản trong giáo
dục Khổng Tử còn chú trọng giáo dục trách nhiệm, nghĩa vụ
của cá nhân đối với gia đình và xã hội, chú trọng đến các giá
trị tinh thần, danh dự, đạo đức và khí tiết. Về phương pháp
giáo dục: Nhìn chung, trong phương pháp giáo dục của

Khổng Tử chứa đựng rất nhiều điểm tích cực và tiến bộ.
Chú trọng khơi dậy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
người học thông qua phương pháp thảo luận, tranh luận giữa
thầy và trò là ưu điểm nổi bật trong phương pháp dạy và học
của Khổng Tử. Điểm tiến bộ tiếp theo trong phương pháp
giáo dục của Khổng Tử là phương pháp phân lớp các đối
tượng trong quá trình dạy học nhằm trang bị kiến thức phù
hợp với khả năng của từng cá nhân để đạt được hiệu quả cao
nhất. Tuy nhiên phương pháp giáo dục của ơng vẫn cịn
nặng tính giáo điều, kinh viện, chưa chú trọng bồi dưỡng
kiến thức với rèn luyện kĩ năng thực hành, chưa gắn giáo
dục với lao động sản xuất và cải tạo xã hội.
Tóm lại những nội dung chủ yếu trong tư tưởng về
giáo dục Khổng Tử đã vượt ra khỏi lãnh thổ Trung Quốc
20


cùng với học thuyết đức trị của ơng đã có ảnh hưởng sâu
đậm đến Việt Nam trong suốt thời kì phong kiến cũng như
trong giai đoạn hiện nay.

Phần II
Ý NGHĨA TRONG VIỆC ĐỔI MỚI VÀ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO Ở CÁC NHÀ
TRƯỜNG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
Đối với nền giáo dục Việt Nam nói chung và q
trình giáo dục trong các nhà trường quân đội nói riêng,
nghiên cứu và vận dụng tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
vào trong thực tiễn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Hơn
25 năm qua, cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước đã đạt

được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Cùng
với sự phát triển chung của mọi mặt đời sống kinh tế - xã
hội, lĩnh vực giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển mạnh
mẽ trên cả ba mặt: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Đầu tư cho giáo dục-đào tạo ngày càng
tăng. Quy mô đào tạo không ngừng được mở rộng. Chất
lượng dạy nghề có nhiều chuyển biến tích cực. Đổi mới
giáo dục-đào tạo đang được tích cực triển khai ở mọi cấp
học. Việc xã hội hoá giáo dục và xây dựng xã hội học tập
đã thu được kết quả bước đầu. Nguyên nhân chủ yếu là do
sự ổn định chính trị và những thành quả phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước đã cải thiện đời sống nhân dân, tạo
điều kiện cho sự nghiệp giáo dục-đào tạo phát triển. Tuy
nhiên, bên cạnh những thành tích và tiến bộ đã đạt được,
21


giáo dục và đào tạo nước ta những năm qua vẫn còn nhiều
yếu kém, bất cập kéo dài, chậm được khắc phục. Trong
đó, đặc biệt là chất lượng, hiệu quả giáo dục-đào tạo thấp
và công tác quản lý nhà nước về giáo dục-đào tạo còn
nhiều yếu kém, chưa theo kịp với yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước. Văn kiện Đại
hội XI của Đảng đánh giá "Chất lượng giáo dục và đào tạo
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn
nhân lực trình độ cao cịn hạn chế; chưa chuyển mạnh
sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Chưa giải quyết tốt
mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất
lượng, giữa dạy chữ và dạy người. Chương trình, nội
dung, phương pháp dạy và học lạc hậu, đổi mới chậm; cơ

cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề
đào tạo; chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp
ứng được u cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện
đại hố. Quản lý nhà nước về giáo dục còn bất cập. Xu
hướng thương mại hoá và sa sút đạo đức trong giáo dục
khắc phục còn chậm, hiệu quả thấp đang trở thành nỗi bức
xúc của xã hội". Nguyên nhân của những yếu kém trước
hết phải kể đến trên thực tế việc thấu triệt và thực hiện
quan điểm “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu”
chưa được tiến hành đầy đủ; tư duy về giáo dục-đào tạo
còn chậm đổi mới, chưa thích ứng với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế;
chưa nhận thức đúng vai trò quyết định của đội ngũ nhà
giáo và sự cần thiết phải tập trung đổi mới quản lý nhà
nước về giáo dục, đào tạo. Mặt khác, trong quá trình hội
nhập quốc tế, giáo dục và đào tạo phải đối mặt với nhiều
22


thách thức lớn, bị chi phối bởi tâm lý truyền thống nặng
về khoa cử, bằng cấp và chịu nhiều tác động tiêu cực của
mặt trái cơ chế thị trường, sức ép về nhu cầu học tập của
nhân dân ngày càng cao, trong khi khả năng đáp ứng của
ngành và trình độ phát triển kinh tế của đất nước còn hạn
chế. Khơng có quy hoạch phát triển nhân lực của cả nước,
của các ngành và địa phương làm căn để xác định mục
tiêu, kế hoạch, quy mô, cơ cấu và chất lượng giáo dục,
đào tạo. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
theo tinh thần Đại hội XI của Đảng là sự kế thừa và vận
dụng sáng tạo quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí

Minh về giáo dục, đặc biệt là tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử. Những quan điểm, tư tưởng giáo dục tiến bộ
của Khổng Tử về mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo
dục, về xây dựng đội ngũ nhà giáo là một trong những cơ
sở cho việc hoạch định đường lối, chính sách phát triển
giáo dục, đào tạo của Đảng và Nhà nước ta, có ý nghĩa
thời sự đối với sự nghiệp đổi mới giáo dục, đào tạo ở nước
ta hiện nay.
Là một bộ phận trong hệ thống giáo dục quốc dân,
trong những năm qua các nhà trường quân đội đã tiến
hành công cuộc đổi mới toàn diện và tiến hành đồng bộ
các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục
đào tạo theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng IX, X, XI
và nghị quyết 86, 93, 94 của Đảng ủy Quân sự Trung
ương (Quân ủy trung ương). Công tác giáo dục - đào tạo ở
các nhà trường quân đội luôn quán triệt sâu sắc quan điểm
của Đảng về giáo dục - đào tạo. Thực hiện chủ trương đào
tạo cán bộ theo chức vụ có trình độ học vấn tương ứng và
23


nâng cao trình độ học vấn đội ngũ sĩ quan đạt kết quả tốt.
Học viên tốt nghiệp ra trường có chất lượng tương đối
tồn diện cả về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng,
kiến thức và năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ theo
chức trách ban đầu và có khả năng phát triển. Hệ thống
nhà trường từng bước được kiện toàn, được nâng cấp đào
tạo và thể chế hố về mặt nhà nước tương đối hồn chỉnh,
các bậc học được chuẩn hoá, những điều kiện bảo đảm
cho giáo dục - đào tạo được quan tâm đầu tư. Công tác

nghiên cứu khoa học của các nhà trường được đẩy mạnh;
phát huy tốt vai trò nòng cốt của đội ngũ nhà giáo và sự
tham gia tích cực của đội ngũ học viên trong công tác
nghiên cứu khoa học, nhất là trong xây dựng hệ thống
giáo trình, tài liệu phục vụ công tác giáo dục - đào tạo.
Các nhà trường quân đội tích cực tham gia các hoạt động
của ngành giáo dục - đào tạo trong cả nước, góp phần
nâng cao vị thế của các nhà trường quân đội. Quy trình,
chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo
đối với từng bậc học và trình độ đào tạo đã có sự đổi mới,
hồn thiện. Cơng tác tuyển chọn nguồn đào tạo có nhiều
chuyển biến tích cực, chất lượng từng bước được nâng
lên, cơ sở vật chất của các nhà trường được đầu tư có hiệu
quả. Tuy nhiên quy trình, chương trình tuy có đổi mới
nhưng chưa hợp lý và chưa cân đối giữa lý thuyết và thực
hành, thời gian đào tạo còn dài, một số nội dung còn lạc
hậu, trùng lặp, thiếu liên thông giữa các bậc học và trình
độ đào tạo. Phương pháp dạy học chủ yếu vẫn cịn mang
tính truyền thụ một chiều. Cơng tác quản lý học viên có
nơi chưa được coi trọng đúng mức. Năng lực thực hành
24


nhiệm vụ của một số cán bộ khi ra trường chưa đáp ứng
yêu cầu chức trách nhiệm vụ. Việc tuyển chọn đào tạo, bồi
dưỡng tài năng trẻ chưa được quan tâm đúng mức. Đội
ngũ nhà giáo còn thiếu về số lượng, tỷ lệ đạt tiêu chuẩn về
chất lượng còn thấp. Nhà giáo đầu ngành cịn ít, lực lượng
kế cận mỏng. Chế độ chính sách có nội dung chưa phù
hợp với lao động sư phạm quân sự, vì thế chưa thu hút

được người giỏi vào các trường quân đội. Chưa có sự
quan tâm đầu tư chiều sâu nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới
giáo dục - đào tạo và chưa huy động được các nguồn kinh
phí khác phục vụ yêu cầu phát triển của nhà trường… Đầu
tư xây dựng cơ bản cho các trường còn ở mức thấp và
chưa đồng bộ. Việc tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo
còn thiếu chủ động. Công tác quản lý nhà nước về giáo
dục - đào tạo chưa chặt chẽ; phân cấp quản lý và cơng tác
bảo đảm cho các trường cịn chồng chéo, phân tán. Quy
hoạch tổ chức hệ thống nhà trường chưa ổn định. Tổ chức
biên chế nhiều trường chậm được kiện toàn và chưa bảo
đảm thống nhất. Quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Nghị quyết Trung ương
2 (khoá VIII) về giáo dục - đào tạo, Nghị quyết Trung
ương 8 (khoá IX) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ
VIII, Nghị quyết số 51- NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị
quyết số 513- NQ/ĐUQSTW của Đảng uỷ Quân sự Trung
ương về tiếp tục thực hiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực
hiện chế độ một người chỉ huy gắn với việc thực hiện chế
độ chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt
Nam. Do đó đổi mới tồn diện công tác giáo dục - đào tạo
25


×