VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------
NGUYỄN TRỌNG YẾN
THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN
HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội, năm 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------
NGUYỄN TRỌNG YẾN
THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN
HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH
Hà Nội, năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của Thầy Tiến sĩ Nguyễn Trung Thành. Các số liệu, ví dụ các bản án
minh họa đều đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Trọng Yến
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH DÂN
SỰ TRONG BẢN ÁN HÌNH SỰ .............................................................................6
1.1 Khái niệm, đặc điểm, căn cứ áp dụng quyết định dân sự trong bản án hình sự ....6
1.2 Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa thi hành các quyết định dân sự trong bản án
hình sự .........................................................................................................................9
Chương 2: QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH
DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI
TỈNH ĐỒNG NAI ...................................................................................................23
2.1 Quy định của pháp luật về thi hành các quyết đinh dân sự trong bản án hình sự ......23
2.2 Thực trạng thi hành quyết định dân sự trong bản án hình sự tại tỉnh Đồng Nai .27
Chương 3: YÊU CẦU, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUI ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ VỀ THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ
TRONG BẢN ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI..........................49
3.1 Yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật về thi hành quyết định
dân sự trong bản án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai ..........................................49
3.2 Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng qui định của pháp luật và nâng cao hiệu quả
về thi hành quyết định dân sự trong bản án hình sự..................................................54
KẾT LUẬN ..............................................................................................................74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................77
PHỤ LỤC .................................................................................................................82
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCHTW:
Ban chấp hành Trung ương
BLDS:
Bộ luật dân sự
BLHS:
Bộ luật hình sự
BLTTHS:
Bộ luật tố tụng hình sự
CHV:
Chấp hành viên
CNH-HĐH:
Cơng nghiệp hóa- Hiện đại hóa
HĐND:
Hội đồng nhân dân
KT-XH:
Kinh tế xã hội
LTHAHS:
Luật Thi hành án hình sự
TAND:
Tịa án nhân dân
TANDTC:
Tòa án nhân dân tối cao
THA:
Thi hành án
THADS:
Thi hành án dân sự
THAHS:
Thi hành án hình sự
TP. HCM:
Thành phố Hồ Chí Minh
XHCN:
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG PHỤ LỤC
BẢNG 2.1: Kết quả thi hành án của Cục thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai giai đoạn
2015- 2020.
BẢNG 2.2: Kết quả thi hành quyết định dân sự trong bản án hình sự của Cục thi
hành án dân sự tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2015- 2020.
BẢNG 2.3: Tình hình việc và tiền trong bản án hình sự phải thi hành án trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2015- 2020.
BẢNG (Biểu số 11/TK- THA): Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thi hành án
dân sự tỉnh Đồng Nai năm 2015.
BẢNG (Biểu số 11/TK- THA): Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thi hành án
dân sự của THADS tỉnh Đồng Nai năm 2019.
BẢNG (Biểu số 13/TK- THA): Kết quả thực hiện chỉ tiêu biên chế và cơ cấu công
chức của cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai năm 2015.
BẢNG (Biểu số 13/TK- THA): Kết quả thực hiện chỉ tiêu biên chế và cơ cấu công
chức của cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai năm 2019.
BẢNG (Biểu số 14/TK- THA): Trình độ cơng chức của cơ quan THADS tỉnh Đồng
Nai năm 2015.
BẢNG (Biểu số 14/TK- THA): Trình độ công chức của cơ quan THADS tỉnh Đồng
Nai năm 2019.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thi hành quyết định dân sự trong bản án hình sự là hoạt động mang tính quyền
lực nhà nước nhằm thực hiện bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án trong thực
tiễn đời sống xã hội.
Thi hành quyết định dân sự trong các bản án hình sự là một trong những
nhiệm vụ quan trọng của cơ quan thi hành án. Theo quy định tại Mục 1, chương V,
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì những việc phải
thi hành án trong bản án, quyết định hình sự thuộc thẩm quyền của cơ quan THADS
bao gồm: Hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền - tài sản thu lợi bất chính, xử
lý vật chứng, án phí; thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, bồi thường thiệt hại về tài sản...
Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được chấp hành
nghiêm chỉnh có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong việc giữ vững kỷ cương phép
nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền
lực tư pháp được thực thi trên thực tế, đồng thời tạo lòng tin của nhân dân đối với
cơ quan bảo vệ pháp luật.
Từ thực tiễn hoạt động THADS nói chung và việc thi hành các quyết định dân
sự trong các bản án hình sự nói riêng tại tỉnh Đồng Nai cho thấy tính khó khăn,
phức tạp của hoạt động này ngày càng cao. Tỉ lệ thi hành quyết định dân sự trong
bản án hình sự thường đạt thấp so với các loại án khác. Trong đó, tỉ lệ thi hành hình
phạt tiền, các quyết định về tài sản thường xuyên không đạt yêu cầu. Ngun nhân
có nhiều, trong đó khơng loại trừ ngun nhân do từ phía cơ quan THADS các cấp,
mặc dù trong những năm gần đây về phía ngành đã đề ra nhiều giải pháp tương
thích đối với tình hình thực tế thi hành án ở từng thời điểm cụ thể.
Về mặt lý luận, mặc dù có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về vấn đề
này, song mới chỉ dừng lại ở những vấn đề chung mà chưa nghiên cứu một các
chuyên sâu và hệ thống về vấn đề thi hành quyết định dân sự trong bản án hình sự ở
một địa bàn cụ thể. Do vậy, có một số vấn đề lý luận về vấn đề này cần tiếp tục
nghiên cứu làm rõ.
1
Trong khi đó, các qui định của pháp luật có liên quan đến vấn đề thi hành các
quyết định dân sự trong bản án hình sự cịn nhiều bất cập, hạn chế gây khó khăn cho
việc triển khai trên thực tế, đòi hỏi phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện.
Như vậy, cả về lý luận, qui định của pháp luật và thực tiễn thi hành các quyết
định dân sự trong bản án hình sự đặt ra nhu cầu cần tiếp tục nghiên cứu vấn đề này
nhằm thiết lập các giải pháp đảm bảo chất lượng, hiệu quả của việc thi hành các
quyết định dân sự trong bản án hình sự trên thực tế.
Chính vì lẻ đó, tác giả đã chọn đề tài “Thi hành quyết định dân sự trong bản
án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” để nghiên cứu, làm luận văn thạc sĩ Luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ trước đến nay đã có một số cơng trình nghiên cứu của các nhà luật học liên
quan đến vấn đề thi hành quyết định dân sự trong bản án hình sự. Điển hình là:
+ Luận án tiến sĩ Luật học “Thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án
hành chính ở Việt Nam hiện nay”, của nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Phương Hà, bảo
vệ ngày 18 tháng 9 năm 2019 tại HVKHXH.
+ Luận án tiến sĩ Luật học “Thi hành án hành chính ở Việt Nam – Lý luận và
thực tiễn”, của nghiên cứu sinh Lê Việt Sơn, bảo vệ năm 2021.
+ Luận án tiến sĩ Luật học “Giám sát thi hành án dân sự”, của nghiên cứu sinh
Hoàng Thế Anh, năm 2015 (Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
+ Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường “Một số vấn đề về hoàn thiện pháp
luật THADS” của Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2004.
+ Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường về “Những điểm mới của Luật
THADS năm 2008” của trường Đại học Luật Hà Nội năm 2011.
+ Sách tham khảo “Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật Thi hành án dân sự
Việt Nam” - tác giả Tiến sỹ Lê Thu Hà - Nhà xuất bản Tư pháp năm 2011;
+ Bài viết: “Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố tụng hình sự”,
Tạp chí Kiểm sát, số 02/2004 của GS.TSKH Lê Cảm.
+ Bài viết: “Bàn về nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự”,
Tạp chí Khoa học, (Luật học), số 26, 2010.
+ Luận văn thạc sỹ “Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án và quyết định hình sự
từ thực tiễn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, xủa tác giả Nguyễn Quốc Cường năm 2020.
2
+ Luận văn thạc sỹ “Đổi mới thủ tục THADS ở Việt Nam” của tác giả Lê Anh
Tuấn năm 2004;
+ Luận văn thạc sỹ “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự” của tác giả
Nguyễn Thanh Thủy năm 2001 - Trường Đại học Luật Hà Nội;
+ Luận văn thạc sỹ “Xã hội hóa một số nội dung thi hành án dân sự” của tác
giả Lê Xuân Hồng năm 2002 - Trường Đại học Luật Hà Nội;
+ Luận văn thạc sỹ luật học “Một số vấn đề về tổ chức và thi hành án dân sự ở
Việt Nam” của tác giả Trần Văn Quảng; …
Những cơng trình nghiên cứu, bài viết nêu trên chủ yếu đề cập đến vấn đề thi
hành án dân sự nói chung. Tuy nhiên, cũng có một số cơng trình nghiên cứu đã đề
cập đến vấn đề thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự ở một số
địa bàn cụ thể. Song cho tới nay, chưa có một cơng trình nghiên cứu về vấn đề thi
hành quyết định dân sự trong bản án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai, Vì thế, việc
nghiên cứu đề tài này khơng trùng với các cơng trình nghiên cứu đã được cơng bố
có liên quan đến chủ đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là hướng tới làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận, đánh giá qui định của pháp luật về thi hành quyết định dân sự trong bản án
hình sự và thực tiễn thi hành quyết định dân sự trong bản án hình sự tại tỉnh Đồng
Nai. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp tiếp tục hồn thiện pháp luật về thi hành
quyết định dân sự trong bản án hình sự cũng như những giải pháp đảm bảo áp dụng
đúng các qui định đó trên thực tế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài đặt ra và thực hiện các
nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
+ Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn về pháp luật thi hành án dân
sự nói chung, về việc thi hành quyết định dân sự trong bản án hình sự nói riêng.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng thi hành quyết định dân sự trong bản án hình sự tại
địa bàn tỉnh Đồng Nai trong thời gian qua, trên cơ sở đó tìm ra những mặt tích cực cũng
như những mặt hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó.
+ Đề xuất những giải pháp hoàn thiện các qui định của pháp luật về thi hành
quyết định dân sự trong bản án hình sự, cũng như giải pháp đảm bảo áp dụng đúng
những quy định này trên thực tế.
3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, qui định của pháp
luật về thi hành quyết định dân sự trong bản án hình sự, và thực tiễn thi hành tại địa
bàn tỉnh Đồng Nai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung: luận văn chủ yếu nghiên cứu vấn đề thi hành các quyết định
dân sự trong bản án hình sự thuộc chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.
+ Về thời gian, không gian: từ năm 2015 đến năm 2019 tại địa bàn tỉnh Đồng Nai.
+ Về chủ thể: Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai và 11 Chi cục Thi hành
án dân sự trong tỉnh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Ngồi ra, luận văn cịn dựa trên những tri thức nền tảng của khoa học thi hành
án để luận giải đối tượng nghiên cứu trong luận văn của mình.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể như:
+ Nghiên cứu từ các nguồn tài liệu: Các Bộ luật, Luật, các văn bản quy phạm pháp
luật, các cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các bài viết được đăng tải trên các
phương tiện thơng tin đại chúng có nội dung liên quan đến đề tài luận văn.
+ Phương pháp so sánh, thống kê: được sử dụng để cung cấp các số liệu cần
thiết, đối chiếu, so sánh, làm rõ các nội dung liên quan, đặt trong tổng thể các mối
quan hệ trong hệ thống pháp luật về việc thi hành quyết định dân sự trong bản án
hình sự, cũng như lịch sử hình thành và phát triển của nó.
+ Phương pháp mô tả: được sử dụng để nêu, làm sáng tỏ những vấn đề về hình
thức thể hiện của pháp luật trong việc thi hành quyết định dân sự trong bản án hình
sự trong pháp luật THADS nói chung.
+ Phương pháp khái qt hóa: được sử dụng để phân tích, kết luận những vấn
đề có tính bao qt chung từ những cơng trình đã được các nhà khoa học nghiên
cứu liên quan đến đề tài luận văn.
+ Phương pháp khảo sát thực tế: Khảo sát thực trạng thi hành quyết định dân
sự trong bản án hình sự tại địa bàn tỉnh Đồng Nai trong thời gian qua, từ đó đưa ra
những bình luận, quan điểm, kết luận những nội dung nghiên cứu.
4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa về lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ và phong phú thêm những
vấn đề lý luận về thi hành quyết định dân sự trong bản án hình sự, qua đó góp phần
nâng cao nhận thức về vấn đề này.
6.2. Ý nghĩa về thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là nguồn tài liệu tham khảo cho cấp
ủy, chính quyền địa phương tỉnh Đồng Nai trong việc chỉ đạo công tác Thi hành án
dân sự tại địa phương. Luận văn cịn là một kênh thơng tin để Cục THADS Đồng
Nai và 11 Chi cục THADS trong tỉnh tham khảo, vận dụng trong công tác chỉ đạo,
điều hành, nhằm nâng cao hiệu quả của công tác THADS trên địa bàn tỉnh.
Đối với các cơ quan hữu quan, luận văn cũng có thể là tài liệu tham khảo để
các cơ quan chức năng thực hiện đúng, tốt, vai trò, trách nhiệm của mình theo luật
định trong việc phối kết hợp trong hoạt động THADS.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận văn gồm có 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thi hành quyết định dân sự trong bản án
hình sự.
Chương 2: Qui định của pháp luật về thi hành quyết định dân sự trong bản án
hình sự và thực tiễn thi hành tại tỉnh Đồng Nai
Chương 3: Yêu cầu, giải pháp bảo đảm áp dụng đúng qui định của Pháp luật,
nâng cao hiệu quả về thi hành quyết định dân sự trong bản án hình sự từ thực tiễn
tỉnh Đồng Nai.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ
TRONG BẢN ÁN HÌNH SỰ
1.1 Khái niệm, đặc điểm, căn cứ áp dụng quyết định dân sự trong bản án
hình sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm quyết định dân sự trong bản án hình sự
1.1.1.1. Khái niệm quyết định dân sự trong bản án hình sự
Trong các bản án, quyết định hình sự của Tịa án, bên cạnh các quyết định về
hình phạt tù, hình phạt tiền, tịch thu tài sản cịn có các quyết định dân sự khác. Các
quyết định dân sự khác trong bản án hình sự ở đây gồm: quyết định về án phí; quyết
định dân sự thuộc phần các biện pháp tư pháp qui định tại Chương VII- BLHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như: quyết định tịch thu vật, tiền trực tiếp liên
quan đến tội phạm (Điều 47); quyết định trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường
thiệt hại; quyết định buộc công khai xin lỗi (Điều 48). Mặc dù trong BLHS hiện
hành có qui định một số vấn đề dân sự mà Tịa án quyết định trong bản án hình sự,
nhưng khơng có qui phạm định nghĩa về “ quyết định dân sự trong bản án hình sự”.
Do vậy, trong khoa học Luật hình sự, khoa học Luật dân sự còn một số quan điểm
khác nhau về quyết định dân sự trong bản án hình sự.
Theo tác giả Đinh Văn Quế, thì vấn đề dân sự trong án hình sự chỉ bao gồm
các khoản tiền, tài sản có liên quan trong việc trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại được quy định tại Điều 42 BLHS năm 2003 (nay là Điều 46 BLHS
năm 2015), điều đó có nghĩa là giải quyết vấn đề dân sự trong án hình sự chỉ bó hẹp
trong phạm vi “trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng” (quy định tại Chương VBLDS 1995), nay là Chương XX BLDS 2015.
Tại Công văn số 121/2003/KHXX của TANDTC ngày 19/9/2003 hướng dẫn
việc giải quyết vấn đề dân sự trong các vụ án hình sự đã đề cập đến các vấn đề liên
quan đến tài sản, bồi thường thiệt hại bao gồm các khoản: đòi trả lại tài sản bị chiếm
đoạt; đòi bồi thường giá trị tài sản do bị chiếm đoạt, nhưng đã bị mất, hoặc bị hủy
6
hoại; buộc phải sửa chữa tài sản bị hư hỏng; địi bồi thường thiệt hại về lợi ích gắn
liền với việc sử dụng, khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và
khắc phục thiệt hại do tài sản bị chiếm đoạt, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng; địi bồi
thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
Như vậy Công văn này đã liệt kê cụ thể những vấn đề dân sự (vấn đề liên quan đến
tài sản, bồi thường thiệt hại) mà Tịa án có thể quyết định trong bản án hình sự.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, thì thuật ngữ “quyết định” được giải nghĩa là
“Định ra, đề ra và dứt khoát phải làm” [55, trang 1312].
Từ nhận thức như vậy, có thể đưa ra khái niệm về quyết định dân sự trong bản
án hình sự như sau: “Quyết định dân sự trong bản án hình sự là phán quyết pháp lý
về những vấn đề dân sự do Tịa án có thẩm quyền đề ra trong các bản án hình sự mà
người bị kết án có nghĩa vụ phải chấp hành”.
Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự trong Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015 là một nguyên tắc cơ bản và phải được thực hiện với tư cách là quyền yêu
cầu của những người tham gia tố tụng, viện kiểm sát. Do vậy, việc giải quyết vấn đề
dân sự trong vụ án hình sự chỉ phát sinh khi có u cầu từ phía người bị hại, nguyên
đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và viện kiểm sát.
Luật áp dụng điều chỉnh trong vấn đề giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án
hình sự bao gồm pháp luật dân sự, tố tụng dân sự nhằm điều chỉnh quan hệ bồi
thường, bồi hồn. Theo đó, các ngun tắc, các quy định của luật dân sự, tố tụng
dân sự như tự do tự nguyện thỏa thuận, hòa giải, xác định thiệt hại…được áp dụng
khi giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự.
1.1.1.2. Đặc điểm quyết định dân sự trong bản án hình sự
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự có liên quan đến việc giải quyết vấn
đề dân sự, mặc dù việc hòa giải khơng phải là ngun tắc trong tố tụng hình sự. Tuy
nhiên, trong quá trình giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng thường hướng tới việc để cho các bên bị
can, bị cáo hoặc người đại diện của họ thỏa thuận với bị hại, đại diện người bị hại
hoặc nguyên đơn dân sự. Chính vì thế, trong q trình giải quyết vụ án có gắn với
7
việc giải quyết vấn đề dân sự, nhiều vụ án các bên đương sự đã tự nguyện thỏa
thuận với nhau về vấn đề dân sự để khắc phục hành vi phạm tội gây ra. Thực tế cho
thấy có trường hợp bồi thường, bồi hoàn một phần hoặc chưa bồi thường, bồi hồn
nhưng có sự thỏa thuận sẽ tiếp tục bồi thường, bồi hoàn. Trong các trường hợp này,
phán quyết trong bản án của Tòa án sẽ nhận định “Vấn đề dân sự khơng đề cập đến
vì bị hại, hoặc đại diện người bị hại không yêu cầu giải quyết” hoặc “Ghi nhận sự
thỏa thuận của bị cáo với bị hại”.
Cùng là giải quyết vấn đề dân sự, nhưng việc giải quyết vấn đề dân sự trong
vụ án hình sự có những điểm giống và khác nhau với việc giải quyết tranh chấp dân
sự theo tố tung dân sự. Những điểm giống nhau là việc giải quyết vấn đề dân sự
trong vụ án hình sự cũng phải tuân theo nguyên tắc trong tố tụng dân sự, đó là
quyền tự quyết định và tự định đoạt của các đương sự, đồng thời cũng phải áp dụng
các quy định của Bộ luật dân sự. Những điểm khác nhau là việc giải quyết vấn đề
dân sự trong vụ án hình sự được áp dụng theo thủ tục tố tụng hình sự và khơng áp
dụng thủ tục hịa giải. Ngồi ra, trong việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình
sự thì nghĩa vụ chứng minh, thu thập chứng cứ thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng. Trong khi giải quyết tranh chấp dân sự thì nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ và chứng minh thuộc về các bên đương sự.
Từ khái niệm trên có thể rút ra các đặc điểm của quyết định dân sự trong bản
án hình sự sau đây:
+ Một là, xét về tính chất: quyết định dân sự trong bản án hình sự là những
quyết định có tính chất pháp lý, nghĩa là phải do pháp luật qui định. Vì thế, những
quyết định khơng được qui định trong các văn bản pháp luật thì khơng phải là quyết
định dân sự trong bản án hình sự.
+ Hai là, nội dung của quyết định dân sự trong bản án hình sự chỉ bao gồm
những phán quyết của Tòa án về những vấn đề dân sự. Đây là những quyết định về
hình phạt tiền, hình phạt tịch thu tài sản; về án phí; quyết định tịch thu vật, tiền liên
quan trực tiếp đến tội phạm; quyết định trả lại tài sản, sửa chữa bồi thường thiệt hại,
quyết định công khai xin lỗi v.v…
8
+ Ba là, về hình thức thể hiện: các quyết định dân sự nêu trên phải được thể
hiện trong bản án, quyết định hình sự.
+ Bốn là, về chủ thể có thẩm quyền ban hành: các quyết định này phải do Tịa
án có thẩm quyền ban hành.
+ Năm là, về đối tượng phải chấp hành: cá nhân người bị kết án hoặc pháp
nhân thương mại bị kết án. Những cá nhân, tổ chức này buộc phải chấp hành, bởi đó
là nghĩa vụ pháp lý của họ.
1.2 Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa thi hành các quyết định dân sự trong bản
án hình sự
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm
1.2.1.1. Khái niệm
Trong bản án, quyết định hình sự, ngồi phán quyết về trách nhiệm hình sự,
cịn có các phán quyết liên quan đến trách nhiệm dân sự mà theo quy định của Luật
Thi hành án dân sự năm 2008 thì các quyết định dân sự về tiền, tài sản trong bản án
hình sự do cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành.
Ngoài những quy định chung về thủ tục thi hành án. Luật Thi hành án dân sự
năm 2008 (sửa đổi bổ sung năm 2014) dành 01 Mục với 8 Điều (Từ Điều 122 đến
Điều 129) quy định về thi hành các khoản tịch thu sung quỹ nhà nước, tiêu hủy tài
sản, tang vật, hoàn trả tiền, tài sản kê biên tạm giữ trong bản án, quyết định hình sự.
Hiện nay, Thi hành án là đề tài không mấy mới mẻ, nhưng cho đến nay vẫn
còn nhiều vấn đề được đặt ra đòi hỏi phải được nghiên cứu một cách toàn diện hơn.
Bởi lẽ, diễn biến việc thi hành án trong thực tiễn cịn rất nhiều khó khăn, vướng
mắc, phức tạp và có nhiều biến động qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, nhưng việc
triển khai nghiên cứu lý luận về thi hành án vẫn còn rất hạn chế.
Các cơng trình nghiên cứu về pháp luật THADS, nhìn tổng thể chủ yếu liên
quan đến vấn đề lý luận về THADS, tổ chức THADS và thủ tục THADS.
Thi hành các quyết định dân sự trong bản án hình sự là một dạng thi hành án.
Do vậy, để có thể đưa ra được một khái niệm khoa học về vấn đề này, trước hết cần
làm sáng tỏ khái niệm “thi hành”, “thi hành án”.
9
Theo Đại từ tiếng Việt thì thuật ngữ “thi hành” được hiểu là “thực hiện điều đã
chính thức quyết định [55, tr. 1497]. Từ lơgic này có thể hiểu, thi hành án là đem
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực ra thi hành trên thực tế. Bản án, quyết
định của Tịa án có thể là bản án, quyết định hình sự, dân sự, hành chính v.v…Đây
là văn bản pháp lý của Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên tại phiên Tòa để giải
quyết những vấn đề trong vụ án.
Quan điểm thứ nhất của TS. Phan Hữu Thư và ThS. Nguyễn Cơng Bình cho
rằng: “thi hành án là một giai đoạn của tố tụng” [56]. Nhóm đồng quan điểm này
cho rằng: “Có xét xử thì phải có thi hành án, thi hành án dựa trên cơ sở của công
tác xét xử. Xét xử và thi hành án là hai mặt thống nhất của quá trình bảo vệ lợi ích
của đương sự”[56]. Quan điểm này thừa nhận khơng phải mọi hoạt động trong quá
trình thi hành án và quyết định của tòa án đều nằm trong phạm vi điều chỉnh của
Luật tố tụng, nhưng lại cho rằng thi hành án thực chất là hoạt động tố tụng của tịa
án, của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm bảo đảm cho bản án và quyết
định của tòa án được thi hành một cách chính xác, kịp thời.
Quan điểm thứ hai của PGS.TS Võ Khánh Vinh và TS. Đinh Trung Tụng cho
rằng: “thi hành án là một giai đoạn mang tính hành chính - tư pháp” và khơng thể
đồng nhất hoạt động thi hành án với hoạt động tố tụng. [57]
Xuất phát từ các quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn công tác thi hành
án ở nước ta, nhiều ý kiến đồng tình với quan điểm cho rằng thi hành án là hoạt
động đặc thù, vừa có tính chất của hoạt động hành chính, vừa có tính chất của hoạt
động tư pháp. Về vấn đề này tác giả cho rằng thi hành án là một giai đoạn mang
tính hành chính- tư pháp; Điều này thể hiện trên một số cơ sở sau:
+ Tố tụng là quá trình tiến hành giải quyết các vụ án theo quy định của pháp
luật; quá trình này trải qua nhiều giai đoạn nhưng các giai đoạn có liên quan mật
thiết với nhau trong thể thống nhất và xét xử là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố
tụng cho nên bản án, quyết định của tòa án là kết quả cuối cùng đánh dấu sự kết
thúc của quá trình tố tụng. Do vậy, thi hành án không thể là giai đoạn của tố tụng,
bởi vì thi hành án có mục đích khác với mục đích của tố tụng. Điều này thể hiện ở
10
chỗ, muc đích của tố tụng là xác định các chứng cứ để khôi phục lại trạng thái ban
đầu của sự việc. Nói cách khác, tố tụng là q trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã
diễn ra để trên cơ sở đó đưa ra cách giải quyết vụ việc theo đúng các quy định của
pháp luật. Với mục đích đó, tồn bộ q trình tố tụng diễn ra theo quy trình hết sức
chặt chẽ và phải bảo đảm các ngun tắc như bình đẳng, cơng khai, dân chủ, tơn
trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng… và khi có phán quyết
của tịa án thì quá trình tố tụng kết thúc. Trong khi đó, thi hành án là q trình tiến
hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án và quyết định của tịa án đã có hiệu
lực pháp luật. Vì vậy có thể nói cơ sở của hoạt động thi hành án là các bản án, quyết
định dân sự của tòa án, các cơ quan tham gia vào quá trình thi hành án chủ yếu là cơ
quan tư pháp (theo nghĩa rộng), cũng có thể mơ tả một cách hình ảnh rằng, tố tụng
là quá trình đi tìm chân lý để áp dụng cơng lý (pháp luật); cịn thi hành án là q
trình thực thi chân lý bằng cơng lý. Ở đây chân lý đã rõ, có tội hay vơ tội, đúng hay
sai đã được phân xử rõ ràng, thi hành án chỉ nhằm thực hiện các bản án và quyết
định của tịa án đã có hiệu lực pháp luật. Q trình này có thể do các chủ thể bị thi
hành án tự giác thi hành hoặc do các cơ quan có thẩm quyền (khơng chỉ là tịa án)
buộc các chủ thể đó phải thi hành.
+ Bản chất của thi hành án là dạng hoạt động chấp hành nhưng là chấp hành
phán quyết của cơ quan xét xử với các cách thức và biện pháp khác nhau nhằm
buộc người có nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của Tịa án phải
thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình. Ngồi ra, nó cịn thể hiện rõ tính chất hành
chính, vì thế nó phải thuộc chức năng của quyền hành pháp. Là dạng hoạt động
chấp hành vì thi hành án chỉ được tiến hành trên cơ sở các bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật và trong khn khổ luật định; tồn bộ q trình thi hành án với
những hoạt động, biện pháp, cách thức khác nhau đều nhằm thực hiện những nội
dung đã được tuyên xử trong các bản án, quyết định của Tòa án. Là dạng hoạt động
quản lý vì thi hành án là sự tác động tới đối tượng phải thi hành án để họ tự giác thi
hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định
trong các bản án, quyết định của tịa án. Ngồi ra cũng cần giáo dục họ có ý thức
tơn trọng pháp luật, tơn trọng lợi ích của cá nhân, tơn trọng kỷ luật nhà nước và để
11
trở thành người công dân lương thiện (đối với những người bị kết án phạt tù). Để
thực hiện các hoạt động chấp hành và quản lý nói trên, phương pháp thuyết phục,
giáo dục có ý nghĩa quan trọng, nhưng phương pháp mệnh lệnh, bắt buộc phải thi
hành có tính chất đặc thù, nhất là trong thi hành các bản án hình sự, đây xem như là
phương pháp chủ yếu và có tính tiên quyết.
+ Thi hành án là dạng hoạt động mang tính hành chính - tư pháp vì: một là,
căn cứ để thi hành án là các bản án và quyết định của tịa án; hai là có sự tham gia
của các cơ quan tư pháp (theo nghĩa rộng) tham gia vào quá trình thi hành án. Đây
là quan niệm có nhiều điểm hợp lý. Tuy nhiên, như đã phân tích ở phần trên, căn
bản trong thi hành án là tính chất chấp hành, quản lý và phương pháp bắt buộc,
nghĩa là tính hành chính thể hiện sự nổi trội, cơ bản, quán xuyến xuyên suốt quá
trình thi hành án. Vấn đề cần đặt ra ở đây là có thể xác định được mức độ, liều
lượng của tính hành chính và tính tư pháp trong thi hành án hay không?. Thực tiễn
cũng cho thấy rằng, đặc điểm của mỗi loại hình thi hành án cũng như của mỗi nhóm
vụ việc trong từng loại hình thi hành án quy định mức độ của tính hành chính và
tính tư pháp. Theo tác giả, trong thi hành án, tính tư pháp ln thể hiện ở mức độ
hạn chế hơn so với tính hành chính.
Qua phân tích trên, có thể hiểu khái niệm thi hành án như sau: “Thi hành án là
hoạt động hành chính - tư pháp của Nhà nước, do các cơ quan Nhà nước, người có
thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để đưa bản án,
quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật được thực thi trong thực tế, nhằm
đảm bảo lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, bảo
vệ trật tự an toàn xã hội, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa”
Trong bản án, quyết định hình sự, ngồi phán quyết về trách nhiệm hình sự,
cịn có các phán quyết liên quan đến trách nhiệm dân sự mà theo quy định của Luật
Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì các phán quyết về
tiền, tài sản trong bản án, quyết định hình sự do cơ quan thi hành án dân sự tổ chức
thi hành.
Việc thi hành án phần tiền, tài sản trong bản án, quyết định hình sự trước hết
phải tuân thủ trình tự, thủ tục chung được Luật thi hánh án dân sự quy định như đối
12
với các vụ việc thi hành án thông thường; Bên cạnh đó, Chấp hành viên cần cân
nhắc những yếu tố mang tính đặc thù để đảm bảo q trình thi hành án đạt hiệu quả.
Ngoài những quy định chung về thủ tục thi hành án, Luật thi hành án dân sự năm
2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) dành 01 mục với 08 điều (từ Điều 122 đến Điều
129) quy định về thi hành các khoản tịch thu sung quỹ nhà nước, tiêu hủy tang vật,
hoàn trả tiền, xử lý tài sản kê biên, tạm giữ trong bản án, quyết định hình sự.
Những bản án, quyết định hình sự của Tòa án được thi hành theo thủ tục thi
hành án dân sự bao gồm 02 loại:
Thứ nhất, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, gồm:
a) Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm;
b) Bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;
c) Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án;
Thứ hai, những bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành ngay,
mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị như:
a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi
việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về
tính mạng, sức khỏe, tổn thất tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc;
b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
Theo quy định của pháp luật, những bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực
pháp luật, hoặc chưa có hiệu lực được thi hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo,
kháng nghị như đã nêu trên, khi đưa ra thi hành phải được thực hiện bởi một trình
tự, thủ tục rất nghiêm ngặt theo luật định.
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành đối
với phần bản án, quyết định về hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính,
án phí; trả lại tiền, tài sản cho đương sự; tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu
huỷ vật chứng, tài sản; thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung
quỹ nhà nước và quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
13
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định,
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định thi hành án. Trong thời
hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời do
Toà án chuyển giao hoặc do đương sự giao trực tiếp, Thủ trưởng cơ quan thi hành
án dân sự phải ra quyết định thi hành án và phân công Chấp hành viên tổ chức thi
hành.
Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định thi hành án, Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành
quyết định thi hành án đó.
Từ những cơ sở phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm thi hành các quyết định
dân sự trong bản án hình sự như sau “Thi hành quyết định dân sự trong bản án hình
sự của Tịa án là hoạt động hành chính- tư pháp, là nhiệm vụ của các cơ quan Thi
hành án dân sự, được chấp hành viên thực hiện theo trình tự thủ tục do Luật
THADS qui định nhằm đưa bản án hình sự được thực thi trong thực tế, buộc người
bị kết án phải thực hiện quyết định về hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiềntài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, án phí; thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng, bồi
thường thiệt hại về tình trạng sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, bồi thường thiệt hại
về tài sản…Góp phần đảm bảo lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền lợi ích hợp
pháp của cơng dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
1.2.1.2. Đặc điểm
Từ góc độ tiếp cận về khái niệm về thi hành quyết định dân sự trong bản án
hình sự, trên cơ sở quy định của pháp luật hiện hành và từ thực tiễn cơng tác thi
hành án dân sự có thể rút ra những đặc điểm của thi hành quyết định dân sự trong
bản án hình sự như sau:
Thứ nhất, thi hành quyết định dân sự trong bản án hình sự là hoạt động mang bản
chất hành chính - tư pháp, tính quyền lực nhà nước
- Tính hành chính thể hiện ở chỗ: thi hành quyết định dân sự trong bản án
hình sự là dạng hoạt động chấp hành, quản lý.
14
+ Thi hành quyết định dân sự trong bản án hình sự là dạng hoạt động chấp
hành vì nó thực hiện từ cơ sở các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và
trong khn khổ quy định của pháp luật; từ quá trình thi hành với những biện pháp,
cách thức khác nhau đều nhằm thực hiện những nội dung đã được án tuyên và theo
các quy định của pháp luật có liên quan.
+ Thi hành quyết định dân sự trong bản án hình sự là dạng hoạt động quản lý
vì nó có sự tác động của pháp luật chuyên ngành và các luật khác có liên quan tác
động tới đối tượng phải thi hành án để họ tự nguyện thi hành hoặc áp dụng các biện
pháp nghiêm khắc buộc họ phải thi hành, giáo dục người bị kết án có ý thức tơn
trọng pháp luật, tơn trọng lợi ích của nhà nước, của tổ chức và của cá nhân.
- Tính tư pháp thể hiện ở chỗ:
+ Thi hành quyết định dân sự trong bản án hình sự có căn cứ thi hành là các
bản án, quyết định của Tịa án, đồng thời có sự tham gia của các cơ quan tư pháp
trong quá trình thi hành án. Tính tư pháp ở đây hiểu theo nghĩa rộng. Thực tiễn
nước ta cho thấy,các cơ quan tư pháp thường được hiểu đó là các cơ quan: TAND,
VKSND, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án dân sự.
Xét về tính quy định chung trên mặt bằng các nước trên thế giới thì việc xác định
này còn bất cập. Bởi lẽ, về cơ sở lý luận nhiều quốc gia trên thế giớ đều xem quyền
tư pháp là quyền xem xét và phán quyết các vi phạm pháp luật, các tranh chấp; Tòa
án là cơ quan độc lập duy nhất. VKS (hay công tố) chỉ là cơ quan tham gia các hoạt
động tư pháp.
Tính chất hành chính - tư pháp là một đặc điểm quan trọng trong khi quy định
về tổ chức và hoạt động của thi hành án. Nó là hoạt động thuộc quản lý của hệ
thống các cơ quan hành pháp nên trong các quy định của pháp luật thi hành án phải
xác định rõ trách nhiệm chính trong tổ chức quản lý.
Thứ hai, chủ thể thi hành quyết định dân sự trong bản án hình sự là cơ quan
THADS, Chấp hành viên và các đương sự.
Từ thực tiễn cho thấy, quan hệ THADS luôn tồn tại rõ nét là cơ quan THADS,
CHV và người được, người phải thi hành án, được hình thành trên căn cứ bản án
15
của Tòa án và các cơ quan hữu quan khác theo quy định của pháp luật. Cơ quan thi
hành án và chấp hành viên là chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước để thi hành bản
án theo quy định. Về nguyên tắc mang tính chủ động, độc lập của Chấp hành viên
trong tác nghiệp phải được tôn trọng và bảo vệ. Chấp hành viên phải căn cứ vào nội
dung bản án, quyết định, tính chất mức độ của việc thi hành quyết định dân sự trong
bản án hình sự, điều kiện của người phải thi hành án…và tình hình thực tế của địa
phương để áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết nếu người phải thi hành án không
tự nguyện thi hành.
Thứ ba, thi hành quyết định dân sự trong bản án hình sự được thực hiện theo
trình tự, thủ tục nghiêm ngặt theo luật định.
Trình tự thủ tục THADS là một cơ chế chặt chẽ nhằm phục vụ cho quy trình
thi hành án đúng pháp luật. Điều đầu tiên là phải đảm bảo tính chính xác, khách
quan. Trình tự này thể hiện ngay từ thời điểm nhận bản án của Tòa án hoặc nhận
đơn yêu cầu của người phải thi hành án, xác minh điều kiện thi hành án, thông báo
thi hành án, cưỡng chế thi hành án…Việc đảm bảo các trình tự, thủ tục thể hiện tính
dân chủ, công khai, công bằng, là cơ sở đảm bảo cho việc thi hành đạt hiệu quả đối
với các bản án của Tịa án. Trong thực tế, cho thấy khơng ít chấp hành viên áp dụng
pháp luật không đúng đã phải thực hiện việc bồi thường nhà nước, thậm chí chấp
hành viên bị xử lý kỷ luật, xử lý hình sự.
Thứ tư, thi hành quyết định dân sự trong bản án hình sự với thi hành bản án
dân sự có những điểm tương đồng, nhưng cũng có những nét đặc thù riêng.
Đặc điểm của thi hành quyết định dân sự trong bản án hình sự là phải có tính
chất pháp lý, nghĩa là phải do pháp luật qui định. Vì thế, những quyết định không
được qui định trong các văn bản pháp luật thì khơng phải là quyết định dân sự trong
bản án hình sự. Nội dung của quyết định dân sự trong bản án hình sự chỉ bao gồm
những phán quyết của Tòa án về những vấn đề dân sự. Đây là những quyết định về
hình phạt tiền, hình phạt tịch thu tài sản; về án phí; quyết định tịch thu vật, tiền liên
quan trực tiếp đến tội phạm; quyết định trả lại tài sản, sửa chữa bồi thường thiệt hại,
quyết định cơng khai xin lỗi v.v…Về hình thức thể hiện: các quyết định dân sự nêu
16
trên phải được thể hiện trong bản án, quyết định hình sự. Về chủ thể có thẩm quyền
ban hành các quyết định này phải do Tịa án có thẩm quyền ban hành. Về đối tượng
phải chấp hành: cá nhân người bị kết án hoặc pháp nhân thương mại bị kết án.
Những cá nhân, tổ chức này buộc phải chấp hành, bởi đó là nghĩa vụ pháp lý của
họ. Việc thi hành quyết định dân sự trong bản án hình sự với thi hành bản án dân sự
đều giống nhau là phải tuân thủ đúng quy trình luật định đã được quy định trong
Luật THADS 2008 (sửa đổi bổ sung năm 2014) và các văn bản hướng dẫn khác có
liên quan. Sự khác nhau cơ bản nhất đó là về đối tượng phải thi hành án. Đặc thù
của đối tượng phải thi hành quyết định dân sự trong bản án hình sự là người phải
gánh chịu hai trách nhiệm pháp lý về cùng một hành vi phạm tội đó là trách nhiệm
hình sự và trách nhiệm dân sự. Họ là những người đã từng có tiền án, tiền sự, hoặc
đang thụ hình ở các trại giam, trại cải tạo, hoặc thường sống lang thang, không nơi
cư trú rõ ràng, hoặc xét về mặt tâm lý khi được tha tù do tự ti, mặc cảm thân phận,
họ tự bỏ địa phương đi nơi khác mà khơng báo cho chính quyền địa phương biết.
Trong thực tế cũng cho thấy đối tượng phạm các tội trộm cắp, cướp giật, cố ý gây
thương tích, giết người… đa số là đối tượng nghèo khó khơng có tài sản gì để thi
hành. Bên cạnh đó, khơng ít trường hợp họ cho rằng tội trạng của họ đã đánh đổi
bởi những ngày tháng trong tù nên không quan tâm đến phần trách nhiệm về mặt
dân sự.
1.2.2. Ý nghĩa
Có thể khái quát ý nghĩa của việc thi hành quyết định dân sự trong bản án hình
sự như sau:
Một là: đảm bảo hiệu lực pháp luật và hiệu quả thực tế của các quyết định
dân sự trong bản án hình sự.
Để bản án, quyết định của Tòa án đi vào thực tiễn cuộc sống, thể hiện tính
nghiêm minh của pháp luật. Nhất thiết phải đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp
pháp của các đương sự, việc áp dụng các biện pháp tích cực, tối ưu của cơ quan
THADS, suy cho cùng là đạt được mục đích: “Mọi bản án, quyết định của TAND
có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ
17
chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” theo đúng quy định tại Điều
106, Hiến pháp năm 2013.
Với tính chất đặc thù của cơng tác THADS, đó là hoạt động này thường liên
quan đến nhiều tổ chức, cá nhân khác nhau trong xã hội và thường gắn chặt đến
quyền sở hữu tài sản của công dân. Do vậy, THADS dễ dẫn đến quyền con người,
quyền cơng dân, vì thế cần phải có cơ chế giám sát, kiểm tra đối với hoạt động
THADS. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, hiện nay có rất nhiều cá nhân, cơ
quan, tổ chức thực hiện việc kiểm tra, giám sát như: Quốc hội, HĐND các cấp, Mặt
trận tổ quốc, Ban chỉ đạo thi hành án… và thường xuyên nhất là của Viện kiểm sát
nhân dân các cấp, điều này đảm bảo cho hoạt động thi hành án được thực hiện đúng
pháp luật, đạt hiệu quả hơn; Song từ thực tế cho thấy rất cần thiết có những quy
định phù hợp nhằm hạn chế sự can thiệp khơng có căn cứ pháp luật vào hoạt động
của các cơ quan thi hành án và của các chấp hành viên.
Hai là, Thi hành quyết định dân sự trong bản án hình sự là một trong những
phương thức quan trọng để bảo vệ quyền lợi của người được thi hành án, quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức cũng như lợi ích chung của Nhà nước và xã hội.
Trong quá trình thi hành án, pháp luật THADS quy định và bảo vệ quyền được
tự nguyện, quyền được tự thỏa thuận giữa các bên đương sự,. Việc tăng cường giáo
dục, thuyết phục đương sự, thân nhân của đương sự tự nguyện thi hành án không
chỉ đặt ra đối với những vụ việc thi hành phần tiền, tài sản trong các bản án, quyết
định hình sự, mà cịn là u cầu cần thiết đối với việc thi hành các bản án, quyết
định nói chung. Tuy nhiên, đối với các vụ việc thi hành các quyết định dân sự trong
bản án hình sự thì vấn đề giáo dục, thuyết phục đương sự và thân nhân của đương
sự tự nguyện thi hành án cần được Chấp hành viên đặc biệt quan tâm.
Trong thực tiễn công tác, chúng tôi thấy rằng, đương sự trong các vụ án hình
sự thường là người khơng có tài sản hoặc có tài sản nhưng khơng đủ để thi hành án
và có thái độ bất hợp tác với cơ quan thi hành án, chính vì thế, việc thuyết phục họ
tự nguyện thi hành án sẽ giúp cho quá trình thi hành án thuận lợi hơn. Ngoài ra, đối
với loại đối tượng phải thi hành án khơng có tài sản, thì Chấp hành viên cần thuyết
18
phục cho những người thân của đương sự hỗ trợ đương sự trong việc thi hành án để
quá trình thi hành án đạt kết quả.
Trong quá trình tác nghiệp, Chấp hành viên cần vận dụng kỹ năng dân vận, tác
động đến tâm lý của đương sự, thân nhân của đương sự để đưa họ đến hành vi tự
nguyện thi hành án. Để việc giáo dục, thuyết phục đạt kết quả thì Chấp hành viên
cần nắm bắt rõ những quy định pháp luật hiện hành về đặc xá, trong đó xác định
việc hoàn thành việc thi hành quyết định dân sự trong bản án hình sự là một trong
những tiêu chí để được xét đặc xá.
Không giống nhiều nước trên thế giới quy định Tịa án là cơ quan có thẩm
quyền ra quyết định thi hành án. Ở Việt Nam thẩm quyền này đã được chuyển giao
cho cơ quan thi hành án dân sự từ tháng 7 năm 1993. Xét cho cùng, mặc dù thẩm
quyền ra quyết định tổ chức thi hành án khác nhau, tuy nhiên có điểm chung trong
pháp luật các nước, đó là đảm bảo kiểm sốt việc sử dụng biện pháp chế tài trong
THADS, nghĩa là chỉ Nhà nước mới có quyền thực hiện việc cưỡng chế thi hành án.
Nhà nước giao cho cơ quan thi hành án, Chấp hành viên thực hiện. Mọi cá nhân, tổ
chức khác không được phép sử dụng quyền lực buộc người khác thực hiện nghĩa vụ
của họ nếu pháp luật không cho phép.
Khi bàn về cưỡng chế thi hành án, Giáo sư Claude Brenner, trường Đại học
Panthe1on- Assas cho rằng: “Trong một nhà nước pháp quyền, cơ quan quyền lực
nhà nước là cơ quan duy nhất có thẩm quyền thực hiện cưỡng chế thi hành án. Do
đó, cưỡng chế thi hành án chỉ liên quan đến các cơ quan quyền lực nhà nước. Khi
tiến hành cưỡng chế thì hành, cơ quan quyền lực Nhà nước cần có sự hỗ trợ của
quyền lực công. Các cá nhân không thể thao túng hoạt động này, cũng như không
thể làm sai lệch việc tổ chức thực hiện cưỡng chế theo quy định của pháp luật. Bởi
đây là hoạt động dựa trên cơ sở quyền lực” .
Khi nói về ý nghĩa của hoạt động thi hành án dân sự (THADS), nguyên Thủ
tướng Chính phủ Phan Văn Khải cho rằng: “Thi hành án dân sự là cơng việc có
nhiều khó khăn, phức tạp nhưng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ pháp
chế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, duy trì kỷ cương phép nước.
19