Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

QUYỀN CÔNG TỐ TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ MA TÚY QUA THỰC TIỄN TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.05 KB, 18 trang )

Quyền công tố trong các vụ án hình sự về ma tuý quan
thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hoá
Prosecutors in criminal cases on drug-related practices in the People's Procuracy of Thanh
Hoa province
NXB H. : Khoa Luật, 2012 Số trang 89 tr. +

Lữ Thị Phương Quý
Trường Đại học Quốc gia Hà Nội; Khoa Luật
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật; Mã số: 60 38 01
Người hướng dẫn: GS. TS Nguyễn Đăng Dung
Năm bảo vệ: 2012

Abstract. Nghiên cứu lịch sử hình thành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân theo các bản
Hiến pháp. Nghiên cứu việc tổ chức thực hành quyền công tố ở một số nước trên thế giới.
Nghiên cứu thực trạng tổ chức thực hành quyền công tố ở Việt Nam. Khảo sát thực tiễn việc
thực hành quyền công tố trong việc giải quyết các vụ án hình sự về ma túy từ năm 2005 đến nay
ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện
pháp luật về nội dung và hình thức để qua đó nâng cao chức năng thực hành quyền công tố trong
việc giải quyết các vụ án hình sự về ma tuý ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Thanh Hóa nói
riêng.
Keywords: Viện kiểm sát nhân dân; Quyền công tố; Pháp luật Việt Nam; Luật hình sự; Thanh
Hóa
Content.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đề tài luận văn thạc sĩ Luật học: "Quyền công tố trong các vụ án hình sự về ma túy (qua thực tiễn
Viện kiểm sát tỉnh Thanh Hóa)" được nghiên cứu bởi những lý do cấp thiết sau:
Thứ nhất: Yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình hiện nay đòi hỏi phải nâng cao
chất lượng hoạt động của các cơ quan bảo về pháp luật trong đó có việc tăng cường chất lượng thực hành
quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân nhằm chống bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội và
bảo về pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đây là một trong những nội dung quan trọng được thể hiện trong nhiều


nghị quyết của Đảng như Nghị quyết số 08/NQ/2002 ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về một
số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới.


Việc thực hành quyền công tố ở Việt Nam do Viện kiểm sát nhân dân thực hiện trong thời gian qua đã đạt
được nhiều thành tích trong việc trừng trị tội phạm và bảo vệ quyền tự do dân chủ của nhân dân. Tuy nhiên so
với yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm còn nhiều hạn chế về cả nhận thức và thực tiễn.
Thứ hai, vấn nạn về ma túy đang là một vấn đề nhức nhối ảnh hưởng lớn đến cuộc sống, sinh hoạt
của toàn nhân loại. Ma túy đã gây tác hại xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội, ảnh hưởng đến sự
trường tồn của toàn dân tộc. Toàn thế giới hiện nay có khoảng 100 triệu người nghiện ma túy, ở Việt Nam
trong 5 năm qua có 783.339 người nghiện ma túy. Đáng lo ngại là ma túy đã tràn lan vào cả các trường
học từ cấp tiểu học trở lên. Theo thống kê 63/63 tỉnh thành đều có học sinh, sinh viên sử dụng ma túy.
Đối với tỉnh Thanh Hóa là một tỉnh rộng, địa hình phức tạp, đường biên giới với nước bạn Lào dài. Dân số đông
dẫn đến số người nghiện ma túy cũng nhiều. Do vậy tình hình tội phạm về ma túy đang là một trong những vấn đề
nhức nhối. Hàng năm cơ quan chức năng đã phát hiện bắt giữ, xử lý hàng chục nghìn vụ vi phạm và tội phạm về ma
túy, triệt phá nhiều đường dây ma túy lớn hoạt động nhiều năm, xóa nhiều tụ điểm ma túy phức tạp làm thay đổi tình
hình ở một số địa bàn; các cơ quan tiến hành tố tụng đã đưa ra xét xử nghiêm minh một số lượng rất lớn các vụ án ma
túy, đưa một số lượng lớn các đối tượng nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện. Thông qua đó góp phần nâng cao nhận
thức của nhân dân đối với cuộc đấu tranh về tội phạm này.
Trước sự gia tăng đến mức lo ngại của tội phạm ma túy, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm chỉ đạo
kiên quyết đấu tranh nhằm từng bước ngăn chặn và đẩy lùi, tiến tới loại trừ loại tội phạm nguy hiểm này
ra khỏi đời sống xã hội, tuy nhiên việc giải quyết các vụ án ma túy đang còn gặp nhiều khó khăn cả về lý
luận và thực tiễn bởi tội phạm về ma túy diễn biến phức tạp, quá trình giải quyết án chia thành nhiều giai
đoạn khác nhau do vậy việc điều tra, truy tố, xét xử gặp nhiều khó khăn. Việc quản lý chỉ đạo điều hành
đối với công tác này còn có những thiếu sót nhất định.
Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu này. Trên cơ sở đó làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận
và thực tiễn, đề ra những giải pháp cơ bản giúp cho việc thực hành quyền công tố trong việc giải quyết
các vụ án hình sự về ma túy ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa có chất lượng, đáp ứng yêu cầu về
cải cách tư pháp và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm ở tỉnh Thanh Hóa.
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn

Mục đích:
- Làm rõ cơ sở lý luận về chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong chính
thể nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Trên cơ sở lý luận về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân liên hệ việc thực
hành quyền công tố trong việc giải quyết các vụ án hình sự về ma túy ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Thanh Hóa. Qua đó đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố dưới góc độ
hoàn thiện pháp luật và thực tiễn áp dụng.
Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu lịch sử hình thành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân theo các bản Hiến pháp
- Việc tổ chức thực hành quyền công tố ở một số nước trên thế giới.


- Nghiên cứu thực trạng tổ chức thực hành quyền công tố ở Việt Nam.
- Khảo sát thực tiễn việc thực hành quyền công tố trong việc giải quyết các vụ án hình sự về ma
túy từ năm 2005 đến nay ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về nội dung và hình thức để qua đó
nâng cao chức năng thực hành quyền công tố trong việc giải quyết các vụ án hình sự về ma tuý ở Việt
Nam nói chung và ở tỉnh Thanh Hóa nói riêng.
3. Phương pháp tiếp cận vấn đề
Cơ sở lý luận của luận văn dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước nói chung, tổ chức
và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói riêng; quan điểm về đấu tranh phòng chống tội phạm của Đảng
và Nhà nước ta. Các học thuyết chính trị, pháp lý về tổ chức hoạt động của cơ quan tư pháp trong nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Lý luận chung về nhà nước pháp luật, chủ nghĩa Hiến pháp và các khoa học pháp
lý liên quan. Bên cạnh đó luận văn còn nghiên cứu dựa trên những quy định của pháp luật hình sự và luật
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta từ khi thành lập đến nay.
Từ những cơ sở lý luận trên, luận văn tiếp cận vấn đề trên cơ sở phương pháp luận của duy vật lịch
sử và các phương pháp khác so sánh, phân tích, tổng hợp và khảo sát thực tiễn nhằm làm rõ các nội dung
cần nghiên cứu.
4. Ý nghĩa của luận văn

Những nội dung nghiên cứu của luận văn là một đóng góp nhỏ trong việc nhìn nhận và đánh giá
hoạt động của cơ quan Viện kiểm sát trong đó có chức năng thực hành quyền công tố. Qua đó có cái
nhìn đúng đắn về hoạt động này trong thực tiễn để thấy rõ được vai trò của Viện kiểm sát trong công
tác đấu tranh phòng chống tội phạm hình sự nói chung và tội phạm về ma túy nói riêng.
Ngoài ra luận văn còn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong
việc giải quyết các vụ án hình sự về ma túy trong tiến trình cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết
số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tư liệu tham khảo trong việc nghiên cứu lý luận
cũng như áp dụng vào thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự về ma túy.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2: Tình hình tội phạm và thực trạng quyền công tố trong các vụ án hình sự về ma túy qua
thực tiễn ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa hiện nay.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CÔNG TỐ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Những vấn đề lý luận chung cơ quan tư pháp và quyền công tố
1.1.1. Cơ quan tư pháp trong chính thể nhà nước
Ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Do đó, quyền tư pháp
được hiểu là hoạt động xét xử của tòa án và những hoạt động của các cơ quan nhà nước hoặc các tổ chức
khác trực tiếp liên quan đến hoạt động xét xử của tòa án, nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp chế,
trật tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của Nhà nước và xã hội. Vì vậy, cơ quan
tư pháp bao gồm: Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan điều tra và các cơ quan, tổ chức
tư pháp bổ trợ như: Luật sư, Công chứng, Giám định, Tư vấn pháp luật...
Thực tiễn xây dựng bộ máy nhà nước cho thấy, hệ thống tư pháp hiện nay ở nước ta chưa đảm đương
được đầy đủ vị trí, vai trò nói trên. Trong nhiều trường hợp, quyền lực nhà nước bị biến dạng qua hoạt động

cụ thể của Tòa án và Viện kiểm sát. Uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật giảm sút trong dư luận của quần
chúng. Vì vậy, tiếp tục đổi mới, cải cách hệ thống các cơ quan tư pháp theo định hướng xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, đòi hỏi phải nâng cao năng lực áp dụng pháp luật và
năng lực đề xuất, kiến nghị sáng kiến đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật vì con người, cho con
người đối với đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán.
1.1.2. Sự ra đời và phát triển của quyền công tố
Quyền công tố là một khái niệm pháp lý gắn liền với bản chất của Nhà nước, là một bộ phận cấu
thành và không thể tách rời khỏi công quyền. Quyền công tố có trong tất cả các kiểu Nhà nước; nó ra đời,
tồn tại và mất đi cùng với Nhà nước và pháp luật.
Tại Việt Nam, khoa học Luật tố tụng hình sự nói riêng cũng như khoa học pháp lý nói chung, chế
định "quyền công tố" chưa được nghiên cứu một cách toàn diện; chính vì vậy, chưa có khái niệm chính
thống về quyền công tố. Mặc dù vậy, quyền công tố là một quyền năng quan trọng đã được Viện công
tố thực hiện ở nước ta từ năm 1945; từ 1960 đến nay do Viện kiểm sát nhân dân thực hiện. Tuy nhiên,
hiểu thế nào là "công tố", "quyền công tố", bản chất và nội dung của nó là gì, thì hiện nay vẫn chưa có
nhận thức, quan điểm thống nhất chung.
Thuật ngữ "quyền công tố" lần đầu tiên được ghi nhận tại Hiến pháp năm 1980; sau đó tại Hiến pháp
năm 1992, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1998, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 1981, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 2002, Pháp lệnh kiểm sát viên năm 2002...
Quan điểm thứ nhất đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của Viện kiểm sát nhân dân. Quan điểm này cho rằng công tố không phải là một chức năng độc lập


của Viện kiểm sát, mà chỉ là một quyền năng, một hình thức hoạt động chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật. Đây là quan điểm khá phổ biến, đặc biệt là trong ngành Kiểm sát nhân dân từ năm 1960
Quan điểm thứ hai cho rằng quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát truy tố kẻ
phạm tội ra Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa (thực hành quyền công tố). Quan điểm này cho
rằng việc thực hiện quyền công tố chỉ diễn ra trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự.
Quan điểm thứ ba cho rằng quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước để đưa các vụ việc vi phạm
trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật, được thể hiện

đầu tiên trong tố tụng hình sự; cùng với sự phát triển của xã hội và của các ngành luật, quyền công tố
được mở rộng sang các lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động. Theo đó quyền công tố là tổng hợp các biện
pháp pháp lý đặc trưng theo luật định mà Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hiện trong hoạt động tố tụng
tư pháp
Cùng với thời gian, quyền công tố đã dần dần được hình thành một cách riêng biệt và đến hôm nay
nó là một chế định pháp lý độc lập được thừa nhận chung trong luật tố tụng hình sự của các Nhà nước
pháp quyền.
Tuy vậy, đứng dưới góc độ của pháp luật nói chung và pháp luật về hình sự nói riêng có thể khái quát
được định nghĩa của khái niệm quyền công tố như sau: Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực
hiện các chức năng do luật tố tụng hình sự quy định để kiểm sát tính hợp pháp của việc điều tra tội phạm, truy
tố và buộc tội người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm trước Tòa án nhằm góp
phần ra được các bản án có căn cứ, công minh và đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ các quyền tự do của công
dân, cũng như các lợi ích hợp pháp của xã hội và của Nhà nước trong hoạt động tư pháp hình sự.
1.2. Lịch sử hình thành và mô hình hoạt động của Viện kiểm sát ở thế giới và Việt Nam
1.2.1. Mô hình hoạt động của cơ quan công tố trên thế giới
1.2.1.1. Một số mô hình hoạt động của cơ quan công tố (Viện kiểm sát) theo hệ thống luật pháp Châu
Âu - lục địa và Luật Anh - Mỹ
Mô hình Nhà nước quân chủ Anh quốc, được coi là xuất phát điểm của mọi mô hình tổ chức nhà nước
hiện nay. Hệ thống công tố hoàng gia Anh là cơ quan truy tố được phân chia theo khu vực địa lý. Mỗi khu
vực do một Công tố viên trưởng Hoàng gia đứng đầu và ông này có quyền bổ nhiệm Công tố viên qua thi
cử. Các Công tố viên thực thi nhiệm vụ công tố dưới sự chỉ đạo của Viện trưởng.
Hoa Kỳ, là đất nước mà tổ chức bộ máy nhà nước được thực hiện theo thuyết tam quyền phân lập một
cách triệt để bao gồm ba hệ thống cơ quan là Lập pháp - Hành pháp - Tư pháp, hoạt động theo cơ chế kìm
chế và đối trọng. Viện công tố được tổ chức làm hai cấp là liên bang và bang và trực thuộc sự quản lý
điều hành của Bộ tư pháp. Đứng đầu Viện công tố liên bang là Tổng công tố do Tổng thống Mỹ bổ nhiệm
theo nhiệm kỳ của Tổng thống. dưới viện công tố liên bang là Viện công tố bang. Tùy thuộc vào pháp
luật của từng bang quy định mà Tổng công tố bang có thể do Thống đốc bang bổ nhiệm hoặc do cử tri
bang bầu ra theo nhiệm kỳ vài năm một. Trong hoạt động tố tụng hình sự, Công tố viên của Mỹ có vị trí
vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ công lý



Viện kiểm sát Liên bang Nga, là một cơ quan có vị trí độc lập với cơ quan hành pháp và cơ quan tư
pháp, được xây dựng theo nguyên tắc tập trung thống nhất. Viện kiểm sát chỉ phục tùng một người lãnh
đạo duy nhất là Tổng kiểm sát trưởng Liên bang; Tổng kiểm sát trưởng do Hội đồng Liên bang bổ nhiệm,
bãi nhiệm theo đề nghị của Tổng thống Liên bang Nga. Dưới quyền Tổng kiểm sát trưởng Liên bang Nga
có các Kiểm sát viên các nước cộng hòa, các vùng, khu vực, thành phố trực thuộc Liên bang, các vùng tự
trị, các khu vực tự trị, các thành phố quận, huyện và cấp tương đương do Tổng kiểm sát trưởng Liên bang
Nga bổ nhiệm và bãi nhiệm. Mỗi Kiểm sát viên đều có một bộ máy những người dưới quyền…
1.2.1.2. Một số mô hình hoạt động của cơ quan công tố (Viện kiểm sát) ở châu Á
Nhật Bản, là một nước quân chủ lập hiến với lưỡng viện Quốc hội được bầu cử dân chủ. Các viện
công tố nằm dưới sự quản lý của Viện Công tố quốc gia. Tư tố không tồn tại. Viện Công tố quốc gia
có trách nhiệm toàn bộ đối với quyết định có truy tố hay không. Về quan hệ nội bộ, quyết định truy tố
phải được sự thông qua của hai hoặc ba cán bộ lãnh đạo trực tiếp công tố viên. Sự giám sát, mang tính
không bắt buộc, đối với các quyết định không truy tố có thể được thực hiện bởi một trong các Hội đồng
giám sát công tố của Nhật Bản, mỗi Hội đồng này gồm 11 công dân.
Ngoài nhiệm vụ truy tố tội phạm, các công tố viên Nhật Bản được chỉ đạo các hoạt động điều tra ban
đầu; hoạt động điều tra độc lập và phối hợp hoạt động với cảnh sát. Các công tố viên còn chỉ đạo trực tiếp
cảnh sát trong hoạt động điều tra của họ. Các Công tố viên có quyền kháng nghị hình phạt và sự tha bổng,
mặc dù họ hiếm khi sử dụng quyền này.
Trung Quốc, là một nước xã hội chủ nghĩa, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức từ trung ương đến
địa phương. Viện kiểm sát được tổ chức thành 4 cấp, tương ứng với tổ chức của Tòa án. Viện kiểm sát
nhân dân tối cao (SPP) là cơ quan cao nhất và chỉ đạo tất cả các Viện kiểm sát địa phương. SPP có trách
nhiệm báo cáo Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đứng đầu Viện kiểm sát nhân dân tối cao là
Viện trưởng do Đại hội đại biểu nhân dân bổ nhiệm. Các Viện kiểm sát địa phương có trách nhiệm báo
cáo Hội đồng nhân dân cấp tương đương và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp.
Ngoài ra, luận văn còn trình bày sơ lược mô hình hoạt động của cơ quan công tố (Viện kiểm sát) của
Cămpuchia và Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
1.2.2. Sự ra đời và phát triển của chế định Viện kiểm sát trong bộ máy nhà nước Việt Nam
Thiế t chế tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta có tuổ i đời cùng với Nhànước cách ma ̣ng và trải qua
nhiề u giai đoa ̣n phát triể n từ năm1945 đến nay

Giai đoa ̣n từ 1945 đến 1958, trước khi cải tổ la ̣i hê ̣ thố ng Viê ̣n công tố , mô hình tổ chức cơ quan công
tố hoàn toàn giố ng như mô hình cơ quan công tố của Pháp.
Mô hình tổ chức này của Viê ̣n Công tố ở nước ta tồn tại rất ngắn (1958 - 1959) và có thể nói chỉ tồ n ta ̣i
trên pháp lý như mô ̣t bước quá đô ̣ về tổ chức theo hướng ta ̣o thành mô ̣t hê ̣ thố ng riêng, đô ̣c lâ ̣p trong bô ̣ máy
Nhà nước Viê ̣t Nam.
Hệ thống Viện công tố gồm có Viện công tố Trung ương, Viện công tố địa phương các cấp, Viện
công tố quân sự các cấp.


Bắ t đầ u từ Hiế n pháp 1959, kế đó là Hiế n pháp 1980 và Hiế n pháp 1992 của nước ta , trong hơn 50
năm qua, đã duy trì mô ̣t hê ̣ thố ng thố ng nhấ t của Viện kiểm sát nhân dân.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân điạ phương và Viện kiểm sát quân sự ta ̣o
thành một hệ thống; theo đó, Viện kiểm sát nhân dân cấ p dưới chịu sự lãnh đạo của Viện kiểm sát nhân dân
cấ p trên, các Viện kiểm sát nhân dân điạ phương và Viện kiểm sát quân sự chịu sự lãnh đạo thống nhấ t của
Viê ̣n trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viê ̣n trưởng, các Phó Viê ̣n trưởng và Kiể m sát viên Viện kiểm
sát nhân dân điạ phương và Viện kiểm sát Quân sự các quân khu và khu vực do Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao bổ nhiê ̣m, miễn nhiê ̣m, cách chức. Viê ̣n trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chiụ trách
nhiê ̣m và báo cáo công tác trước Quố c hô. ̣i Nhiê ̣m kỳ của Viện trưởng Vi ện kiểm sát nhân dân tối cao theo
nhiê ̣m kỳ của Quố c hô ̣i . Viện kiểm sát nhân dân là hê ̣ thố ng tổ chức đô ̣c lâ ̣p , thố ng nhấ t , nhưng với hai
chức năng kiể m sát các hoa ̣t đô ̣ng tư pháp và thực hành quyề n công tố , Viện kiểm sát nhân dân thiên về
tính chất của một cơ quan tư pháp.
Phát huy những thành tựu đã đạt được trong các thời kỳ trước, bước vào thời kỳ đổi mới, trước yêu
cầu nhiệm vụ của đất nước và công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân, ngành kiểm sát nhân dân đã từng bước đổi mới tổ chức bộ máy
và thực hiện chức năng nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu của đất nước và thời đại.
Chương 2
TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VÀ THỰC TRẠNG QUYỀN CÔNG TỐ TRING CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
VỀ MA TÚY QUA THỰC TIỄN
Ở VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA HIỆN NAY
2.1. Tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

2.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội
Tỉnh Thanh Hóa thuộc vùng Bắc Trung Bộ, cách Thủ đô Hà Nội 153 km về phía Nam theo quốc
lộ 1A, có tọa độ địa lý từ 19018 - 20000 vĩ độ Bắc và 104022 - 106004 kinh độ Đông; phía Bắc giáp các
tỉnh Sơn La, Hòa Bình và Ninh Bình; phía Nam giáp tỉnh Nghệ An; phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn của
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; phía Đông là Vịnh Bắc Bộ. Tỉnh Thanh Hóa có 27 đơn vị hành
chính gồm 1 thành phố, 02 thị xã và 24 huyện, với tổng diện tích tự nhiên 11.134,73 km2, dân số trung
bình năm 2007 khoảng 3,7 triệu người, chiếm 3,4% diện tích và 4,3% dân số cả nước.
Năm 2010 dân số trung bình của tỉnh là 3,7 triệu người (lớn thứ 2 trong cả nước, sau Thành phố Hồ
Chí Minh), chiếm xấp xỉ 34,6% dân số vùng Bắc Trung Bộ và 4,4% dân số cả nước. Mật độ dân số bình
quân gần 332 người/km2, gấp 1,6 lần mật độ dân số trung bình của vùng (207 người/km2) và 1,3 lần mật
độ dân số trung bình cả nước (255 người/km2).
Trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa hiện có 7 dân tộc sinh sống, trong đó dân tộc Kinh chiếm tỷ lệ cao nhất,
khoảng 84,75%, tiếp đến là dân tộc Mường chiếm 8,7%, dân tộc Thái chiếm 6%, còn lại là các dân tộc


khác như H’Mông, Dao, Hoa... chiếm một tỷ trọng nhỏ. Các dân tộc ở Thanh Hóa có những nét văn hóa
đặc trưng của vùng Bắc Trung Bộ.
Trong hơn 20 năm đổi mới, cùng với xu thế phát triển chung của cả nước, kinh tế của tỉnh Thanh
Hóa đã từng bước ổn định và đang trên đà phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tốc độ tăng
trưởng bình quân 2001-2005 là 9,1%/năm và 11,5% giai đoạn 2006-2010; trong đó nông lâm nghiệp
và thủy sản tăng 4,2%/năm, công nghiệp - xây dựng tăng 15,8%/năm và dịch vụ tăng 12,2%/năm.
2.1.2. Tội phạm hình sự và ma túy
Trong những năm gần đây, tình hình an ninh - quốc phòng, trật tự trị an trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
được giữ vững ổn định, tuy nhiên tình hình tội phạm vẫn diễn biến ngày càng phức tạp. Các loại tội phạm
về tệ nạn xã hội như tổ chức đánh bạc, đánh bạc… xảy ra với qui mô lớn hơn, thủ đoạn phạm tội tinh vi
hơn.
- Các tội xâm phạm an ninh quốc gia: Từ năm 2005 đến nay đã phát hiện và khởi tố 1vụ, 15 bị can về tội
trốn đi nước ngoài nhằm chống chính quyền (vụ án này được phát hiện và khởi tố năm 2007, các năm trước
không xảy ra vụ án nào thuộc nhóm tội này).01 vụ, 2 bị can về tội tổ chức cho người khác ở lại nước
ngoài trái phép (vụ án này được phát hiện khởi tố năm 2011)

- Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng và xâm phạm sở hữu: Từ năm 2005 đến năm
2011 đã phát hiện và khởi tố 2750 vụ, 4287 bị can.
- Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng và tính mạng sức khỏe của con người: Tội phạm trong
lĩnh vực trật tự, an toàn xã hội không giảm và vẫn diễn biến phức tạp, nhiều vụ xảy ra đặc biệt nghiêm
trọng. Từ năm 2005 đến năm 2011 đã phát hiện và khởi tố 2809 vụ, 3958 bị can
- Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp: Từ năm 2003 đến năm 2007 đã phát hiện và khởi tố 45 vụ,
48 bị can, đều là tội trốn khỏi nơi giam giữ.
- Các tội xâm phạm về ma túy: Các tội phạm về ma túy vẫn diễn biến khá phức tạp, số lượng án ma
túy ngày càng tăng cả về số lượng và tính chất, thủ đoạn phạm tội. Công tác kiểm soát, đấu tranh, ngăn
chặn và xử lý việc vận chuyển, tàng trữ, mua bán và tổ chức sử dụng trái phép ma túy vẫn gặp nhiều khó
khăn. Từ năm 2005 đến năm 2011 đã phát hiện và khởi tố 1170 vụ, 1990 bị can.
2.2. Quyền công tố trong việc giải quyết các vụ án ma túy tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh
Hóa.
2.2.1. Quyền công tố trong tố tụng hình sự
Quyền công tố xuất hiện đồng thời với việc xuất hiện tội phạm và kết thúc khi tội phạm ấy đã
bị xử lý bởi Tòa án; trong khi đó, hoạt động thực hành quyền công tố thì chỉ xuất hiện khi có quyết định
khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi tội phạm ấy đã bị xử lý bởi Tòa án hoặc được đình chỉ theo quy định
của pháp luật.
Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và kết
thúc khi Viện kiểm sát quyết định việc truy tố hoặc không truy tố người phạm tội ra Tòa, hoặc khi
vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Mục đích của hoạt động công tố ở giai


đoạn điều tra là nhằm chứng minh tội phạm và người phạm tội, cũng như các hành vi phạm tội của họ.
Giai đoạn này Viện kiểm sát giữ vai trò chủ đạo: Có trách nhiệm áp dụng các biện pháp do Bộ luật tố
tụng hình sự quy định nhằm đảm bảo cho việc điều tra, truy tố được kịp thời, nhanh chóng, hiệu quả,
không để lọt người phạm tội, không làm oan người vô tội, bảo đảm cho hoạt động điều tra được tiến hành
đúng quy định của pháp luật.
Ở nước ta, Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất thay mặt nhà nước thực hiện chức năng buộc tội, có
trách nhiệm và có quyền đưa ra lời cáo buộc đối với người phạm tội và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên

tòa, nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, việc xét xử phải đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.
2.2.2. Thực trạng pháp luật về quyền công tố trong điều tra, truy tố, xét xử các vụ án ma túy qua thực
tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa
2.2.2.1. Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa
Căn cứ vào quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, cơ cấu Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh hóa được tổ chức theo hai cấp:
Ở cấp tỉnh gồm: Văn phòng tổng hợp, phòng tổ chức cán bộ, phòng thống kê tội phạm và 9 phòng nghiệp
vụ. Trong đó có 3 phòng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự, bao
gồm: Phòng án kinh tế và chức vụ với biên chế 9 cán bộ, kiểm sát viên; Phòng án trật tự xã hội có 14 cán bộ,
kiểm sát viên; Phòng án ma túy có 7 cán bộ, kiểm sát viên. Ở 27 huyện, thị xã, thành phố đều có bộ phận
thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự. Tổng biên chế toàn ngành
kiểm sát Thanh Hóa hiện có 340 cán bộ, kiểm sát viên. Số cán bộ, kiểm sát viên trong toàn ngành kiểm
sát Thanh Hóa có trình độ đại học chiếm 100%, trong đó có 12 cán bộ, kiểm sát viên có trình độ thạc sỹ
và 07 cán bộ, kiểm sát viên đang theo học sau đại học, trình độ cao đẳng là 16 cán bộ.
2.2.2.2 Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết các vụ án hình sự về ma túy ở Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Thanh Hóa
Thanh Hóa là một tỉnh rộng mà địa bàn tương đối phức tạp do vậy các loại tội phạm về ma túy
như tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy diễn biến khá phức tạp, năm sau cao hơn năm
trước. Hành vi, thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn, tội phạm xảy ra tập trung chủ yếu ở khu vực miền núi
có đường biên giới giáp với nước bạn Lào và khu vực đông dân cứ như thị xã, Thành phố. Trong năm
năm từ 2005 - 2010 đã khởi tố điều tra 2113 vụ, 2202 bị can, truy tố, xét xử đạt 98%, không có vụ án
nào Tòa án tuyên không phạm tội hoặc phải đình chỉ vụ án vì không chứng minh được tội phạm.
- Giai đoạn điều tra: do làm tốt công tác phân loại xử lý tin báo tố giác tội phạm ngay từ đầu nên các
vụ án khởi tố đều có căn cứ và đúng pháp luật. Qua công tác thực hành quyền công tố phát hiện và yêu
cầu cơ quan điều tra khởi tố thêm hàng chục bị can trong các vụ án đồng thời mở rộng điều tra ra
nhiều địa bàn khác ngoài tỉnh.


Đa số các vụ án ma túy đều là phạm tội bị bắt quả tang, hoặc cơ quan điều tra phải sử dụng đặc tình

trong một thời gian dài để trinh sát mới phát hiện ra đối tượng. Do đó thời gian điều tra bao giờ cũng dài
kể từ khi nhận được tin báo tố giác tội phạm cho đến khi vụ án được khởi tố.
Về nguyên tắc việc khởi tố bị can chỉ sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự, việc ra quyết định
khởi tố bị can của cơ quan Cảnh sát điều tra với mục đích là nhằm xác định về mặt pháp lý một con người
cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là tội phạm và quyết định khởi tố bị can đó
sẽ trực tiếp hạn chế một số quyền và lợi ích hợp pháp thuộc về nhân thân của người bị khởi tố. Tuy nhiên
trên thực tế ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh hóa đang còn gặp khó khăn trong vấn đề này. Bộ luật
tố tụng hình sự quy định, khi khởi tố bị can phải có lý lịch bị can rõ ràng, xác định hành vi phạm tội
cụ thể để khởi tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đối với các vụ án ma túy, giám định xác định
định lượng và thành phần chất ma túy là căn cứ chính để có thể khởi tố vụ án, khởi tố bị can hay không.
Chính vì vậy kể từ khi bắt tạm giữ đối tượng phạm tội cho đến khi khởi tố bị can thường phải kéo dài để
chờ kết luận giám định và xác minh lý lịch bị can. Mặc dù đối tượng bị bắt quả tang nhưng có những
vụ án phải gia hạn tạm giữ đến lần hai mới khởi tố bị can được.
Hiện tại ở Thanh Hóa, tội phạm về ma túy mang tính chất nhỏ lẻ xảy ra liên tục và có chiều hướng gia
tăng do các đối tượng đã xa vào con đường nghiện ngập chưa được quản lý chặt chẽ đưa vào trung tâm
cai nghiện bắt buộc. Song nhiều nơi nhất là ở cơ sở từ thôn bản, đến khối phố còn buông lỏng quản lý đối
với những người nghiện, thiếu trách nhiệm trong công tác quản lý nên gây khó khăn rất nhiều trong công
tác điều tra, bởi những đối tượng nghiện có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương nhưng thường
xuyên vắng mặt hoặc ở nơi khác không đăng ký tạm trú sau đó phạm tội, đây là lý do dẫn đến cơ quan
điều tra phải đi nhiều nơi để xác minh nhân thân bị can, bị cáo cho phù hợp.
Giai đoạn xét xử: những năm trước đây đa số các kiểm sát viên đều có chung nhận thức là việc xét
hỏi tại phiên tòa thuộc trách nhiệm của Hội đồng xét xử chứ không thuộc trách nhiệm của kiểm sát viên,
nên không chú ý tới việc chuẩn bị đề cương xét hỏi để tham gia xét hỏi tại phiên tòa. Với nhận thức như
vậy, tại phiên tòa thường là các kiểm sát viên không tham gia xét hỏi hoặc có xét hỏi thì ở trạng thái bị
động, do vậy việc xét hỏi không tập trung vào những vấn đề mấu chốt của vụ án hoặc xét hỏi trùng lặp
với những vấn đề Hội đồng xét xử đã hỏi nên chất lượng xét hỏi không cao. Nhưng trong những năm qua,
nhận thức này của kiểm sát viên đã được khắc phục, các kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên
tòa kiểm sát xét xử án hình sự đã thực hiện các thao tác nghiệp vụ về tham gia xét hỏi. Trước khi tham gia
phiên tòa, các Kiểm sát viên đã xây dựng đề cương tham gia xét nội dung đề cương được chuẩn bị sát với
tình tiết của vụ án. Đặc biệt lưu ý những trường hợp bị can, bị cáo quanh co chối tội; những vấn đề mà bị

cáo khai báo chưa rõ ràng hoặc có mâu thuẫn với nhau, mâu thuẫn với lời khai của các bị cáo khác hoặc
với những người tham gia tố tụng khác; những vấn đề mà quá trình nghiên cứu hồ sơ kiểm sát viên thấy
còn vướng mắc, phân vân để chủ động tham gia xét hỏi khi tham gia phiên tòa, tham gia xét hỏi bổ sung
những vấn đề mà Hội đồng xét xử chưa hỏi tới hoặc những vấn đề mà bị cáo, người tham gia tố tụng khai


báo, trả lời quanh co, còn che giấu sự thật. Trên cơ sở đó đấu tranh với bị cáo nhằm làm sáng tỏ sự thật
khách quan và mọi tình tiết của vụ án.
2.3. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quyền công tố trong việc giải quyết các vụ án hình sự về ma
túy
2.3.1. Đánh giá chung về kết quả và tồn tại trong công tác thực hành quyền công tố trong các vụ án
ma túy
Hoạt động tội phạm ở nước ta trong thời gian qua diễn biến rất phức tạp, nhiều loại tội phạm tăng lên
cả về số lượng và tính chất phạm tội nhất là các loại tội phạm như tham nhũng, ma túy, trị an. Bên cạnh
đó khoa học công nghệ thông tin phát triển và xu hướng toàn cầu hóa về kinh tế và khoa học dẫn đến phát
sinh một số loại tội phạm mới và có tác động xấu đến trật tự xã hội. Trong khi đó công tác quản lý Nhà
nước về an ninh trật tự có lúc, có nơi còn bất cập với tình hình xã hội, còn bị động đối phó nhất là trong
việc giải quyết những vẫn đề phức tạp của xã hội mới phát sinh.
Mặt khác, trình độ nghiệp vụ của một bộ phận kiểm sát viên còn hạn chế, tinh thần trách nhiệm còn
yếu dẫn đến chất lượng công tố bị giảm sút, những vi phạm trong hoạt động điều tra, xét xử còn xảy ra
nhưng không được phát hiện kháng nghị để yêu cầu khắc phục.
Công tác chỉ đạo việc thực hành quyền công tố ở Viện kiểm sát các cấp còn mang tính sự vụ. Việc
hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ đối với Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới vẫn còn có những vụ, việc chưa
kịp thời, thiếu chính xác dẫn đến cấp dưới còn bị động, lúng túng. Bên cạnh đó các cơ quan pháp luật ở
Trung ương chưa kịp thời ra văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật kịp thời, thống nhất, một số văn bản áp
dụng pháp luật như nghị định, thông tư không còn phù hợp với những hành vi phát sinh trong xã hội dẫn
đến việc áp dụng thống nhất Bộ luật hình sự có sự khác nhau ở các địa phương.
Ngoài ra chất lượng hoạt động và sự phối hợp giữa các ngành, các cấp, các cơ quan bảo vệ pháp luật
trong đấu tranh phòng chống tội phạm vẫn còn bị buông lỏng, thiếu chặt chẽ.
Việc thực hành quyền công tố tại phiên tòa trong nhiều vụ án ở nhiều địa phương còn kém hiệu quả,

không chủ động phối hợp cùng với Tòa án để làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo dẫn đến có trường hợp
không bảo vệ được cáo trạng, có nơi để xảy ra truy tố oan sai, xác định không đúng tội danh hoặc đề nghị
hình phạt không tương xứng với hành vi phạm tội.
Quyền công tố ở phiên tòa thể hiện rõ nhất là bản luận tội của kiểm sát viên, tuy nhiên khâu này
hiện nay lại là khâu yếu của đa số kiểm sát viên. Nguyên nhân này môt phần do tư tưởng xét xử án tại
hồ sơ cho nên việc phân tích đánh giá chứng cứ trong bản luận tội cũng như bổ sung chứng cứ tại phiên
tòa còn yếu, dẫn đến bản luận tội có nội dung tương tự bản cáo trạng.
Chức năng công tố của Viện kiểm sát là vừa buộc tội, vừa gỡ tội cho bị cáo, tuy nhiên trên thực tế
bản luận tội lại chủ yếu chỉ phân tích những hành vi mang tính chất buộc tội đối với bị cáo, các tình tiết
gỡ tội cho bị cáo chỉ được nhắc đến rất ít, không tập trung. Dẫn đến chất lương bản luận tội kém, thiếu
tính thuyết phục và răn đe.


Một cách thể hiện quyền công tố ở phiên tòa đó là tranh tụng đối với người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác. Tuy nhiên việc tranh tụng tại phiên tòa thực sự là một khâu yếu kém đối với đa số
kiểm sát viên. Nhiều kiểm sát viên còn cho rằng án tại hồ sơ nên việc tranh tụng thường sơ sài hoặc bỏ
qua không thực hiện, trường hợp vụ án có luật sư tham gia thì bài phát biểu của luật sư không được quan
tâm hoặc không được xem là chứng cứ trong vụ án. Đôi khi kiểm sát viên không tích cực tranh luận tại
phiên tòa để làm rõ sự thật khách quan của vụ án, bác bỏ việc bào chữa sai trái hoặc những ý kiến khác
nhau trong việc đánh giá chứng cứ vụ án, mà ỷ lại cho Hội đồng xét xử quyết định.
Thời gian qua, việc tổ chức thực hành quyền công tố còn hạn chế, chưa đầy đủ và toàn diện theo yêu
cầu của sự nghiệp đổi mới. Viện kiểm sát các cấp chưa thể hiện tính độc lập của mình trong việc thực
hành quyền công tố, còn thụ động ngồi chờ án từ cơ quan điều tra chuyển sang, còn nể nang, ngại va
chạm với cơ quan hữu quan trong đấu tranh chống tội phạm, những biện pháp nghiệp vụ để thực hành
quyền công tố còn kém hiệu quả, chưa làm tốt công tác kiểm sát ngay từ đầu dẫn đến chất lượng hồ sơ
chứng cứ nhiều vụ còn yếu không đưa ra truy tố được, hồ sơ vụ án còn phải trả lại để điều tra bổ sung
nhiều lần làm cho việc giải quyết án còn kéo dài.
2.3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong việc
giải quyết các vụ án hình sự
Ở nước ta, cơ quan Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất được Quốc hội giao cho chức năng thực hành

quyền công tố. Trong những năm gần đây, việc thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân các
cấp đã có nhiều chuyển biến so với trước, góp phần cùng cơ quan điều tra và Tòa án xử lý nghiêm minh
các vụ án hình sự, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Tuy vậy chất lượng thực hành quyền công tố thực sự
còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được so với yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình
hình mới. Thực trạng này có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong bài viết này tôi mạnh dạn
đề nghị một số giải pháp nhằm mang lại hiệu quả cho việc thực hiện chức năng này:
Thứ nhất: Nắm vững chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong thực hành quyền công tố, kiểm sát điều
tra và yêu cầu cải cách tư pháp
Trong lịch sử hoàn thiện bộ máy nhà nước ta, ngay từ năm 1945 cho đến nay hệ thống Viện kiểm sát
đã là một cơ quan độc lập, có tổ chức từ Trung ương đến địa phương. Để việc thực hiện chức năng này
thực sự có hiệu quả, Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát
xét xử các vụ án hình sự, nhằm đảm bảo:
+ Mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm
và người phạm tội, không làm oan người vô tội;
+ Việc điều tra phải khách quan, toàn diện đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; những vi phạm pháp
luật trong quá trình điều tra phải được phát hiện, khắc phục kịp thời và xử lý nghiêm minh;
+ Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can phải có căn cứ và đúng pháp luật.


- Nghị quyết số 49 NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 tiếp tục đặt ra những yêu cầu, mục tiêu để Viện kiểm sát nhân dân nâng cao trách
nhiệm pháp lý trong thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
Thứ hai: Không ngừng nâng cao năng lực nghiệp vụ chuyên môn và tu dưỡng rèn luyện phẩm chất
đạo đức
Kiểm sát viên là người đại diện cho Nhà nước thực hiện quyền công tố trong việc giải quyết các vụ án
hình sự. Để thực hiện tốt công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử đáp ứng
yêu cầu yêu cải cách tư pháp, đòi hỏi cán bộ, Kiểm sát viên phải:
- Miệt mài nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi, nắm vững nội dung các văn bản pháp luật và hướng dẫn khác
liên quan, đồng thời phải không ngừng học tập nâng cao kỹ năng về chuyên môn, nghiệp vụ để vận dụng
giải quyết đúng đắn, kịp thời các tình huống trong việc giải quyết các vụ án hình sự.

Thứ ba: Tập trung nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố trong việc giải quyết các
vụ án hình sự
Khởi tố vụ án hình sự là khâu đầu tiên, là hoạt động tố tụng quan trọng mở ra quá trình đấu tranh
công khai của Nhà nước đối với hành vi tội phạm và người phạm tội, lúc này quyền công tố bắt đầu phát
huy tác dụng của mình. Do đó để quyền công tố thực sự mang lại hiệu quả thì:
- Viện kiểm sát phải chủ động phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cơ quan bảo vệ pháp luật tổ chức
mạng lưới tiếp nhận, quản lý thông tin tội phạm một cách kịp thời và đầy đủ, thực hiện tốt phân loại xử lý
ngay từ đầu.
- Quyền khởi tố của Viện kiểm sát là quyền năng phát động quyền công tố để mở ra các giai đoạn tố
tụng tiếp theo do đó: Khi nhận được quyết định khởi tố vụ án hình sự và các tài liệu có liên quan, kiểm sát
viên phải nghiên cứu nắm vững nội dung hồ sơ ban đầu, nếu thấy không có căn cứ, trái pháp luật phải yêu
cầu cơ quan điều tra hủy bỏ hoặc Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc quyết định
không khởi tố vụ án hình sự.
- Khi quyết định phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can, phê chuẩn hoặc không phê chuẩn
các các biện pháp ngăn chặn, Kiểm sát viên được phân công thụ lý kiểm sát điều tra phải chủ động nghiên
cứu kiểm tra, xem xét tính có căn cứ và tính hợp pháp của các tài liệu trong hồ sơ đã đầy đủ căn cứ hay
chưa.
- Cần chú ý đối với các tội mà định lượng là yếu tố cấu thành tội phạm, khi Cơ quan điều tra đề
nghị Viện kiểm sát xem xét quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can buộc phải có kết
quả giám định và định giá tài sản.
- Kiểm sát viên không thụ động ngồi chờ hồ sơ vụ án và kết luận điều tra do Cơ quan điều tra chuyển
tới mà phải phối hợp với điều tra viên để nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án trước khi bước vào giai đoạn kết luận
điều tra, nhất là đối với những vụ án phức tạp, có nhiều bị can tham gia, vụ án mà bị can chối tội, kêu
oan, lời khai của bị can trước, sau không thống nhất, lúc nhận tội, lúc không nhận tội, bị can khiếu nại về
kết quả điều tra.


- Phải kiên quyết yêu cầu cơ quan điều tra chấp hành nghiêm túc các quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự.
Ở giai đoạn này bản cáo trạng là một văn bản pháp lý thể hiện quyền công tố rõ nhất, thông qua bản

cáo trạng Viện kiểm sát nhân danh nhà nước thể hiện chức năng của mình trong việc truy tố một người có
hành vi phạm tội ra tòa án để xét xử bởi một công dân chỉ bị tòa án đưa ra xét xử về hình sự khi bị Viện
kiểm sát truy tố. Do đó để quyền công tố thực sự phát huy tốt, yêu cầu các kiểm sát viên khi xây dựng bản
cáo trạng cần phải: Nghiên cứu đánh giá một cách chính xác, khách quan, toàn diện hồ sơ vụ án và bản
kết luận điều tra, khi có đủ căn cứ quyết định truy tố, kiểm sát viên tiến hành xây dựng bản cáo trạng. Bản
cáo trạng phải nêu rõ hành vi phạm tội của bị can, ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm xảy ra tội phạm, thủ
đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, hậu quả và các tình tiết khác có liên quan đến vụ án. Phải trích dẫn các
tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị can, đồng thời nêu rõ bút lục trong hồ sơ vụ án để
bảo đảm tính pháp lý và tính thuyết phục cao trong bản cáo trang. Trên cơ sở đó viện dẫn pháp luật đối
với từng hành vi phạm tội của bị can. Đảm bảo truy tố đúng người, đúng tội danh, khung khoản, điều luật.
Trong toàn bộ hoạt động của quyền công tố thì thực hành quyền công tố ở cấp sơ thẩm có vị trí rất
quan trọng, lúc này kiểm sát viên nhân danh nhà nước thực hiện quyền công tố trước phiên tòa để
chứng minh một người có tội hay không. Để thực hiện tốt vai trò này Kiểm sát viên phải nắm chắc toàn
bộ hồ sơ, chứng cứ vụ án, trên cơ sở đó dự thảo bản luận tội, chuẩn bị đề cương xét hỏi và dự kiến
những vấn đề tranh luận tại phiên tòa, các tình huống phát sinh trên cơ sở đó để bảo vệ bản cáo trạng
một cách có căn cứ.
Trong quá trình duy trì quyền công tố tại phiên tòa, Kiểm sát viên phải tích cực phối hợp với Hội
đồng xét xử thẩm tra chứng cứ một cách khách quan để đủ căn cứ khẳng định rằng bị cáo có tội hoặc
không có tội, để qua đó có thể bảo vệ quyết định truy tố hoặc rút một phần quyết định truy tố. Duy trì
quyền công tố tại tòa kiểm sát viên nhân danh nhà nước đọc bản luận tội. Đây là căn cứ để Hội đồng xét
xử hình thành niềm tin nội tâm để đưa ra một bản án thích đáng. Thông qua bản luận tội kiểm sát viên đã
ghóp phần vào truyền bá ý thức chính trị và pháp luật cho những người đến tham dự phiên tòa.
Bản luận tội là văn bản pháp lý thể hiện quan điểm của Viện kiểm sàt tại phiên tòa sơ thẩm hình sự,
do đó kiểm sát viên phải trung thành với nội dung của vụ án trên cơ sở thẩm định chứng cứ tại phiên tòa
để tuyên bố một người có tội hoặc không có tội cho hợp tình, hợp lý. Kiểm sát viên phải tích cực tranh
luận với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác để làm rõ tình tiết khách quan
trong vụ án, tránh tình trạng án tại hồ sơ.
Thứ tư: Công tác chỉ đạo, điều hành
Thực tiễn cho thấy việc quản lý, chỉ đạo điều hành có ý nghĩa quan trọng đối với việc thúc đẩy hiệu
quả thực hành quyền công tố. Yêu cầu đặt ra đối với công tác này là phải căn cứ vào diễn biến tình hình

tội phạm ở từng địa phương, đặc biệt chú ý đến từng loại tội phạm đặc biệt, nổi bật, thường xuyên xảy ra
trên địa bàn mình, để có những chính sách hình sự, kế hoạch công tác kiểm sát một cách cụ thể.


- Đối với các vụ án phức tạp, án có nhiều đối tượng phạm tội, lãnh đạo đơn vị cần phân công Kiểm
sát viên có năng lực và tinh thần trách nhiệm cao để thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra. Đồng
thời thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, xem xét kỹ báo cáo đề xuất của Kiểm sát viên và các tài liệu, chứng
cứ trước khi quyết định phê chuẩn.
- Xây dựng tốt mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát với Cơ quan điều tra và Tòa án trên cơ sở
chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành và tranh thủ sự chỉ đạo của các cấp ủy đảng và chính quyền địa
phương trong quá trình giải quyết án.
Kết quả khảo sát về thực trạng cơ sở vật chất của các cơ quan tư pháp nói chung, Viện kiểm sát các
cấp nói riêng cho thấy, cơ sở vật chất, điều kiện làm việc phần lớn ở các địa phương đang còn thô sơ. nhất
là trênn địa bàn tỉnh Thanh Hóa có 11 huyện miền núi cơ sở vật chất thực sự thiếu thốn khả năng ngân
sách hạn hẹp đã ảnh hưởng nhiều đến tư tưởng chính trị của cán bộ kiểm sát viên trong đơn vị. do đó Nhà
nước cần quan tâm hơn nữa đến đời sống tinh thần cũng như điều kiện làm việc để kiểm sát viên yên tâm
công tác phát huy tốt quyền công tố của mình trong tình hình mới.

KẾT LUẬN
Trong tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, các nghị quyết của Đảng cũng như các văn bản
pháp luật của Nhà nước cũng nhấn mạnh Viện kiểm sát tập trung làm tốt chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Tuy nhiên hiểu thế nào là quyền công tố, nội dung và phạm vi
của việc thực hành quyền công tố như thế nào đang còn là vấn đề phức tạp và có nhiều ý kiến khác nhau.
Bản thân là một công chức trong ngành kiểm sát nên trong khuôn khổ đề tài này, tôi không có tham vọng
làm rõ như thế nào về quyền công tố nói chung cũng như quỳen công tố trong việc giải quyết các vụ án
hingh sự về ma túy nói riêng mà chi mong muốn góp một phần suy nghĩ của mình để làm sáng tỏ thêm
vấn đề trên, qua đó để có một hành lang pháp lý cho bản thân trong quá trình làm nhiệm vụ tại địa
phương. Bằng việc nghiên cứu và tiếp thu những kiến thức thực tế cũng như là kiến thực lý luận về quyền
công tố trong bài viết này cũng đã thể hiện được một số nội dung như:
- Phân tích và làm rõ được lịch sử hình thành quyền công tố và sự phát triển của quyền công tố trong

bộ máy nhà nước Việt Nam để thấy được cùng với sự ra đời của Nhà nước nói chung và Nhà nước dân
chủ cộng hòa của Việt Nam thì quyền công tố cũng ra đời cùng với cơ quan Tòa án. Ban đầu chi là một
bộ phận của Tòa án nhưng cùng với thời gian và sự phát triển của bộ máy nhà nước cơ quan được giao
thực hiện quyền công tố phát triển dần thành một chế định riêng và cho đến ngày nay Viện kiểm sát nhân
dân được Nhà nước giao cho thực hiện chức năng công tố trở thành một cơ quan nhà nước độc lập và
không thể thiếu trong bộ máy nhà nước.
- Luận văn cũng nêu rõ được thực trạng thực hành quyền công tố hiện nay ở Việt Nam và cách thức
tổ chức thực hiện quyền công tố như thế nào trong việc giải quyết các vụ án hình sự nói chung và các vụ
án hình sự về ma túy nói riêng để qua đó thấy được những ưu điểm khuyêt điểm trong việc thực hành


quyền công tố quá đó có những giải pháp để nâng cao việc thực hành quyền công tố trong tiến trình cải
cách tư pháp
Mặc dù luận văn chưa thực sự đầy đủ và sâu sắc về lý luận thế nào là quyền công tố trong việc giải
quyết vụ án hình sự, tuy nhiên bằng kinh nghiệm của người đã làm qua công tác thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp tôi cũng mạnh dạn đưa ra những giải pháp mang tính áp dụng để cũng
tháo gỡ những khó khăn trong quá trình giải quyết án nhằm đảm bảo việc thực hành quyền công tố ở Viện
kiểm sát nhân dân thực sự phát huy hiệu quả trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm và trong
tiến trình cải cách tư pháp của đất nước.
Những nội dung trên của luận văn là kết quả của sự nỗ lực của bản thân tác giả, sự hướng dẫn tận tình
của của người dẫn khoa học, sự giúp đỡ của đồng nghiệp và sự tạo điều kiện của gia đình. Tuy nhiên với
khả năng và thời gian hạn hẹp,trong bài viết còn có nhiều hạn chế cả về lý luận và thực tiến. Rất mong
được sự đóng góp ý kiến để có thể áp dụng trong hoạt động thực hành quyền công tố của bản thân tác giả.

References.

1.

Dương Thanh Biểu (2007), Tranh luận tại phiên sơ thẩm, Nxb Tư pháp Hà Nội.


2.

Dương Thanh Biểu (2008), Tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

3.

Lê Cảm (2001), "Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố", Chuyên đề khoa học: Tổ chức và
hoạt động của Viện kiểm sát trong tình hình mới, Hà Nội.

4.

Lê Văn Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình
sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

5.

Nguyễn Đăng Dung (2004), Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

6.

Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà
Nội.

7.

Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.

8.


Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.

9.

Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ Chính trị về chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020,
Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6 của Bộ Chính trị về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.


12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
13. Nguyễn Xuân Hà - Phạm Hoàng Diệu Linh (2009), Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003 để bảo đảm phù hợp với việc tổ chức hệ thống các cơ quan tư pháp theo tinh thần
nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Đề tài khoa
học cấp bộ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
14. Lê Thị Tuyết Hoa (2002), Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nghiên cứu Nhà
nước và Pháp luật.
15. Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Văn Điệp (2006), Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
16. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2005), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
17. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2007), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước pháp luật, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
18. Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

19. Nguyễn Thái Phúc (1999), "Một số vấn đề quyền công tố của Viện kiểm sát", Kỷ yếu đề tài khoa học
cấp bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt động công tố ở Việt Nam từ năm
1945 đến nay, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
20. Quốc hội (1946), Hiến pháp, Hà Nội.
21. Quốc hội (1959), Hiến pháp, Hà Nội.
22. Quốc hội (1980), Hiến pháp, Hà Nội.
23. Quốc hội (1981), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội
24. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
25. Quốc hội (1992), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
26. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
27. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
28. Quốc hội (2002), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
29. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.
30. Quốc hội (2009), Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
31. Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn
điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
32. Lê Hữu Thể (2003), Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, Phần tổng thuật, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
33. Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội (1996), Giáo trình Công tác kiểm sát, tập 1, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.


34. Trường Đại học Luật Hà Nội (2003), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
35. Trường Đại học luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.
36. Đào Trí Úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
37. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
38. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2011), Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi, bổ

sung), Hà Nội.
39. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2005-2010), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát các năm
2005 - 2010, Thanh Hóa.
40. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2007), Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ
án hình sự (Ban hành kèm theo quyết định số 960/QĐ-VKSNDTC ngày 17/9/2007 của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao), Hà Nội.



×