TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------
BÀI TẬP LỚN MÔN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về dân chủ xã
hội chủ nghĩa và sự vận dụng của bản thân về vấn đề này
Họ và tên SV: Lương Thị Bích Liên
Lớp tín chỉ: CNXHKH(121)_38
Mã SV: 11202067
GVHD: Lê Ngọc Thông
HÀ NỘI, NĂM 2021
1
Mục lục
MỞ ĐẦU .................................................................................................................................. 1
1.
Sự ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ...................................................................... 2
2.
Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ....................................................................... 4
2.1
Bản chất chính trị: ..................................................................................................................... 4
2.2
Bản chất kinh tế ......................................................................................................................... 5
2.3
Bản chất tư tưởng - văn hóa - xã hội ..................................................................................... 6
3.
Thực trạng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay .................................... 7
4.
Một số vấn đề trong nhận thức lý luận về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.......... 9
5.
Một số giải pháp cơ bản thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay .... 13
5.1.
Nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ, trên cơ sở thượng tôn pháp luật, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng ..................... 13
5.2.
Triệt để thực hành dân chủ trong Đảng theo 12 quy định tư cách của Đảng cầm
quyền của Hồ Chí Minh và nguyên tắc tập trung dân chủ một cách thực sự.......................... 14
5.3.
6.
Bổ sung, nâng tầm mối quan hệ giữa dân chủ với pháp chế, kỷ cương xã hội .......... 15
Sự vận dụng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vào bản thân em .......................................... 15
KẾT LUẬN............................................................................................................................. 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................... 20
MỞ ĐẦU
Lịch sử xã hội loài người là lịch sử của quá trình đấu tranh cho hạnh phúc và tương lai
của con người. Từ thuở xa xưa của nền văn minh cổ đại đến đêm trường trung cổ, con người
luôn ln khát vọng vươn tới tự do, bình đẳng và luôn luôn đấu tranh không mệt mỏi cho một
xã hội tương lai có nhiều hạnh phúc hơn cho con người. Tất cả những khát vọng và hiện thực
cuộc sống tốt đẹp cho con người, vì con người và do con người, đó chính là dân chủ. Dưới góc
độ Chính trị học, dân chủ gắn liền với lợi ích của các giải tầng xã hội và là lợi ích trực tiếp của
giai cấp thống trị xã hội. Vì vậy dân chủ, dân chủ hoá xã hội chịu sự chi phối của chính trị của
bản chất nhà nước.
Khác với nền dân chủ đã tồn tại trước đó trong lịch sử, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
không thể ra đời, phát triển một cách tự phát. Nó khơng thể tự nhiên xuất hiện và hoàn thiện
ngay sau khi sự kiện giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền. Xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ lịch sử mới mẻ chưa có tiền lệ. Những thăng
trầm của chủ nghĩa xã hội thực hiện thực ở các nước trên thế giới trong gần 100 năm qua đã
cho thấy rõ tính phức tạp của tiến trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Kinh nghiệm
lịch sử cho thấy sức sống thực tế của dân chủ xã hội chủ nghĩa trước hết phụ thuộc vào nhận
thức và hành động của đảng cộng sản cầm quyền. Thực tế đang địi hỏi chúng ta phải có những
tổng kết công phu trên phương tiện lý luận và thực tiễn về dân chủ xã hội chủ nghĩa, từ đó
tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta trong điều kiện mới. Với mong muốn góp phần từng bước giải quyết
những cơng việc phức tạp và hệ trọng nói trên, em đã lựa chọn vấn đề “Nhận thức về dân
chủ xã hội chủ nghĩa và và việc vận dụng của bản thân vào vấn đề này”.
1
1. Sự ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn quá trình hình thành và phát triển các nền dân chủ trong
lịch sử và trực tiếp nhất là nền dân chủ tư sản, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin cho
rằng, đấu tranh cho dân chủ là một quá trình lâu dài, phức tạp và giá trị của nền dân chủ tư sản
chưa phải là hồn thiện nhất, do đó, tất yếu xuất hiện một nền dân chủ mới, cao hơn nền dân
chủ tư sản và đó chính là nền dân chủ vơ sản hay cịn gọi là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được phôi thai từ thực tiễn đấu tranh giai cấp ở Pháp và
Công xã Pari năm 1871, tuy nhiên, chỉ đến khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công với
sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới (1917). nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa mới chính thức được xác lập. Sự ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đánh dấu bước
phát triển mới về chất của dân chủ. Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bắt
đầu từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hồn thiện. Trong đó, có sự kế thừa những giá trị
của nền dân chủ trước đó, đồng thời bổ sung và làm sâu sắc thêm những giá trị của nền dân
chủ mới.
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin. Giai cấp vơ sản khơng thể hồn thành cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa, nếu họ không được chuẩn bị để tiến tới cuộc cách mạng đó thơng qua cuộc
đấu tranh cho dân chủ. Rằng, chủ nghĩa xã hội không thể duy trì và thắng lợi, nếu khơng thực
hiện đầy đủ dân chủ
Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là từ thấp tới cao, từ chưa hoàn
thiện đến hồn thiện; có sự kế thừa một cách chọn lọc giá trị của các nền dân chủ trước đó,
trước hết là nền dân chủ tư sản. Nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là không
ngừng mở rộng dân chủ, nâng cao mức độ giải phóng cho những người lao động, thu hút họ
tham gia tự giác vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Càng hoàn thiện bao nhiêu,
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lại càng tự tiêu vong bấy nhiêu. Thực chất của sự tiêu vong này
theo VI Lênin, đó là tính chính trị của dân chủ sẽ mất đi trên cơ sở không ngừng mở rộng dân
chủ đối với nhân dân, xác lập địa vị chủ thể quyền lực của nhân dân, tạo điều kiện để họ tham
gia ngày càng đơng đảo và ngày càng có ý nghĩa quyết định vào sự quản lý nhà nước, quản lý
xã hội (xã hội tự qn). Q trình đó làm cho dân chủ trở thành một thói quen, một tập quán
2
trong sinh hoạt xã hội... để đến lúc nó khơng còn tồn tại như một thể chế nhà nước, một chế
độ tức là mất đi tính chính trị của nó.
Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác – Lênin cũng lưu ý đây là quá trình lâu dài, khi xã hội đã đạt
trình độ phát triển rất cao, xã hội khơng cịn sự phân chia giai cấp, đó là xã hội cộng sản chủ
nghĩa đạt tới mức độ hồn thiện, khi đó dân chủ xã hội chủ nghĩa với tư cách là một chế độ
nhà nước cũng tiêu vong, khơng cịn nữa.
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao
hơn về chất so với nền dân chủ có trong lịch sử nhân loại, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền
lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ, dân chủ và pháp luật nằm trong sự thống
nhất hiện chứng được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản.
Cũng cần lưu ý rằng, cho đến nay, sự ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mới chỉ
trong một thời gian ngắn, ở một số nước có xuất phát điểm về kinh tế, xã hội rất thấp, lại
thường xuyên bị kẻ thủ tấn công, gây chiến tranh, do vậy, mức độ dân chủ đạt được ở những
nước này hiện nay còn nhiều hạn chế ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngược lại,
sự ra đời, phát triển của nền dân chủ tư sản có thời gian cá mấy trăm năm, lại ở hầu hết các
nước phát triển (do điều kiện khách quan, chủ quan) Hơn nữa, trong thời gian qua, để tồn tại
và thích nghỉ, chủ nghĩa tư bản đã có nhiều lần điều chỉnh về xã hội, trong đó quyền con người
đã được quan tâm ở một mức độ nhất định (tuy nhiên, bản chất của chủ nghĩa tư bản không
thay đổi). Nền dân chủ từ sản có nhiều tiến bộ, song nó vẫn bị hạn chế bởi bản chất của chủ
nghĩa tư bản.
Dân chủ XHCN ra đời như là kết quả tất yếu của lịch sử đấu tranh lâu dài của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Sự ra đời của nền dân chủ XHCN là một bước phát triển về
chất của dân chủ là sự thay thế tất yếu hợp quy luật đối với dân chủ tư sản
Tóm lại phải khẳng định rằng, bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa là dân chủ. Nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền với cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội. Nó được thiết lập
bảng quyền lãnh đạo của giai cấp cơng nhân đối với tồn xã hội thông qua đôi tiên phong là
Đảng Cộng sản Vì vậy, có thể khẳng định rằng việc các đảng cộng sản cầm quyền, trong q
trình lãnh đạo, thơng qua Nhà nước, thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Một nền dân chủ
3
được xem là "thực chất của đổi mới hệ thống chính trị là xây dựng và từng bước hồn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”.
2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Như mọi loại hình dân chủ khác, dân chủ vô sản, theo VI Lênin, không phải là chế độ
dân chủ cho tất cả mọi người, nó chỉ là dân chủ đối với quán chúng lao động và bị bóc lột, dân
chủ và sản là chế độ dân chủ vì lợi ích của đa số Rằng, dân chủ trong chủ nghĩa xã hội bao
quát tất cả các mặt của đời sống xã hội, trong đó, dân chủ trên lĩnh vực kinh tế là cơ sở, dân
chủ đó càng hoàn thiện bao nhiêu, càng nhanh tới ngày tiêu vong bấy nhiêu. Dân chủ vô sân
loại bỏ quyền dân chủ của tất cả các giai cấp là đối tượng của nhà nước vơ sản, nó đưa quảng
đại quần chúng nhân dân lên địa vị của người chủ chân chính của xã hội.
Với tư cách là đỉnh cao trong toàn bộ lịch sử tiến hóa của dân chủ, dân chủ xã hội chủ
nghĩa có hán chất cơ bản sau:
2.1 Bản chất chính trị:
Bản chất chính trị: Dưới sự lãnh đạo duy nhất của một dùng của giai cấp công nhân
(đảng Mác-Lênin) mà trên mọi lĩnh vực xã hội đều thực hiện quyền lực của nhân dân, thể hiện
qua các quyền dân chủ, làm chủ quyền con người, thỏa mãn ngày Càng cao hơn các nhu cầu
và lợi ích của nhân dân.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: Bản chất chính trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là
sự lãnh đạo chính trị của giai cấp cơng nhân thơng qua đảng của nó đối với tồn xã hội, nhưng
khơng phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích riêng cho giai cấp công nhân, mà chủ yếu là
để thực hiện quyền lực và lợi ích của tồn thể nhân dân, trong đó có giai cấp cơng nhân. Nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa do đảng Cộng sản lãnh đạo - yếu tố quan trọng để đảm bảo quyền
lực thực sự thuộc về nhân dân, bởi vì, đảng Cộng sản đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của giai cấp
cơng nhân nhân dân lao động và toàn dân tộc. Với nghĩa này, dân chủ xã hội chủ nghĩa mang
tính nhất nguyên và chính trí. Sự lãnh đạo của giai cấp cơng nhân thơng qua động Cộng sản
đối với tồn xã hội về mọi mặt V.I.Lênin gọi là sự thống trị chính trị.
4
Trong tiền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động là những người làm chủ những
quan hệ chính trị trong xã hội. Họ có quyền giới thiệu các đại biểu tham gia vào bộ máy chính
quyền từ trung ương đến địa phương, tham gia đóng góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp
luật, xây dựng bộ máy và cán bộ, nhân viên nhà nước, Quyền được tham gia rộng rãi vào công
việc quản lý nhà nước của nhân dân chính là nội dung. dân chủ trên lĩnh vực chính trị V.I.Lênin
cịn nhấn mạnh rằng Dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ của đại đa số dân cư, của
những người lao động bị bóc lột, là chế độ mà nhân dân ngày càng tham gia nhiều vào công
việc Nhà nước. Với ý nghĩa đo. VI Lênin đã diễn đạt một cách khái quát về bản chất và trục
tiêu của dân chủ xã hội chủ nghĩa rằng đó là nền dân chủ "gấp triệu lần dân chủ tư sản”.
Trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa thì bao nhiêu quyền lực đều là của dân, bao
nhiêu sức mạnh đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều là vì dân... Chế độ dân chủ xã hội chủ
nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa do đó về thực chất là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, khác với các cuộc cách mạng xã hội trước đây là ở chỗ
nó là cuộc cách mạng của số đơng, vì lợi ích của số đơng nhân dân. Cuộc Tổng tuyển cử đầu
tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hịa (1946) theo Hồ Chí Minh là một dịp cho tồn thế
quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác cơng việc nhà nước, “ hễ là
người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là cơng dân thì đều có quyền đi bầu
cử”.
Xét về bản chất chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp cơng nhân,
vừa có tính nhân dẫn rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc. Do vậy, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa khác
về chất so với nền dân chủ tư sản ở ban chất giai cấp (giai cấp công nhân và giai cấp tư sản);
ở cơ chế nhất nguyên và cơ chế đa nguyên, một đảng hay nhiều đảng; ở bản chất nhà nước
(nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản)
2.2 Bản chất kinh tế
Bản chất kinh tế: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu xã hội về những
tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản
xuất dựa trên cơ sở khoa học - công nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn ngày càng cao những nhu
cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động.
5
Bản chất kinh tế đó chỉ được bộc lộ đầy đủ qua một q trình ổn định chính trị, phát
triển sản xuất và nâng cao đời sống của toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo của đảng Mác - Lênin
và quản lý, hướng dẫn, giúp đỡ của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trước hết đảm bảo quyền làm
chủ của nhân dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu: quyền làm chủ trong quá trình sản xuất kinh
doanh, quản lý và phân phối, phải coi lợi ích kinh tế của người lao động là động lực cơ bản
nhất có sức thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa duy khác về bản chất kinh tế của các
chế độ tự hữu, áp bức, bóc lối, bất cơng, nhưng cũng như toàn bộ nền kinh tế xã hội chủ nghĩa,
nó khơng hình thành từ "hư vỡ" theo mong muốn của bất kỳ ai. Kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng
là sự kế thừa và phát triển mọi thành tựu nhân loại đã tạo ra trong lịch sử, đồng thời lọc bỏ
những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kim bấm... của các chế độ kinh tế trước đó, nhất là bản chất
từ Hữu, áp bức, bóc lột bất cơng... đối với đa số nhân dân.
2.3 Bản chất tư tưởng - văn hóa - xã hội
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác – Lênin - hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân làm chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới. Đồng thời
nó kế thừa, phát huy những tỉnh hoa văn hóa truyền thống dân tộc, tiếp thu những giá trị tư
tưởng - văn hóa, văn minh, tiến bộ xã hội... mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân
tộc... Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân được làm chủ những giá trị văn hóa tinh
thần được nâng cao trình độ văn hố, có điều kiện để phát triển cá nhân. Dưới góc độ này dẫn
chú là một thành tựu văn hố, một q trình sáng tạo văn hố, thể hiện khát vọng tự đa được
sáng tạo và phát triển của con người.
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có sự kết hợp hài hịa về lợi ích giữa cá nhân tập
thể và lợi ích của tồn xã hội. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ra sức động viên, thu hút mọi tiềm
năng sáng tạo, tỉnh tích cực xã hội của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Với những bản chất nêu trên, dân chủ xã hội chủ nghĩa trước hết và chủ yếu được thực
hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là kết quả hoạt động tự giác của quần chúng
nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ có được với
điều kiện tiên quyết là bảo đảm vai Là lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản. Bởi lẽ, nhờ nắm
6
vững hệ tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và đưa nó vào quần
chúng. Đảng mang lại cho phong trào quần chúng tỉnh tự giác cao trong quá trình xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục của mình, Đảng năng
cao trình độ giác ngộ chính trị, trình độ văn hóa dân chủ của nhân dân để họ có khả năng thực
hiện hữu hiệu những yêu cầu dân chủ phản ánh đúng quy luật phát triển xã hội. Chỉ dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhân dân mới đấu tranh có hiệu quả chống lại mọi mưu đồ lợi
dụng dân chủ vì những động cơ đi ngược lại lợi ích của nhân dân.
Với những ý nghĩa như vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhất ngun về chính trị, bảo
đảm vai trị lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản không loại trừ nhau mà ngược lại, chính sự
lãnh đạo của Đảng là điều kiện cho dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời, tồn tại và phát triển.
3. Thực trạng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Ở nước ta, trải qua hàng ngàn năm dưới ách đó họ của thực dân phong kiến, đế quốc,
dân chủ là khát vọng ngàn đời của cả dân tộc Việt Nam.
Chúng ta may mắn có Hồ Chí Minh, mà tư tưởng và sự nghiệp của người gắn liền với
cách mạng giải phóng dân tộc và giải phóng nhân dân. Tư tưởng của Người về dân chủ ngay
từ đầu là kim chỉ nam cho quá trình hình thành và xây dựng nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa.
Năm 1945, sau cách mạng tháng 8, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, chế
độ chính trị nước ta bước sang giai đoạn mới là Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm
quyền.
Hiến pháp năm 1946 khẳng định: Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hịa, tất
cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt nịi giống, gái
trai, giàu, nghèo, giai cấp, tôn giáo" (Điều 1). Hiến pháp năm 1946 cũng khẳng định các quyền
tự do, dân chủ của công dân về kinh tế, văn hóa, chính trị, quyền dân chủ tham gia xây dựng
bộ máy Nhà nước, quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong thực thi các quyền
dân chủ với nhân dân, quy định hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước của nhân dân là Quốc
7
hội và HĐND các cấp, thay mặt nhân dân quyết định và giám sát toàn bộ hoạt động của bộ
máy Nhà nước.
Thực hiện dân chủ nhân dân là yêu cầu nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ
ngày thành lập tới nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh quyền làm chủ của nhân
dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, dân chủ có nghĩa “dân là chủ” và “người dân làm
chủ”, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, quần chúng là động lực của cách mạng. Chính
quần chúng nhân dân là lực lượng cách mạng đơng đảo nhất trực tiếp thực hiện đường lối cách
mạng, biến đường lối cách mạng của Đảng thành hiện thực. Người nói, trong bầu trời khơng
có gì q bằng nhân dân, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”.
Trong lãnh đạo đấu tranh cách mạng, trải qua cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và sau đó là
cách mạng dân chủ nhân dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn chú trọng xây dựng
chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội.
Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh chủ trương phát huy dân chủ để tạo động lực mạnh
mẽ cho phát triển đất nước “trong tồn bộ hoạt động của mình, Đảng phải qn triệt tư tưởng
“lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”. Phát huy tinh
thần của Đại hội VI, các kỳ đại hội tiếp theo cũng nhấn mạnh “sự nghiệp cách mạng là của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” và nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng là
“xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc
về nhân dân”. Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta luôn nhấn mạnh nhân dân làm chủ là bản
chất của chủ nghĩa xã hội, kiên định nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân,
khơng ngừng thúc đẩy đổi mới chính trị, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và đã đạt
được những thành tựu to lớn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của
chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc
sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được
thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật đảm bảo”(4).
8
Nội dung cơ bản của dân chủ xã hội chủ nghĩa là tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.
Hiến pháp năm 2013 quy định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực của
nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức.
Ở Việt Nam, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý và vận hành nền kinh tế
thị trường, bảo đảm đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng kinh tế luôn gắn với bảo đảm công bằng, thực hiện tiến
bộ xã hội, phát triển văn hóa, phát triển con người, nhằm mục đích nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân. Quá trình dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế ngày càng mở rộng. Phát
triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp... Công
bằng trong phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp
vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Quá trình mở rộng dân chủ kinh tế gắn liền với mở rộng dân chủ chính trị, thực hành ngày
càng rộng rãi và thực chất quyền lực chính trị của nhân dân, thông qua cả phương thức ủy
quyền gián tiếp và dân chủ trực tiếp.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của nhân dân, khơng có sự đồn kết,
sáng tạo của quần chúng nhân dân thì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ thất bại. Dân
chủ chính là biểu hiện quan điểm giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội, là nhân tố tạo ra sự ổn
định, phát triển và thịnh vượng.
4. Một số vấn đề trong nhận thức lý luận về xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa
Thứ nhất, mâu thuẫn giữa yêu cầu bảo đảm nhân dân thật sự làm chủ thông qua hoạt
động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại
diện với tình trạng Nhà nước pháp quyền XHCN mới bước đầu xây dựng cơ chế kiểm soát
quyền lực chưa hiệu quả; vai trò giảm sát, phản biện xã hội của Mặt trận và các tổ chức thành
viên còn hạn chế.
9
Trong nền dân chủ XHCN ở Việt Nam, nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua
hoạt động của Nhà nước, của ca hệ thống chính trị và các hình thức dân chu trực tiếp, dân chủ
đại diện. Theo đó, điều kiện chính trị và nội dung thực hiện dẫn chu XHCN trong lĩnh vực
chính trị ở nước ta trước hết là đối mới, dân chủ hóa tố chức, hoạt động của hệ thống chính trị,
trong đó trọng tâm là đơi mới nội dung, dẫn chủ hóa phương thức lãnh đạo của Đảng, xây
dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân; đổi mới tổ chức,
phương thức hoạt động của Mặt trận.
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên. Thước đo dân chủ của nhân dân về mặt
chính trị trước hết thể hiện ở mức độ hoàn thiện, dân chủ trong tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị do Đảng lãnh đạo.
Những hạn chế, bất cập về xây dựng điều kiện chính trị và thực hiện dân chủ XHCN
trong lĩnh vực chính trị ở nước ta hiện nay. ở nguyên nhân trực tiếp từ những hạn chế, yếu kém
trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Trong nhận thức và thực tiễn, cơ chế Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ còn nhiều vưởng mốc. Đảng lãnh đạo sự nghiệp
xây dựng phát triển nền dân chủ XHCN nhưng Đảng chưa thực sự nêu gương thực hành dân
chủ XHCN. Nhà nước pháp quyền XHCN mới bước đầu xây dựng, chưa hoàn thiện cả về tổ
chức bộ máy và thể chế pháp luật. Nguyên tắc thống nhất, phản cơng, phối hợp, kiểm sốt
quyền lực như nước chưa được nhận thức sâu sắc và thể chế hóa đầy đủ. Hiệu lực, hiệu quả
quản lý của nhà nước còn nhiều mặt yếu kém; tỉnh trung quan liêu, tham ở, tham nhũng chia
được ngăn chặn, đẩy lùi.
Thứ hai, mâu thuẫn giữa yêu cầu bảo đảm định hưởng XHCN, nhất là bảo đảm sự lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý, kiến tạo phát triển của Nhà nước pháp quyền XHCN và quyền làm
chủ về kinh tế của nhân dân với xu hướng tất yếu phải tuân thủ triệt để các quy luật thì trường
trong xây dựng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Công cuộc đổi mới 30 năm qua đã xác nhận kinh tế thị trường định hướng XHCN là
con đường, phương thủ và điều kiện tất yếu để xây dựng CNXH và phát trên nền dân chủ
XHCN ở nước ta trong thời kỳ quá độ. Tuy nhiên, quá trình xây dựng phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN đã và đang đặt ra nhiều vấn đề phức tạp cả về lý luận và thực
tiễn. Trong đó, nói lên mâu thuẫn giữa yêu cầu bảo đảm định hướng XHCN, nhất là bao đảm
10
sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, kiến tạo phát hàn của Nhà nước pháp quyền XHCN và quyền
làm chủ về kinh tế của nhân dân với xu hướng tất yếu phải tuân thu triệt để các quy luật thị
trưởng trong xây dựng, phát triển nen kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Xung quanh mâu thuần này, trước mắt cũng như về lâu dài cầu phủ nhận thức và xử lý
nhiều khía cạnh, tầng nắc vấn đề và mối quan hệ phức tạp. Đó là nhận thức và giải quyết mối
quan hệ giữa tuân thủ các quy luật của thị trường với bao đảm định hướng XHCN, giữa phát
triển LLSX và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; giữa độc lập, tự chủ
và hội nhập kinh tế quốc tế, giữa bảo đảm tăng trường kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội, giữa khuyến khích làm giàu chính đẳng và đẩy mạnh xóa đói, gam nghèo giữa Dung
lãnh đạo. Nhà nước quan lý, nhân dân làm chủ về kinh tế trong nền kinh tế thị trường định
hưởng XHCN. Đó là nhận thức và giải quyết vấn đề cho độ sơ hữ, hình thức sở hữu, về vị trí,
vai trị của các thành phần kinh tế, trong đó có vai trị chủ đạo của kinh tế nhà nước, vai trò
động lực quan trọng của kinh tế tư nhân, vai trò nền tảng vững chắc của kinh tế nhà nước và
kinh tế tập thể trong nền kinh tế quốc dân. Đó là vấn đề bảo đảm vai trò kiến tạo phát triển của
Nhà nước trong kinh tế thị trường định hướng XHCN; vấn đề giải quyết quan hệ giữa Nhà
nước và thị trường, giữa nhà nước và doanh nghiệp, vấn đề đội mới mơ hình tăng trưởng; vấn
đề thực hiện CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi
trường... Giải đáp thời đảng về lý luận và xử lý thuyết phục về thực tiễn những vấn đề và mối
quan phức tạp nói trên thị mốn thực sự bảo đảm vững chắc các điều kiện kinh tế và thực hiện
có hiệu quả hơn dân chủ XHCN trong lĩnh vực kinh tế ở nước ta khi công cuộc đổi mới và sự
nghiệp xây dựng nền dân chủ XHCN ngày càng đi vào chiều sâu hơn.
Thứ ba, mâu thuẫn giữa yêu cầu bảo đảm phát triển xã hội đoàn kết, đồng thuận, công
bằng an sinh, vẫn minh theo định hướng XHCN với những biểu hiện xung đột lợi ích, phân
tầng xã hội và nhiều vấn đề xã hội phức tạp nảy sinh.
Trong đổi mới, tuy đã có những tiến bộ nhất định, song so với yêu cầu, đòi hỏi của q
trình dân chủ hóa XHCN của đất nước thì đến nay vấn để xây dựng điều kiện xã hội và thực
hiện dân chủ XHCN trên lĩnh vực xã hội vẫn chưa có những bước tiến căn bản. Tỷ lệ đói nghèo
cịn cao, giảm nghèo chia bền vững; chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư cịn
11
lớn và có xu hướng gia tăng. Một bộ phận nhân dân, trong đó đó chủ yếu là cơng nhân, nông
dân và đồng bảo vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số chưa được thu hướng tương
xứng thành quả của công cuộc đổi mới. Nhiều mâu thuẫn, xung đột trong các quan hệ lợi ích
diễn ra gay gắt. trong đó khơng ít non đã bùng phát thành những điểm nóng chính xã hội phức
tạp. Nhận thức và giải quyết nhau vấn đề xã hội còn lúng túng chưa hiệu quả, nhất là những
vấn đề như điều kiện lao động, tiền lương, bảo hàm xã hội, an toàn thực phạm; bao đảm nhà
ở, an tồn giao thơng, đơ thị văn để chăm sóc sức khỏe, bảo vệ mơi trường, phịng chống tội
phạm và tệ nạn xã hội, xóa đói, giảm nghèo, hạn chế phần hóa giàu nghèo.. Trong nhận thức
và thực tiễn, chưa xác định rõ trách nhiệm giải quyết các vấn đề xã hội của cấp ủy, chính quyền
các cấp Chưa nhận thức sâu sắc về xã hội hóa, về cộng đồng trách nhiệm của tồn xã hội, về
kết hợp Nhà nước và nhân dân cũng làm đối với các vấn đề xã hội. Nhận thức chưa đầy đủ về
vai trò của nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội dân sự trong hoạch định,
giám sát thực thi chủ trương, chính sách thể chế pháp luật về kinh tế, xã hội.
Thứ tư. mâu thuẫn giữa yêu cầu bảo đảm văn hóa là nền tảng tinh thần vững chắc của
xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng để phát triển bền vững đất nước với tình trạng văn
hóa, con người Việt Nam còn nhiều hạn chế.
Cũng như lĩnh vực xã hội, 30 năm qua, thành tựu đạt được trong xây dựng điều kiện
văn hóa và thực hiện dân chủ XHCN trong lĩnh vực văn hóa cịn khiêm tốn, chưa tương xứng
so với thành tựu đạt được trong các lĩnh vực kinh tế và chính trị Thành tựu đạt được chưa tồn
diện, thiếu vững chắc; hạn chế, yếu kem còn nhiều. Trong đó, có hạn chế, yếu kem mới phát
sinh, có hạn chế, khuyết điểm đã kéo dài nhiều năm nhưng chậm được khắc phục, nay có một
trầm trọng hơn. Văn hóa chưa đủ tầm mức để trở thành nền tảng tỉnh thần vững chắc của xã
hội và chưa thực sự là động lực, là sức mạnh nội sinh quan trọng để đối mới và phát triển bền
vững đất nước. Cả về nhận thức và thực tiễn, chúng ta chưa thấy hết vị trí, vai trị to lớn của
vấn đề xây dựng con người và văn hóa Việt Nam XHCN đối với công cuộc đổi mới, xây dựng
CNXH và xây dựng, phát triển nền dân chủ XHCN. Tinh thần văn hóa soi đường cho quốc
dân đi, xây dựng con người XHCN để xây dựng thành công CNXH trong điều kiện đổi mới
chưa được chú trọng. Nhận thức chưa đầy đủ và thực hiện chin tốt quan điểm xây dựng, phát
triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo. Nhà mược quan lí. Nhà nước và
12
nhân dặn cùng làm văn ho mọi cấp, mọi ngành, mọi cơ quan, đơn vị mọi người đều có nghĩa
vụ, trách nhiệm tham gia hoạt động văn hóa, nhân dân là chủ thể sáng tạo văn hót, đồng thời
hưởng thụ ngày càng nhiều thành quá văn hóa, đội ngũ nhân tác, trí thức, văn nghệ sĩ giữ vai
trị quan trọng trên mặt trận văn hóa, tư tưởng. Văn để xây dựng cơ chế, chính sách, pháp luật
bảo đảm để hệ tư tưởng của giai cấp cơng nhân, lí tưởng XHCN, những giá trị tốt đẹp trong
truyền thống văn hoá dân tộc, những tỉnh hoa văn hóa thế giới giữ vai trị nền tảng và chiếm
vị trí chu đạo trong đời sống tinh thần xã hội chi được quan tâm thỏa đáng.
5. Một số giải pháp cơ bản thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay
5.1.
Nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ, trên cơ sở thượng tôn pháp luật, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng
Pháp luật giữ địa vị tối thượng trong quản lý nhà nước và xã hội. Trong nhà nước pháp
quyền, tính tối thượng của pháp luật được tơn trọng, mọi hành vi của tổ chức và cá nhân đều
phải tuân theo Hiến pháp, pháp luật. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trên cả 3 lĩnh vực:
xây dựng pháp luật, chấp hành pháp luật và bảo vệ pháp luật. Tập trung xây dựng, hoàn thiện
hệ thống pháp luật đồng bộ, hiện đại, khả thi, công khai, minh bạch, công bằng..., phù hợp với
điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng.
Mọi tổ chức, cá nhân bình đẳng trước pháp luật họ.
Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng đường lối, quan điểm, nghị quyết, nhưng đồng
thời phải hoạt động trong khn khổ pháp luật, bình đẳng trong quan hệ pháp luật, Đảng không
làm thay việc Nhà nước.
Để cao tinh thần pháp luật trong hoạt động của xã hội công dân, xã hội dân sự, mọi cơng
dân có quyền làm mọi việc mà pháp luật khơng cấm.
Nhận thức của Đảng ta về thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng toàn diện và
sâu sắc. Điều này thể hiện rõ hơn cả ở chỗ quyền công dân gắn với quyền con người được đề
cao, tôn trọng và bảo vệ bằng pháp luật, tích cực thực hiện các công ước quốc tế liên quan
quyền con người mà Việt Nam đã ký kết và tham gia; coi trọng dân chủ ở cơ sở, coi trọng phản
biện xã hội, đề cao thượng tôn Hiến pháp và pháp luật.
13
Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở cơ sở là bước tiến mở rộng dân chủ trực tiếp, nâng
cao chất lượng dân chủ đại diện, đưa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”
vào cuộc sống ở cơ sở. Xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở đã góp phần tích cực
thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh, trật tự ở cơ sở, góp phần nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đảng viên; không
ngừng nâng cao năng lực quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước và trách nhiệm đội ngũ
cán bộ, cơng chức; góp phần đổi mới phương thức hoạt động và nâng cao vai trị, uy tín của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân.
Phản biện xã hội mang lại kết quả tích cực, phát huy và mở rộng dân chủ, là phương thức
quan trọng để đạt đồng thuận xã hội. Tạo dựng thói quen thảo luận và đảm đảm quyền tự do
ngôn luận để khích lệ cá nhân, các tổ chức tham gia thảo luận về các vấn đề quan trọng của
quốc gia. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân bao hàm hoạt động giám sát và phản biện xã hội, nhất là phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Cần tiếp tục hoàn thiện hơn các quy định về quyền giám
sát của nhân dân, cơ chế pháp lý bảo đảm cho nhân dân trực tiếp giám sát hoạt động của đảng
viên, cán bộ, công chức, viên chức và các tổ chức, cơ quan Đảng, Nhà nước.
5.2.
Triệt để thực hành dân chủ trong Đảng theo 12 quy định tư cách của Đảng cầm
quyền của Hồ Chí Minh và nguyên tắc tập trung dân chủ một cách thực sự
Dân chủ trong quá trình hình thành định lời chính sách, nghị quyết cho thị của Đảng.
Dân chủ trong việc ban hành, công bố, công khai đường lối chính sách, nghị quyết, chỉ
thị của đảng.
Dân chủ, bình đẳng trong thực hiện nguyên tắc tổ chức và kỷ luật Đảng.
Dân chủ trong phát hiện nhân tố, phát hiện người hiền tài cũng như phát hiện, tố giác,
đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng trong đàng và ngoài xã hội.
Dân chủ trong phê bình, tự phê bình và có giải pháp bảo vệ người phê bình, đấu tranh
chống tiêu cực trong nội bộ Đảng.
Công khai tổ chức bộ máy, cán bộ, ngân sách hoạt động của Đảng và chế độ, chính
sách đãi ngộ cho cán bộ của Đảng để nhân dân giám sát
14
Xây dựng và ban hành các VBQPPL về sự lãnh đạo, tổ chức và hoạt động của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với nhà nước, xã hội và hệ thống chính trị
Trung ương Đảng phải ban hành quy chế về hoạt động của BCH TW, BBT, BTV của
cấp uỷ Đảng, các đảng đoàn, chức trách cá nhân của những người gi các chức vụ chủ chốt
trong Đảng quy định rõ nội dung lãnh đạo, phạm vi lãnh đạo quy
5.3.
Bổ sung, nâng tầm mối quan hệ giữa dân chủ với pháp chế, kỷ cương xã hội
Đây là một trong những điểm nhấn thể hiện bước phát triển mới trong tư duy, nhận
thức của Đảng về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam. Theo đó, Đại
hội XII xác định một trong 6 nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ là: “Hoàn thiện đồng bộ thể
chế pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ XHCN, quyền làm chủ của
nhân dân; đồng thời tăng cường pháp chế, đảm bảo kỷ cương xã hội, trước hết là việc thực thi
tinh thần “thượng tôn pháp luật”, gương mẫu tuân theo pháp luật, kỷ cương và thực hành dân
chủ XHCN của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị xã
hội các cấp, của cán bộ, đảng viên; tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc”.
6. Sự vận dụng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vào bản thân em
Những điểm mới về dân chủ, nhà nước, hệ thống chính trị, nhất là mối quan hệ giữa
thực hành dân chủ với tăng cường pháp chế và đảm bảo kỷ cương xã hội, các hoạt động tự
quản cộng đồng được nêu trong Văn kiện Đại hội XIII cần được vận dụng, liên hệ sinh động,
linh hoạt gắn với các chuyên ngành cụ thể của sinh viên. Qua đó khơng chỉ nhấn mạnh tính tất
yếu, bản chất, sự ưu việt, tiến bộ của dân chủ XHCN, vai trò của nhân dân, của dân chủ, của
nhà nước trong sự nghiệp phát triển đất nước mà còn xác định quyền lợi, trách nhiệm của thanh
niên, sinh viên với bản thân, nhà trường, gia đình và cộng đồng xã hội. Đó là cơ sở quan trọng
để góp phần trang bị cho sinh viên những tri thức khoa học về chính trị, dân chủ, nhà nước, về
đường lối, chính sách, pháp luật của nhà nước; hình thành lý tưởng, lập trường, niềm tin, thái
độ, ý thức trách nhiệm của sinh viên trong việc góp phần xây dựng CNXH và xây dựng, phát
triển nền dân chủ XHCN ở Việt Nam.
15
Trong trường học, em luôn cố gắng hiểu và nhận thức đúng đắn về dân chủ và tinh thần
dân chủ. Phát huy dân chủ trong việc học đồng thời phải chống dân chủ cực đoan, dân chủ
không tuân theo nội quy, quy định của trường học và môn học. Trong dạy học, mọi ý kiến khác
nhau cần được thảo luận dân chủ, thẳng thắn và giáo viên cần là người điều hành cũng như kết
luận lại những vấn đề thảo luận. Ngoài việc nâng cao nhận thức, em cảm thấy điều quyết định
bảo đảm thực hiện dân chủ trong dạy học một cách hiệu quả đó là phải có phương pháp đúng
đúng, có những quy định cụ thể và phải có cơng bằng trong hoạt động dạy học.
Em cũng cho rằng giảng viên cũng cần phải cho sinh viên chúng em thấy được dân chủ
và phát huy tinh thần dân chủ là quyền và nghĩa vụ của người học nhằm xây dựng một môi
trường học thuật, giáo dục và xã hội dân chủ thực sự.
Dân chủ trong dạy học phải bắt đầu từ cách làm của người dạy học: đó là thường xuyên
lắng nghe ý kiến của chúng em một cách công khai; tạo môi trường dân chủ thật sự để chúng
em sẵn sàng tham gia đóng góp ý kiến thông qua các hoạt động dạy học, đối thoại với sinh
viên; tạo quan hệ dân chủ, thoải mái giữa giảng viên với sinh viên thực sự là mối quan hệ dân
chủ; tạo điều kiện thuận lợi để sinh viên phát huy hết các khả năng, vận dụng kĩ năng vào quá
trình học; thường xuyên tổ chức các hoạt động, hình thức dạy học với nhiều nội dung phong
phú, có khơng khí học thuật, đảm bảo tính khoa học để chúng em được trao đổi, chia sẻ thẳng
thắn những quan điểm và phương pháp của mình nhằm tìm ra những giải pháp tối ưu nhất cho
quá trình dạy – học.
Bản thân em cảm thấy cần thiết công khai đề cương, bài giảng, giáo trình và hình thức
đánh giá trước khi tiến hành dạy học. Em luôn coi hoạt động dạy học là diễn đàn trao đổi, thảo
luận. Em luôn xác định rõ vai trị học tập của mình, tránh tư tưởng thụ động một chiều, dĩ hịa
vi q, có quyền tranh luận với giảng viên để đi đến chân lý.
Tiếp đến khơng thể khơng nói đến việc dân chủ trong kiểm tra đánh giá, qua việc học
và tìm hiểu về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa em nhận thấy bản thân mình có quyền khiếu nại,
phản ánh khi nhận thấy kết quả đánh giá khơng chính xác.
16
Với bản thân em, mục đích của việc tìm hiểu nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là trang bị
cho bản thân kiến thức học thuật chuyên sâu phục vụ vào công việc của bản thân sau khi tốt
nghiệp; những kỹ năng, phương pháp vận dụng các tri thức khoa học về CNXH nói chung và
vấn đề dân chủ nói riêng để nghiên cứu, xem xét, đánh giá, phân tích, luận giải những vấn đề
chính trị - xã hội của Việt Nam và thế giới. Do vậy, việc học không chỉ dừng lại ở việc cập
nhật, liên hệ những điểm mới về dân chủ trong Văn kiện Đại hội XIII, mà cần phân tích, luận
giải chiều sâu cơ sở lý luận, thực tiễn của những điểm mới đó. Từ đó giúp người học nhận rõ
tính q trình và quan hệ biện chứng giữa nhận thức lý luận và thực tiễn dân chủ XHCN; những
bổ sung mới của Đảng về dân chủ XHCN vừa là sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn đổi mới
đất nước vừa kế thừa, tiếp thu chọn lọc giá trị dân chủ tiến bộ của nhân loại, của thế giới đương
đại; dân chủ XHCN vừa có những tương đồng với dân chủ tư sản, đồng thời có những khác
biệt, những ưu việt so với dân chủ tư sản cả về phương diện logic lý luận và phương diện thực
tế, thực tiễn sinh động.
Em luôn quan tâm đến chính trị và muốn giúp cải thiện quy trình dân chủ. Em chưa bao
giờ thấy mình là một chính trị gia, nhưng em ln tâm niệm mình là một người bênh vực cho
nhân dân, vì vậy em thấy mình là một nhà hoạt động vì dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Em là một công dân tự giác về dân chủ. Em tin tưởng vào các nguyên tắc dân chủ và
các giá trị mà nó đề cao. Em ln ln bỏ phiếu, ngay cả khi tôi không đồng ý với những người
đang ra tranh cử. Em cảm thấy rằng việc bỏ phiếu là trách nhiệm của Em với tư cách là một
công dân của đất nước vĩ đại này. Dân chủ cho em cơ hội được lắng nghe tiếng nói của mình
và tạo ra sự khác biệt trong cuộc sống của những người khác.
Ngoài việc vận dụng, liên hệ những điểm mới về dân chủ trong dạy học chuyên đề về
dân chủ, nhà nước, hệ thống chính trị thì bản thân em cũng có thể và cần thiết thực hiện các đề
tài nghiên cứu khoa học các cấp về chủ đề này. Đồng thời có những định hướng, gợi ý để đối
tượng học chun ngành lý luận chính trị có thể lựa chọn những vấn mới làm tiểu luận, khóa
luận hoặc đề tài nghiên cứu khoa học.
17
Đặc biệt, từ năm 2020 đến nay, các cơ quan nhà nước và chính quyền các cấp đã bám
sát lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong phòng, chống dịch COVID-19 để triển khai
thực hiện và vận động Nhân dân cả nước phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng
chung tay, chung sức ngăn chặn, đẩy lùi dịch bệnh. Cơng tác dân vận chính quyền trong bối
cảnh dịch COVID-19 cho thấy, cùng với vacxin y tế thì chúng ta đã huy động được từ Nhân
dân nguồn “vaccine vật chất” (tiền, vật tư trang thiết bị, lương thực, thực phẩm...) và “vaccin
tinh thần” (những tấm gương tập thể và cá nhân người tốt, việc tốt, những nghĩa cử cao đẹp
của đồng bào ta ở trong nước và nước ngồi trong phịng, chống dịch Covid-19). Những bài
học kinh nghiệm đúc rút từ thành công trong công tác dân vận nói chung, cơng tác dân vận
chính quyền nói riêng và tinh thần đoàn kết, nghĩa cử cao đẹp của đồng bào ta trong bối cảnh
mn vàn khó khăn do dịch Covid-19 thêm một lần nữa nhắc nhở bản thân e về lời dạy của
Bác Hồ: “Dễ mười lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong” và cần ln ghi
lịng tạc dạ rằng: “Niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa
- tài sản tinh thần vô giá cần phải giữ gìn và phát huy”. Với quyết tâm, sức mạnh tổng hợp của
cả hệ thống chính trị và sự ủng hộ của nhân dân cả nước, em tin tưởng chắc chắn sẽ thành công
trong việc ngăn chặn và đẩy lùi dịch bệnh Covid-19 trong thời gian sớm nhất.
Việc học và hiểu về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa giúp em nâng cao trình độ nhận thức,
năng lực tư duy lý luận; trau dồi phẩm chất chính trị, đạo đức, nghiệp vụ, kỹ năng về lãnh đạo,
quản lý; từ đó, góp phần nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn. Điều này còn giúp em liên hệ
thực tế, đánh giá khách quan quá trình thực hiện dân chủ ở địa phương, đơn vị, bộ ngành và
trên phạm vi cả nước; phân tích, đánh giá, chia sẻ những đề xuất, kiến nghị phù hợp để phát
huy điểm mạnh, khắc phục những khó khăn, bất cập trong thực thi dân chủ; phê phán, đấu
tranh chống lại những quan điểm, hành vi sai trái, lệch lạc về dân chủ, dân chủ XHCN… Hơn
thế nữa, qua đó, giúp bản thân em nhận thức rõ, những nhận thức mới về dân chủ XHCN là sự
kiên định, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
chủ XHCN, sự tổng kết, đúc rút kinh nghiệm lịch sử cách mạng Việt Nam, nhất là từ kinh
nghiệm thực tiễn đổi mới đất nước và sự kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa,
tiến bộ về dân chủ trong lịch sử nhân loại, nhất là các giá trị văn minh chính trị, dân chủ của
thế giới đương đại.
18
KẾT LUẬN
Trên cơ sở phương pháp tiếp cận toàn diện, chính thể, luận án đã phân tích và trình bày
quan niệm về dân chủ, nền dân chủ, nền dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ, xây dựng
nền dân chủ XHCN. Trong đó, dân chủ được hiểu theo nghĩa rằng với 5 nội dung cơ bản và
xây dựng nền dân chủ được hiểu là việc xây dựng, thiết lập 4 điều: kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội của nền dân chủ nhằm thực thi những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực dẫn chu trong 4
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Theo đó, lần chu và xây dm mới dần chỉ là những
khái niệm công cụ cơ bản được sử dụng để phân tích cơ sở lý luận thực tên và đánh giá nhận
thức mn về dân chủ XHCN và xây dựng trên dân chủ XHCN ở Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới.
Trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ thực tiễn đổi muối và
thực tiễn thực hình dân chủ XHCN trên các lĩnh vực đời sống xã hội của đất nước trong 30
năm qua, Đảng ta đã bước đầu hình thành một hệ thống quan điểm lý luận mới về dân chủ
XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam. Những đối thay có tính bước ngoặt trong
thực tiễn xây dựng, phát huy dân chủ XHCN và những thành tựu to km có ý nghĩa lịch sử của
đất nước đã đạt được trong 30 năm đổi mới là trinh chúng sinh động không định tỉnh dùng dẫn
của hệ thống quan điểm lý luận mới.
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật
(4) Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia,
Đỗ Trung Hiếu, 2004
(5) Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Phạm Văn Bính, 2008
(6) Hồn thiện cơ chế pháp lí giám sát xã hội đối với việc thực thi quyền lực nhà nước ở Việt
Nam hiện na. Nxb Chính trị quốc gia, Nguyễn Mạnh Bình, 2012
(7) “Xây dựng Nhà nhạc pháp quyền và vấn đề dân chủ hóa xã hội ở nước ta hiện nay". Tạp
chí Trẻ, Lương Đình Hải, 2006
(8) Một số vấn đề về công tác lý luận tư tưởng, Nxb Chính trị quốc gia, Nguyễn Đức Bình,
2001
(9) Những tranh luận mới của các học giả Nga về chủ nghĩa xa hội, Nxb Chính trị quốc gia,
Tạ Ngọc Tấn, 2013
(10) Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân – Lý luận và thực tiễn,
Nxb Chính trị quốc gia, Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn, 2010
(11) Về quá trình dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Lê
Minh Quân, 2012
20