Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

2022 câu hỏi ôn tập triết học mác lênin SINH VIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.65 KB, 75 trang )

CÂU HỎI ÔN TẬP
TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Năm học 2021-2022
I. Phần tự luận
Câu 1. Theo anh (chị), tại sao vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức lại
được coi là vấn đề cơ bản của triết học? Triết học Mác – Lênin đã giải quyết vấn đề
cơ bản của triết học như thế nào?
Quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy là vấn đề cơ bản của
triết học với những cơ sở sau đây:
Thứ nhất, tư tưởng về vật chất, ý thức nảy sinh sớm nhất. Từ cổ xưa con
người đã sớm phát hiện ra vấn đề: “dường như” bên cạnh thế giới hiện thực cịn có
một thế giới tư duy, cảm giác, thế giới của các linh hồn sống mãi. Câu hỏi đặt ra
trước mọi học thuyết triết học với tính cách là hình thức nhận thức luận là: thế giới
tư duy, cảm giác có quan hệ như thế nào với thế giới hiện thực đang tồn tại. Triết
học quan tâm giải quyết vấn đề này, trước khi đi tìm hiểu về chính thế giới tự nó.
Vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ sở nền tảng, xuyên suốt mọi
học thuyết triết học trong lịch sử, quy định sự tồn tại, phát triển của triết học.
Thứ hai, Dù thừa nhận hay không thừa nhận thì việc nhận thức, giải quyết
vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức luôn luôn là điểm xuất phát, cơ sở nền tảng
để giải quyết các vấn đề cịn lại của tất cả các loại hình triết học trong lịch sử. . Tất
cả những hiện tượng mà chúng ta gặp thường ngày chỉ có thể là hiện tượng vật chất,
hoặc là hiện tượng tinh thần. Ở đâu và lúc nào quan tâm nghiên cứu trên bình diện
vật chất - ý thức hay quan hệ vật chất - ý thức thì lúc đó việc nghiên cứu triết học
được bắt đầu.
Thứ ba, kết quả và thái độ giải quyết quan hệ vật chất - ý thức cái nào có
trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào quy định thế giới quan, phương
pháp luận của các nhà triết học, các trường phái, hệ thống triết học; tiêu chí cơ bản,
1


chủ yếu nhất phân biệt các trường phái triết học trong lịch sử. Những nhà triết học


nào cho vật chất có trước, quyết định ý thức được gọi là các nhà duy vật; ngược lại
những nhà triết học nào cho rằng ý thức có trước, quyết định vật chất được gọi là các
nhà duy tâm.
thông qua một định nghĩa khoa học về vật chất, V.I. Lênin đã giải quyết
được trọn vẹn cả hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ
nghĩa duy vật triệt để, qua đó, vừa chống được những quan điểm duy tâm, thuyết
bất khả tri, vừa khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác về
phạm trù vật chất.
Câu 2. Phân tích định nghĩa vật chất của V.I. Lênin và rút ra ý nghĩa của nó?
- Định nghĩa vật chất của V. I. Lênin.
+ Hoàn cảnh lịch sử
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: xuất hiện các phát minh mới trong khoa học
tự nhiên, con người có hiểu biết căn bản, sâu sắc hơn về nguyên tử.
Năm 1895 Rơnghen phát hiện ra tia X, một loại sóng điện từ có bước sóng
từ 0,01 - 100.10-8 cm.
Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ, đã bác bỏ quan niệm
về sự bất biến của nguyên tử.
Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử (êléctrôn) và chứng minh được nó
là một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử. Nhờ phát minh này, lần đầu
tiên trong khoa học, sự tồn tại hiện thực của nguyên tử được chứng minh bằng thực
nghiệm.
Năm 1905, thuyết tương đối hẹp và năm 1916, thuyết tương đối tổng quát
của A Anhxtanh ra đời đã chứng minh: không gian, thời gian, khối lượng luôn biến
đổi cùng với sự vận động của vật chất.
Thế giới vật chất khơng có và khơng thể có những vật thể khơng có kết cấu,
tức là khơng thể có đơn vị cuối cùng, tuyệt đối đơn giản và bất biến để đặc trưng
2


chung cho vật chất.

+ Tác động của các thành tựu khoa học: Đến đây những quan điểm siêu hình
về vật chất, những quan niệm đương thời về giới hạn tột cùng của vật chất (nguyên
tử hoặc khối lượng) đều bị sụp đổ trước khoa học.
Đứng trước những phát hiện trên đây của khoa học tự nhiên, khơng ít nhà
khoa học và triết học đứng trên lập trường duy vật tự phát, siêu hình đã hoang
mang dao động, hồi nghi.
. Ngun tử khơng phải là phần tử nhỏ nhất, mà có thể bị phân chia, tan rã,
bị “mất đi”, do đó vật chất cũng có thể biến mất;
. Có hiện tượng khơng có khối lượng cơ học, hạt chuyển thành trường, cũng
có nghĩa là vật chất chỉ cịn là năng lượng, là sóng phi vật chất;
. Quy luật cơ học khơng cịn tác dụng gì trong thế giới vật chất “kỳ lạ”, thế
giới tồn tại khơng có quy luật, mọi khoa học trở thành thừa và nếu có chăng cũng
chỉ là sự sáng tạo tuỳ tiện của tư duy con người;
. Khách thể tiêu tan, chủ thể trở thành cái có trước, cái còn lại duy nhất là
chúng ta và cảm giác cùng tư duy của chúng ta để tổ chức những cảm giác đó.
E.Makhơ phủ nhận ln tính hiện thực khách quan của điện tử.
Ốtvan phủ nhận sự tồn tại thực tế của nguyên tử và phân tử.
Piếcsơn định nghĩa: “Vật chất là cái phi vật chất đang vận động”.
-) Thực chất của cuộc khủng hoảng vật lý học là cuộc khủng hoảng thế giới
quan: làm đảo lộn những quan niệm cũ về thế giới
* Nguyên nhân của sự khủng hoảng nằm ngay trong bước nhảy vọt của nhận
thức con người khi chuyển từ nhận thức thế giới vĩ mô sang nhận thức thế vi mơ,
đó là quan điểm siêu hình, máy móc.
* Con đường thốt ra khỏi khủng hoảng là phải thay quan niệm siêu hình
bằng quan niệm duy vật biện chứng.
Như vậy, đến đây đã có đủ điều kiện chín muồi để khắc phục cuộc khủng
3


hoảng về mặt thế giới quan.

Trong tác phẩm "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán":
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”1.
+ Phương pháp định nghĩa của V. I. Lênin
Phương pháp định nghĩa thông thường: quy khái niệm cần định nghĩa vào
khái niệm rộng hơn nó rồi chỉ ra những dấu hiệu đặc trưng.
Vật chất thuộc loại khái niệm rộng nhất, rộng đến cùng cực, cho nên khơng
thể có một khái niệm nào rộng hơn nữa.
Phương pháp định nghĩa duy nhất đúng về vật chất là bằng cách đặt nó trong
quan hệ với mặt đối lập (là ý thức), nhằm tìm ra thuộc tính cụ thể phân biệt được
vật chất và ý thức.
+ Nội dung định nghĩa
* Vật chất là một phạm trù triết học
. Khi nói vật chất là một phạm trù triết học thì nó là một sự trừu tượng. Song
sự trừu tượng này chỉ cái đặc tính chung nhất, bản chất nhất mà mọi sự vật hiện
tượng cụ thể nào của vật chất cũng có.
. Đây là sự xác định “góc độ” của việc xem xét để phân biệt vật chất với tư
cách là phạm trù triết học với các quan niệm của khoa học tự nhiên về cấu tạo và
những thuộc tính cụ thể của các đối tượng và các dạng vật chất khác nhau.
. Là một phạm trù triết học, vật chất là một phạm trù rộng và khái quát nhất,
khác với khái niệm vật chất theo định nghĩa hẹp, thường dùng trong khoa học cụ
thể và trong đời sống hàng ngày;
. Vật chất không phải là vật thể cụ thể, là kết quả của sự trừu tượng hoá, khái
quát hoá đặc trưng cơ bản nhất của các sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan trong
1

V. I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 18, tr. 151.

4



thế giới.
* Vật chất là thực tại khách quan, bên ngồi ý thức, khơng lệ thuộc ý thức.
. Mặc dù là "Phạm trù triết học" nhưng "vật chất" dùng để chỉ cái đặc tính
tồn tại với tư cách là hiện thực khách quan, tồn tại ở ngoài ý thức chúng ta.
Khi nói vật chất là một phạm trù triết học là muốn nói phạm trù này là sản
phẩm của sự trừu tượng hố, khơng có sự tồn tại cảm tính (Phân tích ở trên).
Nói cách khác, tính trừu tượng của phạm trù vật chất bắt nguồn từ cơ sở hiện
thực, do đó, khơng tách rời tính hiện thực cụ thể của nó.
. Vật chất là tất cả những gì đã và đang hiện hữu thực sự bên ngoài ý thức
của con người.
Vật chất là hiện thực chứ không phải là hư vơ và hiện thực này mang tính
khách quan chứ khơng phải hiện thực chủ quan.
Đây cũng chính là cái “phạm vi hết sức hạn chế” mà ở đó, theo V. I. Lênin
sự đối lập giữa vật chất và ý thức là tuyệt đối.
Nếu tuyệt đối hố tính trừu tượng của phạm trù này (tuyệt đối hóa mặt khái
niệm) sẽ không thấy vật chất đâu cả, sẽ rơi vào quan điểm duy tâm.
Ngược lại, nếu tuyệt đối hố tính hiện thực cụ thể của phạm trù này sẽ đồng
nhất vật chất với vật thể.
(Thực chất quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về vấn đề này)
Như vậy, mọi sự vật, hiện tượng từ vi mô đến vĩ mô, từ những cái đã biết
đến những cái chưa biết, từ những sự vật “giản đơn nhất” đến những hiện tượng vô
cùng “kỳ lạ”, dù tồn tại trong tự nhiên hay trong xã hội cũng đều là những đối
tượng tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người, nghĩa là đều thuộc phạm
trù vật chất, đều là các dạng cụ thể của vật chất.
Cả con người cũng là một dạng vật chất, là sản phẩm cao nhất trong thế giới
tự nhiên mà chúng ta đã biết.
Xã hội loài người cũng là một dạng tồn tại đặc biệt của vật chất.
5



Ý nghĩa: Khẳng định trên đây có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phê phán
thế giới quan duy tâm vật lý học, giải phóng khoa học tự nhiên khỏi cuộc khủng
hoảng thế giới quan, khuyến khích các nhà khoa học đi sâu tìm hiểu thế giới vật
chất, khám phá ra những thuộc tính mới, kết cấu mới của vật chất, không ngừng
làm phong phú tri thức của con người về thế giới.
Vật chất có trước, cảm giác (ý thức) có sau phụ thuộc vật chất.
Vật chất quyết định nguồn gốc ra đời, sự biến đổi của ý thức.
Giải quyết triệt để mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học.
* Vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì đem lại
cho con người trong cảm giác.
. Vật chất luôn biểu hiện đặc tính hiện thực khách quan của mình, (thơng qua
sự tồn tại không lệ thuộc vào ý thức của các sự vật, hiện tượng cụ thể) tức là luôn
biểu hiện sự tồn tại hiện thực của mình dưới dạng các thực thể.
Ví dụ: các hạt, sóng điện từ, vv dù khơng nhìn thấy nhưng đã được các khoa
thực nghiệm minh chứng là một thực thể vv,… và là một dạng cụ thể của vật chất,
có các đặc tính vật lý riêng.
-) Các thực thể này do những đặc tính bản thể luận vốn có của nó, nên khi
trực tiếp hoặc gián tiếp tác động vào các giác quan sẽ đem lại cho con người những
cảm giác.
-) Chủ nghĩa duy vật triết học không bàn đến vật chất một cách chung
chung, mà bàn đến nó trong mối quan hệ với ý thức của con người.
. Trong đó, xét trên phương diện nhận thức luận thì vật chất là cái có trước,
là tính thứ nhất, là cội nguồn của cảm giác (ý thức); cịn cảm giác (ý thức) là cái có
sau, là tính thứ hai, là cái phụ thuộc vào vật chất.
Câu trả lời cho mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học.
* Con người có thể nhận thức được thế giới vật chất.
. Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất.
6



. Trong thế giới ấy, theo quy luật vốn có của nó mà đến một thời điểm nhất
định sẽ cùng một lúc tồn tại hai hiện tượng - hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh
thần.
. Các hiện tượng vật chất luôn tồn tại khách quan, không lệ thuộc vào các
hiện tượng tinh thần.
Ví dụ: Sự xuất hiện của trái đất và các hành tinh, hiện tượng tự quay của trái
đất, sự dịch chuyển bốn mùa trong năm vv…
. Còn các hiện tượng tinh thần (cảm giác, tư duy, ý thức…), lại ln ln có
nguồn gốc từ các hiện tượng vật chất và những gì có được trong các hiện tượng
tinh thần ấy (nội dung của chúng) là chép lại, chụp lại, là bản sao của các sự vật,
hiện tượng đang tồn tại với tính cách là hiện thực khách quan.
Ví dụ: Chúng ta xem một bộ phim, nghe một bản nhạc vv…, xem-nghe
xong, đã qua nhưng sẽ vẫn lưu lại các hình ảnh trong tư duy.
=) Như vậy, cảm giác là cơ sở duy nhất của mọi sự hiểu biết, song bản thân
nó lại khơng ngừng chép lại, chụp lại, phản ánh hiện thực khách quan, nên về
nguyên tắc, con người có thể nhận thức được thế giới vật chất.
Ví dụ: hiện tượng tự nhiên Sóng thần.
Trước đây chưa biết: gọi là sóng thần, con người rất sợ, cho là do thần linh
thượng đế tạo ra.
Con người nghiên cứu sự dịch chuyển địa chất của vỏ trái đất, để xây dựng
đài thiên văn, khí tượng quan trắc để phịng ngừa động đất …
Giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học.
-) Trong thế giới vật chất khơng có cái gì là khơng thể biết, chỉ có những cái
đã biết và những cái chưa biết (do hạn chế của con người trong từng giai đoạn lịch
sử nhất định).
Ví dụ: trước đấy con người chưa thể biết cấu trúc, các dạng vật chất hay có
sự sống hay không ở trên Mặt trăng và tồn tại như thế nào…
7



Cùng với sự phát triển của khoa học, các giác quan của con người ngày càng
được “nối dài”: kính thiên văn, kính hiển vi…, giới hạn nhận thức của các thời đại
bị vượt qua, bị mất đi: Sự tồn tại nhận thức cho nguyên tử là hạt nhỏ bé nhất bị phá
vỡ khi phát hiện các hạt nhỏ hơn; chứ không phải vật chất mất đi như những người
duy tâm quan niệm.
+ Ý nghĩa phương pháp luận
- Định nghĩa đã khắc phục triệt để thiếu sót của chủ nghĩa duy vật và những
biến tướng của nó trong quan niệm về vật chất của các nhà triết học tư sản hiện đại:
tạo cơ sở khoa học cho quan điểm duy vật về xã hội, cho sự thống nhất giữa chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Là cơ sở khoa học, là vũ khí tư tưởng để đấu tranh chống chủ nghĩa duy
tâm và thuyết “không thể biết” một cách hiệu quả, bảo đảm sự đứng vững của chủ
nghĩa duy vật trước sự phát triển mới của khoa học.
- Trang bị thế giới quan, phương pháp luận khoa học cho các nhà khoa học
trong nghiên cứu về thế giới vật chất; động viên, cổ vũ họ tin vào khả năng nhận
thức của con người tiếp tục đi sâu khám phá những thuộc tính mới của vật chất. Do
vậy, nó có tác dụng thúc đẩy khoa học tự nhiên và nhất là vật lý học thoát ra khỏi
cuộc khủng hoảng vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX để tiến lên.
- Định nghĩa vật chất vẫn còn nguyên giá trị, là tiêu chuẩn căn bản nhất để
phân biệt thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm.
Câu 3. Trên cơ sở những kiến thức đã học về triết học Mác - Lênin, anh (chị)
hãy chứng minh vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức và rút ra ý nghĩa đối
với bản thân?
Các thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh được rằng,
giới tự nhiên có trước con người; vật chất là cái có trước, cịn ý thức là cái có sau;
vật chất là tính thứ nhất, cịn ý thức là tính thứ hai. Vật chất tồn tại khách quan,
8



độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc người là một dạng vật
chất có tổ chức cao nhất, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại
phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực
khách quan. Sự vận động của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của
cái vật chất có tư duy là bộ óc người. Thế giới khách quan, mà trước hết và chủ yếu
là hoạt động thực tiễn có tính xã hội - lịch sử của loài người là yếu tố quyết định nội
dung mà ý thức phản ảnh.
“Ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức” 2.
Ý thức chỉ là hình ảnh của thế giới khách quan. Sự phát triển của hoạt động thực
tiễn cả về bề rộng và chiều sâu là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong
phú và độ sâu sắc của nội dung của tư duy, ý thức con người qua các thế hệ, qua
các thời đại từ mơng muội tới văn minh, hiện đại. Lồi người nguyên thuỷ sống
bầy đàn dựa vào sản vật của thiên nhiên thì tư duy của họ cũng đơn sơ, giản dị như
cuộc sống của họ. Cùng với mỗi bước phát triển của sản xuất, tư duy, ý thức của
con người cũng ngày càng mở rộng, đời sống tinh thần của con người ngày càng
phong phú. Con người không chỉ ý thức được hiện tại , mà còn ý thức được cả
những vấn đề trong quá khứ và dự kiến được cả trong tương lai, trên cơ sở khái
quất ngày càng sâu sắc bản chất, quy luật vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội
và tư duy của họ. Sự vận động, biến đổi không ngừng của thế giới vật chất, của
thực tiễn là yếu tố quyết định sự vận động, biến đổi của tư duy, ý thức của con
người. Khi sản xuất xã hội xuất hiện chế độ tư hữu, ý thức chính trị, pháp quyền
cũng dần thay thế cho ý thức quần cư, cộng đồng thời nguyên thuỷ. Trong nền sản
xuất tư bản, tính chất xã hội hoá của sản xuất phát triển là cơ sở để ý thức xã hội
chủ nghĩa ra đời, mà đỉnh cao của nó là sự hình thành và phát triển khơng ngừng
lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin.
* Ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng
2

C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tập 3, tr. 37.


9


Nghiên cứu nắm vững nguồn gốc, bản chất về ý thức, mối quan hệ vật chất ý thức là cơ sở lý luận khoa học để khẳng định thế giới quan duy vật biện chứng,
chống chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình trong giải quyết vấn đề cơ
bản của triết học và biết vận dụng linh hoạt lý luận khoa học đó vào trong hoạt
động thực tiễn, giải quyết đúng đắn mối quan hệ khách quan - chủ quan đem lại
hiệu quả trong hoát động thực tiễn.
Câu 4. Phân tích nguồn gốc tự nhiên của ý thức? Theo anh (chị), kích thước
của bộ óc người có phải là yếu tố quyết định đến trí tuệ của một người hay không?
xét về nguồn gốc tự nhiên, ý thức chỉ là thuộc tính của vật chất; nhưng
khơng phải của mọi dạng vật chất, mà là thuộc tính của một dạng vật chất sống có
tổ chức cao nhất là bộ óc người. Ĩc người là khí quan vật chất của ý thức. Ý thức
là chức năng của bộ óc người. Mối quan hệ giữa bộ óc người hoạt động bình
thường và ý thức là khơng thể tách rời. Tất cả những quan niệm tách rời hoặc đồng
nhất ý thức với óc người đều dẫn đến quan điểm duy tâm thần bí hoặc duy vật tầm
thường. Ý thức là chức năng của bộ óc người hoạt động bình thường. Sinh lý và ý
thức là hai mặt của một quá trình - q trình sinh lý thần kinh trong bộ óc người
mang nội dung ý thức, cũng giống như tín hiệu vật chất mang nội dung thơng tin.
Trái đất hình thành trải qua q trình tiến hố lâu dài dẫn đến sự xuất hiện
con người. Đó cũng là lịch sử phát triển năng lực phản ánh của thế giới vật chất từ
thấp đến cao, và cao nhất là trình độ phản ánh - ý thức. Phản ánh là thuộc tính phổ
biến của mọi dạng vật chất, được biểu hiện trong sự liên hệ, tác động qua lại giữa
các đối tượng vật chất với nhau. Đó là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống
vật chất này ở một hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của
chúng. Sự phản ánh phụ thuộc vào vật tác động và vật nhận tác động; đồng thời
luôn mang nội dung thông tin của vật tác động. Đây là điều hết sức quan trọng để
làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Các kết cấu vật chất càng phát triển thì
thuộc tính phản ánh của nó càng được hoàn thiện.

10


Lịch sử tiến hoá của thế giới vật chất đồng thời là lịch sử phát triển thuộc
tính phản ánh của vật chất. Giới tự nhiên vơ sinh có kết cấu vật chất đơn giản, do
vậy trình độ phản ánh đặc trưng của chúng là phản ánh vật lý, hoá học. Đó là trình
độ phản ánh mang tính thụ động, chưa có sự định hướng, lựa chọn. Giới tự nhiên
hữu sinh ra đời với kết cấu vật chất phức tạp hơn, do đó thuộc tính phản ánh cũng
phát triển lên một trình độ mới khác về chất so với giới tự nhiên vơ sinh. Đó là
trình độ phản ánh sinh học trong các cơ thể sống có tính định hướng, lựa chọn,
giúp cho các cơ thể sống thích nghi với mơi trường để tồn tại. Trình độ phản ánh
sinh học của các cơ thể sống cũng bao gồm nhiều hình thức cụ thể cao thấp khác
nhau tuỳ thuộc vào mức độ hoàn thiện, đặc điểm cấu trúc của các cơ quan chuyên
trách làm chức năng phản ánh: ở giới thực vật, là sự kích thích; ở động vật có hệ
thần kinh, là sự phản xạ; ở động vật cấp cao có bộ óc, là tâm lý. Tâm lý động vật là
trình độ phản ánh cao nhất của các loài động vật bao gồm cả phản xạ khơng có
điều kiện và có điều kiện. Tuy nhiên, tâm lý động vật chưa phải là ý thức, mà đó
vẫn là trình độ phản ánh mang tính bản năng của các lồi động vật bậc cao, xuất
phát từ nhu cầu sinh lý tự nhiên trực tiếp của cơ thể động vật chi phối. Mặc dù ở
một số loài động vật bậc cao, bước đầu đã có trí khơn, trí nhớ, biết "suy nghĩ" theo
cách riêng của chúng, nhưng theo Ph. Ăngghen, đó chỉ là "cái tiền sử" duy nhất gợi
ý cho chúng ta tìm hiểu "bộ óc có tư duy của con người" đã ra đời như thế nào.
Bộ óc người có cấu trúc đặc biệt phát triển, rất tinh vi và phức tạp, bao gồm
14 - 15 tỷ tế bào thần kinh. Sự phân khu của não bộ và hệ thống dây thần kinh liên
hệ với các giác quan để thu nhận và xử lý thông tin từ thế giới khách quan vào não
bộ, hình thành những phản xạ có điều kiện và khơng có điều kiện, điều khiển các
hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế giới bên ngoài. Ý thức là hình thức
phản ánh đặc trưng chỉ có ở con người và là hình thức phản ánh cao nhất của thế
giới vật chất. Ý thức là sự phản ánh thế giới hiện thực bởi bộ óc con người. Như
11



vậy, sự xuất hiện con người và hình thành bộ óc của con người có năng lực phản
ánh hiện thực khách quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Tuy vậy, sự ra đời của ý thức không phải chỉ là sản phẩm thuần tuý tự nhiên
như các nhà duy vật trước đây quan niệm. Sự phát triển của giới tự nhiên chỉ mới
tạo ra tiền đề vật chất có năng lực phản ánh, là nguồn gốc sâu xa của ý thức.
Câu 5. Phân tích vai trị của lao động và ngơn ngữ đối với sự hình thành ý
thức? Anh (chị) cần phải làm gì để phát triển ý thức của bản thân mình?
Hoạt động thực tiễn của lồi người mới là nguồn gốc trực tiếp quyết định sự
ra đời của ý thức. C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định: "Con người cũng có cả
"ý thức" nữa. Song đó không phải là một ý thức bẩm sinh sinh ra đã là ý thức
"thuần tuý"... Do đó, ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn là như
vậy chừng nào con người còn tồn tại"3.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác khẳng định rằng, ý thức khơng những
có nguồn gốc tự nhiên mà cịn là và chủ yếu là một hiện tượng mang bản chất xã
hội. Để tồn tại con người phải tạo ra những vật phẩm để thoả mãn nhu cầu của
mình. Ph. Ăngghen đã chỉ rõ những động lực xã hội trực tiếp thúc đẩy sự ra đời ý
thức của con người: "Trước hết là lao động; sau lao động và đồng thời với lao động
là ngơn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con
vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc con người" 4. Thơng qua
hoạt động lao động cải tạo thế giới khách quan mà con người đã từng bước nhận
thức được thế giới, có ý thức ngày càng sâu sắc về thế giới đó. Ý thức hình thành
khơng phải là q trình con người tiếp nhận thụ động các tác động từ thế giới
khách quan vào bộ óc của mình, mà chủ yếu từ hoạt động thực tiễn, con người sử
dụng công cụ lao động tác động vào đối tượng hiện thực bắt chúng phải bộc lộ
thành những hiện tượng, những thuộc tính, kết cấu... nhất định, tác động vào bộ óc
3
4


C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, tập 3, tr. 43.
C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, tập 20, tr. 646.

12


để con người phân loại, nhận biết nó ngày càng sâu sắc. Ph. Ăngghen đã khẳng
định: "Nhưng cùng với sự phát triển của bàn tay thì từng bước một đầu óc cũng
phát triển, ý thức xuất hiện, trước hết về những điều kiện của các kết quả có ích
thực tiễn và về sau,...là về những quy luật tự nhiên, chi phối các hiệu quả có ích
đó"5.
Trải qua q trình hoạt động thực tiễn lâu dài, trong những điều kiện hoàn cảnh
khác nhau, với nhiều loại đối tượng khác nhau; cùng với sự phát triển của tri thức
khoa học, các phương pháp tư duy khoa học cũng dần được hình thành, phát triển
giúp nhận thức lý tính của lồi người ngày càng sâu sắc. Nhận thức lý tính phát triển
làm cho ý thức ngày càng trở nên năng động, sáng tạo hơn. Ý thức không chỉ là sự
phản ánh tái tạo mà còn chủ yếu là sự phản ánh sáng tạo hiện thực khách quan. Thông
qua thực tiễn những sáng tạo trong tư duy được con người hiện thực hoá, cho ra đời
nhiều vật phẩm chưa có trong tự nhiên. Đó là "giới tự nhiên thứ hai" in đậm dấu ấn
của bàn tay và khối óc con người.
Là phương thức tồn tại cơ bản của con người, lao động mang tính xã hội đã
làm nảy sinh nhu cầu giao tiếp, trao đổi kinh nghiệm giữa các thành viên trong xã
hội. Từ nhu cầu đó, bộ máy phát âm, trung tâm ngơn ngữ trong bộ óc con người
được hình thành và hồn thiện dần. Ph. Ăngghen viết: "Đem so sánh con người với
các lồi vật, người ta sẽ thấy rõ rằng ngơn ngữ bắt nguồn từ lao động và cùng phát
triển với lao động, đó là cách giải thích duy nhất đúng về nguồn gốc của ngơn
ngữ"6.
Ngơn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Nó xuất hiện
trở thành "vỏ vật chất" của tư duy; là hiện thực trực tiếp của ý thức; là phương thức
để ý thức tồn tại với tư cách là sản phẩm xã hội - lịch sử. Cùng với lao động, ngơn

ngữ có vai trò to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của ý thức. Ngôn ngữ (tiếng
5
6

C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, tập 20, tr. 476.
C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, tập 20, tr. 645.

13


nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp, đồng thời vừa là công cụ của tư duy.
Nhờ ngôn ngữ con người có thể khái qt, trừu tượng hố, suy nghĩ độc lập, tách
khỏi sự vật cảm tính. Cũng nhờ có ngơn ngữ mà con người có thể giao tiếp trao đổi
tư tưởng với nhau, lưu giữ, kế thừa những tri thức, kinh nghiệm phong phú của xã
hội tích luỹ được qua các thế hệ, các thời kỳ lịch sử. Ý thức là một hiện tượng có
tính xã hội, do đó khơng có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngơn ngữ thì ý thức
khơng thể hình thành và phát triển được.
Như vậy, lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích chủ yếu làm chuyển biến
dần bộ óc của lồi vượn người thành bộ óc con người và tâm lý động vật thành ý thức
con người. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc của con người.
Nhưng khơng phải cứ có thế giới khách quan và bộ óc người là có ý thức, mà phải đặt
chúng trong mối quan hệ với thực tiễn xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, một hiện
tượng xã hội đặc trưng của loài người.
Xem xét nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội của ý thức cho thấy, ý thức
xuất hiện là kết quả của q trình tiến hố lâu dài của giới tự nhiên, đồng thời là kết
quả trực tiếp của thực tiễn xã hội - lịch sử của con người. Trong đó, nguồn gốc tự
nhiên là điều kiện cần, cịn nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ để ý thức hình thành, tồn
tại và phát triển. Nếu chỉ nhấn mạnh mặt tự nhiên mà quên đi mặt xã hội, hoặc ngược
lại chỉ nhấn mạnh mặt xã hội mà quên đi mặt tự nhiên của nguồn gốc ý thức đều dẫn
đến những quan niệm sai lầm, phiến diện của chủ nghĩa duy tâm hoặc siêu hình,

khơng thể hiểu được thực chất của hiện tượng ý thức, tinh thần của loài người nói
chung, cũng như của mỗi người nói riêng. Chính vì và chỉ vì có hoạt động thực tiễn
phong phú của lồi người mà ý thức mới hình thành và khẳng định sức mạnh sáng tạo
của nó. Với ý nghĩa đó, ý thức được quan niệm có bản chất xã hội - lịch sử. Nghiên
cứu nguồn gốc của ý thức cũng là một cách tiếp cận để hiểu rõ bản chất của ý thức.

14


Câu 6. Anh (chị) hãy phân tích tính độc lập tương đối của ý thức và rút ra ý
nghĩa đối bản thân ?
Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan. Về nội dung mà ý thức
phản ánh là khách quan, cịn hình thức mà nó phản ánh là chủ quan. Ý thức là cái
vật chất ở bên ngồi "di chuyển" vào trong đầu óc của con người và được cải biến
đi ở trong đó. Kết quả phản ánh của ý thức tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố: đối tượng
phản ánh, điều kiện lịch sử - xã hội, phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm sống của
chủ thể phản ánh. Cùng một đối tượng vật chất nhưng với các chủ thể khác nhau,
có đặc điểm tâm lý, tri thức, kinh nghiệm, thể chất khác nhau, trong những hoàn
cảnh lịch sử khác nhau...thì kết quả phản ánh trong ý thức cũng rất khác nhau. Ph.
Ăngghen đã từng chỉ rõ: "Trên thực tế, bất kỳ phản ánh nào của hệ thống thế giới
vào trong tư tưởng cũng đều bị hạn chế về mặt khách quan bởi những điều kiện
lịch sử, và về mặt chủ quan bởi đặc điểm về thể chất và tinh thần của tác giả" 7.
Trong ý thức chủ thể, sự phù hợp giữa tri thức và khách thể chỉ là tương đối, biểu
tượng về thế giới khách quan có thể đúng đắn hoặc sai lầm, và cho dù phản ánh
chính xác đến đâu thì đó cũng chỉ là sự phản ánh gần đúng.
Ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội.
Đây là một đặc tính căn bản để phân biệt trình độ phản ánh ý thức người với trình
độ phản ánh tâm lý động vật. Ý thức khơng phải là kết quả của sự phản ánh ngẫu
nhiên, đơn lẻ, thụ động thế giới khách quan. Trái lại, đó là kết quả của q trình
phản ánh có định hướng, mục đích rõ rệt. Là hiện tượng xã hội, ý thức hình thành,

tồn tại và phát triển ln gắn liền với hoạt động thực tiễn xã hội phong phú. Thế
giới không thoả mãn con người và con người đã quyết định biến đổi thế giới bằng
hoạt động thực tiễn đa dạng, phong phú của mình. Thơng qua thực tiễn, con người
làm biến đổi thế giới và qua đó chủ động khám phá sâu, rộng các đối tượng phản
ánh. Ý thức phản ánh ngày càng sâu sắc, từng bước xâm nhập các tầng bản chất,
7

C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, tập 20, tr. 57

15


quy luật, điều kiện đem lại hiệu quả hoạt động thực tiễn. Trên cơ sở đó, bằng
những thao tác của tư duy trừu tượng sẽ đem lại những tri thức mới để chỉ đạo hoạt
động thực tiễn chủ động cải tạo thế giới trong hiện thực, sáng tạo ra "thiên nhiên
thứ hai" in đậm dấu ấn của con người. Như vậy, sáng tạo là đặc trưng bản chất
nhất của ý thức. Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, song đây là
sự phản ánh đặc biệt, gắn liền với thực tiễn sinh động cải tạo thế giới khách quan theo
nhu cầu của con người.
Phản ánh ý thức là quá trình thống nhất của ba mặt: Một là, trao đổi thông tin
giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Đây là q trình mang tính hai chiều, có định
hướng và chọn lọc các thơng tin cần thiết. Hai là, mơ hình hố đối tượng trong tư
duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực chất đây là quá trình "sáng tạo lại" hiện
thực của ý thức theo nghĩa: mã hoá các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh
thần phi vật chất. Ba là, chuyển hố mơ hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức
quá trình hiện thực hố tư tưởng, thơng qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm
thành cái thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật
chất ngoài hiện thực. Để thúc đẩy quá trình chuyển hố này, con người cần sáng
tạo đồng bộ nội dung, phương pháp, phương tiện, công cụ phù hợp để tác động vào
hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình.

Từ kết quả nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của ý thức cho thấy: Ý thức là
hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực khách quan trên
cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử.
Ý thức không phải là cái không thể nhận thức được như chủ nghĩa duy tâm
quan niệm, nhưng nó cũng khơng phải cái tầm thường như người duy vật tầm
thường gán cho nó. Thực chất, ý thức chỉ là thuộc tính phản ánh của một dạng vật
chất đặc biệt là bộ óc người; nói cách khác, chỉ có con người mới có ý thức. Lồi
người xuất hiện là kết quả của lịch sử vận động, phát triển lâu dài của thế giới vật
chất. Cấu trúc hoàn thiện của bộ óc người là nền tảng vật chất để ý thức hoạt động;
16


cùng với hoạt động thực tiễn và đời sống xã hội phong phú tạo động lực mạnh mẽ
thúc đẩy ý thức hình thành và khơng ngừng phát triển. Khơng có bộ óc của con
người, khơng có hoạt động thực tiễn xã hội thì khơng thể có ý thức. Sáng tạo là
thuộc tính đặc trưng bản chất nhất của ý thức. Sức sáng tạo của ý thức trong tinh
thần và sức sáng tạo của con người trong thực tiễn khác nhau về bản chất nhưng
chỉ là những biểu hiện khác nhau của năng lực sáng tạo, khẳng định sức mạnh của
con người trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Câu 7. Phân tích cơ sở lý luận của ngun tắc tồn diện trong triết học Mác Lênin?
Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là
một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của phép biện
chứng duy vật. Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến. Ngun tắc tồn diện địi hỏi, muốn nhận thức được bản chất của sự vật,
hiện tượng chúng ta phải xem xét sự tổn tại của nó trong mổì liên hệ qua lại giữa
các bộ phận, yếu tố, thuộc tính khác nhau trong tính chỉnh thể của sự vật, hiện
tượng ấy và trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với sự vật, hiện
tượng khác; tránh cách xem xét phiến diện, một chiểu. Nguyên tắc tồn diện địi
hỏi phải xem xét, đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ, và phải nắm được đâu là
mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện

tượng; tránh chủ'nghĩa chiết trung, kết hợp vô nguyên tắc các mõi liên hệ; tránh sai
lầm của thuật ngụy biện, coi cái cơ bản thành cái không cơ bản, không bản chất
thành bản chất hoặc ngược lại, dản đến sự nhận thức sai lệch, xuyên tạc bản chất
sự vật, hiện tượng.
Câu 8. Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển trong triết học Mác
- Lênin?
17


Nguyên tắc phát triển cũng là một trong những nguyên tắc phương pháp luận
cơ bản, quan trọng của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Cơ sỏ lý luận
của nguyên tắc phát triển là ngùyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy
vật, Theo đó, phát triển là sự vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển là một trường hợp đặc
biệt của sự vận động và trong sự phát triển sẽ nảy sinh những tính quy định mới,
cao hơn về chất, nhờ đó, làm cho cơ cấu tổ chớc, phương thức tồn tại và vận động
của sự vật, hiện tượng cùng chức năng của nó ngày càng hồn thiện hơn. Do vậy,
để nhận thức được sự tự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng chúng ta phải
thấy được sự thống nhất giữa sự biến đổi về lượng với sự biến đổi về chất trong
quá trình phát triển; phải chỉ ra được nguồn gốc và động lực bên trong, nghĩa là
tìm ra và biết cách giải quyết mâu thuẫn; phải xác định xu hướng phát triển của sự
vật, hịện tượng do sự phủ định biện chứng quy định; coi phủ định là tiền đề cho sự
ra đời của sự vật, hiện tượng mới; sự vật, hiện tượng mới ra đòi phù hợp với quy
luật vận động và phát triển, bởi vậy phải ủng hộ cái mới, cái tiến bộ.
Câu 9. Anh (chị) hãy phân tích những yêu cầu của nguyên tắc toàn diện
trong Mác - Lênin và liên hệ với thực tiễn đổi mới ở Việt Nam hiện nay?
Trong nhận thức, nguyên tắc toàn diện là yêu cầu tất yếu của phương pháp
tiếp cận khoa học, cho phép tính đến mọi khả năng của vận độrig, phát triển có thể
có của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu, nghĩa là cần xem xét sự vật, hiện tượng
trong một chỉnh thể thống nhất với tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các

thuộc tính, cùng các mõi liên hệ của chúng. "Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần
phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và "quan hệ
gián tiếp" của sự vật đó"', phải tính đến "tổng hịa những quan hệ muôn vẻ của sự
vật ấy với những sự vật khác"8. Tuy nhiên, cũng theo V.I.Lênin, chúng ta không
8

V.I.Lênin t.29, tr. 239.

18


thể làm được điều đó hồn tồn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xem xét tất cả mọi
mặt sẽ đề phịng khơng phạm sai lầm và cứng nhắc, sơ dĩ chúng ta khơng làm
được điều đó hồn tồn đầy đủ bỏi trong quá trình vận động, phát triển, sự vật,
hiện tượng phải trải qua nhiểu giai đoạn tồn tại, phát triển khác nhau, trong mỗi
giai đoạn đó khơng phải lúc nào sự vật, hiện tượng cũng bộc lộ tất cả các mốì liên
hệ bên trong và bên ngồi của nó. Hơn nữa, tất cả nhũng mơi liên hệ ấy chỉ được
biểu hiện ra trong những diều kiện nhất định. Và bản thân con người, những chủ
thể nhận thức với những phẩm chất và năng lực của mình ln bị chế ưóc bỏi
những điểu kiện xã hội lịch sử, do đó khơng thể bao qt được hết những ЛШ liên
hệ bên trong và bên ngoài các sự vật, hiện tượng.
Nguyên tắc tồn diện cịn địi hỏi, để nhận thức được sự vật, hiện tượng
chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người.
Mốì liên hệ giữa sự vật, hiện tượng với nhu cầu của con người Tất đa dạng, trong
mỗi hoàn cảnh nhất định, con người chỉ phản ánh một sô" mối liên hệ nào đó của
sự vật, hiện tượng phù hợp với nhu cầu nhất định của mình, nên nhận thức của con
ngi về sự vật, hiện tượng mang tính tương đối, khơng đầy đủ, trọn vẹn. Nắm
được điều đó sẽ tránh tuyệt đốĩ hóa những tri thức ,đã có về sự vật, hiện tượng và
tránh* coi những tri thức đã có là những chân lý bất biến, tuyệt đối, cuối cùng, về
sự vật, hiện tượng mà không bổ sung, phát triển. Bởi vậy, khi xem xét toàn diện

tất cả các mặt của những mối quan hệ của sự vật, hiện tượng phải chú ý đến sự
phát triển cụ thể của các quan hệ đó. Chỉ có như vậy mới thấy được vai trò của các
mặt trong từng giai đoạn cũng như của tồn bộ q trình vận động, phát triển của
từng môi quan hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng. Theo V.I.Lênín, phép biện chứng
địi hỏi người ta phải chú ý đến tất cả các mặt của những mối quan hệ trong sự
phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó, chứ khơng phải lấy một mẩu ở chỗ
này, một mẩu ở chỗ kia. Như vậy xem xét tồn diện nhưng khơng "bình qn, dàn
đều" mà có "trọng tâm, trọng điểm", phải tìm ra vị trí từng mặt, từng yếu tố, từng
19


mơì liên hệ ấy trong tổng thể của chúng, phải từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mốì
liên hệ của sự vật, hiện tượng để khái quát, rút ra mốì liên hệ chủ yếu nhất, bản.
chất nhất, quan trọng nhất chi phối sự tồn tại và phát triển của'chúng.
Nguyên tắc tồn diện đối lập với cách nhìn phiến diện, một chiều; đơì lập với
chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện. Chủ nghĩa chiết trung cũng chú ý đến
nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật, hiện tượng nhưng không rút ra được mặt
bản chất, mối liên hệ cơ bản của sự vật, hiện tượng, mà xem xét bình quân, kết
hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ khác nhau, tạo thành một mớ hỗn tạp các sự
kiện, cuối cùng sẽ lúng túng, mất phương hướng và bất lực trước chúng. Thuật
ngụy biện đưa cái không cơ bản thành cái cơ bản, cái không bản chất thành cái bản
chất. Cả chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện đều là những biểu hiện của
phương pháp luận sai lẩm trong việc xem xét các sự vật, hiện tượng. Sự khác nhau
giữa chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện với phép biện chứng duy vật nằm ở
chỗ, nếu thuật ngụy biện và chủ nghĩa chiết trung áp dụng chủ quan tính linh hoạt
tồn diện, phổ biến của các khái niệm, thì phép biện chứng duy vật phản ánh sự
vận động, phát triển trong tính tồn diện của q trình vật chất và sự thống nhất
của q trình đó. Từ những phân tích trên cho thấy, lơgíc của q trình hình thành
quan điểm toàn diện trong nhận thức, xem xét sự vật, hiện tượng sẽ phải trải qua
nhiều giai đoạn, cơ bản là đi từ quan niệm ban đầu về cái toàn thể đến nhận thức

mỗi mặt, mỗi mối liên hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng rồi đến nhận thức nhiều
mặt, nhiều mẽĩ liên hệ của sự vật, hiện tượng đó và cuối cùng đi tới khái quát
những tri thức phong phú đó để rút ra tri thức vể bản chất của sự vật, hiện tượng.
Từ quan điểm toàn diện trong nhận thức, chúng ta rút ra cách nhìn đồng bộ
trong hoạt động thực tiễn. Theo đó, muốn cải tạo sự vật, hiện tượng phải áp dụng
đồng bộ một hệ thống các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động làm
thay đổi các mặt, các mối liên hệ tương ứng của sự vật, hiện tượng. Song trong
từng bước, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu trọng tâm, then chốt để tập trung
20


lực lượng giải quyết. Trước đây, trong giai đoạn cách mạng dẩn tộc, dân ehủ, trên
cơ sỏ phân tích tồn điện bản chất xã hội Việt Nam là thuộc địa, nửa phong kiến,
Đảng tá chỉ rõ hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa dân
tộc ta vói đế quốc xâm lược và mâ.u thuẫn giũa nhân dân ta, mà trước hết là nông
dân với giai cấp dịa chủ, phong kiến. Trong đó, mâu thuẫn giữa nhân dân với đế
quốc xâm lược và bọn tay sai phản bội dân tộc là mâu thuẫn chủ yếu, cần tập trung
lực lượng giải quyết, sau đó giải quyết các mâu thuẫn khác. Nhờ đó, cuộc cách
mạng dân tộc, dân chủ nhân dân dưổì sự lãnh đạo của Đảng đã giành thắng lợi trọn
vẹn. Ngày nay, trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta thực hiện công cuộc đổi mới
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sâ nhấn mạnh tính tất yếu phải
đổi mới cả lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực chính trị, Đảng ta luôn xác định phát triển
kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Thực tiễn quá trình đổi mãi vừa
qua đã chứng minh tính đúng đắn của những quan điểm đó.
Trong mọi hoạt động cần quán triệt nguyên tắc toàn diện. Việc nghiên cứu
trong các ngành khoa học tự nhiên không tách rời nhau, ngược lại phải trong mối
liên hệ vỏi nhau, thâm nhập vào nhau. Có nhiều sự vật, hiện tượng địi hỏi phải có
sự nghiên cứu hên ngành giữa các khoa học. Trong lĩnh vực xã hội, ngun tắc
tồn diện cũng có vai trị quan trọng. Chúng ta không thể hiểu được bản chất một
hiện tượng xã hội nếu tách nó ra khỏi những mơi liên hệ, những sự tác động qua

lại vâi các hiện tượng xă hội khác. Trong thịi kỳ đẩy mạnh tồn diện công cuộc
đổi mới của cách mạng Việt Nam hiện nay, nếu khơng phân tích tồn diện những
mối liên hệ tác động, sẽ khơng đánh giá đúng tình hình và nhiệm vụ cụ thể của đất
nước trong từng giai đoạn cụ thể và do vậy không đánh giá hết những khó khăn,
những thuận lợi trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng đất nước theo mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

21


Câu 10. Anh (chị) hãy phân tích những yêu cầu của nguyên tắc phát triển,
nguyên tắc lịch sử - cụ thể và rút ra ý nghĩa đối với bản thân ?
Nguyên tắc phát triển yêu cầu, khi xem xét sự vật, hiện tượng, phải đặt nó
trong trạng thái vận động, biến đổi, chuyển hóa để khơng chỉ nhận thớc sự vật,
hiện tượng trong trạng thái hiện tại, mà còn phải thấy được khuynh hướng phát
triển của nó trong tương lai, nghĩa là phải phân tích để làm rõ những biến đổi của
sự vật, hiện tượng, khái quát những hình thức biểu hiện của sự biến đổi đó để tìm
ra khuynh hướng biến đdi chính của nó. Để xem xét sự vật, hiện tượng trong sự
vận động và phát triển; để phát hiện ra các quy luật quy định sự chuyển hóa về
chất của nó; để xem xét sự vật, hiện tượng trong giai đoạn phát triển này sang giai
đoạn phát triển khác, cần phải chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển là mâu
thuẫn. Điều quan trọng là phải xem xét sự vật, hiện tượng trong sự thống nhất giữa
các mặt đối lập; phát hiện những khuynh hướng mâu thuẫn bên trong, vốn có và
sự đấu tranh giữa những khuynh hướng ấy. "Điều kiện của một sự nhận thức vể tất
cả các quá trình của thế giới trong "sự tự vận động" của chúng, trong sự phát triển
tự phát của chúng, trong đời sống sinh động của chúng là sự nhận thức chúng với
tính cách là sự thống nhất của các mặt đốì lập"!.
Gách xem xét sự vật, hiện tượng trong sự thống nhất giữa các mặt đối lập;
phát hiện những khuynh hướng mâu thuẫn bên trong, vôn có và sự đấu tranh giữa
những khuynh hướng ấy có vai trị quan trọng khơng những trong nhận thức sự

vật, hiện tượng với tính cách là đối tưựng nhận thức đang vận động, phát triển, mà
cịn có vai trị quan trọng trong việc giải thích tồn bộ sự đa dạng của các thuộc
tính khác và đối lập nhau vốn trong các trạng thái khác nhau về chất của chúng;
có vai trị quan trọng để chỉ ra những chuyển hóa từ trạng thái về chất này sang
trạng thái vể chất khác và sang mặt đối lập với nó.
22


Nguyên tắc phát triển yêu cầu, phải nhận thức sự phát triển là quá trình trải
qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển lại có những đặc điểm, tính chất, hình
thức khác nhau; bởi vậy, phải có sự phân tích cụ thể để tìm ra những hình thức tác
động phù hợp hoặc để thúc đẩy, hoặc để hạn chế sự phát triển đó.
Ngun tắc phát triển địi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn phải nhạy cảm với cái mới, sớm phát hiện ra cái mói, ủng hộ cái mói hợp quy
luật, tạo điều kiện cho cái mới đó phát triển thay thế cái cũ; phải chống lại quan
điểm bảo thủ, trì trệ V.V.. Sự thay thế cái cũ bằng cái mới diễn ra rất phức tạp bởi
cái mói phải đấu tranh chồng lại cái cũ, chiến thắng cái cữ. Trong q trình đó,
nhiểu khi cái mới hđp quy luật chịu thất bại tạm thòi, tạo nên con đường phát triển
quanh co, phức tạp. Nhận thức được như vậy sẽ vững tin ở cái mói, tìm mọi cách
vượt q'ua cản trở trên con đưòng phát triển, tạo điều kiện cho cái mối chiến thắng
cái cũ. Trong quá trình thay thế cệi cũ phải biết kế thừa dưới dạng lọc bỏ và cải tạo
nhũng yếu tố tích cực đă đạt được, phát triển sáng tạo chúng trong cái mới.
Vận dụng nguyên tắc phát triển vào việc nhận thức về con đường tiến lên xãhội chủ nghĩa ở nưâc ta có 'ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trên cơ sở phân tích xu
hướng phát triển của thời đại và điểu kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta luôn kiên
định con đưòng tiến lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh". Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nển
kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, tụt hậu quá xa so với các nước trên thế giốì, vì
vậy phải đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển
kinh tế, Đảng ta luôn chú ý đến vân để xã hội, từng bưôc giải quyết vấn đề công

bằng xã hội, đồng thời phải bảo vệ mơi trưịng nhằm đảm bảo phát triển một cách
bền vững.
Trong suốt thời kỳ quá độ, cũng như từng giai đoạn phát triển của đất nưóc,
Đảng ta ln chú ý phát hiện ra các mâu thuẫn và tìm ra phương hưđng giải quyết
23


mâu thuẫn để phát triển của đất nước. Trong thời kỳ quá độ là một thời kỳ đấu
tranh phức tạp của dân tộc ta với các thế lực thù địch, là thịi kỳ đấu tranh giữa cái
mới vói cái cũ và cái mới sẽ từng bước chiến thắng cái cũ. Đảng ta cũrip xác định
động lực phát triển đất nước trong thòi kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. về nội lực,
là đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và đội ngũ
trí thức do Đảng ta lãnh đạo; là kết hợp hài hịa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã
hội; phát huy mọi tiềm năng và các nguồn lực của các thành phần kinh tế. về ngoại
lực, là sức mạnh của thời đại, sức mạnh đoàn kết quốc tế. Trong đó, nội lực là
quyết định, ngoại lực là quan trọng, gắn kết với nhau thành sức mạnh tổng hợp để
phát triển đất nưóc.
Câu 11. Phân tích mối quan hệ giữa lượng và chất? Anh (chị) cần làm gì để
thực hiện sự thay đổi về chất từ sinh viên sang kiến trúc sư, kỹ sư, cử nhân?
quan hệ lượng - chất là quan hệ biện chứng. Những thay đổi về lượng chuyển
thành những thay đổi về chất và ngược lại; chất là mặt tương đối ổn định, lượng là
mặt dễ biến đổi hơn. Lượng biến đổi, mâu thuẫn với chất cũ, phá vỡ độ cũ, chất
mới hình thành với lượng mới; lượng mới lại tiếp tục biến đổi, đến độ nào đó lại
phá vỡ chất cũ đang kìm hãm nó. Quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa lượng
và chất tạo nên sự vận động liên tục. Tùy vào sự vật, hiện tượng, tùy vào mâu
thuẫn vốn có của chúng và vào điều kiện, trong đó diễn ra sự thay đổi về chất của
sự vật, hiện tượng mà có nhiều hình thức bước nhảy.
Câu 12. Phủ định biện chứng là gì? Phân tích các tính chất của phủ định biện
chứng. Theo anh (chị), trong xây dựng và phát triển đất nước, chúng ta cần kế thừa
những gì?

Phủ định biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự phủ định làm tiền đề, tạo
điều kiện cho sự phát triển. Phủ định biện chứng làm cho sự vật, hiện tượng mới ra
24


đời thay thế sự vật, hiện tượng cũ và là yếu tố liên hệ giữa sự vật, hiện tượng cũ
với sự vật, hiện tượng mới. Phủ định biện chứng là tự phủ định, tự phát triển của sự
vật, hiện tượng; là “mắt xích” trong “sợi dây chuyền” dẫn đến sự ra đời của sự vật,
hiện tượng mới, tiến bộ hơn so với sự vật, hiện tượng cũ.
Phủ định biện chứng có tính khách quan (sự vật, hiện tượng tự phủ định mình
do mâu thuẫn bên trong nó gây ra), tính kế thừa (loại bỏ các yếu tố không phù hợp
và cải tạo các yếu tố của sự vật, hiện tượng cũ còn phù hợp để đưa vào sự vật, hiện
tượng mới). Phủ định biện chứng cịn có tính phổ biến (diễn ra trong mọi lĩnh vực
tự nhiên, xã hội và tư duy); tính đa dạng, phong phú của phủ định biện chứng thể
hiện ở nội dung, hình thức của nó. Đặc điểm cơ bản của phủ định biện chứng là sau
một số (ít nhất là hai) lần phủ định, sự vật, hiện tượng phát triển có tính chu kỳ
theo đường xốy ốc mà thực chất của sự phát triển đó là sự biến đổi, trong đó giai
đoạn sau vẫn bảo tồn những gì tích cực đã được tạo ra ở giai đoạn trước. Với đặc
điểm này, phủ định biện chứng không chỉ khắc phục hạn chế của sự vật, hiện tượng
cũ; mà còn gắn chúng với sự vật, hiện tượng mới; gắn sự vật, hiện tượng được
khẳng định với sự vật, hiện tượng bị phủ định. Vì vậy, phủ định biện chứng là vòng
khâu tất yếu của sự liên hệ và sự phát triển.
Kế thừa biện chứng là khái niệm dùng để chỉ việc sự vật, hiện tượng mới ra
đời vẫn giữ lại có chọn lọc và cải tạo yếu tố cịn thích hợp để chuyển sang chúng;
loại bỏ các yếu tố khơng cịn thích hợp của sự vật, hiện tượng cũ đang gây cản trở
cho sự phát triển của sự vật, hiện tượng mới. Đặc điểm của kế thừa biện chứng là
duy trì các yếu tố tích cực của sự vật, hiện tượng bị phủ định dưới dạng vượt bỏ,
các yếu tố chọn giữ lại sẽ được cải tạo, biến đổi để phù hợp với sự vật, hiện tượng
mới. Giá trị của sự kế thừa biện chứng chịu sự quy định bởi vai trò của yếu tố phù
hợp được kế thừa; do vậy, việc giữ lại yếu tố tích cực của sự vật, hiện tượng bị phủ

định làm cho sự vật, hiện tượng mới có chất giàu có hơn, phát triển cao hơn, tiến
bộ hơn. Kế thừa biện chứng đối lập với kế thừa siêu hình – là việc đối tượng giữ lại
25


×