Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

YÊU CẦU ĐIỀU TRA CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ CHỨC VỤ TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

DOÃN CAO SƠN

YÊU CẦU ĐIỀU TRA CỦA KIỂM SÁT VIÊN
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
VỀ CHỨC VỤ TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

DOÃN CAO SƠN

YÊU CẦU ĐIỀU TRA CỦA KIỂM SÁT VIÊN
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
VỀ CHỨC VỤ TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐINH XUÂN NAM



Hà Nội, năm 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi.
Cơng trình được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Đinh Xuân Nam.
Các tài liệu tham khảo, các số liệu sử dụng trong luận văn này là trung
thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Đồng Nai, ngày

tháng 3 năm 2021

Tác giả Luận văn

Doãn Cao Sơn


LỜI CẢM ƠN
Luận văn “Yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự về chức vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” đã được hồn thành thể
hiện kết quả tổng hợp, cơ đọng của hai năm học cao học tại Học viện Khoa
học xã hợi.
Tơi xin được trân trọng bày tỏ lịng biết ơn các thầy, cơ là các giáo sư,
phó giáo sư, tiến sĩ đã tham gia giảng dạy lớp cao học khoá 2019 - 2021, đặc
biệt xin cảm ơn TS. Đinh Xuân Nam – Trường Đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ
kiểm sát tại thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình, nghiêm túc, trực tiếp hướng
dẫn, chỉ đạo tơi hồn thành luận văn này.
Nhân dịp này tôi xin được chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong
Hội đồng chấm luận văn; cảm ơn Học viện Khoa học xã hội đã giúp đỡ tơi

hồn thành luận văn.
Tác giả

Dỗn Cao Sơn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ YÊU CẦU
ĐIỀU TRA CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN
HÌNH SỰ VỀ CHỨC VỤ .........................................................................................8
1.1. Những vấn đề lý luận về yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự về chức vụ ...............................................................................8
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về yêu cầu điều tra của Kiểm
sát viên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự về chức vụ .......................................24
Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VỀ YÊU CẦU ĐIỀU TRA CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ CHỨC VỤ VÀ THỰC TIỄN
THI HÀNH TẠI TỈNH ĐỒNG NAI ......................................................................30
2.1. Các kết quả đạt được về yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự về chức vụ tại tỉnh Đồng Nai ........................................................30
2.2. Thực trạng đề ra yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự về chức vụ tại tỉnh Đồng Nai ...................................................................34
2.3. Thực trạng thực hiện yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự về chức vụ tại tỉnh Đồng Nai ..............................................................57
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG YÊU CẦU
ĐIỀU TRA CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN
HÌNH SỰ VỀ CHỨC VỤ .......................................................................................64
3.1. Tăng cường nhận thức, trách nhiệm về yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên trong
giai đoạn điều tra các vụ án hình sự về chức vụ .......................................................64

3.2. Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về yêu cầu điều
tra của Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự về chức vụ .................65
3.3. Tăng cường năng lực, trình đợ chun mơn nghiệp vụ của Kiểm sát viên, Điều
tra viên .......................................................................................................................67
3.4. Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành ..............................................69


3.5. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa Kiểm sát viên và Điều tra viên, giữa Viện
kiểm sát và Cơ quan điều tra 02 cấp tỉnh Đồng Nai .................................................70
KẾT LUẬN ..............................................................................................................74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................76


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS:

Bợ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

CQĐT:

Cơ quan điều tra

ĐTV:

Điều tra viên


KSV:

Kiểm sát viên

KSĐT:

Kiểm sát điều tra

TAND:

Tịa án nhân dân

THQCT:

Thực hành quyền cơng tố

VKS:

Viện kiểm sát

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

YCĐT:

Yêu cầu điều tra



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra gắn Công tố
với hoạt động điều tra là chủ trương lớn của Đảng và nhà nước ta đã được
khẳng định trong Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ XI, lần thứ XII và tiếp tục
được khẳng định trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bợ
Chính trị về “Chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020”. Thể chế hóa quan
điểm của của Đảng, Luật tổ chức VKSND năm 2014, BLTTHS năm 2015 đã
quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự, trong đó có mợt trong những nợi dung
quan trọng tḥc quyền năng của VKS đó là quyền đề ra yêu cầu điều tra.
Quán triệt và thực hiện chủ trương của Đảng và các quy định của pháp
luật, ngày 06/12/2013, Viện trưởng VKSND tối cao đã ban hành Chỉ thị số
06/CT-VKSTC “Về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống
tội phạm”. Triển khai và thực hiện nghiêm túc chủ trương lớn của Đảng, các
quy định của pháp luật và Chỉ thị của Viện trưởng VKSND tối cao, trong
những năm vừa qua, ngành kiểm sát tỉnh Đồng Nai đã có nhiều cố gắng trong
việc thực hiện quyền đề ra yêu cầu điều tra đối với các vụ án hình sự nói
chung và các vụ án hình sự về chức vụ nói riêng. Qua báo cáo tổng kết hàng
năm về cơng tác đấu tranh phịng chống tham những trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai, do thực hiện tốt yêu cầu điều tra ngay từ khi khởi tố vụ án hình sự cho
đến khi kết thúc điều tra, nên hầu hết các vụ án hình sự về chức vụ đã hạn chế
được tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung, việc điều tra, truy tố, xét xử đều
đảm bảo đúng người, đúng tợi, đúng pháp luật. Tuy nhiên, do tính chất phức
tạp của các vụ án hình sự về chức vụ là tội phạm thường xảy ra đã lâu nên tài
liệu, chứng cứ đã lưu trữ nên việc thu thập thường mất nhiều thời gian; hành
vi phạm tội liên quan đến nhiều lĩnh vực chuyên ngành; đối tượng phạm tội là

1



người có chức vụ, quyền hạn, có quan hệ và có năng lực trình đợ chun mơn
trong việc thực hiện tội phạm và che dấu tội phạm rất tinh vi, khai báo không
thành khẩn; việc phát hiện thu giữ kịp thời tài liệu chứng cứ; việc kê biên,
phong tỏa tài sản gặp nhiều khó khăn; tài liệu chứng cứ có nhiều bút lục.
Chính vì vậy vẫn cịn mợt số tồn tại, hạn chế nhất định như: KSV chưa bám
sát hồ sơ ngay từ khi khởi tố vụ án hình sự và trong suốt quá trình khởi tố,
điều tra các vụ án hình sự về chức vụ, do đó khơng phát hiện được vi phạm tố
tụng của CQĐT cũng như không phát hiện được những mâu thuẫn còn tồn tại
giữa các tài liệu, chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội để đề ra
yêu cầu CQĐT khắc phục kịp thời. Thậm chí có những vụ án KSV khơng đề
ra yêu cầu điều tra mặc dù ĐTV có những vi phạm pháp luật cụ thể; mợt số
YCĐT cịn chung chung, không đề ra YCĐT cụ thể là ĐTV vi phạm gì theo
quy định của BLTTHS hoặc trong vụ án về chức vụ cần phải điều tra làm rõ
những vấn đề gì, thậm chí có KSV đề ra những u cầu điều tra nhưng CQĐT
không thể thực hiện được hoặc đề ra u cầu điều tra sơ sài, từ ngữ khơng
chính xác ... dẫn đến cịn mợt số vụ án hình sự về chức vụ sau khi kết thúc
điều tra, CQĐT chuyển hồ sơ và bản kết luận điều tra, đề nghị truy tố sang
VKS, khi đó KSV mới phát hiện các vi phạm của CQĐT, hồ sơ còn thiếu
chứng cứ hoặc các tài liệu chứng cứ cịn có mâu thuẫn, không thể khắc phục
được trong giai đoạn truy tố nên phải trả hồ sơ điều tra bổ sung, kéo dài thời
hạn tố tụng không cần thiết...
Những tồn tại nêu trên có nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng nguyên
nhân chủ yếu và căn bản là một số lãnh đạo, Kiểm sát viên VKSND hai cấp
tỉnh Đồng Nai chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa về yêu cầu điều tra, chưa
nghiên cứu kỹ hồ sơ để phát hiện các vi phạm tố tụng của CQĐT và các mâu
thuẫn giữa các tài liệu, chứng cứ, chưa quan hệ tốt với CQĐT và ĐTV....
Chính vì vậy việc lựa chọn vấn đề “Yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên trong


2


giai đoạn điều tra vụ án hình sự về chức vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” là đề
tài luận văn Thạc sĩ là đáp ứng yêu cầu tất yếu khách quan hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề đề ra yêu cầu điều tra trong giai đoạn điều tra các vụ án về chức
vụ của Kiểm sát viên luôn nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu lý
luận và những người làm công tác thực tiễn đặc biệt là đội ngũ Kiểm sát viên
VKSND các cấp được giao nhiệm vụ THQCT và KSĐT, KSXX vụ án hình
sự. Chính vì vậy có thể viện dẫn mợt số cơng trình luận văn, bài viết điển hình
sau đây có liên quan đến đề tài luận văn.
- Vũ Đắc Thới (2011), bàn về bản yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên,
tạp chí kiểm sát số 16. Hà Nội.
- Nguyễn Huy Phượng (2011), Kinh nghiệm của VKSND tỉnh Vĩnh
Phúc trong việc ban hành bản yêu cầu điều tra có chất lượng, tạp chí kiểm sát
số 16. Hà Nội.
- Nguyễn Quang Thành (2011), Một số giải pháp nâng cao hiệu lực,
hiệu quả bản yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên, Tạp chí kiểm sát số 16, Hà
Nội.
- Trần Thanh Thủy (2017), Bản yêu cầu điều tra theo BLTTHS 2015,
kiểm sát.vn ngày 30/03/2017, Hà Nội.
- Bùi Mạnh Cường (2017), Tăng cường trách nhiệm công tố trong giai
đoạn điều tra theo yêu cầu các đạo luật mới, Tạp chí kiểm sát số 04, Hà Nợi.
- Nguyễn Tuấn Anh (2018), Một số vấn đề cần lưu ý khi đề ra yêu cầu
điều tra, Cơ quan điều tra, VKSND tối cao.gov.vn 04/01/2021. Hà Nợi.
- Thái Thân (2018), vị trí, vai trị của bản u cầu điều tra trong vụ án
hình sự, VKSND tỉnh Hậu Giang trang thông tin điện tử 25/07/2019.
- Trường Đào tạo, Bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại Thành phố Hồ Chí
Minh (2020), kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát


3


xét xử sơ thẩm các vụ án tham nhũng, chức vụ, tập bài giảng bồi dưỡng
nghiệp vụ kiểm sát.
- Vũ Thị Bích Hằng (2016), Trách nhiệm hình sự đối với các tợi phạm
về chức vụ trong luật hình sự Việt Nam, luận văn thạc sĩ, khoa luật trường
Đại học Quốc Gia Hà Nợi.
- Trần Văn Luyện, Phùng Thế Vác, Bình luận BLHS 2015, sửa đổi bổ
sung 2017) Chương XXII các tội phạm về chức vụ, nhà xuất bản Công an
nhân dân. Hà Nội.
- Nguyễn Diệp Ngọc (2018), Tội tham ô tài sản trong pháp luật hình sự
Việt Nam, luận văn thạc sĩ. Trường Đại học Luật Hà Nội.
Qua nghiên cứu các sách chuyên khảo, luận văn, các bài viết nêu trên
cho thấy, các tác giả đã nghiên cứu trên nhiều phương diện, dưới nhiều góc đợ
khác nhau về những vấn đề liên quan đến định tội danh, liên quan đến các quy
định của BLHS về các tội phạm chức vụ; về vị trí, tầm quan trọng của yêu cầu
điều tra; về hình thức và nợi dung của u cầu điều tra... Đây là những kiến
thức lý luận và thực tiễn mà tác giả luận văn có thể tham khảo, kế thừa và
phát triển trong quá trình thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ. Tuy nhiên, các
cơng trình nghiên cứu trên chưa có cơng trình nào nghiên cứu sâu về lý luận
đề ra YCĐT của KSV, về đối tượng chứng minh trong các vụ án hình sự về
chức vụ để làm cơ sở đề ra YCĐT của KSV, cũng như chưa đánh giá được
những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong việc đề ra và thực hiện YCĐT
của KSV… Đặc biệt, tại địa bàn tỉnh Đồng Nai, việc đề ra YCĐT và thực
hiện YCĐT trong các vụ án hình sự về chức vụ của KSV Viện kiểm sát 02
cấp thời gian qua cũng còn nhiều hạn chế, bất cập và trên thực tế, chưa có mợt
cơng trình, đề tài, bài viết nào nghiên cứu về vấn đề “Yêu cầu điều tra của
Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự về chức vụ từ thực tiễn

tỉnh Đồng Nai”. Do đó, đề tài luận văn hồn tồn mới, khơng trùng lặp với
bất cứ cơng trình, đề tài, bài viết nào đã được công bố.

4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn là: nghiên cứu những vấn đề
lý luận và thực tiễn về yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên khi được phân công
thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án về chức vụ từ đó đề
xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng yêu cầu điều tra của KSV trong
giai đoạn điều tra các vụ án hình sự về chức vụ.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra,
trong q trình thực hiện, đề tài có những nhiệm vụ cụ thể sau đây.
+ Nghiên cứu và phân tích, làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trị, mục đích
và ý nghĩa của yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự về chức vụ.
+ Nghiên cứu, phân tích và làm rõ thẩm quyền, phạm vi, cơ sở, nợi dung
và hình thức của u cầu điều tra của KSV trong giai đoạn điều tra vụ án về
chức vụ.
+ Khảo sát, thu thập thông tin, số liệu có liên quan đến các vụ án về chức
vụ; các bản YCĐT một số vụ án về chức vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
+ Đánh giá thực tiễn thi hành quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự về
chức vụ và thực tiễn thi hành tại tỉnh Đồng Nai rút ra những kết quả đạt được,
những tồn tại, khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân.
+ Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng yêu cầu điều tra của
Kiểm sát viên trong đoạn điều tra vụ án hình sự về chức vụ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là những vấn đề lý luận và

pháp luật về yêu cầu điều tra và thực tiễn thi hành quy định của pháp luật tố
tụng hình sự về yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự về chức vụ.
- Phạm vi nghiên cứu

5


+ Về nội dung bao gồm những vấn đề liên quan đến yêu cầu điều tra của
KSV khi được phân công THQCT, KSĐT các vụ án về chức vụ.
+ Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
+ Về thời gian: 05 năm, kể từ năm 2016 đến năm 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn sử dụng
phương pháp luận là phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin;
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phịng chống các tợi phạm
về tham nhũng, chức vụ nhằm bảo đảm cho việc nghiên cứu đề tài đi đúng
hướng.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Để đạt được mục đích yêu cầu đã đề
ra trong quá trình thực hiện, đề tài sử dụng các phương pháp cụ thể sau đây:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh được sử dụng trong q
trình nghiên cứu lý luận, pháp luật và đánh giá thực tiễn hoạt động đề ra yêu
cầu điều tra của KSV trong giai đoạn điều tra vụ án về chức vụ để làm rõ sự
khác biệt giữa yêu cầu điều tra loại án này so với các loại án khác.
+ Phương pháp thu thập thông tin, số liệu các vụ án về chức vụ có bản
yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên và hồ sơ một số vụ án điển hình có hoặc
khơng có bản u cầu điều tra để phân tích đánh giá thực trạng đề ra yêu cầu
điều tra của Kiểm sát viên đối với các vụ án về chức vụ.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hồn thiện

về mặt lý luận về yêu cầu điều tra và bổ sung những kinh nghiệm thực tiễn
cho đội ngũ KSV khi đề ra YCĐT đối với các vụ án hình sự nói chung và các
vụ án hình sự về chức vụ nói riêng nhằm bảo đảm thực hiện tốt chức năng
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự về chức vụ.

6


- Ý nghĩa thực tiễn. Kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn có thể dùng
làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của ngành
Kiểm sát.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu; kết luận; tài liệu tham khảo; nội dung của luận văn
được kết cấu thành 03 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về yêu cầu điều tra của
Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự về chức vụ.
Chương 2. Thực tiễn thi hành quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự về
chức vụ và thực tiễn thi hành tại tỉnh Đồng Nai.
Chương 3. Các giải pháp nâng cao chất lượng yêu cầu điều tra của Kiểm
sát viên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự về chức vụ

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ YÊU CẦU ĐIỀU
TRA CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN
HÌNH SỰ VỀ CHỨC VỤ

1.1. Những vấn đề lý luận về yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự về chức vụ
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, mục đích và ý nghĩa của yêu cầu
điều tra của Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự về chức
vụ
- Khái niệm
Yêu cầu điều tra là hoạt động tố tụng của KSV trong thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự nói chung và án hình sự về
chức vụ nói riêng nhằm đảm bảo việc điều tra vụ án tuân thủ đúng các quy
định của pháp luật để xác định sự thật khách quan của vụ án, không làm oan
người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Yêu cầu điều tra của
KSV có thể bằng lời nói hoặc bằng văn bản.
Khái niệm về Bản yêu cầu điều tra
Hiện nay chưa có khái niệm chính thức về bản yêu cầu điều tra. Qua
tham khảo bài viết của một số tác giả khi nghiên cứu về bản YCĐT của KSV
được đăng trên tạp chí ngành kiểm sát có thể đưa ra một số khái niệm về bản
yêu cầu điều tra như sau:
Theo quan điểm của tác giả Vũ Đức Thới [28, tr 15]. thì: “Bản yêu cầu
điều tra là một văn bản pháp lý do Kiểm sát viên thực hiện trong quá trình
giám sát hoạt động điều tra. Nhằm xác định điều tra vụ án đúng hướng và
việc điều tra phải khách quan, tồn diện, đầy đủ, chính xác đúng pháp luật
nhằm tránh làm oan, sai và bỏ lọt tội phạm”.

8


Qua nghiên cứu và phân tích cho thấy khái niệm này đã làm rõ và xác
định được giá trị của bản yêu cầu điều tra; chủ thể là KSV ban hành trong quá
trình thực hiện chức năng THQCT và KSĐT vụ án hình sự. Tuy nhiên hạn
chế của khái niệm này là chưa làm rõ được mục đích và ý nghĩa của việc ban

hành yêu cầu điều tra do đó chưa thỏa mãn được yêu cầu của khái niệm bản
yêu cầu điều tra.
Theo quan điểm nghiên cứu của tác giả Bùi Mạnh Cường [2, tr.23]. và
tác giả Vũ Việt Hùng thì: “Bản yêu cầu điều tra là một văn bản tố tụng do
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra thực hiện
(ban hành), nêu rõ những vấn đề cần điều tra để thu thập, củng cố chứng cứ,
hoàn thiện các thủ tục tố tụng bảo đảm cho việc điều tra, truy tố được toàn
diện, khách quan và triệt để theo đúng quy định của pháp luật”.
Qua nghiên cứu và phân tích, chúng tơi thống nhất cao với quan điểm
của tác giả Bùi Mạnh Cường và tác giả Vũ Việt Hùng về khái niệm bản yêu
cầu điều tra của KSV. Khái niệm này không chỉ làm rõ được giá trị pháp lý,
chủ thể ban hành trong giai đoạn nào của TTHS mà còn lãm rõ được nội hàm
của khái niệm bản yêu cầu điều tra, mục đích, ý nghĩa của việc ban hành bản
yêu cầu điều tra.
Khi đưa ra khái niệm về bản yêu cầu điều tra, các tác giả đều dựa trên
các quy định của pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ của VKS, của
KSV trong việc ban hành bản yêu cầu điều tra khi THQCT và KSĐT vụ án
hình sự, từ đó xác định nội dung, phạm vi và ý nghĩa của bản YCĐT để khái
quát chúng thành khái niệm. Tuy nhiên, do sự thay đổi của các quy định pháp
luật và u cầu của thực tiễn đấu tranh phịng, chống tợi phạm trong tình hình
mới đặc biệt là đối với tợi phạm về chức vụ, đòi hỏi VKS phải tăng cường
trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt đợng điều
tra, theo đó “Viện kiểm sát các cấp chủ động, tích cực đề ra yêu cầu điều tra
đảm bảo có căn cứ, sát với nội dung vụ án”. Do vậy khái niệm về bản yêu

9


cầu điều tra cũng được nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn. Trên cơ sở kế thừa
các quan điểm về khái niệm bản yêu cầu điều tra của KSV của các tác giả nêu

trên đồng thời trên cơ sở nghiên cứu những quy định của pháp luật thực định,
nội hàm của bản yêu cầu điều tra, tác giả đưa ra khái niệm bản yêu cầu điều
tra của KSV trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự về chức vụ như sau:
“Bản yêu cầu điều tra là văn bản tố tụng do Kiểm sát viên ban hành
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự về chức vụ theo quy định của pháp luật
TTHS, nêu rõ những vấn đề cần yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra, những vấn đề cần điều tra để thu thập,
củng cố chứng cứ, làm rõ tội phạm, người phạm tội và những vấn đề cần
chứng minh trong vụ án hình sự hoặc để hồn thiện các thủ tục tố tụng nhằm
bảo đảm việc điều tra được tiến hành một cách khách quan, toàn diện và đầy
đủ theo đúng quy định của pháp luật, không làm oan, sai và không bỏ lọt tội
phạm”.
- Yêu cầu điều tra của KSV trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự về chức
vụ có những đặc điểm cơ bản sau:
- Yêu cầu điều tra vụ án về chức vụ là văn bản pháp lý trong TTHS do
KSV được giao nhiệm vụ THQCT và KSĐT trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự về chức vụ ban hành. Bản yêu cầu điều tra phải được đưa vào hồ sơ
vụ án hình sự và lưu hồ sơ kiểm sát theo quy định tại khoản 1 Điều 11 Thông
tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 của
Viện KSND tối cao - Bộ Cơng an - Bợ Quốc phịng và quy định tại khoản 1
Điều 47 Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố,
điều tra và truy tố ban hành kèm theo Quyết định số 111/QĐ-VKSTC ngày
17/4/2020 của Viện trưởng VKSND tối cao.
- Yêu cầu điều tra vụ án về chức vụ của KSV có tính chất định hướng
cho hoạt động điều tra giúp cho việc điều tra, xử lý vụ án được tiến hành một
cách khách quan, nhanh chóng và kịp thời. Do đó, ĐTV được phân công điều

10



tra vụ án và CQĐT phải có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu điều tra của
VKS (quy định tại khoản 1 Điều 167 BLTTHS và khoản 2 Điều 11 Thông tư
liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 của Viện
KSND tối cao - Bợ Cơng an - Bợ Quốc phịng).
- Trong mợt vụ án hình sự về chức vụ, KSV có thể ban hành một hoặc
nhiều yêu cầu điều tra nếu trong q trình điều tra, KSV thấy cịn có những
vấn đề cần điều tra mà ĐTV chưa thực hiện nhằm bảo đảm để ĐTV kịp thời
thu thập đầy đủ các chứng cứ, tài liệu của vụ án. Do đó, yêu cầu điều tra của
KSV mang tính chất pháp lý đặc thù so với các văn bản tố tụng hình sự khác.
Đây chính là điểm khác biệt giữa yêu cầu điều tra vụ án về chức vụ của
KSV với bản kế hoạch điều tra vụ án của ĐTV bởi vì, bản kế hoạch điều tra
vụ án về chức vụ do ĐTV xây dựng để báo cáo Lãnh đạo duyệt và tiến hành
các hoạt động điều tra theo kế hoạch. Nội dung bản kế hoạch điều tra vụ án về
chức vụ bao gồm: Căn cứ lập kế hoạch, mục đích, yêu cầu, nội dung điều tra,
biện pháp tiến hành, dự kiến các tình huống xảy ra, báo cáo và đề xuất. Nó
mang tính chất nợi bợ của CQĐT khơng mang tính pháp lý bắt buộc và không
được đưa vào hồ sơ vụ án.
- Vai trị, mục đích và ý nghĩa của YCĐT
Thơng qua YCĐT, KSV thể hiện rõ được quan điểm của mình trong
việc thu thập, củng cố chứng cứ và hồn thiện thủ tục tố tụng trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự về chức vụ, nhằm mục đích làm rõ những vấn đề cần
điều tra thu thập chứng cứ, hoàn thiện các thủ tục tố tụng, đảm bảo cho việc
điều tra, truy tố các vụ án hình sự về chức vụ được khách quan, toàn diện, kịp
thời, đúng pháp luật, tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động THQCT và kiểm sát
hoạt động xét xử của KSV tại phiên tòa.
Yêu cầu điều tra của KSV trong giai đoạn điều tra vụ án về chức vụ có
ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với việc điều tra vụ án nói riêng và cả q trình
xử lý vụ án nói chung, đó là:

11



+ u cầu điều tra có tính định hướng cho cơng tác điều tra nói chung
và xử lý vụ án, bị can nói riêng.
+ Yêu cầu điều tra giúp cho việc điều tra, xử lý vụ án được tiến hành
một cách khách quan, tồn diện, đầy đủ, nhanh chóng và kịp thời.
+ u cầu điều tra cịn có ý nghĩa khẳng định vị trí, vai trị của VKS;
uy tín, năng lực, trình đợ của KSV trong hoạt đợng THQCT ở giai đoạn điều
tra VAHS.
Thực tế cho thấy, yêu cầu điều tra vụ án về chức vụ được KSV ban
hành kịp thời, đúng thời điểm và có chất lượng sẽ có ý nghĩa rất quan trọng
đối với kết quả điều tra của CQĐT “ bảo đảm cho hoạt động điều tra, thu
thập tài liệu, chứng cứ khách quan, toàn diện, đầy đủ” [9, tr.2] và đúng
hướng. Đồng thời, giúp ĐTV khắc phục ngay những thiếu sót trong giai đoạn
điều tra nhằm giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện và triệt để, góp
phần hạn chế oan, sai hoặc phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung làm kéo dài thời
gian giải quyết vụ án. Thơng qua đó, uy tín của KSV, của VKS đối với ĐTV
và CQĐT được nâng cao. Ngược lại, yêu cầu điều tra vụ án về chức vụ có nợi
dung chung chung, khó thực hiện hoặc không thể thực hiện được làm kéo dài
thời gian giải quyết vụ án, thậm chí cịn làm chệch hướng điều tra.
Tóm lại, yêu cầu điều tra vụ án về chức vụ là sản phẩm kết tinh từ kết
quả của hoạt đợng nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, đánh giá, so sánh, đối
chiếu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và các văn bản pháp luật có liên
quan đến việc giải quyết vụ án của KSV, qua đó giúp KSV nắm chắc diễn
biến của vụ án và tìm ra những tài liệu, chứng cứ còn thiếu, còn mâu thuẫn
hoặc những vấn đề cần phải điều tra, xác minh, làm rõ mà ĐTV chưa thực
hiện để đề ra các nội dung u cầu điều tra có tính sát thực, cụ thể và trực tiếp
giải quyết được các vấn đề của vụ án, tránh việc đề ra YCĐT chung chung,
hình thức.


12


1.1.2. Thẩm quyền, phạm vi, cơ sở, nội dung và hình thức của yêu
cầu điều tra của KSV trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự về chức vụ
- Thẩm quyền đề ra yêu cầu điều tra
Thẩm quyền đề ra yêu cầu điều tra các vụ án về chức vụ được trao cho
VKS và người thực hiện trực tiếp là KSV được phân công THQCT và KSĐT
vụ án. Đây là hoạt động tố tụng quan trọng trong việc gắn chặt chức năng
công tố với điều tra theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005
của Bợ Chính trị về “Chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020” và được cụ
thể hóa tại khoản 7 Điều 14 Luật Tổ chức VKSND năm 2014; điểm e khoản 1
Điều 42 và khoản 6 Điều 165 BLTTHS năm 2015. Theo đó, khi được phân
công THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, KSV
có nhiệm vụ, quyền hạn “Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra,
Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành
điều tra để làm rõ tội phạm, người phạm tội”.
Khoản 1 Điều 11 Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTCBCA-BQP ngày 19/10/2018 của Viện KSND tối cao - Bộ Công an - Bộ Quốc
phòng quy định về phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện một số
quy định của BLTTHS cũng quy định rõ: “Kiểm sát viên phải kịp thời trao
đổi với Điều tra viên, Cán bộ điều tra được phân công điều tra vụ án về
những vấn đề cần điều tra ngay từ khi nhận được quyết định khởi tố vụ án
hình sự và trong quá trình điều tra, bảo đảm để Điều tra viên, Cán bộ điều
tra kịp thời thu thập đầy đủ các chứng cứ, tài liệu của vụ án….; Kiểm sát viên
phải đề ra yêu cầu điều tra bằng văn bản, nêu rõ ràng, cụ thể những vấn đề
cần điều tra, chứng cứ, tài liệu cần thu thập”.
Như vậy, việc “đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT thực hiện” là
một quyền năng quan trọng và cơ bản của KSV. Chỉ có KSV là chủ thể duy
nhất khi được phân công nhiệm vụ THQCT và KSĐT trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự mới có thẩm quyền đề ra yêu cầu điều tra.


13


- Phạm vi đề ra yêu cầu điều tra
Đề ra yêu cầu điều tra trong các vụ án về chức vụ là nội dung thuộc
phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Phạm vi này được bắt đầu từ khi cơ quan (người) tiến hành tố tụng hình sự có
thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng bản kết luận
điều tra và quyết định của Cơ quan Điều tra về việc đề nghị Viện kiểm sát
truy tố bị can trước Tịa án hoặc đình chỉ vụ án hình sự về chức vụ.
Theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 3 Luật Tổ chức VKSND năm
2014 khi thực hiện chức năng THQCT, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ,
quyền hạn sau đây: “Khi cần thiết đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
thực hiện”; điểm e khoản 1 Điều 42 BLTTHS năm 2015 quy định: “Kiểm sát
viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự có những nhiệm vụ, quyền hạn: e) Đề ra yêu
cầu điều tra…”; khoản 1 Điều 47 Quy chế công tác thực hành quyền công tố,
kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố ban hành kèm theo Quyết định số
111/QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020 của Viện trưởng VKSND tối cao quy định:
“Trường hợp thấy có những vấn đề cần điều tra mà Điều tra viên chưa thực
hiện thì Kiểm sát viên phải đề ra yêu cầu điều tra; Yêu cầu điều tra có thể
được thực hiện nhiều lần, bằng lời nói trong trường hợp kiểm sát trực tiếp
hoạt động điều tra hoặc bằng văn bản; Đối với vụ án thuộc trường hợp phạm
tội quả tang, sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng thì khơng cần thiết
phải đề ra yêu cầu điều tra bằng văn bản”.
Ngoài ra, trong Quyết định số 379/QĐ-VKSTC ngày 10/10/2017 của
Viện trưởng VKSND tối cao về ban hành hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá
kết quả công tác nghiệp vụ trong ngành kiểm sát nhân dân hiện nay là Quyết

định số 139/QĐ-VKSTC ngày 29/4/2020 của Viện trưởng VKSND tối cao có

14


quy định về tỷ lệ ban hành bản YCĐT trên tổng số án thụ lý là ≥ 80% đối với
VKS cấp huyện và ≥ 90% đối với VKS cấp tỉnh và VKSND tối cao.
Từ các quy định của pháp luật và quy định của ngành Kiểm sát cho
thấy, không phải bất kỳ vụ án về chức vụ nào KSV cũng phải đề ra yêu cầu
điều tra. Chỉ khi nào thấy “cần thiết” hoặc “thấy có những vấn đề cần điều
tra mà Điều tra viên chưa thực hiện” thì KSV mới đề ra yêu cầu điều tra.
Trong một vụ án về chức vụ, KSV có thể ban hành mợt hoặc nhiều yêu cầu
điều tra và được thực hiện trong suốt quá trình điều tra. Khi KSV thấy cịn có
những vấn đề cần điều tra mà ĐTV chưa thực hiện nhằm đảm bảo cho việc
giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, triệt để và đúng pháp luật. Đối
với những vụ án phạm tội về chức vụ bị phát hiện và bắt quả tang, sự việc
phạm tội đơn giản, chứng cứ và thủ tục tố tụng đã đầy đủ, rõ ràng thì KSV
khơng nhất thiết phải đề ra u cầu điều tra.
Vấn đề đặt ra đối với các vụ án về chức vụ là khi nào, trong trường hợp
nào KSV phải “cần thiết” đề ra YCĐT nhất là đối với loại án tham nhũng đa
số đều là án phức tạp có nhiều nội dung cần phải yêu cầu CQĐT tiến hành
điều tra, làm rõ hoặc trường hợp nào KSV “thấy có những vấn đề cần điều tra
mà Điều tra viên chưa thực hiện” thì phải ban hành YCĐT. Trong khi những
nợi dung này đối với ĐTV, CQĐT đương nhiên phải thực hiện mà không cần
phụ thuộc vào YCĐT của KSV như yêu cầu ĐTV xác định căn cước, lý lịch
bị can, lập danh chỉ bản của bị can v.v... Do chưa có khung tiêu chí chung về
vấn đề này nên sẽ có nhiều cách hiểu và vận dụng khác nhau tùy thuộc vào
khả năng nhận thức, đánh giá của từng KSV khi được phân công nhiệm vụ
THQCT và KSĐT đối với từng vụ án hình sự về chức vụ.
- Cơ sở đề ra YCĐT

Để việc đề ra các nội dung YCĐT trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự về chức vụ đảm bảo chính xác và có căn cứ thì KSV cần phải xác định
được cơ sở đề ra yêu cầu điều tra, hay nói cách khác là “cần xác định đối

15


tượng chứng minh, tức là nhóm các sự kiện, tình tiết được làm sáng tỏ và
khẳng định”. [26, tr.127]. Việc xác định đối tượng chứng minh có vai trị định
hướng cho hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ, nếu xác định không đúng
đối tượng chứng minh sẽ làm cho hoạt đợng điều tra, thu thập chứng cứ bị
lãng phí thời gian và nguồn lực, không tập trung làm rõ được những vấn đề
bản chất của vụ án hoặc bỏ sót các tình tiết, chứng cứ cần thiết cho việc
chứng minh giải quyết vụ án.
Theo quy định tại Điều 85 BLTTHS năm 2015 và các quy định pháp
luật khác có liên quan thì những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình
sự về chức vụ bao gồm:
+ Chứng cứ để chứng minh “có hành vi phạm tội xảy ra hay không” là
chứng cứ để xác định hành vi đã xảy ra có đủ yếu tố cấu thành tợi phạm thuộc
cấu thành của một tội phạm cụ thể được quy định từ Điều 353 đến điều 366
Chương XXIII (các tội phạm về chức vụ) của BLHS hay thuộc các trường
hợp không phải là hành vi phạm tội (quan hệ dân sự, kinh tế v.v…); chứng cứ
chứng minh “thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm
tội” là chứng cứ xác định nếu có hành vi phạm tợi xảy ra thì xảy ra vào thời
gian nào, ở đâu; phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện thực hiện tội
phạm như thế nào v.v…
+ Chứng cứ để chứng minh “ai là người thực hiện hành vi phạm tội” là
chứng cứ xác định một chủ thể cụ thể là người “có chức vụ, quyền hạn trong
khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ; được giao một nhiệm vụ nhất định và có
quyền hạn nhất định trong khi thực hiên công vụ, nhiệm vụ” đã thực hiện

hành vi phạm tội đó; chứng cứ chứng minh “có lỗi hay khơng có lỗi” là
chứng cứ xác định chủ thể có lỗi hoặc khơng có lỗi khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hợi; nếu có lỗi thì là lỗi cố ý trực tiếp hay lỗi cố ý gián tiếp
hoặc lỗi vô ý do quá tự tin hay lỗi vô ý do cẩu thả theo quy định tại Điều 10
và Điều 11 của BLHS; chứng cứ chứng minh “có năng lực trách nhiệm hình

16


sự hay không” là chứng cứ xác định khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự chưa; có mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình hay khơng; nếu
có thì mắc bệnh đó vào thời gian nào, trong giai đoạn tố tụng nào; chứng cứ
chứng minh “mục đích, động cơ phạm tội” là chứng cứ xác định chủ thể thực
hiện hành vi phạm tợi với mục đích, đợng cơ gì; mục đích, đợng cơ phạm tợi
là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hay là tình tiết định tợi, tình tiết định
khung hình phạt v.v…
+ Chứng cứ để chứng minh “tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo” là chứng cứ xác định bị can, bị cáo
được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều
51của BLHS hoặc áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy
định tại Điều 52 của BLHS; chứng cứ chứng minh “đặc điểm về nhân thân
của bị can, bị cáo” là chứng cứ xác định lý lịch, tiền án, tiền sự của bị can, bị
cáo.
+ Chứng cứ để chứng minh “tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi
phạm tội gây ra” là chứng cứ để đánh giá tính chất, mức đợ thiệt hại, hậu quả
về vật chất, phi vật chất do hành vi phạm tội về chức vụ gây ra.
+ Chứng cứ để chứng minh “nguyên nhân và điều kiện phạm tội” là
chứng cứ xác định nguyên nhân chủ quan, khách quan, điều kiện cụ thể dẫn

đến việc chủ thể thực hiện hành vi phạm tợi;
+ Chứng cứ để chứng minh “những tình tiết khác liên quan đến việc
loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt” là
chứng cứ chứng minh những vấn đề được quy định tại các điều 20, 21, 22, 23,
24, 25, 26, 27, 28, 29, 59, 88 và các điều luật khác của BLHS.
+ Chứng cứ khác để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định
tại Điều 85 của BLTTHS mà thiếu chứng cứ đó thì khơng có đủ căn cứ để giải

17


quyết vụ án hình sự về chức vụ, như: chứng cứ để chứng minh vị trí, vai trị
của từng bị can, bị cáo trong trường hợp đồng phạm hoặc phạm tợi có tổ
chức; chứng cứ để xác định trách nhiệm dân sự của bị can, bị cáo và những
vấn đề khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp
luật v.v…
- Về hình thức
Ngồi các trường hợp KSV đề ra YCĐT bằng lời nói khi kiểm sát trực
tiếp một số hoạt động điều tra theo quy định tại Khoản 1 Điều 11 Thông tư
liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018, thì các
hoạt đợng điều tra khác, KSV phải đề ra YCĐT bằng văn bản.
Khi ban hành YCĐT bằng văn bản, KSV phải thực hiện theo đúng mẫu
văn bản tố tụng do Viện trưởng VKSND tối cao quy định (mẫu số 20 trong
danh mục biểu mẫu tố tụng hình sự Ban hành kèm theo Quyết định số 07/QĐVKSTC ngày 02/01/2008, hiện nay là mẫu số 83 trong danh mục biểu mẫu tố
tụng hình sự Ban hành kèm theo Quyết định số 15/QĐ-VKSTC ngày
09/01/2018 của Viện trưởng VKSND tối cao). Theo quy định này, văn bản
yêu cầu điều tra gồm 02 phần chính: Căn cứ để ban hành bản YCĐT và
những nội dung yêu cầu CQĐT cần tiến hành điều tra, xác minh làm rõ.
Thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản phải đảm bảo thực hiện theo
Thơng tư số 01/2011/TT-BNV ngày 19/01/2011 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thể

thức và kỹ thuật trình bày văn bản hành chính; Quy định về thể thức và kỹ thuật
trình bày văn bản hành chính trong ngành KSND ban hành kèm theo Quyết định
số 393/QĐ-VKSTC ngày 01/7/2016 của Viện trưởng VKSNDTC. Bản yêu cầu
điều tra phải đảm bảo chính xác về mặt câu từ, văn phong, chính tả.
Việc ký văn bản YCĐT phải đúng thẩm quyền, trong vụ án về chức vụ
có nhiều KSV tham gia giải quyết thì bản YCĐT phải do KSV thụ lý chính
ký. Đối với những vụ án về chức vụ trọng điểm, phức tạp; vụ án dư luận xã
hợi đặc biệt quan tâm, vụ án có bị can là người giữ chức vụ quyền hạn nhất

18


×