Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh đồng nai (luận văn thạc sỹ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.86 KB, 77 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mahatma Gandhi – vĩ nhân lớn của đất nước Ấn Độ đã từng nói “Cơng
lý mà tình u mang lại là sự đầu hàng, công lý mà luật pháp mang lại là sự
trừng phạt. Justice that love gives is a surrender, justice that law gives is a
punishment”.
Đúng vậy, khi pháp luật ẩn chứa đằng sau sự trừng trị là tính nhân đạo
nhân văn, việc áp dụng pháp luật nhằm giúp cho người phạm tội sửa chữa
những lỗi lầm, phát huy phần NGƯỜI trong bản chất con người của mình.
Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49/NQ-TW về
Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020; trong đó, xác định nhiệm vụ “coi
trọng việc hồn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao
hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm
tội”[16, Tr4].
Miễn trách nhiệm hình sự (TNHS) là một trong những chế định quan
trọng của Luật Hình sự Việt Nam thể hiện rõ nét nhiệm vụ nêu trên. Đây là
biện pháp mang tính chất khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước ta, thông qua
việc các cơ quan tiến hành tố tụng quyết định xoá bỏ hậu quả pháp lý cho
người thực hiện hành vi phạm tội mà hành vi đó đã đủ yếu tố cấu thành tội
phạm. Quy định này tạo điều kiện cho người phạm tội có mơi trường để tự cải
tạo, giáo dục, nhanh chóng trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội mà
khơng phải gánh chịu các hậu quả pháp lý bất lợi của TNHS.
Chế định miễn TNHS trong BLHS năm 2015 được xây dựng dựa trên
tinh thần kế thừa những quy định của BLHS 1985 và BLHS năm 1999 với
nhiều nội dung mới quán triệt tinh thần của Hiến pháp 2013, đề cao tính tích
cực, hướng thiện của con người. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng pháp luật,
do một số nội dung miễn TNHS vẫn còn bất cập nên dẫn đến việc các cơ quan

1



tiến hành tố tụng nhận thức không đúng, áp dụng pháp luật khơng thống nhất,
chẳng hạn: tình tiết do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội khơng
cịn nguy hiểm cho xã hội nữa khơng rõ ràng, tiêu chí xác định bệnh hiểm
nghèo chưa cụ thể, cho phép miễn TNHS mang tính tùy nghi dẫn đến việc áp
dụng tùy tiện... Vì vậy, cần có sự quan tâm nghiên cứu quy định về miễn
TNHS tại Điều 29 BLHS năm 2015 một cách thấu đáo trên cơ sở phát hiện
các vướng mắc, bất cập từ thực tiễn áp dụng pháp luật để đề xuất những giải
pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chế định này.
Đồng Nai là một tỉnh nằm ở cửa ngõ phía đơng Thành phố Hồ Chí Minh
và là một tỉnh nằm trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam. Với
nền kinh tế phát triển năng động, Đồng Nai cũng đang đứng trước những
thách thức về tình hình phát triển tội phạm gia tăng, việc đấu tranh phòng,
chống các loại tội phạm đang đè nặng lên vai trò của các cơ quan tư pháp
trong việc áp dụng pháp luật hình sự.
Từ những lý do trên, tác giả quyết định chọn đề tài “Miễn trách nhiệm
hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Miễn TNHS là chế định thể hiện rõ nét nhất chính sách phân hố TNHS
và chính sách nhân đạo của luật hình sự. Chính vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu
luật học trong và ngoài nước rất quan tâm đến đề tài này.
2.1. Tình hình nghiên cứu ngồi nước
Liên quan đến đề tài nghiên cứu, có các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi
gồm một số cơng trình nghiên cứu bằng tiếng Anh và tiếng Nga, cụ thể như sau:

Thứ nhất, về cơng trình nghiên cứu bằng tiếng Anh:
- Michael Bogdan (chủ biên), Mục 4 - Miễn trách nhiệm hình sự, trong
sách: Luật hình sự Thụy Điển trong kỷ nguyên mới, Nxb. Elanders Gotab,
Stockholm, 2000;

2



- TS. AgnêBaransKaitê và TS. Jonas Prapistis, Miễn trách nhiệm hình
sự và mối quan hệ với Hiến pháp và tư pháp, Tạp chí Tư pháp, Cộng hịa
Látvia, số 7 (85)/2006;
- GabrielHallevy, The Matrix of Derivative Criminal Liability, Nxb.
Spinger, London, 2012;
- Iveta VitkutėZvezdinienė, Exemption from Criminal Liability: the
Problems of the Implementation of the Presumption of Innocence Principle,
Social Studies Journal, Lithuania,số 04/2009;
Thứ hai, về cơng trình nghiên cứu bằng tiếng Nga:
- Iakovlev A. M, “Cuộc đấu tranh chống tình trạng tái phạm”, Maxcova, 1964;

- Bagri-Sakhamatov L.V, “Trách nhiệm hình sự và hình phạt”, NXb. Đại
học, Minsk, 1976;
- TkatrevxkiIu. M, “Trách nhiệm hình sự và cơ sở của trách nhiệm hình
sự”. Chương 2 – Trong sách: Luật hình sự Xơ Viết (Phần chung), Nxb.
ĐHTH Maxcova, 1981;
- Naumov A. V. “Trách nhiệm hình sự và cơ sở của trách nhiệm hình
sự”. Chương 10 – Trong sách: Giáo trình Luật hình sự (Phần chung), Nxb.
XPARK, Maxcova, 1996,…
Những cơng trình nghiên cứu này đã tổng hợp những vấn đề lý luận về
TNHS nói chung, đây là những vấn đề được các nhà luật học trên thế giới
thừa nhận về khái niệm, bản chất của TNHS nói chung. Những vấn đề lý luận
của TNHS được đề cập đến trong các cơng trình trên là cơ sở quan trọng để
tác giả tiếp cận dưới góc độ miễn TNHS của pháp luật Việt Nam.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Với tư cách là một chế định cơ bản của Luật Hình sự, miễn TNHS thu
hút sự quan tâm nghiên cứu của đông đảo các học giả trong nước, được thể
hiện qua các cơng trình nghiên cứu như sau:


3


2.2.1. Nhóm các luận án, luận văn, Khóa luận
-

Trịnh Tiến Việt, “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về miễn trách nhiệm

hình sự theo luật hình sự Việt Nam”, luận án tiến sĩ luật học, Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội, năm 2008. Trong cơng trình nghiên cứu tầm tiến sĩ này
tác giả đã phân tích những vấn đề cơ bản miễn TNHS và thực tiễn áp dụng
chế định này theo quy định của BLHS năm 1999.
- Mai Khắc Phúc, Biện pháp miễn, giảm trách nhiệm hình sự trong Bộ
luật Hình sự 1999, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường đại học Luật TPHCM,
năm 2006; trong luận văn tác giả đề cập vấn đề lý luận, thực tiễn của các biện
pháp miễn TNHS theo quy định của BLHS năm 1999.
- Mai Thị Thuỷ, Miễn, giảm trách nhiệm hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội trong Luật Hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường
ĐH Luật TPHCM, năm 2013.
-

Đặng Ngọc Huy, Miễn trách nhiệm hình sự theo Luật Hình sự Việt

Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm
2015;
-

Võ Chí Vương, Miễn, giảm trách nhiệm hình sự trong chấp hành án


theo pháp luật Hình sự Việt Nam. Lý luận và thực tiễn, Khoá luận tốt nghiệp,
Trường đại học Luật TPHCM, năm 2002,
- Đỗ Thị Thư Nhàn, Biện pháp miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật
Hình sự Việt Nam năm 1999 – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Khoá luận
tốt nghiệp, Trường đại học Luật TPHCM, năm 2012;
- Trần Thị Thơ, Biện pháp miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình
sự 1999. Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp, Trường đại
học Luật TPHCM, năm 2015.
- Nguyễn Ngọc Thương, Miễn trách nhiệm hình sự trong Luật Hình sự
Việt Nam, Khố luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật TPHCM, 1999.

4


Qua tiếp cận các cơng trình trong nước cho thấy rằng đề tài miễn TNHS
được rất nhiều nhà khoa học quan tâm. Đây cũng là nguồn tư liệu phong phú
làm nền tảng cho tác giả nghiên cứu đề tài của mình. Tuy nhiên, các cơng
trình nghiên cứu trên, một mặt chỉ nghiên cứu những vấn đề chung của miễn
TNHS hoặc là đi vào các biện pháp miễn TNHS cụ thể.
Về thực tiễn, do hầu hết các cơng trình trên nghiên cứu trước năm 2015
nên chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu áp dụng các quy định của BLHS năm
1999. Điều đó cho thấy việc miễn TNHS theo Điều 29 BLHS 2015 vẫn đang
còn bỏ ngỏ, đặc biệt là một số trường hợp miễn TNHS mới mà BLHS 2015
mới bổ sung. Đây là nhiệm vụ mà trong đề tài nghiên cứu này tác giả sẽ làm
sáng tỏ.
2.2.2. Nhóm các sách chuyên khảo, giáo trình
Chế định miễn TNHS được đề cập đến trong các sách chuyên khảo như:
- Chương XVIII Miễn trách nhiệm hình sự, trong sách: Giáo trình luật
hình sự Việt Nam (Phần chung). Tập thể tác giả do GS.TS. Võ Khánh Vinh
chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001;

- TSKH. Lê Cảm, “Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong luật hình sự
Việt Nam” (Nhà nước và pháp luật Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI, Nhà xuất
bản Công an nhân dân, năm 2002) ;
- TS. Trịnh Tiến Việt, “Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình
sự“(Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2010), Chương 3, Trong sách: Tội phạm và
trách nhiệm hình sự, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013 và Pháp luật hình
sự Việt Nam về miễn trách nhiệm hình sự và thực tiên áp dụng, Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2013;
- TS.Uông Chu Lưu, “Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Nam
1999” – Tập 1. Phần chung (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2001) đã
đề cập đến vấn đề miễn TNHS và phân tích các trường hợp miễn TNHS.

5


Vấn đề miễn TNHS là một nội dung lớn trong Luật Hình sự. Vì vậy, từ
xưa đến nay, từ Đơng sang Tây, các cơng trình nghiên cứu lý luận về vấn đề
này rất phong phú- đây là nguồn tư liệu quý giá làm cơ sở nền tảng vững chắc
cho tác giả tiếp cận đề tài của mình. Tuy nhiên, tác giả nhận thấy các cơng
trình nghiên cứu trên chủ yếu phân tích về lý luận và quy định của pháp luật
về miễn TNHS trên cơ sở BLHS 1999 và BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung
2009). Ngồi ra, một số cơng trình đưa ra những đánh giá chi tiết thực trạng
dựa trên số liệu của tình hình áp dụng các biện pháp miễn TNHS trên thực tế.
Từ đó, nêu lên những bất cập, hạn chế của quy định pháp luật còn tồn tại và
đưa ra phương hướng giải quyết phù hợp.
2.2.3. Nhóm các bài viết, bài báo
Nghiên cứu về đề tài này, hiện nay có nhiều bài viết, bài báo có nội dung
liên quan. Tuy nhiên, tác giả chỉ chọn lọc một số bài viết, bài báo viết về chế
định này theo quy định của BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm
2017), cụ thể như sau:

- Tác giả Trịnh Việt Tiến trong bài viết “Miễn trách nhiệm hình sự theo
Bộ luật Hình sự năm 2015 và những vấn đề đặt ra trong q trình áp dụng”
trên tạp chí Luật học, số 07 năm 2016. Trên cơ sở phân tích các quy định của
Bộ luật Hình sự năm 2015 về miễn TNHS, bài viết nêu lên những vấn đề đặt
ra trong quá trình áp dụng và đề xuất hướng sửa đổi phù hợp.
- Tác giả Phạm Mạnh Hùng trong bài viết “Một số ý kiến về các quy
định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về chế định miễn trách nhiệm hình sự và
miễn hình phạt” trên tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 02 năm 2016. Nội dung
chủ yếu của bài viết là phân tích quy định mới về miễn TNHS và miễn hình
phạt của BLHS 2015 so với BLHS 1999. Từ đó, nêu lên những bất cập cần
được hoàn thiện của hai chế định này trên thực tế.

6


- Tác giả Đinh Văn Quế trong bài viết Chế định miễn trách nhiệm hình
sự trong Bộ luật Hình sự 2015 trên tạp chí Luật sư Việt Nam, số 10 năm
2017. Bài viết phân tích từng trường hợp cụ thể của việc áp dụng biện pháp
miễn TNHS tại Điều 29 BLHS 2015 trên cơ sở quy định pháp luật và thực tế
áp dụng. Từ đó tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp
luật này.
-

Tác giả Lê Nam trong bài viết Bàn về trường hợp miễn trách nhiệm

hình sự theo Bộ luật Hình sự Việt Nam trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số
09 năm 2016. Nội dung bài viết xoay quanh giải quyết các vấn đề về lý luận
chung về miễn trách nhiệm hình sự, giới thiệu về các trường hợp miễn TNHS
trong BLHS 2015. Bên cạnh đó, bài viết đặt ra vấn đề khi áp dụng và đề xuất
hướng giải quyết cụ thể cho trường hợp miễn TNHS tại khoản 3 Điều 29

BLHS 2015.
Mặt khác, một số tác giả cũng có cơng trình nghiên cứu về chế định miễn
trách nhiệm hình sự theo các mức độ khác như: 1) Chế định miễn trách nhiệm
hình sự trong luật hình sự Việt Nam (Tạp chí Khoa học (KHXH), số 4/1997)
của TS. Nguyễn Ngọc Chí; 2) Về chế định miễn trách nhiệm hình sự theo luật
hình sự Việt Nam (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3/1988) và về chế định
miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999 (Tạp chí Dân chủ
và pháp luật, số 12/2001) của PGS.TS Phạm Hồng Hải; 3) Trách nhiệm hình
sự và miễn trách nhiệm hình sự (Tạp chí Luật học, số 5/1997) của TS. Lê Thị
Sơn; 4) Một số ý kiến về miễn trách nhiệm hình sự (Tạp chí Tịa án nhân dân,
số 2/1993) và Hồn thiện các quy định của luật tố tụng hình sự về đình chỉ
điều tra và đình chỉ vụ án (Tạp chí Kiểm sát, số 5/2002) của tác giả Phạm
Mạnh Hùng; 5) Những trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự theo Điều
48 Bộ luật hình sự (Tạp chí Kiểm sát, số chuyên đề về Bộ luật hình sự, số
4/1999) của tác giả Thái Quế Dung; 6) Miễn trách nhiệm hình sự trong trường
hợp "Do sự chuyển biến của tình hình mà người phạm tội khơng cịn

7


nguy hiểm cho xã hội nữa" theo quy định của Điều 25 Bộ luật hình sự (Tạp
chí Kiểm sát, số 1/2002) của tác giả Nguyễn Hiển Khanh; 7) Phân biệt miễn
trách nhiệm hình sự với miễn hình phạt (Tạp chí Khoa học pháp lý, số
2/2004) của TSKH Lê Cảm và Trịnh Tiến Việt; 8) Hoàn thiện các quy định về
miễn trách nhiệm hình sự (Tạp chí Kiểm sát, số 5/2004); Về chế định miễn
trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, Tạp chí Khoa
học, chun san Kinh tế.
Nghiên cứu các bài viết trên các tạp chí khoa học cho thấy do chỉ dừng
lại ở góc độ là bài viết học thuật được giới thiệu trên tạp chí nên phạm vi
nghiên cứu chưa bao quát hết các vấn đề về biện pháp miễn TNHS theo quy

định của BLHS 2015.
Việc tìm hiểu các bài viết giúp tác giả hiểu sâu về vấn đề cần nghiên cứu,
để từ đó định hướng nghiên cứu cho cơng trình của mình một cách phù hợp.
Vấn đề về miễn TNHS là một vấn đề không mới nhưng trong những nội dung
về miễn TNHS tại Điều 29 BLHS 2015 đã có sự thay đổi đáng kể. Mặt khác
vấn đề áp dụng miễn TNHS trên địa bàn tỉnh Đồng Nai được áp dụng phù hợp
với thực tiễn của địa phương là một vấn đề cần nghiên cứu.
Dựa trên những tài liệu đã nghiên cứu, với khố luận này, tác giả khơng
chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về miễn TNHS mà còn đi sâu vào
phân tích từng trường hợp cụ thể của nội dung miễn TNHS tại Điều 29 BLHS
2015 trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Tác giả tập trung phân tích và làm rõ những
điểm mới, khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan nhằm đề
xuất những kiến nghị phù hợp trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật. Vì
vậy, nghiên cứu về miễn TNHS từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai đạt được mục tiêu
tính mới của đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

8


Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luật, pháp luật và nghiên cứu
thực trạng áp dụng pháp luật về các trường hợp miễn TNHS tại Điều 29
BLHS 2015 từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai, tác giả đánh giá thực trạng cũng như
những vướng mắc, bất cập của pháp luật hiện hành và đề xuất, kiến nghị, giải
pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chế định miễn TNHS theo quy định
của BLHS 2015 nhằm mục đích xây dựng được khung pháp lý an toàn cho
việc áp dụng, bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Căn cứ việc xác định mục đích từ cơ sở nêu trên, luận văn được tiến

hành nghiên cứu như sau:
- Thứ nhất, về mặt lý luận cần phân tích và làm sáng tỏ khái niệm, nội
dung, đặc điểm phân loại của miễn trách nhiệm hình sự.
- Thứ hai, khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy phạm về
miễn TNHS để có cái nhìn xun suốt về tư duy pháp lý của một quá trình
lịch sử đối với vấn đề miễn TNHS từ sau năm 1945 đến nay.
- Thứ ba, nghiên cứu vấn đề miễn TNHS của một số nước trên thế giới;
đặc biệt, là các nước có tầm ảnh hưởng đến pháp luật Việt Nam như: pháp luật
của Cộng Hoà Liên bang Nga; của Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào…trên cơ
sở có cái nhìn so sánh một cách toàn diện.
- Thứ tư, nghiên cứu thực tiễn áp dụng vấn đề miễn TNHS từ địa bàn
tỉnh Đồng Nai, tìm ra những hạn chế, vướng mắc để đưa ra các giải pháp hoàn
thiện việc áp dụng pháp luật về chế định miễn TNHS.

9


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu vấn đề áp dụng miễn TNHS trong
phạm vi tỉnh Đồng Nai.
- Về thời gian: Các bản án, quyết định đình chỉ điều tra, quyết định đình
chỉ vụ án mà luận văn nghiên cứu áp dụng miễn TNHS từ năm 2015-2020.
- Nội dung nghiên cứu: Với một dung lượng của đề tài luận văn nghiên
cứu trong phạm vi địa phương là địa bàn tỉnh Đồng Nai, luận văn không
nghiên cứu tất cả các trường hợp miễn TNHS theo Điều 29 BLHS năm 2015
trên phạm vi cả nước mà luận văn chỉ tập trung nghiên cứu quy định pháp luật
và thực tiễn áp dụng quy định pháp luật liên quan đến các trường hợp miễn

TNHS từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Việc nghiên cứu luận văn được vận dụng từ cơ sở hệ thống quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt
Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN; những thành tựu của các
ngành khoa học: Triết học, tội phạm học, luật hình sự, tâm lý học, xã hội học.
Các cơng trình nghiên cứu, sách nghiên cứu, sách chuyên khảo của các nhà
khoa học trong nước.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của các cơ
quan tiến hành tố tụng liên quan đến áp dụng các tình tiết miễn TNHS theo
quy định của BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm
2017).

10


5.3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương
pháp: Lịch sử, lơgíc, hệ thống, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh pháp
luật...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả áp dụng chế định miễn
TNHS theo quy định tại Điều 29 BLHS năm 2015 trong thực tiễn điều tra,
truy tố, xét xử.
Những giải pháp đề cập trong đề tài luận văn giúp các cơ quan có thẩm
quyền xem xét, nghiên cứu áp dụng, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng chế

định miễn TNHS theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam.
Luận văn nêu trên có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự
cũng như việc áp dụng chế định miễn TNHS của các cơ quan tiến hành tố
tụng...
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo. Nội dung của luận văn được chia thành ba chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về miễn trách nhiệm hình
sự theo luật hình sự Việt Nam
- Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về miễn trách
nhiệm hình sự trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
- Chương 3: Một số kiến nghị nhằm bảo đảm áp dụng đúng các quy định
của pháp luật về miễn trách nhiệm hình sự trên địa bàn tỉnh Đồng Nai

11


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ MIỄN TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm miễn trách nhiệm hình sự
1.1.1. Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, được áp dụng đối
với người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, được thể hiện bằng việc người
phạm tội bị áp dụng một hoặc nhiều các biện pháp cưỡng chế hình sự khác
nhau của Nhà nước do Luật Hình sự quy định.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, tuy có nhiều cách thể hiện khác
nhau, song tựu trung lại các nhà khoa học luật hình sự nước ta về cơ bản đều
thống nhất về nội hàm của khái niệm TNHS- là hậu quả pháp lý bất lợi được

áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội và được thể hiện bằng việc
áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự
quy định [7, tr. 122], [13, tr. 14], [27, tr. 281-282], [32, tr. 14], [50, tr. 65].
Trong Luận án tiến sỹ luật học của Trịnh Tiến Việt cho rằng “trách
nhiệm hình sự được hiểu là một dạng của trách nhiệm pháp lý và là hậu quả
pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp
dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự quy
định đối với người phạm tội.” [ 50.tr 26]
Trên thực tế, các tội phạm và trường hợp phạm tội đều khơng giống
nhau. Do đó, để cơng tác đấu tranh phòng, chống tội phạm đạt hiệu quả cũng
như phân hóa các trường hợp phạm tội để có đường lối xử lý phù hợp, cơng
bằng, chính xác và đúng pháp luật. Đặc biệt sự phân hóa các trường hợp tội
phạm và người phạm tội còn thể hiện ở chỗ không phải tất cả trường hợp đều

12


bị truy cứu TNHS khi có đầy đủ những điều kiện nhất định thì một người đã
phạm tội họ có thể được miễn TNHS.
Về mặt lý luận pháp luật hình sự cho thấy khi việc truy cứu TNHS đối
với một người là khơng cần thiết do tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành
vi thì sẽ có trường hợp trên thực tế Nhà nước khơng buộc người đó phải chịu
TNHS mà cho họ được miễn TNHS. Vì vậy, việc đặt ra chế định miễn TNHS
đối với người thực hiện hành vi phạm tội ở chừng mực nhất định thể hiện
chính sách phân hố tội phạm; đồng thời, thể hiện sự khoan hồng, nhân đạo
của Nhà nước đối với người phạm tội. Qua đó, nhằm động viên, khuyến khích
họ lập cơng chuộc tội, nhanh chóng hịa nhập với cộng đồng và xã hội.
Trên cơ sở khái niệm TNHS được đề cập như trên, khái niệm miễn
TNHS được hiểu là việc cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào từng giai đoạn tố
tụng hình sự tương ứng cụ thể hủy bỏ việc áp dụng các hậu quả pháp lý được

áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội khi có các căn cứ do pháp
luật hình sự quy định.
Miễn TNHS là một chế định quan trọng thể hiện chính sách nhân đạo
của pháp luật hình sự. Tuy nhiên, về mặt khoa học pháp lý thì mãi đến BLHS
năm 1985, chế định miễn TNHS mới được nhà làm luật nước ta ghi nhận
chính thức. Xét về phương diện pháp lý thì bản chất pháp lý của chế định
miễn TNHS là tư tưởng nhân đạo được thực hiện bởi các cơ quan tiến hành tố
tụng trong quá trình áp dụng mà căn cứ vào các điều kiện cụ thể theo chế định
miễn TNHS đối với người mà hành vi của người đó đã thỏa mãn các dấu hiệu
của một cấu thành tội phạm cụ thể trong BLHS để xem xét miễn TNHS cho
họ. Các điều kiện được miễn TNHS được quy định cụ thể trong Phần Chung
và Phần Các Tội phạm của BLHS năm 2015. Mặc dù người được miễn TNHS
không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội nhưng
có thể phải chịu một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế phi hình sự được quy

13


định trong các ngành luật khác như: Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật
Cơng chức, Luật Viên chức; Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước...
Cùng với khái niệm TNHS, miễn TNHS cũng được các nhà lý luận
định nghĩa dưới nhiều góc độ khác nhau, cụ thể:
Theo quan điểm của tác giả người Nga B.X. Xavelơva: “Miễn trách
nhiệm hình sự được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa hẹp - không kèm theo việc
quyết định hình phạt, tức là miễn trách nhiệm hình sự do Cơ quan điều tra
hoặc Viện kiểm sát thực hiện, cũng như do Tòa án thực hiện (khi không đưa
ra bản án kết tội đối với người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự) và
theo nghĩa rộng - suy cho cùng đó cũng đồng thời chính là miễn hình phạt
[55, tr. 428]. Hay tác giả Kêlina X.G (Liên bang Nga) cho rằng: "Miễn trách
nhiệm hình sự là việc hủy bỏ sự đánh giá tiêu cực đối với người đó dưới hình

thức bản án" [56, tr. 31].
Quan điểm này cũng có những hạt nhân hợp lý của nó như việc thừa
nhận một người phải có TNHS thì mới có thể được miễn TNHS mà việc xác
định một người có hay khơng là thuộc thẩm quyền của Tịa án. Điều này cũng
được Hiến pháp 2013 quy định: “Người bị buộc tội được coi là khơng có tội
cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của
Tịa án đã có hiệu lực pháp luật” (khoản 1 Điều 31) [19/tr5]. Cụ thể hóa trong
Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) Việt Nam 2015 được xây dựng và thực
hiện theo 27 nguyên tắc cơ bản (từ Điều 7 đến Điều 33).
Các nhà lý luận hình sự Việt Nam đề cập đến khái niệm miễn TNHS ở
những khía cạnh sau:
- Quan điểm thừa nhận nội dung và chỉ rõ bản chất pháp lý của Miễn
TNHS “là một chế định nhân đạo của luật hình sự Việt Nam và được thể hiện
bằng việc xóa bỏ hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho

14


xã hội bị luật hình sự cấm đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện
hành vi đó" [8, tr. 7];
- Quan điểm ghi nhận nội dung và hậu quả pháp lý của miễn TNHS
nhưng không đề cập thẩm quyền áp dụng và giai đoạn áp dụng: Miễn trách
nhiệm hình sự là "miễn những hậu quả pháp lý đối với một tội phạm do pháp
luật quy định" [45, tr. 269] hay là "không buộc tội một người chịu trách
nhiệm hình sự về tội mà họ đã thực hiện" [43, tr. 321];
- Nhóm quan điểm ghi nhận tương đối đầy đủ về nội dung, phân định
các giai đoạn áp dụng, thẩm quyền áp dụng và hậu quả pháp lý: Miễn trách
nhiệm hình sự là "miễn truy cứu trách nhiệm hình sự và đương nhiên kéo theo
phải miễn chịu các hậu quả tiếp theo do việc thực hiện trách nhiệm hình sự từ
phía Nhà nước đem lại như: miễn bị kết tội, miễn phải chịu biện pháp cưỡng

chế của trách nhiệm hình sự và miễn bị mang án tích. Trên thực tiễn ở giai
đoạn xét xử có thể có trường hợp người phạm tội được Tòa án miễn trách
nhiệm hình sự. Và theo đó, miễn trách nhiệm hình sự chỉ bao gồm miễn chịu
biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự và mang án tích" [41, tr. 19];
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau nhưng các nhà lý luận hình sự
đều thống nhất một số nội dung quan trọng của chế định miễn TNHS: Nội
dung, điều kiện, thủ tục các hình thức miễn TNHS.
Trên cơ sở tổng kết các quan điểm khoa học đã nêu, kết hợp với việc
phân tích các quy định của pháp luật hình sự có liên quan, dưới góc độ khoa
học luật hình sự, theo chúng tơi khái niệm miễn TNHS có thể được định nghĩa
như sau: Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định nhân đạo của pháp luật
hình sự Việt Nam, là sự hủy bỏ việc áp dụng các hậu quả pháp lý đối với
người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự khi họ thực hiện những
hành vi phạm tội được quy định trong BLHS nếu đáp ứng các điều kiện được
miễn TNHS mà pháp luật quy định.

15


1.1.2. Đặc điểm miễn trách nhiệm hình sự
Căn cứ các khái niệm đã đề cập như trên và trên cơ sở nghiên cứu các
quy định của pháp luật hình sự hiện hành về chế định miễn TNHS, có thể chỉ
ra một số đặc điểm cơ bản của chế định này như sau:
Thứ nhất, miễn TNHS là người thực hiện tội phạm được miễn những hậu
quả pháp lý về các tội phạm khi họ đáp ứng những điều kiện theo quy định
pháp luật. Theo đó, người được miễn TNHS, họ thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm. Tuy nhiên, tùy thuộc vào giai
đoạn tố tụng hình sự tương ứng, các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử xem xét,
xác định tính cần thiết của việc truy cứu TNHS đối với người đó hay khơng mà
vẫn đáp ứng được u cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm cũng như đảm

bảo tính giáo dục, cải tạo cao.
Thứ hai, miễn TNHS thể hiện chính sách phân hóa tội phạm và người
phạm tội, cũng như thể hiện nguyên tắc "nghiêm trị kết hợp với khoan hồng",
"trừng trị kết hợp với giáo dục, thuyết phục, cải tạo" trong pháp luật hình sự
Việt Nam.
Thứ ba, miễn TNHS do cơ quan tiến hành tố tụng quyết định phải được
thể hiện dưới hình thức văn bản. Cụ thể: “theo quy định của BLTTHS Việt
Nam năm 2003, cơ quan Điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra khi có căn
cứ miễn TNHS quy định tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 BLHS (Điều
164); VKS ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong các căn cứ miễn
TNHS quy định tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 BLHS (Điều 169)
hoặc rút quyết định truy tố và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án (Điều 181), Tịa
án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm trong trường hợp miễn TNHS
hoặc miễn hình phạt cho bị cáo (điểm a khoản 1 Điều 249)”.

16


Thứ tư, miễn TNHS chỉ áp dụng đối với người mà trong hành vi của họ đã
thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể trong Phần các tội
phạm Bộ luật hình sự nhưng họ lại có những điều kiện nhất định để được
miễn TNHS. Cụ thể khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, do sự chuyển biến
của tình hình mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét thấy hành vi phạm tội
hoặc người phạm tội khơng cịn nguy hiểm cho xã hội nữa thì được miễn trách
nhiệm hình sự (khoản 2 Điều 29) hay khi có quyết định đại xá (khoản 3 Điều
25 Bộ luật hình sự). Điều này có nghĩa, nếu TNHS chỉ áp dụng đối với người
mà trong hành vi của họ đã thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm
cụ thể trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự, thì miễn TNHS cũng áp dụng
với đối tượng như vậy, nhưng trường hợp của họ lại có những điều kiện nhất
định để được miễn TNHS.

Thứ năm, chế định miễn TNHS cịn áp dụng có lợi cho người phạm tội là
họ không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội do
mình thực hiện một cách hiển nhiên (như: khơng bị truy cứu trách nhiệm hình
sự, khơng bị kết tội, khơng phải chịu hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế về
hình sự khác, khơng bị coi là có án tích và khơng bị coi là có tội).
1.2. Ngun tắc, ý nghĩa, tác dụng phân loại miễn TNHS
1.2.1. Nguyên tắc của chế định miễn TNHS trong Luật Hình sự Việt
Nam
Thứ nhất, nguyên tắc nhân đạo trong miễn TNHS
Nguyên tắc nhân đạo là nguyên tắc chung và là nguyên tắc quan trọng
trong pháp luật hình sự. Nhân đạo nói chung và trong pháp luật nói riêng được
cụ thể hóa thơng qua các quy định của pháp luật với ý nghĩa bảo vệ lợi ích của
cơng dân khi bị tội phạm xâm phạm, có thể là lợi ích hợp pháp của cá nhân
người phạm tội nếu xứng đáng được hưởng khoan hồng của Nhà nước và đáp

17


ứng các điều kiện nhất định. Vì vậy, nghiên cứu miễn TNHS vừa thể hiện
nguyên tắc nhân đạo vừa tạo cơ sở pháp lý cho sự kết hợp các biện pháp cưỡng
chế hình sự với các biện pháp tác động xã hội trong việc giáo dục, cải tạo
người phạm tội, lấy gia đình, nhà trường, xã hội làm nơi giúp họ tự cải tạo,
giáo dục để khuyến khích họ lập công chuộc tội mà không buộc họ cách ly ra
khỏi cộng đồng.
Về nguyên tắc nhân đạo, PGS.TS Hồ Sĩ Sơn viết: “Nguyên tắc nhân đạo
trong Luật Hình sự là tư tưởng chủ đạo được ghi nhận trong Luật Hình sự chỉ
đạo hoạt động xây dựng và áp dụng Luật Hình sự mà nội dung cơ bản của nó
là sự khoan hồng của Luật Hình sự đối với người phạm tội. Mức độ phạm vi
của sự khoan hồng của Luật Hình sự đối với người phạm tội được quyết định
bởi điều kiện xã hội và bị ràng buộc bởi các yêu cầu khác của Luật Hình sự

mà trước hết là cơng bằng, công lý xã hội”[18, tr. 9]
Thứ hai, nguyên tắc "nghiêm trị kết hợp với khoan hồng", "trừng trị kết
hợp với giáo dục, thuyết phục, cải tạo".
Là nguyên tắc được xem là xuyên suốt của BLHS đối với chế định miễn
TNHS, là chính sách hình sự của pháp luật hình sự áp dụng với người phạm
tội. Đây là nguyên tắc nhân đạo đối với người phạm tội; đồng thời, tạo cơ sở
pháp lý cho sự kết hợp các biện pháp cưỡng chế hình sự của Nhà nước với các
biện pháp tác động xã hội trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội, cũng là
một trong những hình thức đảm bảo không để lọt tội phạm và người phạm tội.
Thứ ba, ngun tắc phân hóa trách nhiệm hình sự
Miễn trách nhiệm hình sự thể hiện chính sách phân hóa tội phạm và người
phạm tội trong pháp luật hình sự. Phân hóa trong luật hình sự nước ta được thể
hiện trên nhiều phương diện như: phân loại tội phạm, thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự, hệ thống hình phạt và các biện pháp tư pháp, phân hóa trách

18


nhiệm hình sự, đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự hay có thể được
miễn trách nhiệm hình sự.
Thứ tư, nguyên tắc công bằng, công minh trong miễn TNHS
Nguyên tắc này được xem là nguyên tắc cơ bản, là tư tưởng chủ đạo, định
hướng xuyên suốt quá trình xây dựng và áp dụng Bộ luật hình sự. Nguyên tắc
này đặt trong mối tương quan giữa Nhà nước với người phạm tội, thể hiện
thông qua “đối xử” của Nhà nước đối với người phạm tội như thế nào: đối xử
công bằng giữa những người phạm tội; đối xử với người phạm tội tương xứng
với hành vi phạm tội của họ.
Người được miễn TNHS không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất
lợi của việc phạm tội nhưng có thể chịu một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế
khơng phải hình sự được quy định trong các ngành luật trong hệ thống pháp

luật. Như vậy, việc công bằng trong đánh giá hành vi phạm tội có ý nghĩa trong
việc áp dụng chế định miễn trách nhiệm hình sự.
Nhìn chung, chế định miễn TNHS trong luật hình sự Việt Nam khơng chỉ
phản ánh ngun tắc nhân đạo trong chính sách hình sự mà còn thể hiện
nguyên tắc xử lý kết hợp hài hòa giữa trừng trị với giáo dục, thuyết phục; đồng
thời, phản ánh sự cần thiết, việc xem xét của cơ quan tiến hành tố tụng có truy
cứu trách nhiệm hình sự một người hay không nhưng cốt lõi vẫn đảm bảo yêu
cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm và giáo dục cải tạo người phạm tội đó và
răn đe người khác trong xã hội.
1.2.2. Ý nghĩa và tác dụng của miễn TNHS và phân loại TNHS
Việc nghiên cứu chế định miễn TNHS là một vấn đề quan trọng và cấp
thiết, một mặt góp phần đấu tranh phịng, chống tội phạm, một mặt thể hiện
chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội và hành
vi do họ thực hiện. Qua đó, nhằm động viên khuyến khích người phạm tội lập

19


công chuộc tội, được sự giám sát, giáo dục, cải tạo từ phía nhà trường, gia
đình, xã hội giúp họ hịa nhập với cộng đồng và trở thành người có ích cho xã
hội. Do đó, nó có ý nghĩa quan trọng, được thể hiện trên các phương diện sau:
Thứ nhất, về phương diện chính trị-xã hội, việc quy định những trường
hợp miễn trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự giúp cho cơ quan tiến
hành tố tụng nhận thức đúng đắn và áp dụng trường hợp nào người phạm tội
và hành vi phạm tội khơng cịn nguy hiểm cho xã hội nữa hoặc không cần
thiết phải áp dụng TNHS mà vẫn đảm bảo yêu cầu đấu tranh và phòng, chống
tội phạm, hạn chế tới mức thấp nhất sự lạm dụng và tùy tiện áp dụng hoặc e
ngại khi áp dụng chế định này. Mặt khác, việc áp dụng chế định miễn TNHS
trong thực tiễn cũng là một trong những hình thức xã hội hóa giáo dục để
Nhân dân, cơ quan, đồn thể, nhà trường và gia đình tham gia vào việc giáo

dục, cải tạo người phạm tội, giúp họ hồn lương, hướng thiện, lao động chân
chính và có ích cho xã hội.
Thứ hai, về phương diện pháp lý, biện pháp miễn TNHS chỉ có thể đặt ra
đối với một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà LHS quy định
hành vi đó là tội phạm nhưng đối với người đó lại có căn cứ pháp lý và những
điều kiện nhất định để được miễn TNHS trong từng trường hợp tương ứng mà
pháp luật hình sự hiện hành quy định cũng như tùy thuộc vào từng trường hợp
miễn TNHS đó có tính chất tùy nghi hay tính chất bắt buộc.
Ngoài ra, cũng với phương diện này, người được miễn TNHS đương nhiên
không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội do
mình thực hiện như: khơng bị truy cứu TNHS, khơng bị kết tội, khơng phải
chịu hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế về hình sự khác, khơng bị coi là có
án tích và khơng bị coi là có tội. Tuy nhiên, họ vẫn có thể phải chịu trách
nhiệm pháp lý như: dân sự, hành chính, trách nhiệm pháp lý kỷ luật nếu thuộc
trường hợp là cán bộ, công chức tùy theo từng trường hợp tương ứng cụ thể.

20


Thứ ba, về phương diện nhân đạo và bảo vệ quyền con người trong pháp
luật hình sự, miễn TNHS là một trong những chế định mang tính nhân đạo sâu
sắc với nội dung thực hiện chính sách “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”,
“trừng trị kết hợp với thuyết phục, giáo dục, cải tạo” trong đường lối xử lý
của Nhà nước ta. Miễn trách nhiệm hình sự là một biện pháp hữu hiệu của
Nhà nước thể hiện chính sách phân hóa tội phạm cũng như u cầu khơng cần
thiết phải truy cứu TNHS người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
mà Luật Hình sự quy định là tội phạm mà vẫn đảm bảo yêu cầu đấu tranh và
phòng, chống tội phạm.
Thứ tư, về phương diện kỹ thuật lập pháp, nếu những trường hợp miễn
TNHS được nhà làm luật nước ta quy định trong Bộ luật Hình sự một cách

chặt chẽ, đầy đủ, có hệ thống và phù hợp với thực tiễn thì đó cũng là một
trong những cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng và hồn thiện một số chế
định khác có liên quan đến nó như: tội phạm, trách nhiệm hình sự, hình phạt,
miễn hình phạt…Hơn nữa, nó cịn thể hiện sự tiến bộ về mặt lập pháp hình sự
trong việc xây dựng từng chế định của luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân; góp phần
nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
1.3. Phân biệt miễn TNHS với miễn hình phạt
Miễn TNHS và miễn hình phạt là hai chế định quan trọng, thể hiện chính
sách nhân đạo, khoan hồng của Luật Hình sự Việt Nam, mang giá trị nhân văn
sâu sắc mà ở đó nguyên tắc chủ đạo, xun suốt trong chính sách hình sự của
Nhà nước luôn là sự kết hợp giữa việc trừng trị với khoan hồng, khuyến khích
người phạm tội tự giáo dục mình để nhận lấy sự tha miễn đó. Theo đó, việc
nghiên cứu hai chế định này trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
có ý nghĩa rất quan trọng thể hiện tư tưởng, quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta trong đấu tranh phòng, chống tội phạm trong từng thời kỳ nhất

21


định. Chính sách hình sự về tư tưởng nhân đạo được Đảng và Nhà nước ta thể
hiện ở đường lối, hình thức xử lý đối với người phạm tội trên cơ sở kết hợp
hài hịa giữa mục đích trừng trị và mục đích giáo dục, phịng ngừa tội phạm;
trong đó, Đảng và Nhà nước ln coi trọng mục đích giáo dục người phạm
tội, đề cao tính “hướng thiện”.
Về cơ bản, hai chế định này có điểm giống nhau ở một số điểm sau: cả hai
chế định đều xuất phát từ cơ sở của TNHS và phản ánh rõ nét nguyên tắc nhân
đạo của Nhà nước ta; không cách ly người phạm tội và người bị kết án ra khỏi
cuộc sống xã hội mà tạo điều kiện cho họ nhanh chóng tái hịa nhập cộng
đồng, trở thành người có ích cho xã hội; chỉ áp dụng khi đáp ứng đủ các điều

kiện luật định, không phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi của việc phạm tội, của
quyết định hình phạt và án tích.
Tuy nhiên giữa miễn TNHS và miễn hình phạt có nhiều điểm khác nhau,
thể hiện rõ nét ở các điểm sau:
Một là, miễn TNHS là việc không bắt buộc người phạm tội phải chịu
TNHS về tội mà họ đã thực hiện, cịn miễn hình phạt thì khơng buộc người bị
kết án phải chịu hình phạt về tội họ đã thực hiện. Riêng về đối tượng của miễn
TNHS có thể là người đã bị kết án hoặc chưa kết án; đối tượng của miễn hình
phạt là người đã bị kết án bằng một bản án có hiệu lực pháp luật.
Hai là, người phạm tội được miễn TNHS khi có một trong những căn cứ,
điều kiện như: “khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do có sự thay đổi của
chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội khơng cịn nguy hiểm cho xã
hội nữa; khi có quyết định đại xá” theo Điều 29 BLHS. Ngoài ra, người phạm
tội có thể được miễn TNHS khi có một trong những căn cứ được quy định tại
BLHS: “khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình
mà người phạm tội khơng cịn nguy hiểm cho xã hội nữa; khi tiến hành điều
tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến khơng cịn

22


khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa; Người phạm tội tự thú, khai rõ sự
việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng
hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập cơng chuộc tội và có
cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận. Người thực hiện tội
phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vơ ý gây thiệt hại về
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và
được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và
đề nghị miễn TNHS thì có thể được miễn TNHS”.
Đối với người phạm tội được miễn hình phạt khi có nhiều tình tiết giảm

nhẹ quy định tại khoản 1, 2 Điều 54 BLHS đáng được khoan hồng đặc biệt
nhưng chưa đến mức được miễn TNHS. Cụ thể: Khi quyết định mức hình
phạt trong khung hình phạt, Tịa án có thể căn cứ và quyết định một hình phạt
dưới mức thấp nhất của khung hình phạt nhưng phải trong khung hình phạt
liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm
nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS; Tịa án có thể quyết định một hình
phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt
buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người
phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trị
khơng đáng kể.
Ba là, chủ thể có thẩm quyền áp dụng của chế định miễn TNHS rộng hơn
so với chế định miễn hình phạt. Miễn TNHS được thực hiện bởi cơ quan điều
tra, viện kiểm sát, tòa án tương ứng với từng giai đoạn tiến hành tố tụng; cịn
miễn hình phạt chỉ do tịa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền áp dụng.
Bốn là, về hậu quả pháp lý: sau khi được miễn TNHS, người phạm tội
được xem là khơng có án tích. Đối với miễn hình phạt, người bị kết án vẫn
được xem là có án tích nhưng thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án
tích.

23


Tóm lại, với các quy phạm của chế định miễn TNHS và miễn hình phạt có
tính chất nhân đạo nêu trên, nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho họ sớm
thích nghi với các yêu cầu của pháp luật để trở lại cuộc sống bình thường,
phấn đấu thành người lương thiện để có ích cho xã hội. Tuy nhiên, xét về góc
độ chính trị-xã hội, chế định miễn TNHS giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng
xác định chính xác và đúng đắn trường hợp nào người phạm tội và hành vi
phạm tội khơng cịn nguy hiểm cho xã hội nữa hoặc không cần thiết phải áp
dụng TNHS mà vẫn đảm bảo yêu cầu đấu tranh và phòng, chống tội phạm,

góp phần giảm bớt các chi phí của Nhà nước trong từng giai đoạn tương ứng
với quá trình điều tra, truy tố hoặc xét xử, nhất là chi phí, nguồn lực sẽ được
cắt giảm nhiều nếu việc miễn TNHS được áp dụng ở giai đoạn đầu. Mặt khác,
việc áp dụng chế định miễn THNS sẽ không gây mặc cảm, tự ti đối với người
phạm tội vì họ được “tha miễn”, khơng được xem là có án tích như chế định
hình phạt. Vì vậy, sẽ giúp họ mau chóng hịa nhập với cộng đồng và tích cực
hướng thiện, làm những việc có ích cho xã hội.
1.4. Khái qt lịch sử hình thành và phát triển các quy phạm về miễn
trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam.
1.4.1. Giai đoạn từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến Bộ luật
hình sự Việt Nam năm 1985
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam bước vào thời
kỳ khôi phục lại nền kinh tế, thiết lập các quan hệ pháp luật của Nhà nước non
trẻ trong điều kiện hồn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”. Song song với nhiệm vụ
bảo vệ Tổ Quốc, Đảng và Nhà nước ta khơng ngừng hồn thiện các quy định
của pháp luật nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội, phòng, chống tội phạm, giữ
vững an ninh chính trị. Trong điều kiện hồn cảnh khó khăn của đất nước,
Pháp luật hình sự thời kỳ này chưa mang tính thống nhất, cịn tản mạn ở nhiều
văn bản khác nhau.

24


Đối với khái niệm miễn TNHS vẫn còn là một vấn đề mới mẽ nên trong
các văn bản pháp lý chính thống chưa đề cập đến khái niệm miễn TNHS. Tuy
nhiên, xuất phát từ ưu điểm của Nhà nước ta là nhà nước “của dân do dân vì
dân” nên các giá trị nhân đạo luôn là những giá trị cốt lõi xuyên suốt trong hệ
thống pháp luật. Trong thực tiễn xét xử và một số văn bản pháp lý đã manh
nha hình thành một số nội dung của miễn TNHS như các Sắc lệnh, Thông tư,
Pháp lệnh từ năm 1945 đến năm 1982…. đã thừa nhận và áp dụng với nhiều

tên gọi khác nhau như: "xá miễn", "tha miễn trách nhiệm hình sự", "miễn tố",
"tha bổng bị cáo", "miễn nghị cho bị cáo", "miễn hết cả tội"...
Như vậy, cho đến thời điểm trước khi ban hành BLHS năm 1985, mặc dù
chưa có khái niệm chính thống về miễn TNHS là gì nhưng trong một số văn
bản hiện hành của thời kỳ đó đã manh nha hình thành các nội dung của miễn
TNHS.
Bộ luật Hình sự năm 1985, với tư cách là văn bản lập pháp hình sự lớn và
quan trọng đầu tiên mà trong đó chứa đựng hệ thống pháp luật hình sự thực
định đã được pháp điển hóa của Nhà nước Việt Nam thống nhất sau 40 năm
kể từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (năm 1945) và sau 10
năm kể từ khi đất nước đã được thống nhất và thu về một mối (năm 1975) thì
trong suốt 14 năm áp dụng Bộ luật Hình sự của năm 1985 (nếu tính đến năm
1999 khi có Bộ luật Hình sự thứ hai) như là nguồn trực tiếp duy nhất của pháp
luật hình sự thực định nước nhà sau pháp điển hóa mà trong đó lần đầu tiên đã
có sự phân chia rõ ràng giữa các quy phạm của Phần chung và Phần riêng với
cơ cấu gồm 12 chương và được phân chia thành 280 điều để kịp thời điều
chỉnh về mặt pháp lý hình sự các quan hệ xã hội đang tồn tại và đáp ứng yêu
cầu của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm ở nước ta trong suốt 14 năm
từ giữa những năm 80 đến cuối những năm 90 của thế kỷ XX (1985-1999).

25


×