Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TIỂU LUẬN ,sự phát triển về lý luận và thực tiễn trong quá trình xây dựng đảng cộng sản việt nam về chính trị từ năm 1930 đến 1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.47 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
Trong mơ hình xã hội chủ nghĩa từ lý luận đến thực tiễn, các nhà lý luận luôn
chú trọng tới việc xây dựng chính đảng của giai cấp cơng nhân - Đảng cộng sản để
qua đó dẫn dắt, lãnh đạo quần chúng nhân dân tiến hành đấu tranh nhằm giành lấy
quyền lực chính trị từ tay chế độ tư bản chủ nghĩa. Đặc biệt trong đó, việc xây dựng
Đảng cộng sản bao hàm rất nhiều các nội dung quan trọng tuy nhiên trong đó xây
dựng Đảng về chính trị ln là nội dung có ý nghĩa, tầm quan trọng cũng như ảnh
hưởng vô cùng lớn đối với vận mệnh khơng chỉ của Đảng cộng sản mà cịn có ảnh
hưởng đến vận mệnh của hàng triệu quần chúng cũng như vận mệnh của các quốc
gia, dân tộc cũng như hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng Đảng về chính trị, từ năm
1930 đến năm 1945 là giai đoạn Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập và lãnh
đạo nhân dân tiến hành cách mạng để thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa. Giai đoạn này là giai đoạn đầy khó khăn, thách thức đối với Đảng Cộng sản
Việt Nam nhưng cũng đem lại những vinh quang rất lớn dưới sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng trong việc giành và giữ chính quyền. Những thành tựu đó xuất phát từ
những thành cơng trong việc xây dựng Đảng về chính trị của Đảng Cộng Sản Việt
Nam trên các nội dung khác nhau.
Xuất phát từ quá trình học tập chuyên đề cũng như với mong muốn của bản
thân em muốn tìm hiểu về vấn đề xây dựng Đảng về chính trị do vậy e đã lựa chọn
đề tài: “Sự phát triển về lý luận và thực tiễn trong quá trình xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam về chính trị từ năm 1930 đến 1954” để là đề tài tiểu luận với
mong muốn sẽ làm rõ hơn một số nội dung về một số vấn đề lý luận về xây dựng
Đảng Cộng sản về chính trị bao gồm các nội dung gì? Thực trạng sự phát triển về
lý luận và thực tiễn trong việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam về chính trị từ
năm 1930 đến năm 1945? Và những bài học kinh nghiệm cũng như giải pháp trong
giai đoạn hiện nay? trong lĩnh vực xây dựng Đảng về chính trị.
1


Chương 1


MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VIỆC XÂY DỰNG
ĐẢNG CỘNG SẢN VỀ CHÍNH TRỊ
1.1.

Khái quát chung về Đảng chính trị
1.1.1.

Khái niệm chính trị

Chính trị là lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm các hoạt động và các mối
quan hệ liên quan đến các công việc và giải quyết các vấn đề chung của toàn xã
hội1. Đây là biểu hiện bề ngồi của chính trị. Thực chất, chính trị là mối quan hệ,
sự tương tác giữa chủ thể xã hội với toàn bộ các tổ chức và thành viên trong xã hội
với quyền lực chi phối chứa đựng bên trong đó, quyền lực chung (quyền lực xã
hội), gọi làquyền lực chính trị.
Trong các cơng việc chung của xã hội thì cơng việc của nhà nước chiếm vị trí
quan trọng hàng đầu. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp chiếm ưu thế luôn luôn
muốn giành lấy vai trị thực hiện các cơng việc chung để xác lập và duy trì địa vị
thống trị của giai cấp mình. Chính vì vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, thực
chất chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, là những hoạt động xoay quanh vấn đề
giành, giữ chính quyền và sử dụng quyền lực nhà nước.
Tất nhiên, chính trị không chỉ bao gồm các công việc của nhà nước. Xã hội
muốn tồn tại và phát triển thì cịn hàng loạt vấn đề chung khác cần giải quyết như
các vấn đề liên quan đến hệ tư tưởng, ý thức, đạo đức xã hội, các phương án giải
quyết các vấn đề chung của xã hội khác với giai cấp, tầng lớp nắm quyền... Vì vậy,
bên cạnh nhà nước trong xã hội cịn tồn tại các tổ chức chính trị khác.

2



Tựu chung lại chúng ta có thể hiểu: Chính trị là mối quan hệ giữa các quốc gia,
dân tộc, đảng phái, tổ chức… trong việc giành giữ và thực thi quyền lực chính trị
mà trung tâm là quyền lực nhà nước. Đồng thời, đó cịn là sự tham gia của nhân
dân vào các công việc của nhà nước [9, tr.18].
1.1.2.

Khái niệm đảng chính trị

Theo quan điểm của các nước phương Tây, các đảng chính trị được hiểu là các
hiệp hội của công dân, gây ảnh hưởng thường xuyên hoặc trong thời gian dài đến
sự hình thành các quyết định chính trị ở các cấp, theo đuổi mục đích là đại diện cho
nhân dân, thỏa mãn các điều kiện về phạm vi, tiềm lực tổ chức, số lượng thành viên
và cho thấy một cách cơng khai sự đảm bảo về tính chân thành của mục tiêu của
đảng [11, tr.9].
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Đảng chính trị là một tổ chức
chính trị của một giai cấp, đại biểu lợi ích cho giai cấp đó. Đảng chính trị ra đời
nhằm mục đích đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Đảng chính
trị lãnh đạo giai cấp đấu tranh giành chính quyền bằng phương pháp cách mạng
và bạo lực cách mạng [13, tr.18].
Theo các học giả: Đảng chính trị là một tổ chức xã hội tự nguyện, liên minh của
những người cùng tư tưởng, theo đuổi những mục đích chính trị nhất định; cố gắng
giành ảnh hưởng lãnh đạo đối với đời sống chính trị và tổ chức xã hội, ra sức giành
và giữ chính quyền để thực hiện đường lối của mình. Là một bộ phận cấu thành của
kiến trúc thượng tầng, ĐCT hành động bằng thuyết phục, truyền bá các quan điểm
tư tưởng, bằng cách tập hợp những người cùng chí hướng.
Qua các định nghĩa trên có thể thấy:
Đảng chính trị là một liên kết các cá nhân với một tập hợp chung những người
có cùng niềm tin và mục đích chính trị, chia sẻ mong muốn kiểm soát bộ máy nhà
nước bởi các phương thức hợp hiến. Đảng chính trị là một liên minh chính trị của
3



các nhóm, các phái cùng chung mục đích đấu tranh giành, giữ quyền lực chính
thống của nhà nước nhằm mang lại lợi ích cho giai cấp, tầng lớp xã hội của mình.
1.1.3.

Sự hình thành và phát triển của Đảng chính trị

Đảng chính trị ra đời, tồn tại và phát triển đến nay đã hơn 300 năm, xuất hiện
đầu tiên ở nước Anh vào năm 1678. Đảng chính trị đóng góp rất lớn trong đời sống
chính trị các nước Phương Tây. Mục tiêu, lý tưởng và phương thức hoạt động của
đảng chính trị phản ảnh rõ lợi ích, bản chất của giai cấp mà nó đại diện. Khi đảng
chính trị là đảng cầm quyền thì mới có cơ hội để tạo lập nên bộ máy nhà nước phục
vụ các mục tiêu của mình [4, tr.20].
Sau đó, với sự thắng lợi của các mạng tháng 10 Nga năm 1947, hệ thống các
đảng chính trị theo con đường phát triển xã hội đã ra đời và phát triển thành trào
lưu trên các châu lục trước khi có bước suy thối đầu thế kỷ 90.
Đảng chính trị thường có những phương tiện vật chất như các cơ quan báo chí,
thơng tin và xuất bản. Đảng thu hút vào hàng ngũ của mình bộ phận tích cực nhất
của giai cấp, chứ khơng bao giờ tồn bộ giai cấp. Tùy theo giai cấp đóng vai trị
như thế nào trong đời sống và trong sự phát triển xã hội (vai trò cách mạng tiến bộ,
bảo thủ, phản động) mà đảng của nó thể hiện vai trị đại diện cho lợi ích của giai
cấp.
Trong đảng chính trị có nhiều nhóm, phe phái hoạt động với mục đích khác
nhau và chúng chỉ thực sự liên minh với nhau khi đạt đến mục đích chính trị thống
nhất. Đảng chính trị luôn mang bản chất giai cấp, trong mỗi giai cấp có nhiều đảng
chính trị khác nhau, khơng có đảng chính trị đứng ngồi giai cấp, trên giai cấp. Nó
vừa là đại diện của giai cấp thống trị vừa lại diện của giai cấp bị thống trị. Đảng
chính trị ra đời bắt đầu từ cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống phong kiến và
phát triển mạnh mẽ trong xã hội hiện đại. Đảng sẽ mất ý nghĩa tồn tại khi sứ mệnh

lịch sử của giai cấp đã hoàn thành.
4


Đảng chính trị ngày nay thường có mục tiêu nhất định được thể hiện trong
cương lĩnh hoặc tun ngơn có tính chất cương lĩnh, tiến hành một chính sách nhất
định, có những nguyên tắc tổ chức nhất định và có một tổ chức nội bộ tương ứng
với những nguyên tắc đó. Đảng Cộng sản Việt Nam là một Đảng chính trị, đội tiên
phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp
cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
1.2.

Sự hình thành và phát triển Đảng Cộng Sản

1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về Đảng Cộng Sản
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin sự hình thành Đảng chính trị là quy
luật của phong trào đấu tranh giai cấp. Sự hình thành Đảng cộng sản là quy luật của
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân: Giai cấp cơng nhân là giai cấp giữ vai
trị lịch sử (xuất phát từ địa vị kinh tế - xã hội). Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, Đảng
cộng sản ra đời không phải là ngẫu nhiên, mà là sản phẩm tất yếu của cuộc đấu
tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản đã đạt đến trình độ tự giác.
Đảng cộng sản là đảng của giai cấp cơng nhân, có quan hệ thống nhất, chặt chẽ với
giai cấp công nhân cả ở mục tiêu, lý tưởng, lợi ích, cả ý chí và hành động. Do vậy,
phải luôn chú trọng tới công tác xây dựng Đảng của giai cấp công nhân.
C.Mác và Ph. Ăngghen cho rằng, trong cuộc đấu tranh của mình, giai cấp
cơng nhân muốn giành được thắng lợi và “thủ tiêu các giai cấp nói chung” [3,
tr.628] thì nhất thiết phải thành lập chính đảng là Đảng Cộng sản, đội ngũ tiên
phong đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng
Cộng sản là bộ phận lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo nhà nước và xã hội bằng
việc đề ra chủ trương, đường lối, cương lĩnh, chiến lược, sách lược trên nền tảng

của chủ nghĩa Mác; bằng công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết thực tiễn, khái quát
lý luận và chuẩn bị đội ngũ cán bộ cho hệ thống chính trị. Về mặt lý luận và thực
tiễn, yêu cầu giải quyết những vấn đề có liên quan đến Đảng Cộng sản cầm quyền
5


xuất hiện ngay từ khi Đảng bắt đầu lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền. Tuy
nhiên, vì nhiều lý do khác nhau và vào thời điểm đó giai cấp cơng nhân chưa giành
được chính quyền để xây dựng hệ thống chính trị XHCN, cho nên Mác - Ăngghen
chưa có điều kiện để bàn nhiều và cụ thể về vấn đề Đảng Cộng sản cầm quyền cũng
như phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền.
Kế thừa những quan điểm của Mác và Ăngghen, bằng thực tiễn của cách
mạng Nga, Lênin cho rằng khi trở thành đảng cầm quyền, nhiệm vụ lãnh đạo của
Đảng Cộng sản sẽ thay đổi về cơ bản, đó là xây dựng đất nước về kinh tế. Bởi, khi
đó, chủ nghĩa cộng sản khơng cịn là một cương lĩnh, khơng cịn là một học thuyết,
mà đã trở thành nhiệm vụ xây dựng kinh tế hàng ngày. Thắng lợi trên lĩnh vực kinh
tế không thể đạt được bằng những cuộc tấn cơng của các lực lượng xích vệ, mà
phải bằng tổ chức được tiến hành một cách khoa học. Người xem đó là vũ khí duy
nhất để giai cấp công nhân, nhân dân lao động tiến tới mục tiêu căn bản của mình:
xây dựng thành cơng CNXH và tiến lên chủ nghĩa cộng sản; mang lại cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi người.
1.2.2. Vị trí, vai trị của việc xây dựng Đảng Cộng sản
Là người sáng lập Đảng cộng sản Bơn-sê-vích Nga, Lênin hết sức quan tâm
chăm lo xây dựng đảng về mọi mặt, đặc biệt Người đòi hỏi phải phát huy tính tiên
phong của đảng, phải giữ gìn sự đồn kết thống nhất trong đảng như giữ gìn con
ngươi của mắt mình, phải thường xuyên củng cố những nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt đảng. Với tư cách là đảng cầm quyền, Đảng cộng sản phải xứng đáng là lãnh
tụ chính trị, vững tay chèo lái con thuyền cách mạng qua những khúc quanh đầy
thử thách. Theo Lênin xây dựng đảng là một trong những nhiệm vụ then chốt, gắn
bó mật thiết giữa đảng, nhà nước với nhân dân là nhiệm vụ sống cịn để duy trì giữ

vững chế độ chính trị.

6


Trong công tác xây dựng Đảng, Lênin đặt cao vấn đề rèn luyện tư cách, đạo
đức cách mạng của người đảng viên, nhất là những đảng viên đảm nhiệm các chức
vụ lãnh đạo, quản lý. Để giữ gìn, củng cố và nâng cao sức chiến đấu, sự trong sạch,
vững mạnh của Đảng, Lênin yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thường xuyên, nghiêm
túc thực hiện tự phê bình và phê bình một cách thẳng thắn, trung thực mang tính
xây dựng.
1.3.

Nội dung xây dựng Đảng về chính trị

1.3.1. Xây dựng quan điểm, đường lối
Trong công cuộc cách mạng, Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chủ trương,
đường lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Ở vị trí đảng cầm quyền, trọng trách của
Đảng là lãnh đạo trên mọi phương diện, trong mọi lĩnh vực. Những vấn đề thuộc về
đường lối, quan điểm chính trị và nguyên tắc tổ chức liên quan tới chiến lược.
Xây dựng quan điểm đường lối trong công tác xây dựng Đảng Cộng sản về
chính trị cần chú trọng tới việc kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng sáng tạo
và phát triển phù hợp với thực tiễn; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH;
kiên định đường lối đổi mới.
Đồng thời xây dựng Đảng về chính trị đặt ra yêu cầu không ngừng bổ sung,
phát triển Cương lĩnh, đường lối đổi mới của Đảng; đồng thời, phòng ngừa nguy cơ
sai lầm về đường lối, vì điều đó không chỉ ảnh hưởng đến bản chất cách mạng của
Đảng mà còn tác động xấu đến sự phát triển của đất nước và cuộc sống của nhân
dân. Bản lĩnh chính trị của Đảng phải được nâng cao. Đó là sự kiên định mục tiêu,
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; chủ động, bình tĩnh vượt qua khó

khăn, thách thức, khơng dao động trong bất cứ tình huống nào, “
Xây dựng Đảng về chính trị địi hỏi nâng cao trình độ trí tuệ, tính chiến đấu
của tồn Đảng và năng lực hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với quy luật
khách quan, đặc điểm riêng, tạo bước đột phá để phát triển. Hoàn thiện cơ chế, quy
7


chế và tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc tự phê bình, phê bình, chất
vấn trong nội bộ Đảng.
1.3.2. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
Trong điều kiện đảng cộng sản đã nắm quyền lãnh đạo đất nước tiến lên chủ
nghĩa xã hội cần đặc biệt lưu ý tới sự suy yếu có thể xảy ra đối với đảng do mắc
phải những sai lầm, khiếm khuyết trong quá trình lãnh đạo, nhất là sai lầm về
đường lối và các bệnh quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, cơ hội chủ nghĩa, kiêu
ngạo cộng sản, tham nhũng, hối lộ, xa hoa, lãng phí.
Để khắc phục những sai lầm có thể xảy ra đối với đảng cộng sản cầm quyền,
các lãnh tụ của chủ nghĩa cộng sản đã nhấn mạnh tính tất yếu phải thường xuyên
xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh, trước hết tập trung xây dựng lý luận cách
mạng của đảng. V.I. Lê-nin khẳng định: “Khơng thể có một đảng xã hội chủ nghĩa
vững mạnh, nếu khơng có lý luận cách mạng để đoàn kết tất cả những người xã hội
chủ nghĩa lại, để họ rút ra từ trong lý luận đó tất cả những tín điều của họ và đem
áp dụng lý luận đó vào những phương pháp đấu tranh và phương sách hành động
của họ” [12, tr. 232]. Trong cơng tác xây dựng Đảng về chính trị đòi hỏi Đảng
Cộng sản cần kiên quyết đấu tranh “khơng khoan nhượng” để “tẩy sạch” các phần
tử tha hóa, biến chất trong tổ chức của mình, nhằm làm trong sạch đảng.
1.3.3. Xây dựng quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân
Đảng cộng sản cầm quyền lãnh đạo toàn xã hội khơng chỉ bằng cương lĩnh
chính trị, đường lối chiến lược, sách lược, mà cịn phải thơng qua vai trị tổ chức
hoạt động của bộ máy chính quyền nhà nước và các đồn thể quần chúng. Vì thế,
một vấn đề then chốt về xây dựng đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh là phải

tăng cường xây dựng, củng cố mối liên hệ mật thiết giữa đảng và nhân dân.

8


Chủ nghĩa cộng sản ln đề cao vai trị của quần chúng nhân dân, coi sức
mạnh của quần chúng nhân dân là vô địch; muốn lãnh đạo cách mạng đảng phải
liên hệ chặt chẽ với nhân dân; cách mạng muốn thắng lợi phải được đông đảo nhân
dân ủng hộ. V.I. Lê-nin khẳng định: nguồn gốc chủ yếu sức mạnh của Đảng là ở
mối liên hệ mật thiết với nhân dân, đội tiền phong chỉ làm tròn được sứ mệnh lịch
sử của mình một khi nó gắn bó với quần chúng mà nó lãnh đạo và thật sự dẫn dắt
tồn thể quần chúng tiến lên.
Xuất phát từ việc cách mạng XHCN phụ thuộc vào lòng tin và khả năng vận
động, tập hợp, giáo dục, thuyết phục quần chúng nhân dân đi theo Đảng và tiến
hành các hành động cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. “Chỉ có người nào tin
tưởng vào nhân dân, dấn mình vào nguồn sáng tạo sinh động của nhân dân, mới là
người chiến thắng và giữ được chính quyền” [14, tr.68-69].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người
đầy tớ trung thành của nhân dân. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức
nên. Chính phủ do dân cử ra, được dân ủy quyền thay mặt dân để điều hành, quản
lý đất nước. Người nói: “Nước lấy dân làm gốc”, “nước ta là nước dân chủ, địa vị
cao nhất là dân, vì dân là chủ”; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là
người chủ”. Các nội dung trong công tác xây dựng Đảng về chính trị đó là những
căn cứ quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp thu và vận dụng vào thực tiễn
công tác xây dựng Đảng về chính trị.

9


Chương 2

XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CHÍNH TRỊ TỪ LÝ
LUẬN ĐẾN THỰC TIỄN TRONG GIAI ĐOẠN 1930 - 1954 THỰC TRẠNG
VÀ THÀNH TỰU
2.1.

Bối cảnh tình hình thực tiễn

2.1.1. Về bối cảnh trong nước
Về kinh tế: ở Việt Nam Ngân hàng Đơng Dương chi phối tồn bộ hoạt động
kinh tế trực tiếp hoặc gián tiếp, nó điều khiển các công ty tư bản chủ yếu về nông,
công, thương nghiệp, vận tải, vì vốn dân ta chiếm một tỉ trọng lớn trong các cơng ti
đó.
Về nơng nghiệp: năm 1936, Thống xứ Bắc kì ra Nghị định cấp khơng cho
những cơng dân Pháp làm đơn xin đất với diện tích dưới 500 ha để lập làng mới.
Trong những năm 1936-1939, tại đồng bằng Bắc Kì có1.933.000 xuất điinh thì
968.000 người khơng có ruộng. Ở Trung Kì, số người khơng có ruộng và có ruộng
dưới 0,5 ha ở tỉnh Quảng Trị chiếm 69,5%, ở tỉnh Thừa thiên là78%, Bình Định
74%, Phú n và Khánh Hịa là 50,9%. Ở Nam Kì, 909 địa chủ chiếm hữu hơn
480.000 ha, trung bình 530ha/người.
Về cơng nghiệp: cơng nghiệp khai thác mỏ được đẩy mạnh vì trong những năm
trước Chiến tranh thế giới thứ hai, nhu cầu về nguyên liệu chiếc lược ngày càng
nhiều, vì thế khai mỏ ở Việt Nam tăng dần, nhất là khai thác than. Tổng sản lượng
than năm 1936 - 1939 là 9,344 triệu tấn, (năm 1936 là 2,186 triệu tấn, năm 1937 là
2,308 triệu tấn, năm 1938 là 2,235 triệu tấn, năm 1939 là 2,615 triệu tấn).
Về thương nghiệp: Chính quyền thực dân Pháp nắm độc quyền bán thuốc phiện,
rượu, muối đã thu được lợi nhuận khổng lồ. Muối là mặt hàng chính quyền thực
10


dân thu nhiều lãi, xếp thứ ba sau thuốc phiện và rượu. nhà nước thực dân hạn chế

việc sản xuất muối, độc quyền bán muối để bán giá cao.
2.1.2. Về bối cảnh xây dựng và hoạt động của Đảng
Đặc điểm của thời kỳ này là cách mạng Việt Nam đã có đội tiên phong lãnh
đạo là Đảng Cộng sản với Cương lĩnh chính trị đúng đắn, đưa cách mạng nước ta
phát triển theo xu thế của thời đại đã được mở ra từ cách mạng xã hội chủ nghĩa
tháng Mười Nga năm 1917.
Q trình đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền đã diễn ra với 3
cao trào cách mạng có ý nghĩa như 3 cuộc tổng diễn tập chuẩn bị cho cuộc Cách
mạng tháng Tám giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân: Cao trào cách mạng
1930 - 1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ - Tĩnh, cao trào đấu tranh đòi dân sinh,
dân chủ (1936 - 1939) và cao trào giải phóng dân tộc dẫn tới Cách mạng tháng Tám
1945 (1939 - 1945).
Đây là quá trình đấu tranh cách mạng vơ cùng khó khăn gian khổ với những
hy sinh to lớn của Đảng và dân tộc ta. Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, Đảng ta
đã trưởng thành và phát triển về mọi mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức, về năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu. Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, chống đế quốc
và chống phong kiến không ngừng được bổ sung và làm rõ hơn, đặt nhiệm vụ
chống đế quốc giải phóng dân tộc lên hàng đầu, vận dụng đúng đắn và có sự phát
triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng thuộc địa.
2.2.

Thực trạng xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam về chính trị từ năm 1930

đến năm 1954
2.2.1. Xây dựng quan điểm, đường lối
Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định xây dựng Đảng về chính trị trước hết
là xây dựng đường lối chính trị đúng đắn, đó là một đường lối chính trị dựa trên
11



học thuyết Mác-Lênin vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta, đáp ứng
được đòi hỏi của thực tiễn cách mạng Việt Nam, phù hợp với truyền thống dân tộc
và xu thế của thời đại. Xây dựng Đảng về chính trị cịn bao gồm lãnh đạo thực hiện
thắng lợi đường lối chính trị; củng cố và nâng cao uy tín chính trị của Đảng; bảo vệ
cương lĩnh, đường lối của Đảng... Trong đó, xây dựng đường lối chính trị đúng đắn
là nhiệm vụ bao trùm nhất.
Một vấn đề quan trọng trong công tác xây dựng Đảng về chính trị là đảm bảo
tính đúng đắn của đường lối chiến lược, sách lược của cương lĩnh cách mạng trong
từng thời kỳ khác nhau. Trong thực tiễn từ năm 1930-1945, xây dựng cương lĩnh,
đường lối chiến lược, sách lược là sự cụ thể hoá chủ nghĩa Mác - Lênin vào những
điều kiện lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam. Và, trong tồn bộ hoạt động của
mình, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đảm bảo tính đúng đắn đó của cương lĩnh, của
đường lối chính trị, dù là trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân hay
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn 1930-1945 Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn đứng trên “lập
trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin” để tổng kết những
kinh nghiệm thực tiễn và trên cơ sở đó, định ra đường lối, phương châm, bước đi cụ
thể thích hợp với thực tiễn cách mạng. Thực tiễn 15 năm đấu tranh cách mạng
giành chính quyền, Đảng đã đặt ra và giải quyết thành công nhiều vấn đề, nhiều
mối quan hệ cơ bản trong đường lối chiến lược và sách lược, bảo đảm cho phong
trào cách mạng phát triển đúng hướng, phát huy sức mạnh của cả dân tộc, đó là:
Quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, giữa mục tiêu
dân tộc và mục tiêu dân chủ, giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp.
Quan hệ giữa các mục tiêu chiến lược lâu dài và mục tiêu cụ thể trước mắt,
giữa giành thắng lợi từng bước, khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa giành
thắng lợi hoàn toàn.

12



Quan hệ giữa chiến lược và sách lược, phương pháp cách mạng, sử dụng
đúng đắn các hình thức, phương pháp đấu tranh phù hợp với từng điều kiện lịch sử
cụ thể.
Quan hệ giữa Đảng và nhân dân, giữa xây dựng đảng và xây dựng phát triển
lực lượng cách mạng của quần chúng được tập hợp trong Mặt trận Dân tộc thống
nhất.
Quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, giữa xây dựng lực
lượng cách mạng, phát huy sức mạnh bên trong, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, độc
lập, tự chủ và sáng tạo với tranh thủ những điều kiện và thời cơ thuận lợi do tình
hình quốc tế đem lại.
Quan hệ giữa chủ động chớp thời cơ và đẩy lùi nguy cơ, tổ chức và sử dụng
các lực lượng cách mạng.
Đảng đã đề ra đường lối, chủ trương cách mạng đúng đắn. Đó là đặt nhiệm
vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; các nhiệm vụ khác (dân chủ) phải được thực
hiện rải ra, phục tùng nhiệm vụ dân tộc. Bởi, nếu nhiệm vụ dân tộc mà khơng được
giải quyết, thì các quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến ngàn năm cũng khơng địi lại
được. Thành công lớn của Đảng thời kỳ này là Đảng đã linh hoạt tùy tình hình cụ
thể, nhạy bén trong phân tích thực tiễn, kết hợp mục tiêu trước mắt với mục tiêu lâu
dài, đưa ra chủ trương tổ chức tập hợp, xây dựng, tập dượt và phát triển lực lượng
chính trị của quần chúng, kết hợp các hình thức, loại hình đấu tranh phong phú, đa
dạng khác nhau, đưa cách mạng tiến kịp với những chuyển biến khách quan, tạo
nên thế và lực của cách mạng, thực hiện thắng lợi giành chính quyền về tay nhân dân.
Bên cạnh đó, có những lúc khơng nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc là
hàng đầu; khơng thấy hết mặt tích cực cách mạng của tiểu tư sản, tư sản dân tộc,
địa chủ vừa và nhỏ ở một nước thuộc địa. Cũng phải nhấn mạnh rằng, tuy có lúc
nhận thức của Đảng vẫn rơi vào tình trạng “tả khuynh” do ảnh hưởng của Quốc tế

13



cộng sản III, song Đảng đã nhanh chóng vượt qua sai lầm, nhận thức đúng tình
hình thực tế, đưa ra chủ trương, biện pháp đúng trong lãnh đạo cách mạng.
2.2.2. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
Kể từ khi thành lập đến năm 1945 Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặc biệt coi
trọng cơng tác xây dựng Đảng về chính trị nhằm giúp Đảng luôn trong sạch và
vững mạnh. Điều này thể hiện rõ qua việc:
Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về xây dựng,
chỉnh đốn Đảng trong sạch vững mạnh. Đó là cơ sở, tiền đề vững chắc bảo đảm cho
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ được sự trong sạch, vững mạnh và giúp nhận
được sự tin tưởng, yêu quý của nhân dân trên cả nước trong quá trình cách mạng
gian khổ.
Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh đã giúp cho Đảng Cộng sản Việt
Nam luô giành được sự tin tưởng của nhân dân cũng như là nhân tố quan trọng
trong việc giúp xác định đúng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc để Đảng
hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh lật đổ ách thống trị của thực
dân, phong kiến, xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân, trong giai đoạn 19301945.
2.2.3. Xây dựng quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân
Quan hệ giữa Đảng với nhân dân được hình thành do địi hỏi khách quan của
sự nghiệp cách mạng. Đây là mối quan hệ rất đặc biệt: Đảng vừa là người lãnh đạo,
cầm quyền, vừa là người phục vụ nhân dân, còn nhân dân tự giác đồng tình với sự
lãnh đạo của Đảng, lại là chủ nhân của đất nước. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn
bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam từ năm 1930-1945 Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn luôn nhận thức sâu sắc vai

14


trò to lớn của nhân dân, thường xuyên chăm lo xây dựng và củng cố mối quan hệ
mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Với sự gắn bó với nhân dân trong cơng tác xây dựng Đảng về chính trị đã

giúp phát huy và làm rạng rỡ truyền thống anh hùng, đoàn kết và sáng tạo của toàn
thể nhân dân Việt Nam. Qua các cao trào cách mạng suốt từ những năm 1930-1931
đến năm 1945, các tầng lớp nhân dân Việt Nam đã được Đảng Cộng Sản Việt Nam
động viên, bồi dưỡng, phát huy và làm rạng rỡ truyền thống anh hùng, đoàn kết và
sáng tạo của dân tộc Việt Nam. Kết quả tiêu biểu là trong thời khắc phải chớp thời
cơ lịch sử, khắp nơi nhân dân thể hiện được tấm lịng vì nước qn thân, nơ nức tự
vệ vũ trang, hừng hực khí thế sẵn sàng tổng khởi nghĩa và đã nhất tề vùng dậy
giành chính quyền. Cuộc tổng khởi nghĩa diễn ra với ý chí triệu người như một.
2.3.

Một số bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng Đảng Cộng sản Việt

Nam về chính trị từ năm 1930 đến năm 1945
Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng bắt đầu từ sự vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thành lập, củng cố, xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam nói chung cũng như trên các mặt chính trị nói riêng. Việc xây dựng Đảng hiện
nay vẫn tiếp tục là những vấn đề có tính nguyên tắc, quy luật phát triển Đảng.
Trong điều kiện hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong nước Việt Nam
đang triển khai Nghị quyết Đại hội XII của Đảng do vậy cần phải tiếp tục khẳng
định giá trị đồng thời vận dụng các bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng Đảng
về chính trị trong thời kỳ 1930 - 1945, những kinh nghiệm đó là:
Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam phải tiếp tục vận dụng nguyên tắc xây
dựng Đảng kiểu mới nhằm củng cố chính trị một cách sát thực. Quán triệt và vận
dụng tư tưởng về: “Đảng áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp Mác Lênin mà giải quyết các vấn đề thực tế của cách mạng Việt Nam…” [10, tr.231]
vào xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam về chính trị hiện nay. Vấn đề này có tính
15


chất bao trùm, nguyên tắc cơ bản nhất để tiếp tục vận dụng có chất lượng, hiệu quả.
Mỗi cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần tinh thần ấy để có thái độ, động cơ, ý chí

trong bảo vệ giá trị tư tưởng, tuân thủ các nguyên tắc, trong đó nguyên tắc tập trung
dân chủ là cơ bản nhất và đưa vào thực tiễn xây dựng Đảng về chính trị trong cơ
quan đơn vị.
Thứ hai, Công cuộc xây dựng Đảng về chính trị ln địi hỏi Đảng Cộng sản
Việt Nam phải tự chỉnh đốn làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thường
xuyên chỉnh đốn là nguyên tắc, là bài học kinh nghiệm quý báu từ trong lịch sử xây
dựng Đảng về chính trị. Hiện nay xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam về chính trị
khơng thể khơng tiếp tục và nâng cao chất lượng chỉnh đốn Đảng một cách thường
xun và có tính tổng hợp trên mọi phương diện. Một trong những nội dung nổi bật
nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như mỗi cán bộ, đảng viên không giấu giếm
khuyết điểm, mạnh dạn nhận và kiên quyết sửa chữa một cách nghiêm túc, sát thực
để giúp cho Đảng ngày càng tiến bộ.
Thứ ba, Để xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam về chính trị trước mắt phải
tiếp tục học tập kinh nghiệm trong giai đoạn 1930 - 1945 về việc tạo chuyển biến
tích cực trong đạo đức cách mạng của đảng viên. Kẻ thù trực tiếp của đạo đức cách
mạng là chủ nghĩa cá nhân. Đạo đức cách mạng là gốc cho những bước tiếp theo
trong xây dựng Đảng nhằm chống lại những tác động của mặt trái kinh tế thị
trường, sự chống phá của các thế lực thù địch, đặc biệt bằng diễn biến hịa bình làm
cho “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thối về tư tưởng chính trị như
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã chỉ ra” [6]. Đây là một trong những nguy cơ
đối với sự lãnh đạo của Đảng và đối với cách mạng Việt Nam, phải được khắc phục
một cách kiên quyết nhất.

16


Chương 3
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CHÍNH TRỊ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1.


Các yếu tố ảnh hưởng đến xây dựng Đảng về chính trị của Đảng Cộng

sản Việt Nam hiện nay
3.1.1. Xuất phát từ quá trình xây dựng Đảng
Hiện nay công tác xây dựng Đảng được xác định là nhiệm vụ then chốt trong
công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Lời dặn đầu tiên trong bản Di chúc thiêng liêng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta là “trước hết nói về Đảng”. Xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị ln ln là nhân tố đảm bảo cho thắng
lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong Đại hội XII (năm 2016), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nhấn
mạnh: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”. Sự nhấn mạnh này
không chỉ đáp ứng yêu cầu xây dựng Đảng, cịn xuất phát từ thực tiễn tình hình, từ
quyết tâm giải quyết triệt để một vấn đề cấp bách hiện nay, đáp ứng nguyện vọng
của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Mục tiêu “xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh về chính trị” [7] thực chất là để “nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng”. Như vậy, về bản chất không thay đổi mà chỉ đi sâu hơn
vào vấn đề cấp thiết hiện nay. Trước âm mưu “diễn biến hịa bình”, nguy cơ “tự

17


diễn biến”, “tự chuyển hóa”, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị là
nhiệm vụ cần thiết, cấp bách.
Cùng với đề cao sự sáng tạo, đổi mới trong xây dựng chủ trương, đường lối
thì Đảng Cộng sản Việt Nam cũng nhấn mạnh phải kiên định những vấn đề có tính
ngun tắc, mà trước hết là phải kiên định Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; kiên định đường lối đổi mới.
3.1.2. Xuất phát từ yêu cầu trong nước và quá trình phát triển
Việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam về chính trị trong giai đoạn hiện

nay cũng chịu tác động từ các yếu tố trong nước trong quá trình phát triển. Đối với
Việt Nam sự nghiệp đổi mới hiện nay đang đứng trước thời cơ lớn mà những biểu
hiện chủ yếu của nó là:
Một là, đất nước đang chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong một xu thế
tồn cầu hố. Chắc chắn rằng, với việc tham gia ngày càng nhiều và tích cực vào
các tổ chức quốc tế, Việt Nam có nhiều cơ hội để bứt lên, thu hẹp dần khoảng cách
tụt hậu về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
Hai là, do nhiều nguyên nhân, đất nước ta đang tiếp tục ổn định về nhiều
mặt, trong đó có sự ổn định về chính trị, mặc dù có bị ảnh hưởng từ sự suy giảm
kinh tế thế giới. Đây là một trong những điều kiện tiên quyết, rất quý báu, tạo ra
môi trường bên trong và bên ngoài để đất nước đi lên nhanh hơn, vững chắc hơn.
Ba là, hơn bao giờ hết, con người Việt Nam đang khát khao cống hiến nhằm
đưa đất nước tiến nhanh và bền vững, sánh vai với các cường quốc năm châu. Chưa
bao giờ ý chí vươn lên thốt khỏi tình trạng kém phát triển lại mạnh như bây giờ
trong con người Việt Nam.
Bốn là, tình hình quốc tế, bên cạnh những khó khăn, nhất là khủng hoảng tài
chính, suy giảm kinh tế chưa khắc phục được, nhưng nhìn tổng quát, ở hiện tại và
trong tương lai gần, có những thuận lợi cho sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại
18


hố của Việt Nam. Đó là xu thế hồ bình, hợp tác và phát triển. Đó là sự phát triển
nhanh hơn rất nhiều của khoa học và công nghệ so với tất cả các thời kỳ cách mạng
khoa học - kỹ thuật trước đây, mà Việt Nam là nước đi sau có thể có lợi thế rút
ngắn các bước phát triển.
Tuy nhiên, việc xây dựng Đảng về chính trị cũng có nhiều thách thức đó là:
Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra bốn thách thức và đồng thời cũng là bốn
nguy cơ lớn trong quá trình phát triển của những năm sau đó ở nước ta: “Nguy cơ
tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm
xuất phát thấp, nhịp độ tăng trưởng chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên

trong môi trường cạnh tranh gay gắt; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu
không khắc phục được những lệch lạc trong chỉ đạo thực hiện; nạn tham nhũng và
các tệ nạn xã hội khác; âm mưu và hành động diễn biến hồ bình của các thế lực
thù địch” [6].
Đồng thời cùng với đó nguy cơ từ bên ngồi vẫn hiện hữu đó là nguy cơ
“diễn biến hồ bình” của các thế lực thù địch. Các thế lực này vốn dĩ từ trước đến
nay luôn luôn tìm mọi cách chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam và sự nghiệp cách
mạng của nhân dân.
3.2.

Giải pháp xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam về chính trị trong những

năm tới
3.2.1. Nâng cao nhận thức của Đảng về xây dựng Đảng về chính trị
Trong thời gian tới xây dựng đảng về chính trị chủ yếu cần quan tâm xây
dựng Cương lĩnh chính trị của Đảng dựa trên sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Căn cứ vào sự phát triển của
tình hình, xác định đường lối, nhiệm vụ cụ thể cho từng thời kỳ, chuyển hướng mục
tiêu, phương pháp đấu tranh một cách kịp thời và chính xác. Biến đường lối chung
ấy thành qui hoạch, kế hoạch, những chủ trương, phương hướng cụ thể, phù hợp
19


với điều kiện từng ngành, từng địa phương, từng đơn vị, có tác dụng hướng dẫn
hành động hàng ngày của các tổ chức Đảng, của cán bộ, đảng viên và quần chúng.
Cần tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính
trị, lấy nền tảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Mỗi cán bộ,
đảng viên kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khơng giáo
điều, máy móc; kiên định con đường xã hội chủ nghĩa và mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, phê phán những ý kiến phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin. Nâng

cao năng lực hoạch định đường lối, xây dựng chính sách đúng đắn, phù hợp với
từng giai đoạn phát triển, phù hợp với quy luật khách quan và đặc điểm của Việt
Nam.
3.2.2. Tiếp tục các hoạt động làm trong sạch Đảng
Để xây dựng đảng về chính trị được thành công, Đảng Cộng Sản Việt Nam
cần tiếp tục đổi mới, kiện tồn tổ chức, cơng tác cán bộ. Kiện tồn tổ chức, bộ máy
của Đảng và hệ thống chính trị trên cơ sở: xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, mơ
hình tổ chức, tạo chuyển biến về chất lượng hoạt động; đánh giá đúng thực trạng,
những điểm còn hạn chế, tồn tại từ mơ hình tổ chức đến phương thức hoạt động;
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, nâng cao
chất lượng hoạt động của loại hình cơ sở đảng. Đồng thời cần chú trọng tăng cường
xây dựng Đảng về đạo đức, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, xử lý nghiêm
minh những cán bộ, đảng viên sai phạm, làm trong sạch bộ máy Đảng và Nhà
nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội. Trong đó các cấp ủy, tổ chức Đảng phải
đẩy mạnh, thường xuyên, liên tục, tránh các biểu hiện hình thức trong cơng tác giáo
dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên.
Đặc biệt cần gắn xây dựng Đảng về Đảng về chính trị với đạo đức, tư tưởng và
tổ chức. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng,
khơng dao động trước khó khăn, thử thách, âm mưu, thủ đoạn chống phá của các
20


thế lực thù địch cũng chính là nền tảng để xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có
phẩm chất đạo đức, lối sống trong sáng, cao đẹp, mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là
người đứng đầu gương mẫu, “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”, có lối sống
lành mạnh, đạo đức trong sáng, nói đi đơi với làm,
3.2.3. Nâng cao cơng tác dân vận và gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân
Thời gian tới cần quán triệt các quan điểm lớn của Đảng về công tác dân vận,
tạo sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức và hành động trong đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý của cả hệ thống chính trị, từ đó làm chuyển nhận thức của đội ngũ

công chức, viên chức, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Các cấp ủy phải đổi mới
cách nắm dân, vận động, tập hợp nhân dân, sâu sát cơ sở, sâu sát nhân dân, kịp thời
dự báo tình hình tư tưởng, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng các giai tầng xã hội.
Thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật của
Nhà nước phù hợp với thực tiễn và đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng của
nhân dân. Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra”. Tăng cường và đổi mới công tác dân vận của các cơ quan nhà nước. Thực hiện
tốt Quy chế cơng tác dân vận của hệ thống chính trị, Quy chế Dân chủ ở cơ sở.
Quan tâm việc dựa vào dân để lựa chọn, giới thiệu những người xứng đáng, có kinh
nghiệm, uy tín để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội bầu
làm người đứng đầu của mình. Đồng thời chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ chuyên trách làm công tác dân vận để nâng cao chất lượng tham mưu cho cấp ủy
về cơng tác dân vận trong tình hình mới. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
về công tác dân vận trong điều kiện Đảng cầm quyền.

21


KẾT LUẬN
Trong thời kỳ hiện nay, với quá trình đổi mới, hội nhập và mở cửa với khu
vực và trên thế giới với định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa cũng như xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để từ
đó làm nền tảng, xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc cho thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội được thực hiện thành công nhằm xây dựng mô hình xã hội xã hội chủ
nghĩa theo mơ hình riêng của đất nước. Với mục tiêu đó, Đảng Cộng Sản Việt Nam
rất chú trọng tới công tác xây dựng Đảng về mọi mặt đặc biệt là xây dựng đảng về
chính trị. Và để thực hiện được mục tiêu đó, điều quan trọng đặc biệt đối với Đảng
đó là cần phải học hỏi những kinh nghiệm từ thực tiễn xây dựng Đảng về chính trị
để có thể vận dụng những nhân tố hợp lý cũng như tránh những yếu tố không cịn

có thể vận dụng được.
Ở thời gian tới, xây dựng Đảng về chính trị cần thể hiện vấn đề kiên định chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp
với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Khẩn trương
chỉ đạo cụ thể hoá, thể chế hoá và tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc trong từng thời kỳ. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ;
thực hiện tốt Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước; Coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, chuyên gia đầu
ngành; đổi mới, trẻ hoá đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, kết hợp các độ tuổi, bảo
đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển. Coi trọng và làm tốt cơng tác bảo vệ chính
trị nội bộ; nghiên cứu ban hành và thực hiện tốt chính sách sử dụng và quản lý cán
bộ, đảng viên có vấn đề lịch sử chính trị; nắm và giải quyết vấn đề chính trị hiện
nay, giải quyết dứt điểm những vụ việc tồn đọng.
22


23


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Mai Anh (2016), Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính
trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, Bản quyền thuộc về Tạp chí Cộng Sản,
, truy cập ngày 7/6/2018.
2. Ban Tuyên Giáo Trung Ương (2016), Hệ thống chính trị và phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, Báo điện tử Đảng
Cộng sản Việt Nam, , truy cập ngày 5/6/2018.
3. C. Mác và Ph. Ăngghen: Tồn tập, tập 4, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
4. Đỗ Tiến Dũng (2015), Các đảng chính trị ở Anh, Pháp, Mỹ - sự tương đồng và
khác biệt, Luận văn thạc sĩ Chính trị học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Đài tiếng nói Việt Nam, Báo Điện tử VOV, Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin,

thường xuyên chỉnh đốn Đảng, , truy cập ngày 16/6/2018.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập t.53.
7. PGS,TS Nguyễn Thị Thanh Hoài, Tăng cường xây dựng đảng trong giai đoạn
hiện nay, Đảng bộ Học viện Tài chính, , truy cập ngày
16/6/2018.
8. Đỗ Tiến Khoa (2017), Vị trí, vai trò của Đảng Cộng sản cầm quyền đối với hệ
thống chính trị ở nước ta hiện nay, Trường Chính Trị Tôn Đức Thắng An Giang,
, truy cập ngày 7/6/2018.
9. Khoa Chính trị học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2009), Giáo trình:
Chính trị học đại cương, Nxb Lý luận chính trị.
10.Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 7, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
24


11.Quốc hội nước Cộng hòa DCND Đức, Luật về Đảng chính trị, Điều 2.
12.V.I. Lê-nin: Tồn tập, tập 4, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978.
13.V. I. Lênin: Toàn tập, tập 6, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978.
14.V.I. Lênin: Toàn tập, tập 35, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.

25


×