Chuyên đ 1
TỔNG QUAN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
CA LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN MARKETING
Trong cc giai đoạn ca qu trình pht triển marketing, cc học giả hàng đầu về marketing
đã có cc cch tiếp cận khc nhau trong nghiên cứu ca mình, có thể là theo hàng hóa, theo định
chế, chức năng, thị trường, theo hành vi tiêu dùng, theo quản trị và theo phương diện xã hội.
Wilkie and Moore (2003) đã xc định 4 kỷ nguyên pht triển tư duy marketing:
Thời kỳ I: Đặt nền móng, 1900–1920.
Thời kỳ II: Hình thành ngành, lĩnh vực 1920–1950.
Thời kỳ III: Sự chuyển đổi mô hình - Marketing, Quản trị và Khoa học, 1950–1980.
Thời kỳ IV: Thay đổi mạnh mẽ - Sự phân nhnh, 1980 đến nay.
Về mặt học thuật như đã được phản ảnh trong cc công trình nghiên cứu và cc tc phẩm
từ trên ba thập niên qua (cuối thời kỳ III đến thời kỳ IV), tiếp cận marketing đã dịch chuyển từ
quản trị sang phân tích. Marketing đã đnh mất vai trò quan trọng với tư cch là một chức năng
quản trị trong nhiều doanh nghiệp. Hiện nay hầu hết cc lý thuyết gia hàng đầu về marketing đã
chú trọng đến cch thức định hướng khch hàng, nhấn mạnh quan điểm marketing là xc định,
pht triển và phân phối gi trị cho khch hàng, và xem marketing như là một tiến trình kinh
doanh hơn là một chức năng quản trị phân biệt. Những trường phi mới về quản trị marketing
đang đề cập đến sự chuyển dịch tâm điểm cốt lõi ca marketing từ công ty sang khch hàng, từ
sản phẩm sang dịch vụ và lợi ích, từ giao dịch sang mối quan hệ, từ sản xuất sang cùng sng tạo
gi trị với cc đối tc kinh doanh và khch hàng, và từ cc nguồn lực hữu hình và lao động sang
nguồn lực trí tuệ và vị thế ca công ty trong chuỗi gi trị.
Cch đây hơn 40 năm, những người đặt nấc thang đầu tiên cho khi niệm marketing, với
lòng nhiệt huyết ca người truyền gio, đã đề cao vai trò ca marketing và vị trí trung tâm ca
quản trị marketing trong tất cả cc tổ chức. Peter Drucker, một trong những người khai sinh ra
ngành quản trị hiện đại, đã từng cho rằng “Marketing không chỉ bao quát phạm vi rộng hơn việc
bán ra một sản phẩm, nó cũng không phải là một hoạt động chuyên biệt. Nó là toàn bộ quá trình
kinh doanh xét trên quan điểm kết quả cuối cùng, đó chính là quan điểm của khách hàng”
Trong suốt những năm 60 và 70, cc nhà quản trị đã nhiệt thành theo đuổi khi niệm
marketing đến mức tất cả tổ chức đều bổ sung vào cơ cấu tổ chức ca mình một bộ phận mới có
tên “ bộ phận marketing”. Nhưng người ta đã bỏ qua điểm mấu chốt trong thông điệp ca Peter
Drucker. Trên thực tế, marketing đã thay thế cho hoạt động bn hàng như một hoạt động chức
năng riêng biệt và những nhà làm marketing được mong đợi trở thành những chuyên gia chăm
sóc khch hàng trong khi những người còn lại vẫn tiếp tục làm công việc kinh doanh với vai trò
như trước đây. Giai đoạn thập niên 60 và đầu thập niên 70, hình ảnh hàng nghìn công ty thành
công dường như đã chứng minh cho tính đúng đắn ca cch tiếp cận marketing như vậy.
Song vào những năm cuối thập niên 70, sự thay đổi ca môi trường kinh doanh đã diễn ra
vô cùng mạnh mẽ. Áp lực cạnh tranh toàn cầu khiến cc công ty nhận thức về tầm quan trọng ca
định hướng vào đối th cạnh tranh bên cạnh định hướng vào khch hàng. Cc nhà quản trị cấp
cao bắt đầu quan tâm đến khi niệm văn ho tổ chức và việc cung cấp dịch vụ hiệu quả cho khch
hàng. Sự chuyển đổi về mặt tổ chức bỗng chốc trở thành một chiến lược kinh doanh quan trọng
và vào năm 1992, với làn sóng mới về ti thiết kế qui trình kinh doanh, việc ti cấu trúc tổ chức
đã trở thành mối bận tâm hàng đầu ca cc nhà quản trị cấp cao. Sự giảm bớt cấp bậc quản trị
trong tổ chức, trao quyền và chuyển đổi từ cấu trúc chức năng sang cấu trúc nhóm đa chức năng
1
diễn ra trong hầu hết tổ chức. Những quy trình kinh doanh chính tắc dần trở nên lỗi thời. Người
ta bắt kịp những ý tưởng mới trong khi niệm marketing và giấc mơ ca Drucker đã trở thành sự
thật. Giờ đây, marketing không còn là lĩnh vực chỉ dành riêng cho những người làm marketing.
Thế giới kinh doanh trở nên năng động và thay đổi nhanh chóng hơn bao giờ hết. Người
ta pht triển, sử dụng, thay đổi và thậm chí ti sng tạo cc lý thuyết và khi niệm ca marketing.
Để có thể cảm nhận toàn bộ sự thay đổi này cũng như cc quy trình hoạch định và pht triển
chiến lược marketing, phần này sẽ cung cấp một ci nhìn tổng quan về tư duy và thực tiễn hoạt
động marketing theo từng giai đoạn.
1. NHỮNG LÝ THUYẾT NỀN TẢNG CA MARKETING
Cho đến nay người ta vẫn chưa thống nhất một khi niệm chung về marketing trong một
rừng định nghĩa đã được phổ biến kể từ những năm 50 dựa trên quan điểm về sự trao đổi trên thị
trường. Chẳng hạn: “Marketing là hoạt động của con người hướng đến việc thoả mãn nhu cầu và
mong muốn thông qua các quá trình trao đổi”
1
.
Điểm xuất pht ca lý thuyết trao đổi thị trường chính là những học thuyết ca nền kinh tế
tự do bắt nguồn từ thế kỷ 17 và 18, là nền tảng cho học thuyết kinh tế hiện đại sau này. Cc nhà
lý luận ca nền kinh tế tự do cho rằng sự giàu có ca quốc gia và trật tự xã hội tuỳ thuộc vào
năng lực ca c nhân và cc lực lượng cạnh tranh trên thị trường. Đó chính là triết lý xã hội cơ
bản ca Adam Smith, người đã hệ thống ho ch nghĩa kinh tế tự do và được công nhận là cha đẻ
ca cc học thuyết về kinh tế. Trong tc phẩm bước ngoặt ca ông “Tìm hiểu về bản chất và
nguyên nhân sự giàu có của các quốc gia”, Smith cho rằng sự giàu có ca c nhân và xã hội nói
chung bắt nguồn từ việc mỗi c nhân được tự do hành động nhằm pht triển những ý tưởng ca
mình. Trong ấn phẩm đầu tiên ca mình “Lý thuyết về quan điểm đạo đức ” và được lặp lại trong
cuốn “Tìm hiểu về bản chất và nguyên nhân sự giàu có của các quốc gia”, con người tư lợi
thường được dẫn dắt bởi “một bàn tay vô hình mà nếu không có nó, nếu không mong muốn nó ”
thì không thể tạo ra động lực pht triển cho xã hội. Theo đó, Smith đã dựa trên cc khi niệm về
động cơ cố hữu trong tâm lý con người. Ông tin rằng sự cạnh tranh diễn ra như một cơ chế bảo vệ
tính điều hoà ca nền kinh tế và bản thân con người có một mong ước cố hữu là làm cho điều
kiện sống tốt đẹp hơn (một mơ ước từ khi lọt lòng cho đến khi mất đi) do đó sự cạnh tranh giữa
cc nhà sản xuất đã hạ thấp gi cả đến một “mức tự nhiên”. Cuối cùng, Smith tranh cãi rằng bởi
vì mỗi con người luôn có một “thiên hướng buôn bán, đổi chác và trao đổi một vật phẩm nào đó”
do đó họ trở nên phụ thuộc vào nhau. Như vậy, có thể nói qu trình trao đổi được dẫn dắt bởi nhu
cầu và mong muốn ca mỗi c nhân.
Những nhà nhân loại học và xã hội học cũng bị thu hút bởi vai trò trung tâm ca trao đổi
trong đời sống xã hội. Chẳng hạn, Malinowski cho rằng trao đổi tương hỗ đã tạo ra sự liên kết xã
hội trong khi đó Mauss lại nhấn mạnh đến bản chất bắt buộc và ưa chuộng ca quà cp và cc
hình thức trao đổi khc. Blau lại nhắc đến vai trò ca trao đổi như là sự sng tạo nên cc mối
quan hệ quyền lực. Cc nhà nghiên cứu ng hộ lý thuyết trao đổi đã quan niệm ho mối tương tc
xã hội như một sự trao đổi hàng ho hữu hình và vô hình, được sắp xếp từ thức ăn, nhà ở cho đến
sự tn thành và cảm thông trong xã hội.
Sự trao đổi diễn ra trong nền kinh tế và trong xã hội thuộc về một loại lý thuyết nói chung
gọi là “lý thuyết về sự lựa chọn có lý trí”. Nhà xã hội học Wallace và Wolf cho rằng có 4 nhận
định cơ bản chịu tc động bởi lý thuyết về sự lựa chọn có lý trí, bao gồm:
• Cc c nhân đều mong muốn tối đa ho lợi nhuận, về cơ bản họ quyết định dựa trên
mong muốn và những ưu tiên ca mình.
1
P. Kotler, “A generic concept of marketing” Journal of Marketing, April, 1972, p.37.
2
• Càng có nhiều một thứ nào đó, c nhân càng ít quan tâm hay mong muốn nó hơn.
• Gi cả ca hàng ho bn ra được quyết định trực tiếp bởi sở thích ca người mua và
người bn. Nhu cầu về một loại hàng ho càng lớn, nó càng có gi trị và mức gi ca nó
sẽ cao. Ngược lại, nếu mức cung càng cao, hàng ho càng ít gi trị và gi ca nó sẽ thấp
đi.
• Nhìn chung hàng ho nếu được cung cấp bởi một nhà độc quyền sẽ đắt đỏ hơn so với
trường hợp chúng được cung ứng bởi một số lượng cc hãng cạnh tranh lẫn nhau.
Tóm lại, những lý thuyết nền tảng ca marketing, hay còn gọi là “khi niệm marketing”
có thể được truy nguyên từ những lý thuyết do cc nhà kinh tế học pht triển từ thế kỷ 17 và 18.
Cch đây hơn 70 năm (1933), Tosdal đã cô đọng quan điểm này trong một bài viết trên tạp chí
Harvard Business Review
2
:
“Những thay đổi trước tiên, có ý nghĩa quan trọng nhất và ấn tượng nhất trong vòng 12
năm trở lại đây, đặc biệt từ năm 1929 chính là việc gia tăng sự chú ý đến nhu cầu và
mong muốn của khách hàng như là sự dẫn dắt cho thành công của quản trị marketing
trong tổ chức. Đó chính là lý do chúng ta đồng ý với Wallac B. Donham trong lời tuyên
bố của ông rằng nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm quan tâm đến nhu cầu và mong
muốn của khách hàng. Tuy nhiên bản cáo trạng trên cần được mở rộng ra bao gồm cả
những người bán sỉ, những người bán lẻ và các trung gian khác Ít nhất, một cách thiển
cận, ý tưởng về nhu cầu và mong muốn của khách hàng cần phải được xem là điểm xuất
phát cho tư duy kinh doanh và không thay đổi theo thời gian. Dù một thế kỷ trôi qua hay
lâu hơn nữa, các nhà kinh tế vẫn khẳng định rằng mục tiêu của cấu trúc kinh tế và những
chức năng của nó chính là sự thoả mãn nhu cầu khách hàng. Sự thay đổi diễn ra trong
thế giới ngày nay chỉ là sự chuyển đổi chậm chạp từ lý thuyết sang thực tiễn mà thôi”.
2. THỰC TIỄN MARKETING
Trong khi cc lý thuyết cơ bản ca marketing có liên quan đến ít nhất hai thế kỷ trước đây
và lĩnh vực marketing bắt đầu được pht triển như một ngành khoa học gần một thế kỷ, người ta
dm chắc rằng những hoạt động marketing phức tạp đã được tiến hành bởi nhiều tổ chức kể từ
thời điểm Cch mạng công nghiệp. Những nhà nghiên cứu lịch sử marketing gồm McKendrick,
Brewer và Plum cho rằng cuộc Cch mạng công nghiệp (bắt đầu từ những năm 1770) đạt được
nhiều thành công bởi qu trình sản xuất và marketing đã được tiến hành song song. Để dẫn chứng
cho điều này, Fullerton đã cho rằng những người đặt nền móng đầu tiên cho thực tiễn sản xuất
như Mathew Boulton và Josiah Wedgewood cũng đồng thời tiên phong cho thực tiễn marketing
hiện đại, họ đã đưa lý thuyết nhu cầu vào cuộc cch mạng sản xuất cc loại sản phẩm rẻ tiền bằng
cch sử dụng cc kỹ thuật marketing, mà những những ấn phẩm về chúng mãi đến năm 1950 mới
được xuất bản tại Hoa Kỳ, như: phân đoạn thị trường, tạo sự khc biệt sản phẩm, định gi ưu thế,
tự làm lỗi mốt, quảng co theo chu kỳ, chiến dịch marketing trực tiếp, hấp dẫn từ nhóm tham
khảo và cc phần thưởng cổ động,
Nửa sau thế kỷ 19, nhiều hoạt động thực tiễn ca marketing hiện đại đã được tiến hành.
Cch sử dụng thương hiệu như một phương tiện để nhận biết đã xuất hiện từ những năm
60 ca thế kỷ 19 (chẳng hạn, P&G đã dùng hai thương hiệu Pears Soap tại Anh và Ivory Soap tại
Hoa Kỳ cho cùng một loại xà phòng).
Cc công ty quảng co cũng ra đời trong thời gian này (tại Anh từ năm 1786 và tại Đức từ
những năm 1850). Năm 1882, P&G đã tiến hành quảng co loại xà phòng nhãn hiệu Ivory một
2
H.R. Tosdal, “Some recent changes in the marketing of consumer goods”, Harvard Business Review, X1, no.2,
January, 1933, p.157.
3
cch có hệ thống. Từ đầu thế kỷ 20, cc công ty quảng co Hoa Kỳ đã bổ sung thêm dịch vụ sng
tạo và thay thế cc quảng co cho khch hàng ca mình và cung cấp cc dịch vụ khc như tư vấn
marketing, thực hiện cc cuộc nghiên cứu thị trường, thiết kế bao bì và sản phẩm Bn hàng c
nhân cũng trở nên phức tạp hơn và hoạt động huấn luyện trong bn hàng đã được thực hiện ở cc
công ty ca Đức trong suốt những năm cuối thế kỷ 19. Đầu thế kỷ 20, cch tiếp cận tương tự
cũng được cc hãng sản xuất ca Hoa Kỳ tiến hành.
Những gì được mô tả như marketing dữ liệu (database marketing) ngày nay thực ra đã
được thực hiện bởi một công ty ca Đức vào năm 1870, Bibliographoisches Institut, họ đã sử
dụng cc thư mục kiểu phả hệ để quản lý thư từ và danh sch cuộc gọi ca khch hàng, và từ đó
định nghĩa thị trường theo phong cch sống. Drucker còn cho rằng Cynus McCormick, nhà pht
minh ra my gặt cơ khí mới chính là người đầu tiên xc định marketing như một chức năng riêng
biệt và đóng vai trò trung tâm trong kinh doanh. Cũng theo Drucker, ngay từ năm 1850, chính
McCormick đã sng tạo nên những công cụ cơ bản ca marketing hiện đại như: nghiên cứu thị
trường, phân tích thị trường, dung lượng thị trường, chính sch gi, lực lượng bn hàng, dịch vụ
cung ứng và thậm chí chính sch tín dụng khch hàng.
3. SỰ CỔ XÚY CHO KHÁI NIỆM MARKETING - SỰ RA ĐỜI CA CÁC TRƯỜNG
PHÁI NGHIÊN CỨU QUẢN TRỊ MARKETING
Như đã thảo luận trước đó, sự ra đời ca tư duy và thực tiễn marketing đã trải qua qu
trình lịch sử lâu dài. Tuy nhiên trước những năm 50, cc chức năng kinh doanh, mà ngày nay
được xem là lĩnh vực chính ca marketing, đặc biệt là quảng co và bn hàng, lại được tiến hành
hoàn toàn độc lập. Hơn nữa, trong khi những lý thuyết nền tảng ca marketing (xem nhu cầu và
mong muốn ca khch hàng là điểm xuất pht cho tư duy kinh doanh) chỉ được nhận diện bởi
một số nhà học thuật (chẳng hạn như Tosdal, năm 1933) và một số hãng dẫn đầu, quan điểm này
đã không được thế giới kinh doanh chấp nhận và thực thi rộng rãi. Quả thực, trong những ngày
cuối cùng ca cuộc Đại suy thoi và bắt đầu cuộc Chiến tranh thế giới thứ II, nhiều ngành kinh
doanh đã rơi vào thời điểm cực kỳ khó khăn. Và người sống sót là những công ty đã thích nghi
được với khi niệm kinh doanh mới.
Kết thúc cuộc chiến tranh thế giới II, nhu cầu về hàng ho bị dồn nén và sự khan hiếm về
nguồn cung đã dẫn đến việc cc hãng ra sức tập trung vào lĩnh vực sản xuất. Tuy nhiên, đến đầu
năm 1950, sự cạnh tranh bắt đầu diễn ra trong một số ngành, lúc này một lần nữa dấy lên sự quan
tâm đến khía cạnh nhu cầu khch hàng đối với sự tồn tại ca doanh nghiệp.
Năm 1952, một sự kiện đã diễn ra khi General Electric, một trong những tập đoàn lớn
nhất Hoa Kỳ, đưa ra lời tuyên bố trong Bo co thường niên ca mình rằng:
“Triết lý của chúng tôi là đặt vai trò của người làm marketing ở thời kỳ đầu của vòng đời
sản phẩm và sẽ tích hợp hoạt động marketing vào tất cả các giai đoạn của quá trình kinh
doanh. Chính vì vậy, hoạt động marketing, thông qua việc học hỏi và nghiên cứu, sẽ
mang lại cho mỗi kỹ sư, mỗi nhà thiết kế những hiểu biết về nhu cầu của khách hàng
trong từng loại sản phẩm, mức giá mà anh ta sẵn lòng chi trả, thời gian và địa điểm phân
phối. Marketing có vai trò quyết định trong việc hoạch định sản phẩm, kiểm soát chu kỳ
sản xuất và tồn kho cũng như phân phối và dịch vụ cho khách hàng”
3
.
Đây là sự khởi đầu cho việc cổ xuý một triết lý quản trị mới mà sau đó hai năm, Peter
Drucker gọi là “triết lý marketing”. GE đã làm cho quan điểm này trở nên rõ ràng hơn khi tuyên
bố marketing đóng vai trò trung tâm trong tất cả hoạt động kinh doanh ca hãng. Drucker đã xc
nhận lại quan điểm này trong cuốn “Thực tiễn quản trị” và từ đó, hàng loạt cc công ty ở Hoa Kỳ
3
General Electric Company, Annual Report, New York, 1952, p.21
4
đã làm cho nó trở nên phổ biến và rõ ràng hơn, thậm chí đối với cc doanh nghiệp phương Tây,
người ta còn xem nó như một vấn đề kinh doanh cốt lõi. Drucker cho rằng một hãng kinh doanh
có hai mục đích: tạo ra khách hàng và luôn đổi mới. Hơn nữa, ông còn tin rằng vai trò ca quản
trị marketing chính là việc xây dựng một công ty bằng cch tạo ra khch hàng.
“Nếu chúng ta muốn biết chúng ta đang ở lĩnh vực kinh doanh nào, hãy bắt đầu bằng câu
hỏi “ Mục tiêu của nó là gì? Và một mục tiêu phải được dựa trên những gì nằm ngoài bản
thân ngành kinh doanh đó. Trên thực tế, nó phải dựa vào xã hội bởi vì doanh nghiệp là tế
bào của xã hội. Chỉ có một định nghĩa thực sự có giá trị về mục tiêu của doanh nghiệp, đó
chính là việc tạo ra một khách hàng
Chính khách hàng là người quyết định ngành nghề kinh doanh của chúng ta Bởi vì mục
đích này nên bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có hai và chỉ hai chức năng cơ bản:
marketing và đổi mới. Chúng là những chức năng quyết định sống còn
Marketing không chỉ rộng hơn việc bán hàng, nó cũng không phải là một hoạt động
chuyên biệt nào. Nó là toàn bộ quá trình kinh doanh xét trên quan điểm kết quả cuối
cùng, đó chính là quan điểm của khách hàng. Chính vì vậy, mối quan tâm và trách nhiệm
đối với hoạt động marketing phải được lan toả trong tất cả các bộ phận của doanh
nghiệp”
4
.
“Thực tiễn quản trị”ca Drucker đã trở thành cuốn sch bn chạy nhất mọi thời đại trong
lĩnh vực kinh doanh và sau nhiều năm vẫn là ch đề bình luận ch yếu ca nhiều tạp chí và nhà
xuất bản có uy tín. Tiếp nối ông còn có nhiều học giả nổi tiếng khc như McKitterick (1957),
Levitt (1960), Keith(1960) và McCathy, Philip Kotler (từ sau năm 1960 trở đi).
Quan điểm ca Drucker cho rằng marketing phải chịu trch nhiệm quản trị chung được
ng hộ bởi McKitterick, người sau đó trở thành gim đốc nghiên cứu marketing và dịch vụ ca
tập đoàn GE. Trong một bài viết ca mình, McKitterick chỉ ra rằng cch sử dụng ca những kỹ
thuật marketing hiện đại vẫn chưa đ để giúp cc doanh nghiệp đạt được thành công:
“ Nếu các doanh nghiệp muốn cạnh tranh thành công trong môi trường thay đổi nhanh
chóng như hiện nay, họ cần phải nắm trong tay các phương tiện ngày càng tinh vi và
phức tạp hơn. Thật sự, để đối phó kịp thời và xác lập một kế hoạch cạnh tranh dựa trên
những nỗ lực có thể đòi hỏi các nguồn lực trị giá hàng triệu đô và sự hiểu biết về khách
hàng. Vì thế, nhiệm vụ chủ yếu của chức năng marketing trong một khái niệm quản trị
không gì khác ngoài những kỹ năng biến những hành động của khách hàng thành những
gì phù hợp với mong muốn của tổ chức và ngược lại”
5
.
Tuy nhiên vào năm 1960, sự ra đời ca một trong những ch đề được ti bản nhiều lần
nhất trong lịch sử ca tờ Harvard Business Review -“Tật cận thị trong marketing” (Marketing
myopia) ca Theodore Levitt, đã làm lu mờ những lý thuyết ca McKitterick. Trong bài viết này,
Levitt cho rằng mỗi ngành kinh doanh nên được xc định dựa trên khả năng thoả mãn những nhu
cầu ca khch hàng hơn là dựa trên những sản phẩm được hãng bn ra. Theo đó, nhu cầu ca
khch hàng phải nằm ở vị trí trung tâm trong định nghĩa ngành kinh doanh ca một tổ chức:
“Công việc quản trị không phải là việc sản xuất ra những sản phẩm mà là cung cấp và
tạo ra giá trị thông qua việc thỏa mãn khách hàng. Ý tưởng này phải được đặt ở khắp mọi
ngóc ngách trong tổ chức. Điều này phải được thực hiện thường xuyên, liên tục với sự
nhạy bén nhằm tạo ra sự hào hứng và động lực thúc đẩy mọi người. Nếu không, tổ chức
4
Drucker, The Practice of Management, p.52-54
5
J.B. McKitterick, “What is the marketing management concept?”, in F.M. Bass (ed.), The Frontiers of Marketing
Thought and Science, American Marketing Association, 1957, p. 71-82.
5
chẳng khác nào một dãy các phòng ban lắp ghép lại trong đó không có bất kỳ sự cảm
nhận thống nhất về mục đích và phương hướng chung”
6
.
Ông chứng minh lời nói trên bằng cch viện dẫn một ví dụ về cc công ty đường sắt ca
Hoa Kỳ. Những công ty này, theo Levitt khẳng định, đã bỏ qua một điều quan trọng rằng họ đang
ở trong một ngành kinh doanh đp ứng nhu cầu vận chuyển ca khch hàng (hành khch và hàng
ho). Cch định nghĩa ngành dựa trên sản phẩm hiện tại đã khiến họ xem khía cạnh công nghệ
mới (mà biểu hiện là loại hình xe tải, xe buýt hay my bay phản lực) là những đối th cạnh tranh
hơn là một phương tiện hiệu quả hơn để thoả mãn nhu cầu khch hàng. Vì thế, trong một thời
gian dài, thay vì bắt kịp công nghệ, cc công ty này lại quay sang chống đối nó và phải gnh chịu
hậu quả nặng nề.
Cũng trong năm đó, Robert Keith, Phó ch tịch Hiệp hội hàng tiêu dùng đồng thời là
Gim đốc ca hãng Pillsbury, đã công bố một bài bo dài 4 trang trên tạp chí Journal of
Marketing về những ảnh hưởng ca lý thuyết “Tật cận thị trong marketing” đối với thế giới kinh
doanh. Hơn 3 thập kỷ, những sinh viên nghiên cứu marketing trên khắp thế giới đã được dạy dỗ
rằng những tư duy quản trị có liên quan đến một vài “kỷ nguyên kinh tế”. Pillsbury đã xuất pht
từ một công ty “định hướng sản phẩm” khi nó bắt đầu hoạt động từ năm 1869. Từ năm 1930 cho
đến 1960, cc nhà quản trị nhận ra rằng khch hàng mới là lực lượng đóng vai trò quan trọng
nhất. Tuy nhiên từ năm 50 đến những năm 60 một sự thay đổi về tư duy xảy ra khi hãng cho rằng
chính marketing mới trực tiếp kiểm sot tất cả cc chức năng khc ca tổ chức. Năm 1960, Keith
tuyên bố một cuộc cch mạng marketing đang diễn ra và cc công ty không còn là trung tâm ca
vũ trụ, chính khch hàng đã thay thế vị trí đó! Keith dự đon Pillsbury đang tiến vào kỷ nguyên
thứ tư ca cuộc cch mạng nơi “marketing sẽ trở thành động lực thúc đẩy căn bản cho tổ chức”
trong đó nhu cầu khch hàng đóng vai trò trung tâm và sự tồn tại ca những kỷ nguyên kinh tế,
như Marion từng nói “trong truờng hợp tốt nhất chúng là giả thiết cho việc tìm kiếm một sự trải
nghiệm, trong trường hợp xấu nhất, chúng chỉ là một sự kiến thiết hoang đường và không thể đại
diện cho thực tiễn”. Vấn đề là giả thuyết ca Keith được chấp nhận như một sự đóng góp to lớn
cho tư duy quản trị marketing bất chấp sự thiếu vắng ca những bằng chứng thuyết phục cũng
như ông chỉ lấy ví dụ một điển hình duy nhất trong nền kinh tế Hoa Kỳ (hãng Pillsbury) để bao
qut toàn bộ nền kinh tế phương Tây. Hơn nữa, theo Fullerton, quan điểm ca Keith về mô hình
pht triển ca marketing đã bỏ qua những tiền đề về tư duy và thực tiễn marketing trong lịch sử.
Vì thế, thật sai lầm khi cho rằng tất cả cc công ty tồn tại trong một giai đoạn cụ thể có thể được
sắp xếp dựa trên tiêu chí “định hướng sản phẩm”, “định hướng khch hàng” và cuối cùng là
“định hướng thị trường”. Tuy nhiên, quan điểm này lại tỏ ra hợp lý hơn đối với từng công ty và
có thể đóng vai trò hữu ích trong việc miêu tả một triết lý kinh doanh tổng thể ca một tổ chức.
Việc ra đời ca những tc phẩm trên có thể được xem là sự kiện mang tính bước ngoặc có
tc dụng cổ vũ cho khi niệm marketing. Sau đó, rất nhiều học giả khc đã đề xuất những lý
thuyết mới trong marketing, trong đó phải kể đến những tc phẩm bn chạy nhất ca McCathy và
Philip Kotler đã làm cho khi niệm marketing trở nên không ngừng phổ biến. Kể từ sau khi
McCathy xuất bản ấn phẩm đầu tiên vào năm 1960 và Kotler vào năm 1967, hàng trăm ngàn nhà
làm marketing và học giả nghiên cứu trên khắp thế giới đã học tập cch thức làm marketing ca
McCathy hay Philip Kotler - dựa trên những lý thuyết nền tảng ca khi niệm marketing.
Với lợi ích ca sự nhận thức muộn màng, có thể thấy rằng sự cổ xuý cho khi niệm
marketing trong những năm 50 được xem là sự kiện bước ngoặc trong lĩnh vực marketing. Cc lý
thuyết nền tảng về marketing có thể không còn mang tính cch mạng song những ứng dụng ca
nó vẫn hết sức mới mẻ. Khi niệm marketing là một sự pht ngôn thiết yếu trong cc trường quản
trị marketing hiện đại về tư duy khi nó định vị marketing đóng vai trò quản trị chung trong tổ
6
T. Levitt, “Marketing myopia” Harvard Business Review, July-August, 1960, p. 45-56.
6
chức. Khi niệm này đã yêu cầu cc nhà quản trị tập trung vào khch hàng ca mình hơn là
những sản phẩm được bn ra. Nó nhấn mạnh vào định hướng chiến lược dài hạn dựa trên sự đp
ứng khch hàng hơn là doanh số bn. Về cơ bản, cc công ty đối phó với những thch thức ca
môi trường bằng cch thiết lập cc bộ phận marketing, trong nhiều trường hợp một số còn dựa
trên cấu trúc quản trị sản phẩm ca P&G đã được giới thiệu trong những năm 30. Marketing đã
gnh vc trch nhiệm cho cc chức năng khc như quảng co, bn hàng và nghiên cứu thị trường.
Từ những năm 60, định nghĩa về marketing càng được bổ sung với sự pht triển ca khi niệm
phối thức marketing (marketing-mix), đặc biệt là mô hình 4P (sản phẩm, gi, phân phối và cổ
động). Bên cạnh đó, vào năm 1958, Kelly và Lazer còn nhấn mạnh đến vai trò ca công tc
hoạch định marketing như là nhiệm vụ quan trọng nhất ca nhà quản trị marketing:
“Hệ thống marketing được thiết kế nhằm phục vụ nhu cầu của khách hàng trong những
công ty hoạt động theo quan điểm marketing. Số phận của một tổ chức có thể được quyết
định bởi những nỗ lực marketing. Một trong những nhiệm vụ chủ yếu nhất của quản trị
marketing chính là việc hoạch định liên tục trong ngắn hạn và dài hạn cho những hoạt
động của công ty và sự phát triển các chiến lược và chiến thuật bắt nguồn từ hệ thống
tích hợp những hành động này”
7
.
4. NHỮNG LỰC LƯỢNG DẪN DẮT SỰ THAY ĐỔI TRONG THẬP NIÊN 80 - 90
Trong phần này chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu những lực lượng làm thay đổi một cch
mạnh mẽ môi trường kinh doanh ca nhiều ngành công nghiệp và là tiền đề ca những thay đổi
trong lĩnh vực marketing.
Quản trị chất lượng toàn diện (TQM)
Tiếp nối sự thành công ca ngành công nghiệp Nhật Bản trong những năm 70 và sự sụp
đổ đồng thời ca ngành công nghiệp Hoa Kỳ, thập niên 80 được đnh dấu bằng việc tìm kiếm
một thực tiễn tốt đẹp hơn đã được Tom Peters và Robert Waterman diễn tả trong cuốn “Đi tìm sự
tuyệt hảo” (In search of Excellence)
8
. Vì thế khi W. Edwards Deming công bố một đoạn phim tài
liệu vào thng 6/1980 về phương thức quản trị chất lượng ca người Nhật, tc phẩm ca ông đã
không gây được tiếng vang lớn. TQM là một trong những nguyên nhân cơ bản tạo ra sự thay đổi
thần kỳ cho nền kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh thế giới II. Có nguồn gốc từ phương thức kiểm
sot chất lượng bằng thống kê ca Quân đội Hoa Kỳ, từ năm 1946 đến 1950, quy trình TQM
được Deming và những người tiên phong trong lĩnh vực này tại Hoa Kỳ bao gồm Joseph Julien
và Arman Feigenbaum cng cố và chắt lọc lại. Đến cuối những năm 50, cc chuyên gia Nhật Bản
gồm Kaoru Ishikawa, Genichi Taguchi và Shigeo Shingo đã bổ sung và pht triển cc phương
php luận ca người Mỹ cho phù hợp với môi trường kinh doanh ca Nhật Bản. TQM là một triết
lý quản trị dựa trên sự mở rộng phương pháp thống kê về đo lường và kiểm soát chất lượng sản
phẩm, đem lại cho cc hãng một nhận thức đúng đắn và sự tập trung vào yếu tố chất lượng từ qu
trình cung ứng cho đến sản xuất, marketing, bn hàng và phân phối sản phẩm và dịch vụ. Nó
nhấn mạnh vào tinh thần làm việc nhóm, khả năng đp ứng nhu cầu khch hàng và tạo dựng cc
mối quan hệ tuyệt hảo trong chuỗi cung ứng. Ý nghĩa ca TQM đối với mỗi doanh nghiệp không
thể đo lường hết được. TQM mang đến sự thay đổi về mặt tổ chức đó chính là sự tập trung vào
tinh thần làm việc nhóm dẫn đến việc hình thành những nhóm hoạt động đa chức năng (cross –
functional work team). Nhận thức về tầm quan trọng ca việc thoả mãn nhu cầu khch hàng trong
7
E. Kelly & W. Lazer (eds), Management Marketing: Perspectives and Viewpoints, Richard D. Iwrin Homewood,
Ill, 1958, p.9-10.
8
Tom Peter và Robert Waterman là 2 đồng nghiệp tại hãng McKinsey. Hai ông đã khảo sát 43 công ty lớn như IBM,
GE, P&G, Johnson &Johnson để phân tích thành công của chúng trong hơn 20 năm. Cuốn “Đi tìm sự tuyệt
hảo”được xuất bản năm 1982 và lập tức trở thành hiện tượng, là một trong ba cuốn sách kinh doanh hay nhất thế kỷ
XX.
7
mỗi hành động ca tổ chức đã dẫn đến cuộc cch mạng dịch vụ khch hàng trong những năm 80.
Ngoài ra, nhu cầu đảm bảo thông tin và tạo động lực cho nhân viên giúp họ tập trung nỗ lực vào
chất lượng và khch hàng đã dẫn đến nhu cầu giao tiếp nội bộ cũng như việc nhận thức về sự tồn
tại và tầm quan trọng ca khch hàng bên trong hay sự ra đời ca marketing nội bộ.
Công nghệ và công nghệ thông tin
Sự ra đời và phổ biến ca my quét mã vạch vào những năm 80 đã dẫn đến sự hình thành
một khi niệm và quy trình hoàn toàn mới - quản trị chuỗi cung ứng, một khi niệm liên kết hoạt
động ca nhà sản xuất với những nhà cung cấp, cc trung gian ch yếu và khch hàng cuối cùng
ca nó với mục tiêu tăng cường tính hiệu quả và hiệu suất cung ứng. Cùng thời điểm này, việc
pht minh ra my tính c nhân đã dẫn đến cuộc cch mạng ca kỷ nguyên thông tin. Đầu thập
niên 90, sự ra đời ca mạng my tính càng tạo động lực thúc đẩy cho cuộc cch mạng. Từ thời
điểm đó, công nghệ thông tin đã thay đổi phương thức kinh doanh và trở thành nhu cầu tự nhiên
ca đời sống xã hội. Thương mại điện tử hay kinh doanh điện tử đã cho phép tổ chức chia sẻ
thông tin vượt khỏi biên giới ca hãng, do đó định hình lại bản chất ca mối quan hệ với khch
hàng, nhà cung cấp và đối th cạnh tranh. Với sự pht triển nhanh chóng ca Internet và World
Wide Web (www) kể từ năm 1950, cch thức hoạt động, liên lạc, thu thập và chia sẻ thông tin
ca cc tổ chức và c nhân đã thay đổi đng kể. Điều này càng làm gia tăng tầm quan trọng ca
bn hàng điện tử trong kỷ nguyên B2C, sự pht triển và thích nghi nhanh chóng khi niệm
“hoạch định nguồn lực doanh nghiệp” (ERP) - một hệ thống tích hợp liên kết bởi rất nhiều hệ
thống quản trị tài chính, sản xuất, nhân lực, phân phối và đặt hàng trong tổ chức.
Cuộc cách mạng dịch vụ khách hàng
Phong trào dịch vụ khch hàng, mở rộng từ triết lý TQM, đã được phổ biến trong suốt
những năm 80. Tom Peter, một trong những học giả có nhiều đóng góp cho nền học thuật về
quản trị, đã diễn tả khía cạnh dịch vụ khch hàng trong cuốn “Pht đạt trong thời hỗn loạn”
(Thriving on chaos)
9
như sau:
Khách hàng, dù tồn tại ở dạng tinh thần hay bằng xương bằng thịt, cũng ảnh hưởng đến
toàn bộ tổ chức ở mỗi hệ thống, mỗi phòng ban, mỗi quy trình, mỗi cuộc họp, mỗi quyết
định Hãy tạo ra một cuộc cách mạng định hướng khách hàng (mà khách hàng là nỗi ám
ảnh!). Thường xuyên chú ý đến những sắc thái nhỏ nhất trong mỗi chương trình qua cặp
mắt của khách hàng, đó chính là cách khách hàng cảm nhận nó. Hãy chiến thắng sự thay
đổi bằng sự giúp đỡ của khách hàng, họ không phải là những người bảo vệ cho tính bền
vững bên trong tổ chức chúng ta mà thực sự là những thành viên hợp tác mới trong mỗi
chức năng của tổ chức.
Trong suốt thập niên 80, việc đo lường sự thoả mãn ca khch hàng đã trở nên phổ biến
trong hầu hết cc tổ chức. Trong khoảng 10 năm (từ 1980 đến 1990), trên 15000 bài viết học
thuật được đăng trên cc tạp chí kinh doanh về ch đề này và lĩnh vực điều tra sự thoả mãn ca
khch hàng đã pht triển nhanh chóng trong ngành nghiên cứu thị trường.
Hệ thống quản trị tồn kho Just-in-time (JIT)
Có xuất xứ từ chữ “kanban” trong tiếng Nhật, hệ thống quản trị tồn kho đã được cc công
ty Hoa Kỳ, khởi đầu là cc hãng sản xuất ôtô, đưa vào sử dụng từ đầu những năm 1980. Mục
đích ca JIT là giảm lượng hàng tồn kho ở mức tối thiểu và dựa vào nhà cung cấp để cung ứng
hàng ho gần như ngay lập tức. Hệ thống JIT phụ thuộc chặt chẽ vào mối quan hệ phối hợp giữa
người mua và người bn và sự chia sẻ thông tin. Sự thích nghi rộng rãi ca JIT trong ngành công
9
Cuốn “Phát đạt trong thời hỗn loạn” được xuất bản vào ngày thị trường chứng khoán Wall Street sụp đổ, hứa
hẹn một lối thoát ra khỏi tình hình bất trắc, là cuốn sách thứ ba thuộc vào hàng best selling của Tom Peters.
8
nghiệp ở cc nước phương Tây trong những năm 80 đã mang lại sự thay đổi to lớn trong mối
quan hệ giữa cc tổ chức mua bn, đó là sự chuyển đổi từ vai trò thương lượng dựa trên những
mối tương tc đơn lẻ sang việc nhấn mạnh vào sự thiết lập cc mối quan hệ chiến lược dài hạn.
Giữa năm 80, cùng với sự ra đời ca kỹ thuật phản ứng nhanh (quick response - QR) càng làm
gia tăng nhu cầu thắt chặt mối quan hệ giữa người mua và người bn. QR là sự kết hợp giữa hệ
thống JIT với công nghệ thông tin tốc độ cao (như mã vạch sản phẩm, rà sot doanh số bn và
trao đổi dữ liệu điện tử, mạng liên kết trực tuyến giữa cc tổ chức mua và bn) nhằm tối đa ho
hiệu quả trong việc đặt và giao hàng. Sự thích nghi với hệ thống JIT và QR đã ảnh hưởng rất
nhiều đến phương thức kinh doanh ca tổ chức. Thứ nhất, đó là sự đảo ngược từ chức năng tồn
kho - vận chuyển mà người mua đã chuyển sang cho nhà cung cấp. Thứ hai, quản trị hậu cần đã
trở thành mối bận tâm ch yếu ca cc nhà quản trị cấp cao trong cc tổ chức cung ứng khi họ
phải đối diện với thch thức phải cung cấp cho khch hàng trong thời gian nhanh nhất với lượng
tồn kho thấp nhất, mà điều này thường gây sức ép cho việc giảm chi phí. Thứ ba, JIT nhấn mạnh
vào nhu cầu thiết lập và duy trì cc dịch vụ hoàn hảo cho khch hàng như là công cụ tạo ra lợi thế
cạnh tranh. Cuối cùng, JIT nhấn mạnh vào mối quan hệ giữa nhà cung cấp và người mua dẫn đến
cuộc cch mạng trong việc hình thành một khi niệm mới ca marketing, đó chính là marketing
quan hệ.
Quản trị quan hệ khách hàng (CRM)
Quan điểm mới tập trung vào cc mối quan hệ khch hàng dường như đạt được sức đẩy
nhanh hơn trong những năm 90 với sự pht triển ca công nghệ dữ liệu. Được trang bị bởi sức
mạnh ca my tính c nhân và cc phần mềm dữ liệu, một công cụ mới, quản trị quan hệ khch
hàng (CRM) ra đời vào giữa thập niên 90, đã cung cấp cho cc nhà làm marketing khả năng thu
thập và tích luỹ dữ liệu về hành vi mua ca khch hàng trên một cơ sở dữ liệu c nhân. CRM còn
mang đến cho cc nhà làm marketing khả năng pht triển cc mối quan hệ học tập (learning
relationship) với khch hàng mà không cần hình thành bộ phận công nghệ thông tin và những
phương tiện để phân biệt giữa nhu cầu ca khch hàng và gi trị ca tổ chức. CRM, hay còn gọi
là marketing được phép (permission marketing), cũng cung cấp cho tổ chức một khả năng tương
tc trực tiếp và đưa yêu cầu ca khch hàng vào sản phẩm và dịch vụ ca mình một cch c nhân
ho. Sự ra đời ca CRM đến lượt nó đã kéo theo sự hình thành một khi niệm mới – chuyên biệt
hóa khối lượng lớn (mass customisation) – sản xuất khối lượng lớn những sản phẩm và dịch vụ
theo nhu cầu riêng biệt ca khch hàng.
Sự phát triển của liên minh chiến lược và mạng lưới quan hệ
Cc nhà kinh doanh Hoa Kỳ, trong qu trình tìm kiếm con đường thành công, đã tiếp thu
một mô hình khc ca người Nhật gọi là zaibatsu. Được xem là một trong những phương tiện
giúp người Nhật đnh bại nền công nghiệp Hoa Kỳ, đặc biệt là ngành sản xuất ôtô, zaibatsu có
liên quan đến việc hình thành một hệ thống công ty theo kiểu gia đình do một công ty mẹ nắm
quyền kiểm sot duy nhất, thông thường là một ngân hàng. Hệ thống JIT, được thúc đẩy bởi
phong trào kiểm sot chất lượng trong sản xuất và cung ứng, ngày càng nhấn mạnh vào tính
tương tc giữa người mua - người bn và nhu cầu biến cc tổ chức thành những c thể năng động
và phản ứng nhanh chóng với sự thay đổi ca môi trường cạnh tranh, tất cả đã dẫn dắt sự ra đời
ca cc hình thức tổ chức mới. Liên minh chiến lược là sự liên kết giữa tổ chức với nhà cung cấp,
nhà bn lẻ (hay khch hàng) và những hãng chuyên sản xuất/cung ứng một loại hàng ho hay
dịch vụ nào đó. Trong nhiều trường hợp, liên minh chiến lược có thể được hình thành giữa cc
đối th cạnh tranh, chẳng hạn như Ford và Mazda, General Motors và Toyota, Apple và IBM.
Đặc điểm ca liên minh chiến lược là sự chia sẻ mục tiêu và cam kết sử dụng chung nguồn lực
ca cc bên. Một hình thức khc ca liên minh chiến lược là liên doanh, trong đó một hãng mới
được tạo ra tồn tại vĩnh viễn hay trong một thời gian, chẳng hạn như tham gia vào một dự n
9
nghiên cứu và pht triển (R&D). Mạng lưới quan hệ (networks) là sự liên kết giữa những tổ chức
liên minh chiến lược tại đó mỗi bên nắm giữ một chức năng hay bí quyết chuyên môn nào đó.
Với sự ra đời ca liên minh chiến lược và mạng lưới quan hệ, cc hình thức quản trị truyền thống
dần bị xo bỏ, người ta dành sự chú ý vào cch thức quản trị cc mối quan hệ giữa cc bên khc
nhau hơn là việc hình thành cơ chế thứ bậc. Điều này dẫn đến sự thay đổi trong cấu trúc tổ chức
và marketing quan hệ đã trở thành hoạt động marketing quan trọng nhất thời kỳ 1980- 1990.
Văn hoá tổ chức
Đi cùng với nỗi thất vọng gia tăng trong cc tập đoàn Hoa Kỳ trong thập niên 70, khi
người Nhật đã thành công trước những thử thch về khả năng lãnh đạo, là sự ra đời ca khi niệm
văn ho tổ chức. W. Ouchi (1981), Peters và Waterman (1982), Deal và Kenedy (1982) là những
người có công trong việc phổ biến khi niệm này vào thế giới kinh doanh. Đó là sự tập trung vào
phong cch quản trị và việc pht triển một nền văn ho tổ chức hiệu quả. Chẳng hạn, Ouchi cho
rằng, một nền văn ho thuần nhất vững mạnh, sự chia sẻ cc gi trị, niềm tin và cc quy tắc trong
hành vi ca mỗi c nhân chính là bí mật dẫn đến thành công ca cc công ty Nhật. Ông đưa ra lời
khuyên cho cc công ty Hoa Kỳ nên ti định hướng khía cạnh quan hệ con người trong tổ chức.
Những thay đổi trong tổ chức
Những năm 80, người ta bắt đầu quan tâm đến việc tạo ra cc hình thức tổ chức kinh
doanh mới nhằm phản ứng nhanh chóng và linh động trước sự thay đổi không ngừng ca yếu tố
công nghệ, cạnh tranh và khch hàng. Cc đơn vị “nhỏ gọn và tự ch hơn” (leaner and meaner),
là sự cắt giảm cấp quản trị trung gian (downsizing, sau này gọi là rightsizing), ngày càng được đề
cao. Năm 1990, Hammer đã gây tiếng vang lớn khi ông công bố ý tưởng tái cấu trúc quy trình
kinh doanh (Business Process Reengineering), đòi hỏi một sự thay đổi triệt để trong tổ chức.
BPR là một quy trình mang tính cch mạng thể hiện những nỗ lực ti sng tạo tổ chức hơn là việc
cố gắng cải thiện tình hình hiện tại. Mục tiêu ca BPR là đạt được những lợi ích lớn hơn về năng
suất và sự thực thi bằng việc phân tích và ti thiết kế dòng dịch chuyển và quy trình công việc,
thường dựa trên công nghệ thông tin mà nhờ đó tổ chức mang đến những gi trị cho khch hàng.
BPR tập trung vào cc quy trình hơn là cc chức năng, thay thế cấu trúc tổ chức theo thứ bậc
bằng cơ cấu tổ chức linh hoạt, tự ch và những nhóm làm việc không lệ thuộc vào tôn ti trật tự.
Sự chuyển đổi vai trò từ hoạch định chiến lược sang quản trị chiến lược
Cùng thời điểm đó, khi niệm marketing trở nên phổ biến trong thế giới kinh doanh,
trong thập niên 60, một phương thức quản trị đầy quyền lực đã ra đời: hoạch định chiến lược, lúc
đầu được gọi là “hoạch định công ty”. Chúng ta có thể tìm thấy nguồn gốc ca hoạch định chiến
lược trong cc tc phẩm ca Selznick (1957) và A.D.Chandler (1962) nhưng việc xuất bản cuốn
“Chiến lược công ty” (Corporate Strategy) ca Igor Ansoff mới chính là pht súng khởi đầu cho
sự pht triển nhanh chóng ca hoạch định chiến lược. Trong suốt những năm sau ca thập niên 60
và toàn bộ thập niên 70, hoạch định chiến lược giữ vai trò thống trị trong thực tiễn quản trị tại
Hoa Kỳ. Nó trở thành một quy trình trung tâm đầu não trong hệ thống cc tập đoàn lớn Hoa Kỳ
và là sự phc hoạ rõ ràng giữa giai đoạn hình thành và thực thi chiến lược. Những nhà hoạch định
chịu trch nhiệm đưa ra cc quyết định chiến lược trong khi cc nhà quản trị chức năng không
được tham gia quy trình này, thay vào đó họ chịu trch nhiệm thực thi cc kế hoạch chiến lược.
Tuy nhiên marketing không được miễn trừ trch nhiệm và trong nhiều trường hợp, cc quyết định
marketing cấp cao hơn được đưa ra bởi cc nhà hoạch định chiến lược cấp cao hơn là từ cc nhà
quản trị marketing ở cc đơn vị kinh doanh chiến lược (SBUs). Ngay từ đầu thập niên 80, một số
tổ chức đã hăng hi tiếp cận khi niệm này trong những năm 70, bắt đầu nhận ra tính đúng đắn
ca câu châm ngôn “Chứng liệt vì phân tích” (Paralysis by analysis). Trong nhiều trường hợp
hoạch định chiến lược có thể gây thêm rắc rối, lãng phí thời gian và khiến cho hãng xa rời thực tế
10
kinh doanh ca mình. Những công ty hoạch định chiến lược thành công như General Electric bắt
đầu cắt giảm bộ phận hoạch định và đẩy trch nhiệm này sang cc đơn vị hoạt động kinh doanh.
Trong khi đó, khi niệm quản trị chiến lược có liên quan đến việc bổ sung quy trình thực thi
chiến lược và kiểm sot chiến lược vào 4 giai đoạn ca quy trình hoạch định, bao gồm: hình
thành mục tiêu, phân tích môi trường, hình thành chiến lược và đnh gi cc giải php chiến lược.
Sự nhấn mạnh vào vai trò của chiến lược cạnh tranh
Nhìn chung, lĩnh vực hoạch định và quản trị chiến lược chiếm vị trí thống trị trong cc tc
phẩm ca M.Porter, gio sư tại Trường Kinh doanh Harvard, trong suốt những năm 80. Cc khi
niệm do Porter đưa ra như lợi thế cạnh tranh (trong chiến lược cạnh tranh chung), phân tích
ngành (trong mô hình 5 lực lượng cạnh tranh) và chuỗi giá trị là sự đóng góp vô cùng ý nghĩa
cho tư duy quản trị trong thập niên này và những năm tiếp theo ca thập niên 90. Sau đó, Kotler
và Singh, vào năm 1982, đã phổ biến quan điểm đánh bại đối thủ cạnh tranh trong cc chiến lược
marketing dựa trên cc nguyên tắc ca chiến tranh quân sự. Thuật ngữ này tiếp tục được những
chiến lược gia kinh doanh và marketing là Al Ries và Jack Trout phổ biến từ việc nghiên cứu cc
bài học ca cc nhà chiến lược quân sự nổi tiếng trong lịch sử như nhà sử học quân sự người Anh
B. Liddell Hart (1895-1970), Carl von Clausewitz (1780-1831) và Tôn Tử (thế kỷ 5 TCN).
Tài sản thương hiệu
Thập niên 80 đnh dấu bằng sự nhận diện vai trò ca thương hiệu trong nền kinh tế nói
chung. Thương hiệu là điều hứa hẹn về gi trị mà khch hàng sẽ nhận được. Trong khi những
người làm marketing phải mất một thời gian dài để nhận ra tầm quan trọng ca việc quản trị
thương hiệu, như chúng ta đã thảo luận trong phần đầu ca chương, thì gi trị tài chính ca
thương hiệu đã thu hút được sự quan tâm ca nhiều người trong thập niên này. Đây cũng là thập
niên mà giới kinh doanh bắt đầu nhận ra kích thước và quy mô hoạt động là những điều kiện tiên
quyết cho sự thành công trong bối cảnh toàn cầu ho nền kinh tế với làn sóng tiếp quản, hợp nhất
và thâu tóm vẫn còn tiếp diễn cho đến ngày nay. Rất nhiều công ty đi thâu tóm sẵn sàng trả gi
cao hơn gấp nhiều lần thu nhập ca cc hãng bị mua lại, không phải vì nhà xưởng và cc tài sản
cố định khc mà chính là thương hiệu đã được gây dựng bởi cc hãng đó. Chẳng hạn, Nestle đã
mua lại Rowntree với gi gấp 26 lần thu nhập ca hãng này, Groupe Danone mua Nabisco
Europe với gi cao gấp 27 lần. Lý do nào ca việc mua với gi cao như vậy? Đó chính là sức
mạnh ca thương hiệu. Tài sản thương hiệu (Brand equity) là một khi niệm dùng để thay thế cho
gi trị thị trường ca một thương hiệu dựa trên danh tiếng và uy tín ca nó. Kể từ sau năm 1980,
những người làm marketing bắt đầu có ci nhìn sâu sắc hơn vào việc khi qut ho và nghiên cứu
cch thức tạo dựng và duy trì tài sản thương hiệu.
5. SỰ THAY ĐỔI VAI TRÒ CA MARKETING
Trong nh sng dẫn dắt ca cc lực lượng thay đổi, vai trò ca marketing cũng trở nên
khc nhau trong nhiều tổ chức. Phong trào kiểm sot chất lượng (TQM) và cuộc cch mạng dịch
vụ khch hàng đã mở rộng vai trò ca nhân sự trong marketing và từ sự chú ý trong hoạt động
bn hàng sang việc chăm sóc cc khch hàng sinh lợi. Marketing không còn là bộ phận duy nhất
trong tổ chức thể hiện mối quan tâm vào khch hàng. Sự thật là tất cả nhân viên giờ đây đều được
mong đợi trở thành những chuyên gia phục vụ khch hàng và điều này đã dẫn đến sự pht triển
ca một khi niệm mới - marketing nội bộ. Trong đó, tất cả nhân viên cần được cung cấp đầy đ
thông tin và được thúc đẩy về những hoạt động marketing ca tổ chức, vì thế, họ cũng trở thành
đối tượng trong hoạt động giao tiếp như bất kỳ một khch hàng mục tiêu nào khc.
Với tất cả sự thay đổi diễn ra trong nền kinh tế, người ta bắt đầu đặt câu hỏi là làm thế nào
cc tổ chức có thể cạnh tranh hiệu quả hơn trên thị trường, hay trong nhiều trường hợp, làm thế
nào để tồn tại? Người ta lại đem marketing ra mổ xẻ, phân tích và kết luận rằng những người làm
11
marketing phải vượt ra khỏi lối nói so mòn và chịu trch nhiệm tìm ra mối quan hệ giữa định
hướng thị trường và năng lực vượt trội cho tổ chức. Đây là giai đoạn mà cc ch đề như “Định
hướng thị trường là gì?” hay “Sự ti pht hiện khi niệm marketing” xuất hiện thường xuyên
trong ngôn ngữ ca giới làm marketing. Từ sau năm 1980 đến đầu năm 1990, điều này đã làm
dấy lên sự quan tâm ca cc nhà nghiên cứu trong việc tìm ra mối liên hệ giữa sự thực thi cc
khi niệm marketing với việc cải thiện hoạt động ca tổ chức. Cc bài viết ca Narver, Slater,
Kohli và Jaworski đã thúc đẩy sự pht triển ca cc tài liệu về marketing dưới ci tên “định
hướng thị trường” hay nói như Webster là “một khi niệm marketing mới” và Day là “cc tổ
chức được dẫn dắt bởi thị trường”. Cho dù được gắn với ci tên nào thì cch tiếp cận mới cũng
nhấn mạnh vào khía cạnh người mua (định hướng khch hàng) và những người bn khc (định
hướng đối th cạnh tranh) hơn là mô tả một sự tập trung vào chức năng hay quy trình hoạt động
ca cc phòng ban marketing. Narver và Slater đã khi qut ho “định hướng thị trường là một
chiều hướng bao gồm ba nhân tố thuộc về hành vi và hai điều kiện quyết định đó là: định hướng
khch hàng, định hướng đối th cạnh tranh, sự phối hợp cc chức năng trong tổ chức, một tầm
nhìn dài hạn và một mục tiêu sinh lợi ” Kohli và Jaworski chỉ ra ba nhân tố ca định hướng thị
trường bao gồm: sự hình thành, phổ biến và phản ứng với sự hiểu biết. Họ cho rằng tính ưu tiên
ca định hướng thị trường trong tổ chức nằm ở chỗ, chúng thuộc về những nhân tố quản trị cấp
cao (thể hiện qua khả năng cng cố một định hướng thị trường trong tổ chức ca nhà quản trị cấp
cao), là sự linh hoạt giữa cc bộ phận và những hệ thống trong tổ chức (bao gồm cấu trúc, hệ
thống ra quyết định, giao tiếp và tưởng thưởng).
Thuật ngữ định hướng thị trường được ng hộ bởi Narver, Slater, Kohli và Jaworski, đã
tạo động lực cho việc quan tâm nghiên cứu về trch nhiệm ca marketing trong tổ chức. Vì thế,
khi niệm định hướng thị trường cung cấp một quy trình:
• Xc định rõ tính chất có thể đo lường được ca marketing
• Quyết định liệu một tổ chức có phải theo định hướng thị trường hay không
• So snh khả năng thực thi ca một tổ chức được định hướng thị trường với những tổ
chức không được định hướng.
Những tổ chức định hướng thị trường không chỉ hướng về khch hàng mà còn hướng về
thị trường. Do đó chúng vừa định hướng khch hàng vừa định hướng đối th cạnh tranh. Hơn
nữa, cc tổ chức này nhấn mạnh vào nhu cầu cung cấp những gi trị vượt trội cho khch hàng. Có
thể xem xét cch thức cc tổ chức được định hướng dựa vào mô hình 3C dưới đây:
Hình 1.1. Sự nhấn mạnh vào 3Cs của các tổ chức định hướng thị trường
Khách hàng: Triết lý nền tảng xem khch hàng là những c thể hơn là bộ phận ca một
đoạn thị trường hay một thị trường đồng nhất. Điều này có nghĩa là cc tổ chức phải cố gắng hiểu
được nhu cầu và sở thích ca từng khch hàng. Sự tạo lập gi trị khch hàng - một định đề gi trị
- phải trở thành một phần trong chiến lược kinh doanh ca tổ chức. Quay trở lại khi niệm qu
12
Công ty
Đối th
cạnh tranh
Khch
hàng
trình trao đổi bao gồm sự trao đổi trên thị trường và trao đổi xã hội, chúng ta thấy rằng, khch
hàng tìm kiếm một lợi ích hay một tập hợp cc lợi ích thông qua qu trình trao đổi. Chúng có thể
được chia thành cc loại: cc lợi ích chức năng và quy trình (từ cc qu trình trao đổi trên thị
trường) và cc lợi ích quan hệ (từ cc qu trình trao đổi xã hội). Để đạt được thành công, một tổ
chức marketing cần cung cấp cc lợi ích chức năng (functional benefits) mà khch hàng tìm kiếm
thông qua việc cung cấp cc sản phẩm và dịch vụ có tính năng vượt trội hoặc đng tiền (value-
for-money). Nó cũng phải thoả mãn những lợi ích quy trình (process benefits), đó là cch thức
tương tc tạo ra sự dễ dàng, nhanh chóng, dễ chịu hay tiết kiệm cho khch hàng. Cuối cùng,
khch hàng cần được thoả mãn những lợi ích thuộc về quan hệ, do đó tổ chức cần hướng đến việc
thiết lập và duy trì những khch hàng trung thành.
Đối thủ cạnh tranh: Gi trị khch hàng không phải do tổ chức tạo ra, chúng do thị
trường quyết định. Một tổ chức cần cung cấp những gi trị vượt trội cho khch hàng bằng cch sử
dụng thước đo là khả năng đp ứng sự mong đợi ca họ. Những mong đợi này có nguồn gốc từ
kiến thức và kinh nghiệm mà khch hàng có được thông qua những hoạt động ca hãng và đối
th cạnh tranh. Chính vì thế, cc tổ chức cần nhận thức đầy đ năng lực cũng như sản phẩm ca
đối th cạnh tranh, đặc biệt là quan điểm thị trường (hay khch hàng) và thi độ đối với mỗi sản
phẩm hay nhãn hiệu cạnh tranh.
Tổ chức: Tổ chức cần mang đến cho khch hàng những gi trị thực sự mà nó đã hứa hẹn.
Cc nhà quản trị cấp cao đóng vai trò quan trọng trong việc pht triển một nền văn ho tổ chức
định hướng thị trường – là sự chia sẻ hiểu biết và ý tưởng giữa cc thành viên trong tổ chức. Cc
chiến lược, cấu trúc và quy trình phải được đặt vào vị trí tạo động lực cho việc cung cấp gi trị
đến khch hàng. Đó là sự kết hợp rất nhuần nhuyễn những kiến thức, quy trình và cc công cụ
marketing như: marketing nội bộ, dịch vụ khch hàng, cc chương trình quản trị mối quan hệ và
sự thoả mãn khch hàng.
6. TƯƠNG LAI CA MARKETING
Với hàng loạt những thay đổi diễn ra trong thập niên 90, thật không ngạc nhiên khi biết
rằng cc nhà nghiên cứu học thuật và thực tiễn marketing vẫn còn tranh cãi về tương lai ca
marketing. Trong khi niệm định hướng thị trường, trch nhiệm ca cc hoạt động marketing
không chỉ thuộc về cc bộ phận marketing hay cấp chức năng nào đó mà thuộc về toàn thể cc
cấp ca tổ chức. Quan điểm này được Drucker, Levitt và những học giả khc ng hộ khi cho rằng
marketing cần được xem là một triết lý kinh doanh và không thể là một chức năng riêng biệt
trong ngành kinh tế. Hay nói cch khc, chúng ta nên xem marketing là một quy trình mang tính
tổng thể ca tổ chức.
Tuy nhiên, để đưa triết lý này vào thực tiễn là một công việc không dễ dàng. Thập niên 90
là khoảng thời gian cc công ty ra sức ti cấu trúc bằng cch thay thế hoặc bổ sung cc nhóm
hoạt động đa chức năng vào những “chức năng” (phòng ban) ca mình. Một số hãng hình thành
cc kiểu cấu trúc ma trận trong đó nhân viên phải bo co lên cùng lúc nhiều nhà quản trị thay vì
một gim đốc phòng ban như trước đây. Những người làm marketing trong cc cấu trúc này đòi
hỏi phải pht triển cc kỹ năng quản trị mới bên cạnh những kỹ năng chức năng như trước đây.
Cùng lúc đó, quy trình hình thành và thực thi chiến lược cũng được chuyển đổi trong
nhiều tổ chức. Cc nhà quản trị cấp cao (cấp công ty) và cấp đơn vị kinh doanh (cc SBU) chịu
trch nhiệm lớn hơn trong việc hình thành chiến lược trong khi trch nhiệm thực thi những chiến
lược này được uỷ nhiệm cho cc cấp hoạt động chức năng trong tổ chức như marketing, tài chính,
nhân sự và sản xuất. Những cân nhắc trong cc tình huống khc nhau, thường được xem là trch
nhiệm ca quản trị marketing như phân đoạn thị trường, xc định mục tiêu và định vị trở thành
công việc ca nhà quản trị cấp cao ở cấp đơn vị kinh doanh. Vai trò ca bộ phận marketing mang
13
tính tc nghiệp hơn với trch nhiệm thực thi cc chiến lược do cấp trên đưa xuống. Mục tiêu ch
yếu ca nhân viên marketing là pht triển và thực hiện cc chiến lược marketing-mix.
Xu hướng tập trung vào việc quản trị quy trình hơn là cc chức năng và trch nhiệm pht
triển chiến lược ngày càng tăng đã đặt ra yêu cầu cho cc nhà quản trị cấp cao phải làm ch
những kỹ năng ca một vị tướng lĩnh. Nhưng điều nghịch lý là trước sự thay đổi không ngừng
ca môi trường công nghệ và nhu cầu ca tổ chức, họ cũng phải đồng thời làm ch những kỹ
năng ca một chuyên gia. Trong đó, những chuyên gia marketing trong lĩnh vực quản trị quan hệ
khch hàng, quản trị dữ liệu và quản trị thương hiệu (với trch nhiệm tạo dựng và duy trì tài sản
thương hiệu) được đòi hỏi những kỹ năng chuyên sâu nhiều hơn. Chính vì thế, cấu trúc ca tổ
chức giờ đây sẽ bao gồm hai kiểu nhân sự: những người tích hợp và những chuyên gia chức
năng. Theo McKenna “Người làm marketing phải là một người tích hợp, bên trong tổ chức đó là
năng lực tổng hợp công nghệ với nhu cầu thị trường và ở bên ngoài là khả năng mang lại khách
hàng cho tổ chức với vai trò là một bộ phận chịu trách nhiệm phát triển và đáp ứng nhu cầu về
hàng hoá và dịch vụ”. Cch tiếp cận định hướng thị trường có ý nghĩa hơn cả một triết lý quản trị.
Nó là một phương thức kinh doanh. Nó cũng là một phương tiện giúp tổ chức tạo lập và duy trì
lợi thế cạnh tranh bền vững. Vì thế, vai trò ca marketing và những chuyên gia marketing sẽ còn
gia tăng hơn nữa trong tương lai. Họ sẽ hiện diện trong tất cả cc lĩnh vực ca qu trình kinh
doanh, chứ không chỉ kho chặt trong bốn bức tường ca bộ phận Marketing như trước đây nữa.
Hiểu biết tổng quan về lịch sử pht triển ca lĩnh vực marketing giúp chúng ta có một nền
tảng vững chắc để tìm hiểu những vấn đề quản trị marketing trong cc tổ chức kinh doanh. Trong
phần tiếp theo, chúng ta sẽ đề cập đến những khi niệm có liên quan đến lý thuyết và thực hành
quản trị marketing trong môi trường hiện đại.
7. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN CA MARKETING
a. Định nghĩa marketing
Ngày nay, thay cho quan niệm marketing là quảng co để bn được hàng, thì hầu hết cc
trường phi nghiên cứu về marketing đều thống nhất ở quan điểm marketing là thỏa mãn nhu cầu
khch hàng. Trên cơ sở hiểu rõ nhu cầu mong muốn ca ca khch hàng, mà pht triển những sản
phẩm mang lại cho khch hàng những gi trị vượt trội với mức gi hợp lý, phân phối và cổ động
một cch hiệu quả, thì việc bn sản phẩm không có gì khó khăn.
Chúng ta định nghĩa marketing là “một tiến trình xã hội và quản lý theo đó các cá nhân
và các nhóm có được cái mà họ mong muốn thông qua việc tạo ra, trao đổi những sản phẩm có
giá trị với những người khác”.
b. Nhu cầu cấp thiết, mong muốn và nhu cầu
Nhu cầu cấp thiết ca con người biểu hiện bằng trạng thi thiếu hụt, bao gồm những nhu
cầu vật chất đối với thực phẩm, quần o, sự ấm p và an toàn, những nhu cầu xã hội về sự thừa
nhận và tình cảm và nhu cầu cá nhân về hiểu biết và sự tự thể hiện. Những nhu cầu này không
được tạo ra bởi những người làm marketing, chúng là một phần cơ bản ca con người.
Mong muốn là hình thức biểu hiện ca nhu cầu cấp thiết ca con người được định hình
bởi văn hóa và c tính ca mỗi người. Mong muốn được định hình bởi xã hội và được mô tả bằng
những thứ cụ thể có thể thỏa mãn nhu cầu cấp thiết.
Mong muốn được đảm bảo bởi sức mua sẽ là nhu cầu. Với mong muốn và nguồn lực ca
mình, con người có nhu cầu về những sản phẩm chứa đựng những lợi ích có thể đem lại cho họ
nhiều gi trị và sự thỏa mãn nhất.
c. Các cung ứng marketing: sản phẩm, dịch vụ và kinh nghiệm
14
Cc công ty tiếp cận nhu cầu ca khch hàng bằng cch đưa ra những gi trị, là tập hợp
cc lợi ích mà họ cam kết nhằm thỏa mãn nhu cầu ca khch hàng. Cc gi trị được thực hiện
thông qua cc cung ứng marketing, là một số kết hợp cc sản phẩm, dịch vụ, thông tin và kinh
nghiệm cống hiến cho thị trường nhằm thỏa mãn nhu cầu cấp thiết hoặc mong muốn ca khch
hàng. Cc cung ứng marketing không hạn chế ở những sản phẩm vật chất. Thật vậy, ngoài sản
phẩm hữu hình, cc cung ứng marketing còn bao gồm những dịch vụ, hoạt động hoặc lợi ích
được cung ứng trong việc bn hàng, ch yếu là vô hình và không đem lại sự sở hữu một vật cụ
thể nào. Ví dụ, dịch vụ ngân hàng, hàng không, khch sạn, dịch vụ tư vấn thuế và dịch vụ sửa
chữa nhà cửa. Một cch rộng hơn, những cung ứng marketing còn bao gồm những thực thể khc
như con người, nơi chốn, tổ chức, thông tin và ý tưởng.
Nhiều người bn đã sai lầm khi qu chú trọng đến những sản phẩm cụ thể mà họ cung
ứng thay vì vào những lợi ích và kinh nghiệm mà sản phẩm này mang lại cho khch hàng. Họ tự
xem mình là người bn sản phẩm hơn là người cung ứng một giải php cho nhu cầu ca khch
hàng. Một nhà sản xuất my khoan nghĩ rằng người tiêu dùng cần một ci khoan. Nhưng nhu cầu
thật sự ca người tiêu dùng là một ci lỗ trên một vật nào đó. Những người bn này có thể đã bị
chứng thiển cận marketing. Họ đã qu quan tâm đến sản phẩm ca mình, do đó chỉ tập trung vào
mong muốn hiện tại và mất đi cơ hội nhận ra nhu cầu thật sự ca khch hàng. Họ quên rằng sản
phẩm mà họ đang kinh doanh mới chỉ là một công cụ để giải quyết vấn đề ca khch hàng và đó
chưa phải là giải php tối ưu. Và tất nhiên, trong môi trường cạnh tranh ngày nay, sẽ dễ dàng bị
thất bại nếu có những đối th cạnh tranh nghĩ ra được những sản phẩm có thể thỏa mãn tốt hơn
(cả về lợi ích lẫn gi cả) nhu cầu ca khch hàng. Khch hàng với cùng một nhu cầu cụ thể có thể
sẽ được thỏa mãn bởi một sản phẩm mới hơn.
Do vậy, người làm marketing nhanh nhẹn sẽ nhìn xa hơn vào những đặc tính ca sản
phẩm và dịch vụ mà họ bn. Họ tạo ra ý nghĩa ca nhãn hiệu và kinh nghiệm ca nhãn hiệu cho
khch hàng. Chẳng hạn, Coca-Cola có ý nghĩa nhiều hơn đối với người tiêu dùng so với việc chỉ
là một loại nước uống, nó đã trở thành một phần ca người Mỹ với ý nghĩa và gi trị truyền
thống. Và Nike đã làm được hơn rất nhiều so với công dụng ca một đôi giày, đó là những gì đôi
giày mang lại cho bạn và chúng mang bạn đến đâu. Nhãn hiệu Nike quen thuộc nổi tiếng lâu dài
gắn liền với những thành tích cao trong thể thao, trong cc kỳ thế vận hội nổi tiếng và một thi độ
“Just do it”. Disney World là một kinh nghiệm, và trang web Playstation.com ca Sony cũng là
một kinh nghiệm. Thật vậy, vì sản phẩm và dịch vụ ngày càng trở thành những sản phẩm tiện
dụng do tính đồng nhất tăng lên, kinh nghiệm đã tạo ra một giai đoạn tiếp theo cho nhiều công ty
trong việc tạo sự khc biệt cho sản phẩm ca mình.
d. Giá trị và sự thỏa mãn
Khch hàng lựa chọn cc sản phẩm và dịch vụ dựa trên sự cảm nhận ca họ về gi trị và
sự thỏa mãn mà những sản phẩm này sẽ mang lại khi mua và tiêu dùng chúng.
Gi trị mà sản phẩm đem lại cho khch hàng là sự khc biệt giữa những lợi ích mà khch
hàng có được từ việc sở hữu và tiêu dùng sản phẩm so với chi phí bỏ ra để có được sản phẩm đó.
Khi đnh gi cc lựa chọn khc nhau, khch hàng hình thành sự kỳ vọng về gi trị ca cc
cung ứng khc nhau có thể đem lại cho họ và quyết định mua hàng dựa trên sự kỳ vọng đó. Vậy
người tiêu dùng hình thành sự kỳ vọng ca mình như thế nào? Sự kỳ vọng ca khch hàng dựa
trên những kinh nghiệm mua hàng trước đó, ý kiến ca bạn bè, người thân và những cam kết và
thông tin ca người làm marketing cũng như những đối th cạnh tranh.
Sau khi mua và tiêu dùng sản phẩm, khch hàng có thể hài lòng, thỏa mãn hoặc thất vọng.
Sự thỏa mãn ca khch hàng được hình thành dựa trên sự so snh giữa gi trị cảm nhận được khi
họ tiêu dùng sản phẩm so với những kỳ vọng về gi trị trước khi mua hàng. Nếu gi trị cảm nhận
15
lớn hơn gi trị kỳ vọng, khch hàng sẽ thỏa mãn và ngược lại. Sự hài lòng ca khch hàng có tc
động quan trọng lên hành vi mua tương lai ca khch hàng. Những khch hàng hài lòng sẽ mua
lại và truyền miệng với những người khc về kinh nghiệm tốt ca mình. Ngược lại, những khch
hàng không hài lòng thường sẽ đến với đối th cạnh tranh và chê bai sản phẩm ca công ty với
những người khc.
Người làm marketing phải cẩn thận trong việc xây dựng mức độ kỳ vọng ca khch hàng.
Nếu xây dựng một mức kỳ vọng qu thấp, có thể sẽ thỏa mãn được khch hàng một cch dễ dàng
nhưng sẽ khó khăn trong việc lôi kéo khch hàng về với công ty. Tuy nhiên, nếu đẩy kỳ vọng ca
khch hàng lên qu cao thì sẽ khó có thể thỏa mãn khch hàng. Chúng ta phải nhìn nhận rằng gi
trị dành cho khch hàng và sự thỏa mãn ca họ là những nền tảng cơ bản để pht triển và quản lý
quan hệ khch hàng.
e. Trao đổi và giao dịch
Marketing xuất hiện khi con người quyết định thỏa mãn nhu cầu và mong muốn ca mình
thông qua trao đổi. Chúng ta sẽ tìm hiểu khi niệm cốt lõi này.
Trao đổi là hành động có được thứ mà mình muốn từ một người khc bằng cch trao lại
cho họ một thứ gì đó. Trao đổi chỉ là một trong bốn cch để con người có được thứ mà mình
mong muốn. Con người có thể tự sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ, đó là trường hợp con người
săn bắt, hi lượm hoặc trồng trọt để tự thỏa mãn nhu cầu ca mình. Cch thứ hai là con người có
thể sử dụng sức mạnh để có được sản phẩm, khi họ cướp đoạt hoặc ăn trộm ca người khc. Con
người cũng có thể thỉnh cầu người khc, điều này diễn khi một người vô gia cư đi xin thức ăn. Và
cuối cùng con người có thể cung ứng sản phẩm, dịch vụ hoặc tiền để đổi lại thứ mà mình muốn
với người khc.
Trao đổi là một khi niệm cốt lõi ca marketing, đề cập việc có được sản phẩm mong
muốn từ người khc bằng cch cung ứng lại một thứ gì đó. Để trao đổi diễn ra, phải thỏa mãn
năm điều kiện:
- Có ít nhất hai bên
- Mỗi bên có thứ gì đó có gi trị đối với đối tc
- Mỗi bên có thể truyền thông và vận chuyển hàng hóa
- Mỗi bên tự do chấp nhận hoặc từ chối trao đổi
- Mỗi bên tin rằng hoàn toàn chích đng và tự nguyện tham gia trao đổi với bên kia.
Theo nghĩa rộng, người làm marketing cố gắng tạo ra sự đp ứng đối với những cung ứng
marketing nơi khch hàng. Sự đp ứng có thể rộng hơn việc mua hoặc bn sản phẩm và dịch vụ.
Chẳng hạn một ứng cử viên chính trị, muốn có những phiếu bầu cho mình, một tôn gio muốn có
cc tín đồ và một tổ chức hoạt động xã hội muốn có những người ng hộ tư tưởng ca họ.
Marketing bao gồm những hành động nhằm xây dựng và duy trì những mối quan hệ trao
đổi mong muốn với những đối tượng mục tiêu liên quan đến một sản phẩm, dịch vụ, ý tưởng
hoặc một ci gì khc. Xa hơn việc đơn thuần thu hút những khch hàng mới và tạo ra những giao
dịch, mục đích ca marketing là nhằm duy trì khch hàng và làm tăng cơ hội trao đổi với khch
hàng. Người làm marketing muốn xây dựng một sự vững mạnh về kinh tế và sự kết nối về mặt xã
hội bằng việc cam kết và cung ứng những gi trị tốt nhất một cch phù hợp. Chúng ta sẽ thảo
luận khi niệm quan trọng ca việc quản trị quan hệ khch hàng một cch chi tiết hơn trong
những phần sau ca chương này.
16
Giao dịch: Nếu hai bên cam kết trao đổi đạt được một thỏa thuận thì ta nói một giao dịch
đã diễn ra. Giao dịch là đơn vị cơ bản ca trao đổi. Một giao dịch kinh doanh là một vụ buôn bán
các giá trị giữa hai bên. Tuy vậy, cũng có cc giao dịch kinh doanh không đòi hỏi tiền như là gi
trị thương mại duy nhất. Có thể là một giao dịch hon đổi, bao gồm cả việc trao đổi dịch vụ thay
vì trao đổi hàng hóa.
Một giao dịch kinh doanh liên quan đến ít nhất hai vật có gi trị, những điều kiện được
thỏa thuận, một thời điểm thích hợp, một nơi chốn phù hợp. Thường là có một hệ thống php lý
pht sinh để hỗ trợ và ràng buộc cc bên giao dịch phải làm đúng theo cam kết.
Theo nghĩa rộng, người làm marketing tìm cch làm pht sinh sự đp ứng trước một số
cung ứng marketing và sự đp ứng ấy không chỉ là mua hay bn theo nghĩa hẹp. Marketing bao
gồm những hoạt động được thực hiện nhằm gợi mở một đp ứng cần thiết ca phía đối tượng
trước một số vật thể.
f. Mối quan hệ và mạng lưới
Marketing giao dịch là một phần ca ý tưởng lớn hơn được gọi là marketing quan hệ.
Marketing quan hệ có mục tiêu xây dựng mối quan hệ thỏa mãn lẫn nhau lâu dài với cc đối tc
quan trọng như khch hàng, nhà cung cấp, cc nhà phân phối nhằm nuôi dưỡng và duy trì quan
hệ làm ăn lâu dài với họ. Cc nhà làm marketing hoàn thành nhiệm vụ này bằng cch cam kết và
cung ứng những sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao ở mức gi phải chăng qua thời gian.
Marketing quan hệ xây dựng cc mối quan hệ xã hội, kinh tế và kỹ thuật chặt chẽ giữa cc đối
tc. Marketing giúp cắt giảm chi phí và thời gian giao dịch. Trong hầu hết cc kinh doanh thành
công, cc giao dịch dịch chuyển từ việc thương lượng mỗi giao dịch sang cch làm theo thông lệ.
Kết quả cuối cùng ca marketing quan hệ là xây dựng tài sản độc đo ca công ty được
gọi tên là mạng lưới marketing. Mạng lưới marketing bao gồm công ty và cc bên hữu quan
(khch hàng, đội ngũ nhân viên, cc nhà cung ứng, cc nhà phân phối, cc nhà bn lẻ, cc hãng
quảng co,…) mà công ty xây dựng mối quan hệ cùng có lợi với họ. Cạnh tranh ngày càng không
phải giữa cc công ty mà giữa cc mạng lưới marketing, và phần thưởng sẽ thuộc về công ty nào
xây dựng được mạng lưới tốt hơn. Nguyên tắc vận hành rất đơn giản: xây dựng mạng lưới hiệu
quả cc mối quan hệ với cc bên hữu quan quan trọng và lợi ích sẽ xuất hiện.
g. Kênh marketing và chuỗi cung cấp
Kênh marketing
Để tiếp cận với thị trường mục tiêu, cc nhà làm marketing sử dụng ba loại kênh
marketing. Người làm marketing sử dụng cc kênh truyền thông để chuyển tải và nhận cc thông
điệp từ cc khch hàng mục tiêu. Chúng bao gồm bo chí, tạp chí, radio, tivi, thư tín, điện thoại,
bản thông bo, panô, quảng co di động, CDs, ghi âm và Internet. Ngoài những kênh này, truyền
thông còn được chuyển tải bằng thể hiện thân thể và o quần, trang trí cửa hàng bn lẻ, và nhiều
phương tiện khc. Cc nhà làm marketing sử dụng ngày càng nhiều cc kênh đối thoại trực tiếp
(thư điện tử và số điện thoại miễn phí) nhằm bù đắp cho cc kênh truyền thông một chiều thông
thường (ví dụ quảng co).
Cc nhà làm marketing sử dụng cc kênh phân phối để phân phối hoặc vận chuyển cc
sản phẩm hữu hình hoặc dịch vụ đến người mua hoặc người sử dụng. Có cc kênh phân phối vật
chất và cc kênh phân phối dịch vụ. Chúng bao gồm nhà kho, cc phương tiện vận chuyển và
nhiều kênh thương mại như nhà phân phối, nhà bn sỉ và cc nhà bn lẻ. Nhà làm marketing cũng
sử dụng cc kênh bán hàng để tc động cc giao dịch với cc khch hàng tiềm năng. Kênh bn
hàng bao gồm không chỉ cc nhà phân phối và bn lẻ mà còn ngân hàng và cc công ty bảo hiểm
17
hỗ trợ cho giao dịch. Cc nhà làm marketing rõ ràng phải đối mặt với vấn đề thiết kế bằng cch
lựa chọn phối thức truyền thông, phân phối và bn hàng tốt nhất cho cc cung ứng ca mình.
Chuỗi cung ứng
Trong khi cc kênh marketing kết nối người làm marketing với cc khch hàng mục tiêu,
chuỗi cung ứng mô tả kênh dài hơn bắt đầu từ những đối tc liên quan đến nguyên vật liệu đến
linh kiện đến sản phẩm hoàn chỉnh được giao cho khch hàng cuối cùng. Chuỗi cung ứng ca sản
phẩm ví phụ nữ bắt đầu với da sống, công đoạn thuộc da, công đoạn cắt, sản xuất và cc kênh
marketing mang sản phẩm đến người tiêu dùng. Chuỗi cung ứng thể hiện hệ thống cung ứng gi
trị. Mỗi đối tc trong chuỗi cung ứng chỉ đảm nhiệm một vài phần trăm ca toàn bộ gi trị mà
chuỗi cung ứng tạo ra. Khi công ty mua lại cc đối th cạnh tranh hoặc tích hợp phía trước hoặc
phía sau, mục tiêu ca nó là đảm nhiệm một phần lớn hơn gi trị ca chuỗi cung ứng.
h. Cạnh tranh và môi trường marketing
Cạnh tranh
Cạnh tranh bao gồm tất cả cc cung ứng cạnh tranh hiện tại và tiềm năng và sản phẩm
thay thế mà người mua có thể xem xét. Giả định một công ty xe hơi đang có kế hoạch mua thép
cho xe hơi ca mình. Nhà sản xuất xe có thể mua thép từ U.S. Steel hoặc cc nhà my thép khc
ở Mỹ hoặc ở nước ngoài, hoặc đến cc nhà my nhỏ như Nucor để mua thép với gi tiết kiệm,
hoặc mua nhôm cho một vài bộ phận ca xe để giảm trọng lượng ca xe hơi, hoặc mua cc loại
nhựa công nghiệp cho bộ phận chống va đập thay vì thép.
Rõ ràng U.S. Steel có thể suy nghĩ qu hạn hẹp về cc đối th cạnh tranh nếu nó chỉ nghĩ
đến cc công ty thép. Thật vậy, U.S. Steel có thể bị tấn công trong dài hạn nhiều hơn bởi cc sản
phẩm thay thế so với cc đối th là cc công ty thép trực tiếp. U.S. Steel cũng phải xem xét có
nên sản xuất cc nguyên liệu thay thế hoặc vẫn gắn bó với những ứng dụng mà ở đó thép cung
cấp năng lực cao hơn.
Như vậy, có thể phân biệt bốn cấp độ cạnh tranh dựa trên mức độ thay thế ca sản phẩm:
1. Cạnh tranh nhãn hiệu: công ty xem cc đối th cạnh tranh ca mình là những công ty
cung cấp cùng sản phẩm và dịch vụ giống mình đến cùng cc đối tượng khch hàng ở
cùng mức gi. Wolkswagen sẽ xem cc đối th cạnh tranh quan trọng là Toyota, Honda,
Renault và những nhà sản xuất xe hơi gi trung bình khc. Nó sẽ không tự xem mình là
đối th cạnh tranh với Mercedes hoặc với Hyundai.
2. Cạnh tranh ngành: công ty sẽ xem cc đối th cạnh tranh ca mình là những công ty sản
xuất cùng một sản phẩm hoặc một lớp sản phẩm. Woldswagen sẽ xem mình là cạnh tranh
với tất cả cc nhà sản xuất xe hơi khc.
3. Cạnh tranh về hình thức sản phẩm: công ty sẽ xem cc đối th cạnh tranh ca mình là
tất cả cc công ty sản xuất những sản phẩm cùng cung ứng một dịch vụ cho khch hàng.
Wolkswagen sẽ xem mình là đối th cạnh tranh với không chỉ những nhà sản xuất xe hơi
mà còn với cc nhà sản xuất xe gắn my, xe đạp và xe tải.
4. Cạnh tranh chung: công ty sẽ xem cc đối th cạnh tranh ca mình là tất cả những công
ty cạnh tranh vì túi tiền ca cùng đối tượng khch hàng. Wolkswagen sẽ xem mình là đối
th cạnh tranh với cc công ty bn những sản phẩm tiêu dùng bền quan trọng, cc dịch vụ
du lịch nước ngoài và nhà mới.
Môi trường marketing
18
Cạnh tranh chỉ là một lực lượng ca môi trường trong đó cc nhà làm marketing vận
hành. Môi trường marketing bao gồm môi trường tc nghiệp (môi trường vi mô) và môi trường
rộng hơn (môi trường vĩ mô).
Môi trường tc nghiệp bao gồm cc nhân tố trực tiếp liên quan đến việc sản xuất, phân
phối và cổ động cho cc cung ứng. Cc nhân tố quan trọng trong môi trường này bao gồm công
ty, cc nhà cung ứng, cc nhà phân phối, cc tổ chức môi giới và khch hàng mục tiêu. Gộp trong
nhóm cc nhà cung ứng là cc nhà cung ứng nguyên vật liệu và cc nhà cung ứng cc dịch vụ
như cc hãng nghiên cứu marketing, cc hãng quảng co, ngân hàng và cc công ty bảo hiểm, cc
công ty vận chuyển và viễn thông. Gộp chung trong nhóm cc nhà phân phối và môi giới là cc
hãng, cc nhà môi giới, cc đại diện ca công ty và những đối tc khc hỗ trợ cho việc tìm kiếm
và bn hàng đến khch hàng.
Môi trường vĩ mô bao gồm cc nhân tố: môi trường nhân khẩu học, môi trường kinh tế,
môi trường tự nhiên, môi trường công nghệ, môi trường php luật-chính trị và môi trường văn
hóa xã hội. Môi trường này bao gồm những lực lượng có tc động quan trọng lên cc nhân tố
trong môi trường tc nghiệp (môi trường vi mô). Cc công ty kinh doanh phải quan tâm đến cc
xu hướng và sự pht triển trong những môi trường này và có những điều chỉnh định kỳ chiến
lược marketing ca mình.
i. Phối thức marketing
Những người làm marketing sử dụng nhiều công cụ nhằm khơi dậy những đp ứng mong
muốn từ cc khch hàng mục tiêu. Những công cụ này hình thành phối thức marketing.
Phối thức marketing (hay Marketing mix) là tập hợp các công cụ marketing mà công ty
sử dụng để theo đuổi các mục tiêu marketing của mình trên thị trường mục tiêu.
McCarthy
10
xếp những công cụ này vào bốn nhóm được gọi là 4P ca marketing là sản
phẩm, gi, phân phối và truyền thông cổ động. Cc công cụ marketing cụ thể ca mỗi P được thể
hiện trong hình 1.2. Cc quyết định ca phối thức marketing phải được thực hiện nhằm tc động
lên cc kênh thương mại cũng như lên cc khch hàng cuối cùng.
Hình 1.2: 4 P của phối thức marketing
Ngoài cch tiếp cận 4P như trên, hình 1.3 cung cấp cho chúng ta một cch tiếp cận mới về
phối thức marketing, với cch tiếp cận này một công ty kinh doanh sẽ chuẩn bị phối thức cung
10
E. Jerome McCarthy, Basic Marketing: A Managerial Approach, 12
th
ed. Home-wood, IL: Irwin, 1996.
19
Thị trường
mục tiêu
Phối thức
marketing
Phối thức
marketing
Sản phẩm
Sự đa dạng
Chất lượng
Thiết kế
Đặc tính
Nhãn hiệu
Bao bì
Kích cỡ
Dịch vụ
Bảo hành
Sản phẩm
Sự đa dạng
Chất lượng
Thiết kế
Đặc tính
Nhãn hiệu
Bao bì
Kích cỡ
Dịch vụ
Bảo hành
Giá
Gi niêm yết
Chiết khấu
Bớt gi
Kỳ hạn trả tiền
Điều khoản tín
dụng
Giá
Gi niêm yết
Chiết khấu
Bớt gi
Kỳ hạn trả tiền
Điều khoản tín
dụng
TTCĐ
Khuyến mãi
Quảng co
Lực lượng bn
Quan hệ công
chúng
Marketing trực
tiếp
TTCĐ
Khuyến mãi
Quảng co
Lực lượng bn
Quan hệ công
chúng
Marketing trực
tiếp
Phân phối
Kênh
Độ ph
Xếp hàng hóa
Địa điểm
Tồn kho
Vận tải
Phân phối
Kênh
Độ ph
Xếp hàng hóa
Địa điểm
Tồn kho
Vận tải
ứng ca mình bao gồm sản phẩm, dịch vụ và gi và sử dụng phối thức truyền thông cổ động như
khuyến mãi bn hàng, quảng co, lực lượng bn, quan hệ công chúng và marketing trực tiếp để
tiếp cận với cc kênh thương mại và cc khch hàng mục tiêu.
Đặc biệt, công ty có thể thay đổi gi, qui mô lực lượng bn và chi tiêu cho quảng co
trong ngắn hạn, nhưng chỉ có thể pht triển sản phẩm mới và thay đổi cc kênh phân phối trong
dài hạn.
Hình 1.3: Chiến lược phối thức marketing
Cần lưu ý rằng với cả hai cch tiếp cận trên, bốn công cụ ca phối thức marketing thể
hiện ci nhìn từ phía người bn đối với cc công cụ marketing nhằm tc động lên người mua. Từ
quan điểm ca người mua, mỗi công cụ marketing được thiết kế nhằm cung ứng lợi ích cho
khch hàng. Robert Lauterborn
11
gợi ý bốn P ca người bn tương ứng với 4C ca người mua.
4 Ps 4 Cs
Sản phẩm Giải php cho khch hàng
Gi Chi phí ca khch hàng
Phân phối Sự tiện lợi (convenience)
TTCĐ Truyền thông (communication)
Những công ty thành công sẽ là những công ty có thể đp ứng được nhu cầu ca khch
hàng một cch kinh tế và tiện lợi và với cc công cụ truyền thông hiệu quả.
Rõ ràng đến đây chúng ta nhận thức được một vấn đề quan trọng là marketing cần đến
những mô hình tiếp cận phối hợp một cch rõ ràng và xc đng hơn với môi trường quản trị hiện
đại, với lập luận cốt lõi về marketing: định hướng khch hàng và việc cung ứng gi trị phải chiếm
vị trí trung tâm trong công ty nếu công ty muốn tối đa hóa gi trị trong dài hạn cho những người
sở hữu nó, những bên liên quan khc và đặc biệt cc đối tc trong tiến trình cung ứng gi trị. Vì
vậy, để đưa ra một cch tiếp cận đúng đắn và phù hợp cho lĩnh vực marketing kinh doanh, cần
thiết phải tích hợp một cch hài hòa marketing chiến lược vào quản trị marketing.
8. QUẢN TRỊ MARKETING: NỀN TẢNG VÀ CÁC TRIỂT LÝ
Chúng ta định nghĩa quản trị marketing như một nghệ thuật và khoa học trong việc lựa
chọn cc thị trường mục tiêu và xây dựng mối quan hệ sinh lợi với chúng. Điều đó có nghĩa quản
11
Robert Lauterborn, New Marketing Litany: 4P’s Passe; C-Words Take Over, Advertising Age, October 1, 1990,
p.26.
20
Công
ty
Sản
phẩm
Gi
Dịch
vụ
Khuyến mãi
Marketing
trực tiếp
Quan hệ
công chúng
Lực lượng
bn
Quảng co
Kênh
phân phối
Khch hàng
mục tiêu
trị marketing là tiến trình tìm kiếm, duy trì và gia tăng số lượng khch hàng thông qua việc sng
tạo ra, cung ứng và truyền thông những gi trị vượt trội cho khch hàng. Do vậy, quản trị
marketing là quản trị nhu cầu và là quản trị quan hệ khch hàng.
a. Quản trị khách hàng và quản trị nhu cầu
Một số người nghĩ về quản trị marketing đơn thuần là tìm đ số khch hàng cho hoạt
động ca doanh nghiệp. Nhưng quan điểm này qu hạn chế. Quản trị marketing không chỉ quan
tâm đến việc phục vụ tất cả khch hàng bằng mọi cch, người làm marketing mong muốn phục
vụ những khch hàng chọn lọc một cch tốt nhất và có lợi nhất.
Mỗi tổ chức có một mức nhu cầu mong muốn cho sản phẩm ca mình làm ra. Tuy nhiên,
trong thực tế, tại bất kỳ thời điểm nào cũng có thể xảy ra trường hợp không có nhu cầu, có đ nhu
cầu, có nhu cầu nhưng không đều hoặc qu nhiều nhu cầu. Quản trị marketing phải tìm những
cch thức để xử lý những tình trạng nhu cầu khc nhau này. Có thể có trường hợp không chỉ tìm
và làm tăng nhu cầu mà còn là thay đổi hoặc thậm chí giảm nhu cầu.
Chẳng hạn, Golden Gate Bridge đôi khi phải tải một lượng lưu thông qu lớn đến mức
không an toàn và Công viên quốc gia Yosemite đã qu tải trong mùa hè. Những người có trch
nhiệm ở những địa điểm này phải tìm cch giảm số lượng nhu cầu đối với những dịch vụ này
nhằm đảm bảo an toàn và chất lượng dịch vụ. Cc doanh nghiệp lớn đôi khi khó khăn trong việc
đp ứng nhu cầu trong những giai đoạn đỉnh cao. Trong những tình huống nhu cầu qu tải thì de-
marketing có thể phải được sử dụng để giảm số lượng khch hàng hoặc để thay đổi nhu cầu một
cch tạm thời hoặc vĩnh viễn. Do vậy, quản trị marketing tìm cch tc động đến loại khch hàng
phục vụ cũng như mức độ, thời điểm và bản chất ca nhu cầu ca khch hàng theo cch giúp tổ
chức đạt được cc mục tiêu ca mình. Một cch đơn giản, có thể nói quản trị marketing là quản
trị khch hàng và quản trị nhu cầu.
b. Các triết lý quản trị marketing
Cốt lõi ca quản trị marketing là định hướng vào khch hàng và cụ thể hơn là tạo ra gi trị
cho khch hàng. Chúng ta thống nhất rằng quản trị marketing là nhằm tạo ra những mối quan hệ
có lợi với cc khch hàng mục tiêu. Vậy những triết lý nào dẫn dắt cc nỗ lực marketing ca cc
doanh nghiệp? Nên cân nhắc như thế nào để phân chia tầm quan trọng cho cc lợi ích ca tổ
chức, khch hàng và xã hội? Thường thì những lợi ích này mâu thuẫn với nhau và cần có một
triết lý, một quan điểm định hướng.
Triết lý sản xuất
Triết lý này cho rằng khch hàng sẽ yêu thích những sản phẩm sẵn có và có đ khả năng.
Do vậy, việc quản trị phải tập trung vào việc cải thiện tính hiệu quả ca sản xuất và phân phối.
Triết lý này là một trong những định hướng xuất hiện sớm nhất.
Quan điểm sản xuất vẫn còn là một quan điểm hữu ích trong hai trường hợp đặc trưng: 1)
khi nhu cầu về sản phẩm vượt qu khả năng cung ứng, và quản trị nên tìm cch tăng cường sản
xuất; 2) khi chi phí ca sản phẩm là qu cao và năng suất sản xuất được cải thiện là yếu tố cần
thiết để cắt giảm chi phí. Chẳng hạn, quan niệm ca Henry Ford là thực hiện hoàn hảo việc sản
xuất Model T, vì thế chi phí ca nó có thể giảm và nhiều người có thể mua xe hơi ca công ty.
Mặc dầu hữu ích trong một số trường hợp, triết lý sản xuất có thể dẫn đến sự thiển cận về
marketing. Cc doanh nghiệp tiếp nhận triết lý này sẽ mắc một ri ro lớn trong việc tập trung qu
hạn hẹp vào sự vận hành ca chính mình và mất đi tầm nhìn về những mục tiêu thật sự là thỏa
mãn nhu cầu ca khch hàng.
21
Triết lý sản phẩm cho rằng khch hàng sẽ yêu thích những sản phẩm có chất lượng tốt
nhất, mạnh nhất và có những đặc tính đổi mới nhất. Do vậy, tổ chức nên dồn năng lực vào những
cải tiến sản phẩm một cch liên tục. Một số nhà sản xuất tin rằng nếu họ làm ra một ci bẫy chuột
tốt nhất thế giới, cả thế giới sẽ tìm đến họ để mua bẫy chuột. Nhưng họ đã sai lầm. Người mua có
thể tìm kiếm một giải php tốt hơn để diệt chuột chứ không nhất thiết là một ci bẫy chuột tốt
nhất. Giải php có thể là thuốc diệt chuột hoặc một ci gì khc hiệu quả hơn một ci bẫy chuột.
Hơn nữa, một ci bẫy chuột tốt hơn sẽ không bn được cho đến khi việc thiết kế, bao gói và định
gi nó được cung ứng một cch hấp dẫn, được đưa vào kênh phân phối thuận tiện, thu hút sự
quan tâm ca những khch hàng có nhu cầu và thuyết phục họ rằng nó là sản phẩm tốt hơn.
Vì thế, triết lý sản phẩm cũng có thể dẫn đến chứng thiển cận marketing. Kodak đã cho
rằng khch hàng mong muốn my chụp hình cơ hơn là cch thức ghi hình ảnh và do vậy xem
thường thch thức ca my ảnh kỹ thuật số. Mặc dầu hiện nay nó dẫn dầu thị trường my ảnh kỹ
thuật số về doanh số, nhưng nó vẫn chưa thu được lợi nhuận thích đng từ việc kinh doanh này.
Triết lý bán hàng cho rằng khch hàng sẽ không mua hàng hóa nếu như công ty không
bn hàng với qui mô lớn và cc nỗ lực khuyến mãi. Quan điểm này đặc biệt được thực hiện với
những sản phẩm có nhu cầu thụ động, là những sản phẩm mà người mua thường không nghĩ đến
việc mua, như sản phẩm bảo hiểm hoặc hiến mu.
Hầu hết cc doanh nghiệp thực hiện triết lý này khi họ đối mặt với sự dư thừa năng lực
sản xuất. Mục đích là nhằm bn những gì mà họ làm ra hơn là sản xuất những gì mà thị trường
mong muốn. Marketing theo kiểu này rất mạo hiểm. Nó tập trung vào việc tăng cường giao dịch
bn hàng hơn là xây dựng cc mối quan hệ khch hàng có lợi và dài hạn. Họ cho rằng khch hàng
khi bị dụ dỗ sẽ thích mua sản phẩm. Hoặc, nếu họ không thích sản phẩm, họ có thể sẽ quên sự
thất vọng ca mình và sẽ mua lại. Tuy nhiên, sự thật không phải thế, theo nghiên cứu thì cứ một
khch hàng hài lòng sẽ nói lại với ba người khc về kinh nghiệm tốt ca mình, trong khi đó trung
bình cứ 1 khch hàng không hài lòng sẽ nói với 10 người khc về kinh nghiệm tồi tệ ca họ.
Triết lý marketing cho rằng việc hoàn thành cc mục tiêu ca tổ chức phụ thuộc vào sự
hiểu biết nhu cầu, mong muốn ca thị trường mục tiêu và cung ứng sự hài lòng theo mong muốn
ca khch hàng tốt hơn cc đối th cạnh tranh. Với quan điểm marketing, tập trung vào khch
hàng và gi trị dành cho khch hàng là con đường để đạt được lợi nhuận và doanh số.
Khc với quan điểm sản xuất và bn hàng chú trọng vào sản phẩm, quan điểm marketing
là một triết lý cảm nhận và đp ứng hướng vào khch hàng. Nó xem marketing không chỉ “gặt
hi” mà còn là “nuôi dưỡng” nhu cầu. Công việc ca marketing không chỉ tìm đúng khch hàng
cho sản phẩm ca mình mà còn cung ứng đúng sản phẩm cho khch hàng. Như lời ca một người
làm marketing trực tiếp Lester Wunderman “Thnh ca trong thời đại công nghiệp ca cc nhà sản
xuất là: Tôi làm ra những sản phẩm này đây, bạn có vui lòng mua nó không? Trong khi đó, ở thời
đại thông tin, cc khch hàng lại hỏi: Tôi muốn những thứ này, có ai làm ra chúng không?”
Trong hình 1.4 chúng ta so snh triết lý bn hàng và triết lý marketing. Triết lý bn hàng
lấy tầm nhìn từ trong ra ngoài. Nó bắt đầu với xí nghiệp sản xuất, chú trọng vào những sản phẩm
hiện có ca công ty và kêu gọi để bn được nhiều hàng và cổ động để đạt được doanh số bn có
lãi. Nó tập trung ch yếu vào việc chinh phục khch hàng, đạt được doanh số trong ngắn hạn mà
ít quan tâm đến ai là người mua và tại sao họ mua sản phẩm.
Ngược lại, triết lý marketing có một tầm nhìn từ ngoài vào trong. Như Herb Kellerher,
một Tổng gim đốc điều hành ca Southwest Airlines đã nói : “Chúng tôi không có bộ phận
marketing mà chúng tôi có Bộ phận khch hàng” Triết lý marketing bắt đầu với thị trường được
xc định rõ, tập trung vào nhu cầu khch hàng và tích hợp tất cả cc hoạt động marketing tc
22
động đến khch hàng. Ngược lại, nó sẽ đem lại lợi nhuận bằng cch tạo ra mối quan hệ khch
hàng trong dài hạn dựa trên gi trị và sự hài lòng cho khch hàng.
Hình 1.4 : Các nhân tố của giá trị cung ứng cho khách hàng
Điểm khởi đầu Trọng tâm Công cụ Điểm kết thúc
Nhà máy Sản phẩm Bán hàng và cổ động
Lợi nhuận thông qua qui mô
doanh thu
(a) Triết lý bán hàng
Thị trường mục
tiêu
Nhu cầu khách
hàng
Marketing tích hợp
Lợi nhuận thông qua sự thỏa
mãn của khách hàng
(b) Triết lý marketing
Có bốn khi niệm cốt lõi ca triết lý marketing là thị trường mục tiêu, nhu cầu khch
hàng, marketing tích hợp và tính sinh lợi.
• Thị trường mục tiêu
Công ty sẽ làm marketing tốt hơn khi lựa chọn thị trường mục tiêu một cch cẩn thận và
chuẩn bị chương trình marketing được thiết kế cho từng phân đoạn thị trường. Ví dụ:
Sau sự chú ý của các nhà làm marketing năm 1990 vào sức mua ngày càng tăng của nhóm
thiểu số, người khổng lồ ngành mỹ phẩm Estee Lauder nhắm thị trường người Mỹ gốc Phi
với những dòng sản phẩm được thiết kế cho khách hàng có da đậm màu. Và vào mùa thu
1992, cơ sở của Estee Lauder, Prescriptives, đưa ra dòng sản phẩm “cho tất cả loại da”
cung ứng 115 gam màu khác nhau. Giám đốc điều hành bộ phận marketing sáng tạo tại
Prescriptives tin rằng “All skins” sẽ tăng 45% doanh thu khi dòng sản phẩm mới được đưa
ra.
• Nhu cầu của khách hàng
Công ty có thể xc định thị trường mục tiêu nhưng thất bại trong việc hiểu nhu cầu ca
khch hàng. Xem xét ví dụ sau:
Một công ty hóa học lớn phát minh ra một loại chất mới làm cứng các vật liệu giống đá
cẩm thạch. Xem xét một ứng dụng của vật liệu mới này, bộ phận marketing quyết định
nhắm mục tiêu vào thị trường bồn tắm. Công ty tạo ra một số kiểu bồn tắm và trưng bày
chúng ở triển lãm thương mại. Họ hy vọng thuyết phục các nhà sản xuất bồn tắm với loại
vật liệu mới này. Và mặc dù các nhà sản xuất bồn tắm nghĩ rằng bồn tắm với chất liệu
mới rất hấp dẫn, nhưng sản phẩm mới này không đem lại dấu ấn đặc biệt trên thị trường.
Lý do nhanh chóng được làm rõ. Bồn tắm mới được định giá ở mức 2000$ trong khi các
loại bồn tắm khác có giá khoảng 500$. Với mức giá cao hơn, người tiêu dùng có thể mua
bồn tắm được làm từ đá cẩm thạch thật hoặc inoc. Ngoài ra, bồn tắm quá nặng nên người
sử dụng buộc phải gia cố lại nhà của họ.
Hiểu được nhu cầu và mong muốn ca khch hàng không phải luôn đơn giản. Một số
người tiêu dùng cần những thứ mà họ không hoàn toàn ý thức được. Hoặc họ không thể điều phối
những nhu cầu này. Hoặc họ sử dụng những từ ngữ không rõ nghĩa và cần có một sự thuyết minh
mới có thể hiểu đúng. Chẳng hạn, nên hiểu như thế nào khi khch hàng tìm kiếm một “chiếc xe
không qu đắt”, một “my xén cỏ mạnh”, một “my tiện nhanh”, một bộ đồ tắm “hấp dẫn” hoặc
một phòng khch sạn “thư giãn”?
23
Chúng ta hãy cùng xem xét ví dụ khch hàng nói anh ta muốn một chiếc xe hơi rẻ tiền.
Người làm marketing phải thăm dò nhiều hơn để có thể hiểu đúng những gì anh ta mong muốn.
Chúng ta có thể phân biệt năm loại nhu cầu khc nhau:
- Nhu cầu nói ra (khch hàng cần một chiếc xe rẻ tiền)
- Nhu cầu thật sự (khch hàng muốn một chiến xe mà tổng chi phí vận hành, chứ không
phải gi bn ban đầu là thấp)
- Nhu cầu không được nói ra (khch hàng kỳ vọng dịch vụ tốt từ người bn)
- Nhu cầu được thích thú (khch hàng muốn người bn tặng quà là bản đồ về hệ thống
đường bộ ca nước Mỹ)
- Nhu cầu bí mật (khch hàng muốn được bạn bè nhìn nhận là một người tiêu dùng khôn
ngoan, hiểu biết).
Chỉ đp ứng nhu cầu nói ra ca khch hàng có thể lừa bịp khch hàng. Hãy xem một ví dụ
khc, người phụ nữ bước vào một cửa hàng bn dụng cụ dùng trong nhà và hỏi tìm mua một loại
keo dn để bịt kín kính cửa sổ bị hở vào mùa đông. Khch hàng này đang nói đến một giải pháp,
không phải là một nhu cầu. Người bn hàng có thể gợi ý rằng băng dn sẽ là một giải php tốt
hơn. Trong trường hợp này, khch hàng có thể coi trọng cch nhân viên bn hàng đp ứng được
nhu cầu ca mình, chứ không phải bản thân giải php.
Khi niệm nhu cầu giúp phân biệt giữa ba cấp độ làm marketing: marketing đp ứng,
marketing hơn mong đợi và marketing sng tạo. Người làm marketing đp ứng tìm nhu cầu được
nói ra và đp ứng nó. Người làm marketing hơn mong đợi nhìn trước những gì khch hàng có thể
mong muốn trong tương lai gần. Người làm marketing sng tạo khm ph và sản xuất ra giải
php mà khch hàng không hỏi nhưng họ lại tiếp nhận rất nồng nhiệt. Hamel và Prahalad tin rằng
cc công ty phải đi xa hơn việc chỉ đơn thuần hỏi khch hàng muốn gì.
Sony đơn giản là người làm marketing sng tạo vì nó đưa ra nhiều sản phẩm mới thành
công mà khch hàng không bao giờ hỏi hoặc thậm chí nghĩ rằng có thể: Walkman, VCR, my
quay phim, CD và v.v.… Sony theo đuổi marketing sng tạo, dẫn dắt khch hàng. Đây thật sự là
một công ty dẫn dắt thị trường, không chỉ là công ty định hướng theo thị trường. Akio Morita,
người sng lập ca Sony, tuyên bố rằng ông không phục vụ thị trường, ông tạo ra thị trường.
Tại sao việc thỏa mãn thị trường lại vô cùng quan trọng như vậy? Câu trả lời là vì doanh
thu ca công ty đến từ hai nhóm: khch hàng mới và khch hàng mua lại. Ai đó đnh gi rằng thu
hút một khch hàng mới có thể tốn chi phí gấp năm lần so với việc thỏa mãn khch hàng hiện tại
và có thể tốn 16 lần để thu được từ khch hàng mới mức lợi nhuận như từ khch hàng cũ. Do vậy,
làm cho khch hàng trung thành còn quan trọng hơn thu hút khch hàng và rõ ràng chúng ta chỉ
có thể làm cho khch hàng trung thành bằng cch thỏa mãn họ trên cơ sở hiểu biết nhu cầu ca
họ, và đây cũng chính là mục đích cốt lõi ca marketing.
• Marketing tích hợp
Khi tất cả cc bộ phận ca công ty cùng làm việc với nhau để phục vụ mối quan tâm ca
khch hàng, kết quả sẽ tạo ra marketing tích hợp. Thật không may, không phải tất cả nhân viên
được huấn luyện và kích thích làm việc vì khch hàng. Một kỹ sư ở bộ phận kỹ thuật than phiền
rằng nhân viên bn hàng luôn “bảo vệ khch hàng và không nghĩ đến quyền lợi ca công ty”.
Anh ta tiếp tục than phiền những khch hàng vì “đòi hỏi qu nhiều”. Ví dụ sau đây làm rõ hơn
vấn đề phối hợp giữa cc bộ phận:
Phó giám đốc marketing của một hãng hàng không Châu Âu muốn tăng thị phần. Chiến
lược của ông là tạo ra sự thỏa mãn cho khách hàng thông qua việc cung cấp thực phẩm
ngon hơn, không gian chỗ ngồi trên máy bay sạch sẽ hơn, đội ngũ phục vụ được đào tạo
24
tốt hơn, và giá vé rẻ hơn. Tuy nhiên ông ta không có quyền trong vấn đề này. Bộ phận
cung cấp thực phẩm chọn thực phẩm giúp làm giảm chi phí thực phẩm; bộ phận bảo
dưỡng sử dụng dịch vụ dọn dẹp để tiết kiệm chi phí lau chùi; bộ phận nguồn nhân lực
tuyển chọn nhân viên không quan tâm nhiều đến việc họ có tư chất nhiệt tình thân ái hay
không; bộ phận tài chính định mức phí. Vì những bộ phận này nhìn chung đứng từ quan
điểm sản xuất hoặc chi phí, phó giám đốc marketing buộc phải tạo ra phối thức
marketing tích hợp.
Marketing tích hợp diễn ra ở hai cấp độ. Trước hết là cc chức năng marketing khc nhau
– bn hàng, quảng co, dịch vụ khch hàng, quản trị sản phẩm, nghiên cứu marketing – phải cùng
làm việc với nhau. Lực lượng bn hàng rất hay nghĩ rằng cc nhà quản trị sản phẩm định mức gi
hoặc hạn mức doanh thu qu cao, hoặc gim đốc quảng co và gim đốc nhãn hiệu không thể
đồng ý về chiến dịch quảng co. Do vậy, tất cả những chức năng marketing này phải được điều
phối từ quan điểm ca khch hàng.
Thứ hai, marketing phải được cc bộ phận khc đi theo, họ cũng phải “nghĩ cho khch
hàng”. Theo David Packard ca HP: “Marketing qu quan trọng để chỉ trao trọng trch đó cho bộ
phận marketing”. Xerox tiến rất xa khi gộp vào trong mỗi bản mô tả công việc một phần giải
thích công việc này tc động như thế nào đến khch hàng. Cc nhà quản trị phân xưởng ca
Xerox biết rằng việc thăm quan phân xưởng có thể giúp việc bn hàng cho khch nếu nhà xưởng
sạch sẽ và hiệu quả. Bộ phận kế ton ca Xerox cũng biết rằng thi độ ca khch hàng chịu sự tc
động ca tính chính xc ca cc hóa đơn và sự mau mắn ca việc gọi lại cho khch hàng sau khi
họ yêu cầu.
Để cổ động cho tinh thần làm việc nhóm giữa tất cả cc bộ phận, công ty chăm lo công
tc marketing nội bộ cũng như marketing bên ngoài. Marketing bên ngoài là marketing hướng
đến cc c nhân bên ngoài tổ chức. Marketing nội bộ là công việc tuyển dụng, đào tạo và cổ động
cc nhân viên để họ muốn phục vụ khch hàng tốt. Thật vậy, marketing nội bộ phải đi trước
marketing bên ngoài. Sẽ không có ý nghĩa gì khi hứa hẹn dịch vụ tuyệt hảo trước khi đội ngũ
nhân viên ca công ty sẵn sàng cung cấp dịch vụ đó.
• Tính sinh lợi
Mục tiêu cuối cùng ca triết lý marketing là giúp tổ chức đạt được cc mục tiêu ca mình.
Trong trường hợp cc công ty tư nhân, mục tiêu quan trọng là lợi nhuận, trong trường hợp phi lợi
nhuận và cc tổ chức công cộng, tổ chức phải tồn tại và thu hút đ nguồn vốn để thực hiện cc
công việc hữu ích. Cc công ty không nên hướng đến lợi nhuận bằng mọi cch mà là đạt lợi
nhuận bằng cch sng tạo và cung ứng những gi trị vượt trội cho khch hàng. Công ty làm ra lợi
nhuận bằng cch thỏa mãn nhu cầu khch hàng tốt hơn cc đối th cạnh tranh.
Đến đây chúng ta đã tiếp xúc với cc quan điểm làm marketing khc nhau và rõ ràng
trong môi trường marketing hiện đại quan điểm marketing là quan điểm phổ biến nhất. Tuy
nhiên, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng không phải tổ chức kinh doanh nào cũng thực hiện
được quan điểm marketing. Thật vậy, có bao nhiêu công ty hiện tại thực hiện được quan điểm
marketing? Không may là có qu ít. Chỉ có một nhóm công ty được xem là những nhà làm
marketing chuyên nghiệp: Procter&Gamble, Disney, Nordstrom, Wal-Mart, Milliken&Company,
McDonald’s, Marriot Hotels, American Airlines và một số công ty Nhật (Sony, Toyota, Canon)
và cc công ty Âu Châu (IKEA, Club Med, Bang&Olufsen, Electrolux, Nokia, ABB, Lego,
Marks&Spencer). Những công ty này tập trung vào khch hàng và được tổ chức để đp ứng một
cch hiệu quả nhu cầu thay đổi ca khch hàng. Họ đều có bộ phận marketing có đội ngũ nhân
viên mạnh và cc bộ phận khc – sản xuất, tài chính, R&D, nhân sự, mua hàng – cũng tiếp nhận
quan điểm khch hàng là thượng đế.
25