Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Chương 10: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VÀ CẤP THIẾT VỀ CHIẾN TRANH VÀ QUÂN ĐỘI TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.79 KB, 24 trang )

Chương 10
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VÀ CẤP THIẾT
VỀ CHIẾN TRANH VÀ QUÂN ĐỘI TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, cùng với xu thế tồn cầu hố
đã và đang tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có vấn
đề chiến tranh và quân đội. Kể từ khi chiến tranh lạnh kết thúc, sự đối đầu giữa hai hệ
thống xã hội khơng cịn nữa, nguy cơ của các cuộc chiến tranh thế giới được đẩy lùi
một bước, nhưng các cuộc chiến tranh khu vực, cục bộ, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn
giáo, hoạt động bạo loạn lật đổ, khủng bố và chống khủng bố lại có chiều hướng gia
tăng. Nó khơng chỉ đe doạ trực tiếp nền độc lập chủ quyền của từng quốc gia, dân tộc
mà cịn là một hiểm hoạ khơn lường đe doạ sự tồn vong của toàn nhân loại.
1. Một số vấn đề cơ bản và cấp thiết về chiến tranh trong thời đại
ngày nay
1.1. Bản chất chiến tranh trong thời đại ngày nay
Một số quan điểm ngồi mácxít về bản chất chiến tranh trong thời đại ngày
nay
Vấn đề lý luận về bản chất, vai trò của chiến tranh là một nội dung đấu tranh
gay gắt giữa hệ tư tưởng vô sản và tư sản. Các nhà tư tưởng của chủ nghĩa đế quốc
đưa ra khơng ít các loại lý luận về chiến tranh (đặc biệt sau khi chiến tranh lạnh kết
thúc). Các học thuyết đó thường thay đổi về hình thức và có sự biến tướng khác
nhau, nhưng tất cả đều nhằm tập trung cơng kích vào học thuyết Mác – Lênin về
chiến tranh, họ tìm cách xuyên tạc, gieo rắc sự hoài nghi đối với đường lối của các
Đảng Cộng sản. Đồng thời, tìm cách nguỵ biện, bào chữa cho các cuộc chiến tranh
mà họ đã gây ra. Vì vậy, hiện nay, hơn bao giờ hết, những người mácxít phải kiên
quyết đấu tranh để chống lại những luận điểm phản động, phản khoa học trên lĩnh
vực này.
Thuyết “cứu nguy nền văn minh”


Đây là học thuyết trình bày một cách nguỵ trang tư tưởng bạo lực và coi Mỹ là
lực lượng duy nhất có thể “cứu nguy” cho nền văn minh. Quan niệm “cứu nguy” cho


nền văn minh thực chất là thừa nhận Mỹ là lực lượng thống trị toàn thế giới, bảo vệ sự
tồn tại vĩnh viễn của chủ nghĩa tư bản.
Xtơraoxơ Hiupơ cho rằng, điều kiện để duy trì nền văn hoá phương Tây là nước
Mỹ phải nắm quyền bá chủ; và bản thân sự tồn tại của các lực lượng xâm lược và rất
có sức sống là chủ nghĩa cộng sản, chính là mối đe doạ sự sống cịn của nền dân chủ
(tức chủ nghĩa tư bản) ở khắp mọi nơi. Do vậy, “cuộc đấu tranh chống thế giới cộng
sản” là một cuộc chiến tranh, trong đó mục tiêu chủ yếu là sự cứu nguy dân tộc. Mỹ cần
phải đánh bại chủ nghĩa cộng sản để giành quyền “lãnh đạo thế giới”. Học thuyết này là
cơ sở cho chính sách dùng bạo lực để áp đặt quan niệm giá trị của Mỹ hiện nay.
Thuyết “phân biệt chủng tộc” và thuyết “ sơ vanh”
Theo thuyết “phân biệt chủng tộc” thì loài người từ xưa đến nay được phân
ra thành những chủng tộc “cao đẳng” và “hạ đẳng”. Chiến tranh giữa hai chủng
tộc là động lực phát triển của lịch sử. Chủng tộc “cao đẳng” nhất định chiến thắng
và có “quyền chính đáng” thống trị, nơ dịch thậm chí tiêu diệt chủng tộc “hạ
đẳng”. Thuyết “phân biệt chủng tộc” chính là cơ sở lý luận của chủ nghĩa sôvanh tư sản hiếu chiến, kích động hận thù dân tộc, góp phần làm gia tăng sự
xung đột sắc tộc hiện nay.
Chủ nghĩa cơ hội, xét lại hiện đại
Theo chủ nghĩa xét lại hiện đại, chiến tranh ngày nay khơng cịn là sự tiếp tục
của chính trị nữa và cái cơng thức về bản chất chiến tranh của chủ nghĩa Mác đã lỗi
thời, chỗ của nó là ở thư viện, viện bảo tàng. “Tư duy chính trị mới” là quan điểm của
chủ nghĩa cơ hội, xét lại hiện đại, ra đời gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của
Góocbachốp. Tư duy chính trị mới đòi xét lại chủ nghĩa Mác – Lênin, đòi nhận thức lại
chủ nghĩa xã hội. Theo họ, chủ nghĩa Mác đã lỗi thời; thời đại mới đã có sự thay đổi
căn bản nên chủ nghĩa Mác – Lênin khơng phù hợp. Cốt lõi của tư duy chính trị mới là


phủ nhận học thuyết Mác – Lênin về chuyên chính vô sản, bạo lực cách mạng, đấu
tranh giai cấp, chiến tranh và quân đội…
Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động đang lợi dụng các vấn đề
nhân quyền, dân chủ, dân tộc, tôn giáo... để xuyên tạc, vu khống, cơng kích vào các

Đảng Cộng sản làm cái cớ để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước xã hội chủ
nghĩa còn lại. Họ tuyên bố: nghĩa vụ bảo vệ nhân quyền của họ là không biên giới. Đặc
biệt, họ dùng chiêu bài “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, bất chấp cả Liên Hợp Quốc
và dư luận quốc tế để tiến hành chiến tranh xâm lược nước khác, thực hiện chủ nghĩa
bá quyền của Mỹ. Tất cả đều tập trung biện hộ cho những cuộc chiến tranh mà họ đã
gây ra trong thời đại ngày nay.
Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về bản chất chiến tranh
Bản chất chiến tranh là một trong những nội dung cơ bản, quan trọng nhất
của học thuyết Mác – Lênin về chiến tranh. Theo V. I. Lênin: “Chiến tranh là sự
tiếp tục của chính trị bằng những biện pháp khác” (cụ thể là bằng bạo lực) 1. Khi
phân tích bản chất chiến tranh, theo V. I. Lênin, nhất thiết phải có quan điểm chính
trị – giai cấp, xem chiến tranh chỉ là một hiện tượng lịch sử cụ thể. Xuất phát từ
phương pháp tiếp cận đó V. I. Lênin đặt câu hỏi: “Làm thế nào để tìm ra bản chất
thực sự của bản chất chiến tranh, làm thế nào để xác định được bản chất đó” và
Người đã trả lời: “Chiến tranh là sự tiếp tục của chính trị, phải nghiên cứu chính trị
được tiến hành trước chiến tranh, chính trị đang dẫn đến và đã dẫn đến chiến
tranh”2.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: “Chính trị là sự phản ánh tập
trung của kinh tế”3, “Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc” 4, chính
trị là sự thống nhất giữa đường lối đối nội và đường lối đối ngoại. Đường lối đối ngoại
phụ thuộc vào đường lối đối nội. Như vậy, chiến tranh chỉ là một thời đoạn, một bộ
phận của chính trị, nó khơng làm gián đoạn chính trị. Ngược lại, mọi chức năng,
1
2
3
4

V.
V.
V.

V.

I. Lênin, toàn tập,
I. Lênin, toàn tập,
I Lênin, toàn tập,
I Lênin, toàn tập,

Nxb
Nxb
Nxb
Nxb

Tiến
Tiến
Tiến
Tiến

bộ,
bộ,
bộ,
bộ,

M.
M.
M.
M.

1980.
1981.
1976,

1978,

t.
t.
t.
t.

26,
30,
42,
49,

tr.
tr.
tr.
tr.

397.
106
349
500


nhiệm vụ của chính trị đều được tiếp tục thực hiện trong chiến tranh. Chính trị mà
chiến tranh tiếp tục luôn là một chỉnh thể bao gồm cả quan hệ chính trị, tổ chức chính
trị, ý thức chính trị… Tất cả đều phản ánh lợi ích cơ bản của các nhà nước và giai cấp
nhất định. Đường lối chính trị là nơi biểu hiện một cách đầy đủ nhất, tự giác nhất các
quyền lợi cơ bản, lâu dài của các nhà nước, giai cấp đó. Do vậy, chính trị mà chiến
tranh tiếp tục được hiểu theo nghĩa hẹp là đường lối chính trị của một gia cấp, nhà
nước nhất định.

Từ những luận điểm và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về
chiến tranh, có thể thấy rằng về cấu trúc bản chất của chiến tranh gồm có hai
yếu tố cơ bản: Đường lối chính trị của một giai cấp, nhà nước nhất định và sự
tiếp tục đường lối chính trị đó dưới hình thức đặc thù là bạo lực vũ trang. Theo
đó, khi xem xét bản chất bất cứ một cuộc chiến tranh nào chúng ta phải xem xét
tồn diện cả hai yếu tố, tuyệt đối hố một mặt, một yếu tố nào đều dẫn đến sai
lầm. Bởi vì, nếu cho rằng chiến tranh chỉ là sự tiếp tục của chính trị, sẽ nhầm
sang hiện tượng khác, bởi hồ bình, tạm ước, hiệp ước… cũng là sự tiếp tục của
chính trị. Theo V. I. Lênin: “Hồ ước là một thời kỳ tạm nghỉ để tiến hành lại
chiến tranh, chiến tranh là một phương thức để đạt tới hoà ước” 5, hoặc là cho
chiến tranh chỉ là bạo lực vũ trang, nghĩa là đã đem đồng nhất chiến tranh với
xung đột vũ trang thuần tuý trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Trong hai yếu tố
trên, đường lối chính trị là yếu tố cơ bản nhất, là mục đích của bạo lực vũ trang,
quyết định quy mô, cường độ tính chất, thời gian… của đấu tranh vũ trang. Bạo
lực vũ trang là phương tiện chủ yếu để thực hiện mục tiêu chính trị. Sự thành
bại trong đấu tranh vũ trang tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến đường lối chính trị,
thậm chí làm thay đổi đường lối chính trị.
Hai mặt nêu trên của bản chất chiến tranh luôn tác động, ràng buộc lẫn nhau
trong một thể thống nhất. Song, đường lối chính trị thường mang tính ổn định
tương đối (bất biến), còn bạo lực vũ trang lại thường xuyên biến đổi (khả biến).
Tuy nhiên, không nên hiểu “bất biến” là ngưng đọng, chết cứng không thể biến đổi,
5 V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1978, t. 36, tr. 29.


mà là cái “bất biến” đã được trừu tượng hoá, ổn định xuyên qua vô số cái ngẫu
nhiên, cái phổ biến. Vì vậy, đối với mỗi bên tham chiến, bên cạnh khả năng phù
hợp cịn ẩn chứa khả năng khơng phù hợp, khơng tương thích giữa đường lối chính
trị và bạo lực vũ trang. Vì thế, trong chiến tranh, hoạt động của mỗi bên tham chiến
vừa là sự biểu hiện, vừa là quá trình giải quyết quan hệ giữa đường lối chính trị và
bạo lực vũ trang. Như vậy, mối liên hệ giữa đường lối chính trị và bạo lực vũ trang

là mối liên hệ cơ bản quyết định bản chất chiến tranh.
Trong thời đại ngày nay, mặc dù chiến tranh có những thay đổi về phương
thức tác chiến, vũ khí trang bị… song bản chất chiến tranh vẫn khơng có gì thay
đổi, chiến tranh vẫn là sự tiếp tục chính trị của các nhà nước và giai cấp nhất định.
Đường lối chính trị của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ vẫn luôn là
đường lối chứa đựng nguy cơ chiến tranh, đường lối đó đã quyết định đến mục tiêu
chiến tranh, tổ chức biên chế, phương thức tác chiến, vũ khí trang bị… của quân
đội do chúng tổ chức ra và nuôi dưỡng.
1.2. Mối quan hệ giữa chiến tranh và chính trị trong thời đại ngày nay
Mối quan hệ giữa chiến tranh và chính trị là một trong những vấn đề được
quan tâm lớn nhất khi nghiên cứu chiến tranh. Bởi vì, nó khơng chỉ giúp con người
nhận thức sâu sắc vấn đề chiến tranh mà cịn có thái độ đúng đắn đối với chiến
tranh và đối với mỗi bên tham chiến. Quan hệ giữa chiến tranh và chính trị là mối
quan hệ giữa tồn bộ và bộ phận, trong đó chiến tranh như “sự tập trung của chính
trị”. Mối quan hệ này là mối quan hệ giữa “chủ thể” và “phương tiện”, trong đó
chính trị đóng vai trị chủ thể. “Chủ thể” chuẩn bị tổ chức, điều khiển mọi quá trình
chiến tranh, quyết định hình thành mục tiêu, nhiệm vụ của chiến tranh, xác định
phương hướng chuẩn bị vật chất, phương tiện cho chiến tranh, chuẩn bị điều kiện
quốc tế và điều hoà các quan hệ xã hội. Chính trị cịn chỉ đạo tồn bộ hoặc phần
lớn tiến trình và kết cục của chiến tranh, chính trị quy định mục tiêu chiến lược,
quy định và điều chỉnh mục tiêu, hình thức tiến hành đấu tranh vũ trang. Chính trị
khơng chỉ kiểm tra tồn bộ q trình tác chiến, mà cịn sử dụng kết quả sau chiến


tranh để đề ra những nhiệm vụ, những mục tiêu mới cho giai cấp, xã hội trên cơ sở
thắng lợi hay thất bại của chiến tranh.
Ngược lại, chiến tranh là một bộ phận, một phương tiện của chính trị, là kết
quả phản ánh những cố gắng cao nhất của chính trị. Chiến tranh tác động trở lại
chính trị theo hai hướng tích cực hoặc tiêu cực; hoặc tích cực ở khâu này nhưng lại
tiêu cực ở khâu khác. Chiến tranh có thể làm thay đổi đường lối, chính sách, nhiệm

vụ cụ thể, thậm chí có thể cịn thay đổi cả thành phần của lực lượng lãnh đạo chính
trị trong các bên tham chiến. Chiến tranh tác động lên chính trị thơng qua việc làm
thay đổi về chất tình hình xã hội, làm phức tạp hoá các mối quan hệ và làm tăng
thêm những mâu thuẫn vốn có trong xã hội có đối kháng giai cấp. Chiến tranh có
thể đẩy nhanh sự chín muồi của cách mạng hoặc làm mất đi tình thế cách mạng.
Chiến tranh kiểm tra sức sống của tồn bộ chế độ chính trị xã hội.
Mối quan hệ giữa chiến tranh và chính trị là mối quan hệ cơ bản xuyên suốt
mọi cuộc chiến tranh. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa chiến tranh và chính trị mang
tính lịch sử, cụ thể luôn vận động và phát triển. Thời đại ngày nay là thời đại quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, các mâu thuẫn của thời đại vẫn đang tồn tại
và phát triển với biểu hiện mới. Sau chiến tranh lạnh, bộ mặt chính trị của thế giới có
những biến động, chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, chủ nghĩa đế quốc tăng cường
cơng kích vào các lực lượng cách mạng, cơng khai tuyên bố sẵn sàng sử dụng bạo
lực để can thiệp vào bất cứ nơi đâu nếu chúng muốn, với luận điểm “đưa chiến
trường đến lãnh thổ đối phương”. Bên cạnh đó, xu thế quốc tế hố, tồn cầu hố,
liên minh, hợp tác giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau trở nên phong phú
hơn cả về nội dung và hình thức. Đặc biệt, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại đã ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị thế giới và đến chiến tranh. Chiến
tranh cục bộ vũ khí cơng nghệ cao đã trở thành phương thức tiến hành chủ yếu của
chủ nghĩa đế quốc. Loài người đã và đang chứng kiến các cuộc chiến tranh có sử
dụng vũ khí cơng nghệ cao như: chiến tranh Vùng Vịnh, chiến tranh Côxôvô - Nam
Tư, cuộc chiến chống khủng bố ở Apganixtan, Irắc…


Mối quan hệ giữa chiến tranh và chính trị trong thời đại ngày nay về bản
chất là không thay đổi. Vai trị qyết định của chính trị đối với chiến tranh, chiến
tranh tác động trở lại chính trị trong thể thống nhất biện chứng vẫn giữ nguyên
giá trị. Nhưng, do tác động của tình hình chính trị và sự vận động phát triển của
chiến tranh mà mối quan hệ giữa chiến tranh và chính trị có những nội dung
mới. Hiện nay, chính trị tác động đến chiến tranh rộng lớn, nhanh chóng hơn,

nhưng đồng thời thận trọng hơn trong suốt cả quá trình chuẩn bị, tiến hành và
kết thúc chiến tranh. Ngày nay, chiến tranh nổ ra ở bất cứ nơi nào trên thế giới
đều ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến lợi ích kinh tế của nhiều nước. Sự
xung đột các quốc gia dân tộc, các giai cấp… là sự xung đột của các tập đoàn
quốc gia dân tộc có lợi ích liên quan. Đồng thời, do việc sử dụng vũ khí kỹ thuật
cao nên phải chi phí lớn, phải chấp nhận tổn thất cao, nhất là phải có các cơ sở
hậu cần kỹ thuật phục vụ trên một không gian rộng lớn, trải dài qua nhiều khu
vực, thậm chí qua nhiều quốc gia có chế độ chính trị xã hội khác nhau. Như vậy,
trong thời đại ngày nay, nếu chiến tranh thế giới tổng lực xảy ra, hoặc các cuộc
chiến tranh cục bộ có sử dụng vũ khí cơng nghệ cao đã và đang xảy ra thì mối
quan hệ giữa chiến tranh và chính trị khơng hề thay đổi. Nhưng, nội dung của
chính trị và của chiến tranh thì có những biến đổi, phát triển do điều kiện, hoàn
cảnh lịch sử quy định.
Nghiên cứu nguồn gốc, bản chất của chiến tranh, mối quan hệ giữa chiến
tranh và chính trị trong thời đại ngày nay cho phép chúng ta rút ra vấn đề có tính
ngun tắc là: xem xét, đánh giá các vấn đề chiến tranh, quân sự phải xuất phát từ
chính trị, đồng thời từ các vấn đề chiến tranh, quân sự phải rút ra những kết luận
chính trị. Đây là hai mặt của q trình nhận thức gắn bó chặt chẽ với nhau. Bởi
“chính trị là gốc”, là nền tảng, là điểm xuất phát, là bản chất của mọi vấn đề chiến
tranh và quân sự. Quân sự phải phục tùng chính trị là yêu cầu mang tính ngun tắc
chỉ đạo mọi q trình nhận thức và tiến hành các hoạt động chiến tranh và quân sự.
Nó khơng chỉ có ý nghĩa chiến lược trong việc định ra đường lối qn sự, mà cịn có
ý nghĩa trong xây dựng quân đội và lực lượng vũ trang nói chung.


1.3. Mối quan hệ giữa chiến tranh và hồ bình trong thời đại ngày nay
Mối quan hệ giữa chiến tranh và hồ bình, dự đốn sự thay đổi về vai trị của
chiến tranh và hồ bình trong đời sống xã hội có lịch sử. Những tư tưởng đầu tiên về
vấn đề này đã xuất hiện trong xã hội chiếm hữu nô lệ, nhưng phải bao nhiêu thế kỷ
sau, cách nêu vấn đề về mối quan hệ giữa chiến tranh và hồ bình mới có tính chất

tương đối rõ ràng và có ý thức. Điều đó diễn ra chủ yếu trong thời đại phát sinh và
phát triển chủ nghĩa tư bản ở châu Âu (thế kỷ XV – XVIII).
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, nhiều đại biểu lỗi lạc của triết học cổ
điển Đức, trước hết là I. Căng và G. Hêghen . Trong tác phẩm “Tiến tới một nền
hồ bình vĩnh viễn” (1795), I. Căng nhận định rằng, mặc dù chiến tranh là bạn
đường thường xuyên của toàn bộ lịch sử hiện nay, nhưng như vậy khơng có nghĩa
là khơng thể có hồ bình bền vững. Nhờ lý trí và làm theo nghĩa vụ, bằng con
đường thi hành nhiều cuộc cải cách thường xuyên, loài người sẽ đi tới một nền hồ
bình vĩnh cữu.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã giải quyết một cách thực sự khoa học vấn đề vận
mệnh lịch sử của chiến tranh và hồ bình. Khi đánh giá một cách có phê phán những
ưu điểm và nhược điểm của tư tưởng chính trị – quân sự trong quá khứ, các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã xem xét mối quan hệ giữa chiến tranh và hồ
bình xuất phát từ lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và lập trường của giai
cấp vô sản để đem lại quan điểm khoa học và cách mạng về chiến tranh và hồ bình.
Trên cơ sở đó đã kiên quyết bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng,
bác bỏ sự đánh giá siêu giai cấp và phi lịch sử đối với các hiện tượng chiến tranh và
hồ bình.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, muốn giải quyết vấn đề vận mệnh
lịch sử của chiến tranh và hồ bình, trước hết phải hiểu đúng nguồn gốc và bản chất
của các hiện tượng đó. Cả chiến tranh và hồ bình đều có nguồn gốc kinh tế sâu xa, có
bản chất chính trị – giai cấp. Trước hết, chiến tranh và hồ bình đều là sự tiếp tục và là
hình thức của chính trị đối nội mà các nước và các giai cấp thi hành. V. I. Lênin đã chỉ


rõ: quan điểm chính trị – giai cấp cho phép rút ra kết luận rằng, khơng chỉ có chiến
tranh phi nghĩa, chiến tranh đế quốc, mà cịn có cả hồ bình phi nghĩa, hồ bình đế
quốc chủ nghĩa. Ngược lại, có thể có (và là hợp quy luật) chiến tranh chính nghĩa,
chiến tranh giải phóng cũng như có thể thiết lập nền hồ bình thực sự chân chính, thực
sự dân chủ, bảo đảm sự tiến bộ lịch sử, bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc lớn

và nhỏ, sự phồn vinh về vật chất và tinh thần của các dân tộc. Do dó, khơng nên phản
đối chiến tranh nói chung, tán thành hồ bình nói chung, tán thành thế giới cộng đồng
nói chung, nếu như người ta hiểu những cái đó là sự dung hồ giữa kẻ bóc lột và
người bị bóc lột, giữa các dân tộc bị nơ dịch và những kẻ nô dịch họ.
Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp quan điểm chính trị – giai cấp với quan điểm
lịch sử. Chiến tranh là một hiện tượng nhất thời chỉ nổ ra trong những giai đoạn lịch
sử nhất định của nhân loại. Đã có thời khơng hề có các cuộc chiến tranh nhằm nơ
dịch và áp bức các nước, các dân tộc và quần chúng lao động. Và sẽ đến lúc chiến
tranh bị loại trừ khỏi đời sống xã hội, và thay thế nó sẽ là hồ bình chung, hồ bình
chân chính của mọi người. Song, như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin
đã chỉ rõ, muốn làm được điều đó cần phải thủ tiêu hoàn toàn nguyên nhân và nguồn
gốc căn bản của chiến tranh.
Muốn đạt được hồ bình cịn phải có sự liên hiệp của công nhân với quần chúng
lao động và các lực lượng u chuộng hồ bình trên phạm vi tồn thế giới. Phải có sự đấu
tranh chung để chống áp bức xã hội, áp bức dân tộc, phản đối chiến tranh vì nền hồ bình
của các dân tộc trên toàn thế giới. Cách mạng xã hội chủ nhĩa và việc cải cách, đổi mới
đất nước toàn diện theo định hướng xã hội chủ nghĩa chính là con đường cơ bản nhất để
chiến thắng các thế lực chiến tranh tiến tới nền hồ bình chung cuả các dân tộc trên thế
giới hiện nay.
Chủ nghĩa xã hội đã đưa ra trước nhân loại một nguyên tắc duy nhất hợp lý
về quan hệ giữa các nước có chế độ chính trị – xã hội khác nhau, do V. I. Lênin đề
xuất. Đó là ngun tắc cùng tồn tại hồ bình, giải quyết mọi vấn đề trong quan hệ
giữa các quốc gia, dân tộc bằng hợp tác, thương lượng, không dùng vũ lực hoặc đe
doạ dùng vũ lực. Đó là nguyên tắc phù hợp với bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa.


Ngun tắc đó địi hỏi phải từ bỏ việc dùng chiến tranh làm phương tiện giải quyết
các vấn đề tranh chấp giữa các nước, mà giải quyết chúng bằng con đường thương
lượng; hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa các nước, chú ý tới lợi ích của nhau;
khơng can thiệp vào công việc nội bộ, thừa nhận mỗi dân tộc đều có quyền tự

quyết mọi vấn đề của nước mình; hết sức tơn trọng chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ
của tất cả các nước; phát triển sự hợp tác kinh tế và văn hố trên cơ sở hồn tồn
bình đẳng và cùng có lợi.
Vấn đề quan hệ giữa chiến tranh và hồ bình, biện pháp ngăn ngừa chiến
tranh và củng cố hồ bình đã và đang tác động sâu sắc tới mỗi quốc gia và toàn thể
nhân loại. Cuộc đấu tranh tư tưởng và chính trị xung quanh vấn đề này đã khẳng
định hoàn toàn rõ ràng rằng, chủ nghĩa đế quốc không muốn và không thể mang lại
hồ bình lâu dài và vững chắc cho các dân tộc. Sự nghiệp hồ bình và những thành
tựu hồ bình gắn liền với cuộc đấu tranh của nhân dân lao động vì sự nghiệp cải
tạo cách mạng đối với thế giới, vì tự do và tiến bộ xã hội. Những cố gắng của các
Đảng Cộng sản, của các lực lượng cách mạng, lực lượng u chuộng hồ bình
trong thời đại ngày nay nhằm giải quyết những nhiệm vụ lịch sử đó nhằm tìm kiếm
những biện pháp thực tế để tiến tới hồ bình chung, hồ bình chân chính.
1.4. Mối quan hệ giữa chiến tranh và cách mạng trong thời đại ngày nay
Chiến tranh và cách mạng là hai hiện tượng xã hội vừa khơng đồng nhất với
nhau, vừa có mối liên hệ với nhau. Chiến tranh và cách mạng đều là một hiện tượng
xã hội có chung nguồn gốc kinh tế – xã hội, gắn liền với chế độ tư hữu, với những
mâu thuẫn xã hội đối kháng. Chiến tranh và cách mạng đều do những điều kiện của xã
hội có giai cấp sinh ra, đều là những thủ đoạn đấu tranh chính trị, là sự tiếp tục chính
trị của những giai cấp nhất định. Để đạt được mục tiêu đã đề ra, cả chiến tranh và cách
mạng đều phải dùng bạo lực dưới những hình thức và quy mơ phù hợp với từng cuộc
chiến tranh và cách mạng.
Chiến tranh và cách mạng tuy có một số đặc điểm giống nhau, song chiến
tranh và cách mạng lại không đồng nhất mà có sự khác biệt về nguyên nhân, bản


chất và nội dung. Cơ sở kinh tế của cách mạng là sự xung đột giữa lực lượng sản
xuất tiến bộ và quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu. Mặc dù chiến tranh bắt nguồn từ
bản chất sâu xa của xã hội bóc lột, nhưng khơng phải bao giờ cũng liên hệ trực tiếp
với sự xung đột giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Các cuộc chiến tranh

xâm lược của chủ nghĩa đế quốc đã và đang tiến hành là do sự tác động của quy
luật phát triển khơng đều về chính trị và kinh tế giữa các nước tư bản muốn thu
được lợi nhuận tối đa bằng bất cứ giá nào, còn cách mạng bao giờ cũng liên hệ trực
tiếp với sự tác động của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Bản chất của cách mạng là sự biến đổi về chất mọi mặt đời
sống xã hội, còn bản chất của chiến tranh là sự kế tục chính trị bằng thủ đoạn bạo
lực.
Tính chất và động lực của chiến tranh và cách mạng cũng có sự khác nhau.
Chiến tranh do cả lực lượng phản động lẫn lực lượng tiến bộ tiến hành. Còn cách mạng
chỉ do lực lượng tiến bộ tiến hành. Chiến tranh và cách mạng cịn khác nhau về phương
thức và hình thức thực hiện các mục tiêu chính trị. Đối với chiến tranh, dấu hiệu chủ
yếu là việc sử dụng các phương tiện bạo lực vũ trang và đấu tranh vũ trang. Cịn cách
mạng có khơng ít trường hợp được tiến hành bằng con đường hồ bình. Trong điều kiện
cách mạng phát triển bằng con đường khơng hồ bình, bạo lực vũ trang được sử dụng
dưới hình thức khởi nghĩa vũ trang, nội chiến, cách mạng. Trong trường hợp này, nội
chiến, cách mạng là một hình thức đấu tranh cách mạng có cùng phương hướng chính
trị với cách mạng. Dĩ nhiên, nội chiến cách mạng khơng hồn tồn trùng hợp với cách
mạng. Nội chiến có thể xảy ra ngay khi bắt đầu cách mạng, nhưng cũng có thể xảy ra
sau cách mạng. Mục tiêu của cách mạng và nội chiến cách mạng cũng khơng hồn tồn
trùng hợp nhau. Cách mạng phá huỷ chế độ xã hội cũ, xây dựng chế độ xã hội mới. Nội
chiến cách mạng chỉ trực tiếp giải quyết nhiệm vụ thứ nhất – phá huỷ chế độ cũ, trấn áp
các lực lượng phản cách mạng.
Như vậy, chiến tranh và cách mạng là những hiện tượng xã hội không
nằm trong mối liên hệ nhân quả bắt buộc. Đồng thời, khơng thể xem xét các
q trình cách mạng một cách biệt lập, tách rời với các hiện tượng xã hội


khác, kể cả chiến tranh. Sự khác nhau giữa chiến tranh và cách mạng không
loại trừ các mối liên hệ biện chứng, linh hoạt, đa dạng, đầy mâu thuẫn giữa
chúng với nhau. Chiến tranh ảnh hưởng nhất định tới phát triển của cuộc đấu

tranh giai cấp, tới sự chín muồi của tình thế cách mạng, ngược lại, cách
mạng có thể ảnh hưởng tới sự phát sinh chiến tranh và tiến trình kết cục của
chiến tranh.
Tóm lại, chỉ có thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi
tồn thế giới mới có thể thủ tiêu hồn tồn các giai cấp bóc lột và xố bỏ những điều
kiện nảy sinh chiến tranh. Trong thời đại ngày nay đòi hỏi những người cách mạng
phải biết kết hợp mềm dẻo giữa phương tịên chính trị và phương tiện quân sự. Trong
xác định đường lối chiến lược, sách lược phải giữ vững nguyên tắc trong việc giải
quyết giữa yêu chuộng hoà bình với tạo ra sức mạnh lớn nhất để giáng những địn
đích đáng đối với kẻ thù, phải củng cố giữ vững chủ nghĩa xã hội, đổi mới toàn diện
cả kinh tế, chính trị và quân sự.
2. Một số vấn đề cơ bản và cấp thiết về quân đội trong thời đại ngày
nay
2.1. Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về nguồn gốc, bản chất quân đội
Từ khi quân đội xuất hiện đến nay, đã có khơng ít nhà lý luận đề cập đến
nguồn gốc, bản chất của quân đội trên các khía cạnh khác nhau. Nhưng chỉ có chủ
nghĩa Mác – Lênin mới lý giải đúng đắn và khoa học về hiện tượng chính trị xã hội
đặc thù này.
Khi bàn về nguồn gốc ra đời của quân đội, các quan điểm trước Mác thường
cho rằng, quân đội là một sản phẩm tất yếu tự nhiên thuần tuý trong lịch sử lồi
người. Họ muốn phủ định tính lịch sử của quân đội hoặc cố gắng chứng minh cho
sự tồn tại vĩnh viễn của quân đội, coi quân đội ra đời là sự bảo đảm các hoạt động
“bình thường” của mọi xã hội. Do ảnh hưởng của thế giới quan duy tâm, phương
pháp siêu hình và lợi ích giai cấp nên họ đã giải thích thiếu tồn diện hoặc sai lệch
nguồn gốc ra đời của quân đội, hoặc cố lẩn tránh nguồn gốc kinh tế, nguồn gốc giai
cấp của quân đội.


Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chứng minh một cách khoa học về nguồn gốc ra
đời của quân đội từ sự phân tích cơ sở kinh tế- xã hội và khẳng định: quân đội là

một hiện tượng lịch sử, ra đời trong giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài
người, khi xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sự đối kháng giai cấp
trong xã hội. Chính chế độ tư hữu và đối kháng giai cấp đã làm nẩy sinh nhà nước
thống trị bóc lột. Để bảo vệ lơị ích của giai cấp thống trị và đàn áp quần chúng
nhân dân lao động giai cấp thống trị đã tổ chức ra lực lượng vũ trang thường trực
làm công cụ bạo lực của nhà nước.
Như vậy, chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sự phân chia xã hội thành giai
cấp đối kháng là nguồn gốc ra đời của quân đội. Chừng nào cịn chế độ tư hữu,
cịn chế độ áp bức bóc lột thì qn đội vẫn cịn tồn tại . Qn đội chỉ mất đi khi giai
cấp, nhà nước và những điều kiện sinh ra nó tiêu vong.
Khi bàn về bản chất của quân đội, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định bản chất
quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của một giai cấp, nhà nước nhất định nhằm mục
đích bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và nhà nước tổ chức, ni dưỡng, sử dụng nó.
Bản chất giai cấp của quân đội phụ thuộc vào bản chất giai cấp của nhà nước đã tổ chức
ra quân đội đó. Quân đội do giai cấp, nhà nước tổ chức, nuôi dưỡng và xây dựng theo
đường lối, quan điểm chính trị, qn sự của giai cấp mình. Đó là cơ sở để quân đội trung
thành với nhà nước, giai cấp đã tổ chức ra nó.
Bản chất giai cấp của qn đội khơng phải tự phát hình thành mà phải trải quan
quá trình xây dựng lâu dài và được củng cố liên tục. Bản chất giai cấp quân đội là
tương đối ổn định, nhưng không phải là bất biến. Sự vận động, phát triển bản chất giai
cấp của quân đội bị chi phối bởi nhiều yếu tố như: Giai cấp, nhà nước, các lực lượng,
tổ chức chính trị xã hội và việc giải quyết các mối quan hệ trong nội bộ quân đội …
Do sự tác động của các yếu tố trên mà bản chất giai cấp của quân đội có thể được tăng
cường hoặc bị phai nhạt, thậm chí bị biến chất và tuột khỏi tay nhà nước, giai cấp đã
tổ chức ra, ni dưỡng qn đội đó. Sự thay đổi bản chất giai cấp quân đội diễn ra dần
dần từ từ thông qua việc tăng cường hoặc suy yếu dần các mối quan hệ trên.


Trong tình hình hiện nay, các học giả tư sản thường rêu rao luận điểm “phi chính
trị hố qn đội”, cho qn đội phải đứng ngồi chính trị, qn đội là cơng cụ chung

của tồn xã hội, khơng mang bản chất giai cấp. Thực chất quan điểm “phi chính trị hoá
quân đội” của các học giả tư sản nhằm làm suy yếu sự lãnh đạo cuả Đảng cộng sản, làm
giảm sức mạnh chiến đấu, từng bước làm thoái hoá về chính tri tư tưởng, phai nhạt bản
chất cách mạng của quân đội. Đó là một mục tiêu quan trọng trong chiến lược “diễn
biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ và chuẩn bị gây chiến tranh xâm lược. Thực tế đó đang
chứng minh tính đúng đắn quan điểm của V. I. Lênin: Hiện nay cũng như trước kia và
sau này quân đội sẽ khơng bao giờ có thể trung lập. Mặt khác, mặt trái của nền kinh tế
thị trường tác động không nhỏ tới tăng cường bản chất giai cấp công nhân, bản chất
cách mạng của quân đội. Những biểu hiện cường điệu lợi ích vật chất, lề thói thực
dụng, cơ hội về chính trị, sự suy giảm về đạo đức cách mạng là những cản trở trong xây
dựng quân đội cách mạng hiện nay.
2.2. Đặc thù về sự hình thành và bản chất của Quân đội nhân dân Việt
Nam
Ngày 22 tháng12 năm 1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
được thành lập, là tiền thân của quân đội ta hiện nay. Sự ra đời của Quân đội ta là
xuất phát từ chính yêu cầu của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp ở nước ta. Thực tiễn lịch sử cho thấy, kẻ thù sử dụng bạo lực phản cách
mạng để áp bức nô dịch dân tộc ta. Do vậy, muốn giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp chúng ta phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách
mạng.
Để thực hiện được mục tiêu cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
cộng sản Việt Nam đã tổ chức ra lực lượng vũ trang cách mạng làm nòng cốt
cho cuộc đấu tranh giai cấp, dân tộc mà tiền thân của nó là những đội xích vệ
đỏ, du kích vũ trang, sau đó phát triển thành quân đội nhân dân. Quân đội nhân
dân Việt Nam là lực lượng vũ trang cách mạng của giai cấp công nhân và quần
chúng lao động, đấu tranh với kẻ thù giai cấp và kẻ thù dân tộc.


Quá trình xây dựng chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta luôn luôn gắn
liền với phong trào cách mạng của quần chúng, với các cuộc chiến tranh giải phóng

dân tộc và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chính từ thực tiễn phong trào cách
mạng của quần chúng, những thăng trầm của chiến tranh, những thử thách ác liệt
cùng với những hy sinh to lớn… mà phẩm chất "Bộ đội Cụ Hồ" được rèn luyện,
kiểm nghiệm nghiêm ngặt nhất và được phát triển lên những đỉnh cao.
Ngay từ khi mới thành lập, mặc dù đại bộ phận cán bộ chiến sĩ xuất thân từ
nông dân nhưng tất cả họ đều là những người có lịng u nước mãnh liệt, chí căm
thù giặc sâu sắc. Trải qua những năm tháng phục vụ trong quân đội họ không ngừng
nâng cao giác ngộ cách mạng, chuyển từ giác ngộ dân tộc lên giác ngộ giai cấp, từ
tinh thần độc lập dân tộc lên ý thức xã hội chủ nghĩa, chuyển lập trường của giai cấp
xuất thân sang lập trường giai cấp công nhân để xem xét, giải quyết, đánh giá công
việc. Sự thống nhất hữu cơ trên, xuất phát từ nét đặc thù về chế độ chính trị, bản chất
Nhà nước, giai cấp tổ chức, nuôi dưỡng và sử dụng quân đội. Quân đội nhân dân
Việt Nam sinh ra từ các phong trào cách mạng của quần chúng được nhân dân nuôi
dưỡng đùm bọc che chở và tiếp sức, lại được tổ chức giáo dục rèn luyện bởi Đảng
Cộng sản Việt Nam - Người đại biểu trung thành cho lợi ích giai cấp, dân tộc và
nhân dân
Quân đội nhân dân Việt Nam được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp
tổ chức lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, được nhân dân hết lòng yêu thương, đùm
bọc, đồng thời được kế thừa những truyền thống tốt đẹp của một dân tộc có hàng
ngàn năm văn hiến và lịch sử đấu tranh dựng nước gắn liền với giữ nước oanh liệt.
Do đó, ngay từ khi ra đời và trong suốt q trình phát triển, qn đội ta ln thực sự
là một quân đội kiểu mới mang bản chất cách mạng của giai cấp cơng nhân, đồng
thời có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát những đặc trưng bản chất của Quân đội
ta: "Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc
lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó
khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng"6.
6 Hồ Chí Minh, tồn tập, Nxb CTQG, H. 1996, t. 11, tr. 350.



Bắt nguồn từ nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng quân đội kiểu
mới của giai cấp vô sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đặc
biệt quan tâm đến công cụ đặc biệt này để nó thực sự trở thành lực lượng nịng cốt
trong đấu tranh giai cấp, kể cả tiến hành chiến tranh.
Trong điều kiện hiện nay, để xây dựng quân đội nhân dân "cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại", địi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ phải ln quán triệt
và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, trực tiếp là Đảng ủy Quân sự Trung
ương để phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước và
nhân dân giao cho. Mục tiêu chính trị của Đảng trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn
cách mạng đem lại cho quân đội ta phương hướng hoạt động đúng đắn và là động
lực vô cùng mạnh mẽ trong việc xây dựng sức mạnh chiến đấu của quân đội. Vì vậy,
chăm lo giáo dục đường lối chính trị, thường xuyên quán triệt sâu sắc nghị quyết, chỉ
thị của Đảng cho bộ đội là nhiệm vụ hàng đầu, thường xun của cơng tác đảng,
cơng tác chính trị, thơng qua đó làm cho qn đội có giác ngộ chính trị cao, có bản
lĩnh chính trị vững vàng.
Đảng Cộng sản Việt Nam - Người tổ chức lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện
quân đội - là nhân tố quyết định sự hình thành và phát triển bản chất giai cấp cơng
nhân của quân đội ta. Trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành
của quân đội, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh ln dành sự
chăm lo đặc biệt đối với quân đội. Điều này được thể hiện rõ nét trong cơ chế lãnh
đạo: tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội trong thực hiện chế
độ công tác đảng, công tác chính trị. Nhờ đó, Qn đội nhân dân Việt Nam trở
thành một quân đội kiểu mới mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân.
Thành tựu to lớn trong tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho quân đội ta là,
Đảng đã đào tạo nên những thế hệ "Bộ đội Cụ Hồ", một mẫu hình mới của con
người xã hội chủ nghĩa trong quân đội kiểu mới. Như vậy, khơng có một Đảng
Cộng sản chân chính, khơng có một giai cấp cơng nhân Việt Nam cách mạng, kiên
định lập trường xã hội chủ nghĩa, thì quân đội của nó khơng thể giữ vững được bản
chất giai cấp cơng nhân, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của mình. Chủ tịch Hồ Chí



Minh đã chỉ rõ: "Quân đội ta có sức mạnh vơ địch, vì nó là một qn đội nhân dân
do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục"7.
Trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, quân đội ta luôn lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng
làm nền tảng tư tưởng của mình. Sự thống nhất hữu cơ giữa tính cách mạng, khoa
học và tính nhân văn sâu sắc. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối quan điểm của Đảng là tiềm lực trí tuệ - tư tưởng quan trọng hàng đầu và
là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của quân đội, là yếu tố cốt lõi tạo nên bản chất
giai cấp công nhân , quy định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội .
Mục tiêu lý tưởng chiến đấu của quân đội ta là thực hiện mục tiêu lý tưởng các
mạng của Đảng, của giai cấp công nhân và của tồn dân tộc: Gắn giải phóng dân tộc
với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ của quân đội ta hiện nay là phải luôn luôn sẵn sàng chiến đấu và
chiến đấu thắng lợi bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trước tình hình nhiệm vụ
mới của cách mạng và của quân đội, ngoài nhiệm vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến
đấu, quân đội phải tham gia vào nhiệm vụ xây dựng đất nước, sản xuất của cải vật
chất và tiến hành công tác. Đây là vấn đề khác về chất so với quân đội của giai cấp
bóc lột. Quân đội ta có ba chức năng: Là đội quân chiến đấu , là đội quân công tác,
là đội quân sản xuất. Ba chức năng đó phản ánh cả mặt đối nội, đối ngoại của quân
đội.
Với tư cách là đội quân chiến đấu, quân đội luôn sẵn sàng chiến đấu và
chiến đấu chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo vệ trật
tự an tồn xã hội, tham gia vào cuộc tiến công địch trên mặt trận lý luận, chính trị –
tư tưởng, văn hố; là đội quân sản xuất, quân đội tăng gia sản xuất cải thiện đời
sống cho bộ đội, xây dựng kinh tế, góp phần xây dựng, phát triển đất nước, trong
điêù kiện hiện nay, quân đội còn là lực lượng nòng cốt và xung kích trong xây
dựng kinh tế- quốc phịng ở các địa bàn chiến lược, nhất là ở biên giới, biển đảo,
vùng sâu, vùng xa cịn nhiều khó khăn gian khổ và ở những địa bàn có những tình
huống phức tạp nảy sinh; là đội quân công tác, quân đội tham gia vận động quần

7 Hồ Chí Minh, tồn tập, Nxb CTQG, H. 1996, t. 11, tr. 350


chúng nhân dân xây dựng cơ sở chính trị – xã hội vững mạnh, góp phần tăng
cường sự đồn kết giữa Đảng với nhân dân, quân đội với nhân dân; giúp dân chống
thiên tai, giải quyết khó khăn trong sản xuất và đời sống, tuyên truyền vận động
nhân dân hiểu rõ và chấp hành đúng đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước.
Thực tiễn hơn 60 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của quân đội ta đã
chứng minh: quân đội đã thực hiện đầy đủ và xuất sắc ba chức năng trên, cùng toàn
Đảng, toàn dân lập nên những chiến công hiển hách trong chiến tranh giải phóng.
Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay, qn đội có vai trị hết sức nặng nề. Quân
đội luôn phải là đội quân cách mạng, lực lượng chính trị, cơng cụ vũ trang sắc bén của
Đảng, có sức chiến đấu cao, sẵn sàng đánh bại mọi kẻ thù, hoàn thành thắng lợi mọi
nhiệm vụ… Để thực hiện vai trị đó, cần đổi mới nhận thức về các chức năng của
quân đội cho phù hợp với tình hình mới.
2.3. Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị trong giai đoạn
hiện nay
Từ khi thành lập đến nay, dựa trên nền tảng lý luận cách mạng, khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa những kinh nghiệm truyền
thống quý báu trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, quân đội ta luôn
luôn đặt việc xây dựng vững mạnh về chính trị là nguyên tắc cơ bản, quan trọng hàng
đầu, làm cơ sở cho các mặt xây dựng khác.
Trên bình diện lý luận và hoạt động thực tiễn, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin xem xét vấn đề chiến tranh, quân đội trong mối quan hệ chặt
chẽ với chính trị và giai cấp. Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các quốc
gia, dân tộc, trong đó, vấn đề cốt lõi là quan hệ giữa các giai cấp trong xã hội, là
vấn đề giành và giữ chính quyền, duy trì sử dụng quyền lực Nhà nước vì lợi ích
của giai cấp.
Lịch sử ra đời và phát triển của quân đội trên thế giới cho thấy, quân đội bao

giờ cũng có quan hệ hữu cơ với giai cấp và nhà nước sinh ra nó, mang bản chất giai
cấp của giai cấp thống trị. Quân đội là lực lượng chính trị đặc biệt của nhà nước để


tiến hành chiến tranh, nhằm thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền
bằng biện pháp vũ trang. Bản chất chính trị - giai cấp là vấn đề cốt tử, sống còn của
quân đội. Thực tiễn lịch sử đã khẳng định, các giai cấp, Nhà nước khi tổ chức ra quân
đội đều tập trung xây dựng, củng cố bản chất chính trị - giai cấp của nó. Ngay từ khi
ra đời, quân đội đã thấm đậm chính trị của giai cấp; bản chất giai cấp của quân đội
được thể hiện rõ ràng trong mọi hoạt động đối nội cũng như đối ngoại của giai cấp
sinh ra nó.
Khẳng định bản chất chính trị - giai cấp của quân đội; vai trị của nhân tố chính trị
tinh thần trong chiến tranh và trong sức mạnh chiến đấu của quân đội, trong đó nội dung
chính trị được lý giải một cách đúng đắn, khoa học, các nhà lý luận mác-xít đã giải quyết
thành công nhiều vấn đề trong cách mạng vô sản; vạch ra những nguyên lý xây dựng
quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản.
Quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản tất yếu phải mang bản chất cách
mạng sâu sắc, từ đó, cần đặc biệt chăm lo xây dựng quân đội về chính trị, nhất là
củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, coi đó là vấn đề sống cịn của
qn đội cách mạng, là nguyên lý hết sức cơ bản trong xây dựng quân đội kiểu
mới.
Mục tiêu xây dựng quân đội ta về chính trị là nhằm làm cho quân đội "Trung
với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc,
vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua,
kẻ thù nào cũng đánh thắng".
Như vậy, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị là giữ vững và
tăng cường bản chất giai cấp công nhân, bản chất cách mạng, tính nhân dân, tính
dân tộc của quân đội, quán triệt và cụ thể hóa đường lối chính trị, đường lối quân
sự của Đảng Cộng sản Việt Nam vào trong quân đội, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt
đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội, làm cho quân đội ta luôn là

đội quân cách mạng, lực lượng chính trị tin cậy, trung thành với Đảng,với Nhà
nước, với dân tộc, với nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của
Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội.


Thực chất xây dựng quân đội về chính trị, là tăng cường bản chất giai cấp cơng
nhân, tính nhân dân, tính dân tộc cho quân đội, trước mắt cần tập trung vào những nội
dung cơ bản sau:
Thứ nhất, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt của Đảng đối với quân đội
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với
Quân đội nhân dân Việt Nam là nguyên tắc, quy luật cơ bản trong xây dựng quân
đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Sự lãnh đạo của Đảng với quân đội được thể hiện ở cương lĩnh, điều lệ, nghị quyết,
đường lối của Đảng, cũng như ở Hiến pháp, luật pháp của Nhà nước, ở điều lệnh, điều lệ
của quân đội. Sự lãnh đạo đó được thể hiện thông qua cơ chế lãnh đạo bao gồm: hệ thống
tổ chức đảng, hệ thống chỉ huy, hệ thống cơ quan chính trị và cán bộ chính trị, các tổ chức
quần chúng ở đơn vị cơ sở và các quy chế cần thiết.
Vấn đề then chốt nhất để đảm bảo thực hiện thắng lợi nguyên tắc trên là phải
xây dựng Đảng bộ quân đội trong sạch, vững mạnh, thống nhất và có sức chiến đấu
cao.
Xây dựng Đảng bộ qn đội trong sạch vững mạnh, có trình độ trí tuệ, năng
lực lãnh đạo tồn diện, góp phần cụ thể hóa đường lối của Đảng, nâng cao sức
mạnh chiến đấu trên mặt trận chính trị - tư tưởng, đấu tranh chống các quan điểm
sai trái, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đồn kết
nội bộ, khơng để các thế lực thù địch thâm nhập, móc nối… đang đặt ra cấp bách ,
có ý nghĩa quyết định quá trình xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị cả trước
mắt và lâu dài.
Thứ hai, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức
Đảng trong quân đội.

Trong quân đội ta, từ trước tới nay, dù trong hoàn cảnh chiến tranh hay hịa
bình, xây dựng, chiến đấu hay cơng tác, bất kỳ trong thời kỳ nào, đều xác định rõ
công tác xây dựng Đảng luôn luôn là nhiệm vụ trung tâm, then chốt, giữ vai trò


quyết định, tác động chi phối đến các mặt công tác, các lĩnh vực hoạt động của
quân đội.
Những năm vừa qua, việc quán triệt và thực hiện nghị quyết Trung ương
về đổi mới và chỉnh đốn Đảng, từ Đảng ủy Quân sự Trung ương đến các tổ
chức Đảng, các ngành, các cấp trong quân đội đã tích cực triển khai, qn triệt
và có chương trình hành động và đã đạt được những kết quả bước đầu tích cực.
Mặt khác, trong quá trình xây dựng và thực hiện chức năng lãnh đạo của các tổ
chức Đảng trong quân đội cũng còn bộc lộ nhiều khuyết điểm. Những khuyết
điểm, thiếu sót này trong các cấp bộ đảng, các tổ chức đảng, mức độ khác
nhau, nhưng trên thực tế đã là nguyên nhân trực tiếp làm giảm sút năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức Đảng. Vì vậy, phát động cuộc vận
động xây dựng và chỉnh đốn Đảng vào thời điểm hiện này là hết sức cần thiết
và hoàn tồn có khả năng thực hiện.
Để thực hiện được u cầu đó, phải triển khai xây dựng đồng bộ, tồn diện cả
chính trị, tư tưởng, tổ chức, trước mắt cần tập trung vào một số nội dung cơ bản sau:
thường xuyên nắm chắc việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên kết hợp
với xây dựng đội ngũ cán bộ trong quân đội đáp ứng yêu cầu lãnh đạo của Đảng trong
thời kỳ mới; tập trung sức làm chuyển biến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các
tổ chức cơ sở đảng; nghiêm chỉnh chấp hành nguyên tắc tổ chức và nguyên tắc lãnh đạo
của Đảng; thực hiện nghiêm túc, thành nền nếp chế độ tự phê bình và phê bình trong
Đảng bộ quân đội.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác tư tưởng văn hóa trong qn đội, kiên quyết đấu tranh khắc phục những nhận thức, tư
tưởng, hành động sai trái và chống lại sự tấn công phá hoại của các thế lực thù
địch về chính trị, tư tưởng.
Hoạt động tư tưởng - văn hóa trong quân đội là một trong những lĩnh

vực hoạt động quan trọng để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội.
Nhiệm vụ trực tiếp của công tác tư tưởng - văn hóa trong quân đội là góp phần
xây dựng con người mới trong lực lượng vũ trang nhân dân, người quân nhân


cách mạng trong giai đoạn mới, làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ, cơng nhân viên
quốc phịng có trình độ và bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với mục
tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng, có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành
mạnh, trong sáng, nếp sống chính quy, có năng lực hành động thực tiễn giỏi…
đủ sức hồn thành tốt nhiệm vụ trong bất cứ tình huống nào. Chưa bao giờ
chức năng, nhiệm vụ của quân đội ta lại đặt ra những yêu cầu nội dung mới, rất
nặng nề đối với cán bộ, chiến sĩ quân đội ta như hiện nay.
Do vậy, hoạt động tư tưởng - văn hóa trong điều kiện lịch sử mới cần có
những đổi mới để đáp ứng với yêu cầu của sự phát triển.
Thư tư, xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo
đức cách mạng trong sáng, có trí tuệ, có năng lực hành động thực tiễn làm nòng
cốt trong xây dựng quân đội về chính trị.
Ngày nay, chúng ta xây dựng quân đội nhân dân để bảo vệ Tổ quốc trong
điều kiện cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc đang diễn ra rất quyết liệt và
phức tạp. Nhiệm vụ của cách mạng nước ta và nhiệm vụ của quân đội có những
phát triển mới. Yêu cầu xây dựng quân đội theo hướng cách mạng, chính quy, tinh
nhệ, từng bước hiện đại, khơng chỉ tinh nhuệ về qn sự mà cịn phải tinh nhuệ về
chính trị. Để xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức
cách mạng trong sáng, có trí tuệ, có năng lực hành động thực tiễn làm nòng cốt
trong xây dựng quân đội về chính trị, trước mắt cần tập trung một số nội dung cơ
bản sau: tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp
của cả hệ thống chính trị trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội; quy hoạch
tổng thể đội ngũ cán bộ thường trực và dự bị, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của quân
đội trong giai đoạn cách mạng mới; xây dựng và thực hiện có hiệu quả quy hoạch
tạo nguồn cán bộ; tiếp tục đổi mới công tác đào tạo, nâng cao chất lượng toàn diện

đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới.
Thứ năm, xây dựng vững chắc nền tảng chính trị xã hội của quân đội.
Xây dựng nền tảng chính trị xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam là một
vấn đề có tính ngun tắc trong xây dựng quân đội cách mạng kiểu mới của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Quân đội ta là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, của Nhà nước


và của nhân dân. Quân đội mang bản chất giai cấp cơng nhân, tính dân tộc, tính nhân
dân sâu sắc. Sự trưởng thành và sức mạnh của quân đội, trước hết được bắt nguồn từ
nền tảng chính trị xã hội của quân đội. Do vậy, xây dựng nền tảng chính trị xã hội của
quân đội sẽ trực tiếp góp phần củng cố và tăng cường bản chất chính trị, sức mạnh
chiến đấu của quân đội.
Thứ sáu, tiếp tục đổi mới và hồn thiện chính sách đãi ngộ đối với qn đội
và hậu phương quân đội.
Trong thời kỳ mới, sự vận động biến đổi kinh tế - xã hội, mà đặc trưng cơ
bản nhất là sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh
thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ tác động mạnh
mẽ đến xây dựng quân đội, củng cố quốc phịng. Sự tác động đó đến chính sách
đãi ngộ theo hai chiều: Nó vừa là cơ sở, điều kiện để hoạch định về chính sách
đãi ngộ, đồng thời vừa đặt ra những địi hỏi mới đối với chính sách đãi ngộ
trong tình hình mới. Chúng ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới, song những
chính sách sau các cuộc chiến tranh đang tồn đọng với khối lượng rất lớn và
đang xuất hiện nhiều dạng thức mới hết sức phức tạp và bức xúc. Chính sách đãi
ngộ trong khi ưu tiên đảm bảo những yêu cầu mới, đòi hỏi phải tập trung giải
quyết tốt các tồn đọng nói trên. Đó chính là q trình tạo ra động lực cho sự
phát triển.
Thứ bảy, đấu tranh phê phán luận điểm “phi chính trị hố qn đội”.
Đây là một vấn đề chính trị nhạy cảm hiện nay, là một luận điểm phản động
của kẻ thù, nhưng trên thực tế chúng lại thực thi thành công ở một loạt nước Đông
Âu và Liên Xô . Do vậy, để phê phán luận điểm trên, chúng ta cần phải nghiên cứu

và chỉ ra tính phản động về chính trị và phản khoa học của luận điểm đó. Chủ
nghĩa cơ hội, xét lại hiện đại cho rằng, quân đội là một tổ chức quân sự, là công cụ
bạo lực vũ trang của nhà nước, quốc gia, nên bất cứ nhà nước, quốc gia nào cũng
phải tổ chức nuôi dưỡng và sử dụng quân đội, không nhất thiết quân đội đó phải là
quân đội xã hội chủ nghĩa, hay tư bản chủ nghĩa. Quân đội sinh ra để phục vụ lợi


ích quốc gia nói chung, cho nên quân đội có thể trung lập, đứng ngồi chính trị,
đứng trên giai cấp.
Nghiên cứu kỹ luận điểm trên, chúng ta sẽ tìm ra được tính phản động, phản
khoa học của luận điểm đó. Khi nghiên cứu bản chất quân đội, chủ nghĩa xét lại
hiện đại đã đem tuyệt đối hoá mặt bạo lực vũ trang mà bỏ qua mặt xã hội của quân
đội. Họ cho rằng, quân đội chỉ tuân theo Hiến pháp. Trong xã hội có đối kháng giai
cấp, mỗi quốc gia, nhà nước nhất định đều có Hiến pháp riêng phục vụ cho lợi ích
giai cấp thống trị, khơng có Hiến pháp chung chung mang lại lợi ích cho mọi gia
cấp. Xét dưới góc độ khoa học, đây là vấn đề vơ nghĩa, bởi vì, xuất phát từ nguồn
gốc ra đời của qn đội, bản thân nó đã là cơng cụ chính trị của giai cấp, nhà nước
nhất định. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, từ xưa đến nay, chưa hề có một nhà
nước “siêu giai cấp”; nhà nước “tồn dân”; nhà nước “phúc lợi chung”, thì cũng
khơng thể có quân đội do nhà nước, giai cấp sinh ra lại đứng ngồi chính trị, đứng
trên gia cấp. Khi một chế độ xã hội này bị thay thế bởi một chế độ xã hội khác thì
quân đội hoặc bị giải tán, hoặc bị cải tạo để phục vụ cho nhà nước, giai cấp thống
trị mới (quân đội Đông Âu sau chiến tranh thế giới thứ 2, quân đội Đông Âu, Liên
Xô sau chính biến tháng 8 năm 1991 và tháng 10 năm 1993).
Thực chất “phi chính trị hố qn đội” là phi vơ sản hố để từng bước tư sản
hố qn đội vốn là quân đội cách mạng, là tước vũ khí của gia cấp vơ sản, vơ hiệu
hố cơng cụ bạo lực để chuyển sang tay giai cấp thống trị khác; từ đó, xố bỏ thành
quả cách mạng, xố bỏ sự lãnh đạo của Đảng và cuối cùng là xoá bỏ chế độ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta.
Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng. Xây

dựng quân đội phải toàn diện, trong đó xây dựng về chính trị là cơ sở để xây dựng mọi
mặt, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu. Đây là nguyên tắc cơ bản
hàng đầu, là vấn đề có tính quy luật của qn đội ta.



×