Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (861.77 KB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

VŨ THỊ THANH HƢƠNG

CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
C u n n n uật n sự và tố tụng hình sự
Mã số 60 38 01 04

N ƣời ƣớng dẫn khoa học: TS. VÕ THỊ KIM OANH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết
quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất cứ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đều bảo đảm tính chính xác, trung thực
và có căn cứ tin cậy.
Người cam đoan

Vũ Thị Thanh Hương


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Bộ cơng an
Bộ luật hình sự
Bộ luật tố tụng hình sự


Bộ quốc phịng
Bộ y tế
Cơ quan điều tra
Hội đồng Thẩm phán
Kiểm sát viên
Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân Tối cao
Viện kiểm sát
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Xã hội chủ nghĩa

BCA
BLHS
BLTTHS
BQP
BYT
CQĐT
HĐTP
KSV
TAND
TANDTC
VKS
VKSNDTC
XHCN


MỤC ỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ....................................................................6

1.1 . Khái niệm chung về chuẩn bị xét xử sơ t ẩm vụ án hình sự ..................................6
1.1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ....................................................................6
1.1.2. Khái niệm, ý nghĩa của chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt
Nam ....................................................................................................................................10
1.1.3. Chủ thể tiến hành hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .....................14
1.2. Sơ lƣợc qu định pháp luật tố tụng hình sự về chuẩn bị xét xử sơ t ẩm từ
năm 1954 đến trƣớc k i có B TTHS năm 2003 ...........................................................16
1.3. Chuẩn bị xét xử sơ t ẩm trong luật tố tụng hình sự một số nƣớc trên thế
giới .....................................................................................................................................18
1.3.1. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Cộng hịa Liên bang Nga ..............18
1.3.2. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Cộng hịa liên bang Hoa Kỳ ..........19
1.3.3. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Cộng hịa nhân dân Trung Hoa ....20
1.3.4. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Nhật Bản........................................21
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .................................................................................................23
CHƢƠNG 2. PHÁP UẬT THỰC ĐỊNH VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ...........................................................24
2.1. Pháp luật thực định về thụ lý vụ án hình sự, phân cơng giải quyết và thực
tiễn áp dụng ......................................................................................................................24
2.2. Pháp luật thực định về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ t ẩm vụ án hình sự và
thực tiễn áp dụng ..............................................................................................................26
2.2.1. Pháp luật thực định về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .................26
2.2.2. Thực tiễn áp dụng thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và một số
vướng mắc cần giải quyết ..................................................................................................29
2.3. Pháp luật thực định về nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng ...31
2.4. Nhữn trƣờng hợp cần phải trao đổi, thống nhất giữa VKS và Tòa án ..............34
2.5. Pháp luật thực định về các quyết định của Tòa án trong thời gian chuẩn bị
xét xử sơ t ẩm vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng ......................................................36
2.5.1. Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung và thực tiễn áp dụng ...............................36



2.5.2. Quyết định tạm đình chỉ vụ án và thực tiễn áp dụng ...............................................41
2.5.3. Quyết định đình chỉ vụ án và thực tiễn áp dụng ......................................................44
2.5.4. Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn và thực tiễn
áp dụng ...............................................................................................................................48
2.5.5. Pháp luật thực định về Quyết định đưa vụ án ra xét xử và thực tiễn áp dụng ........51
2.6. Những việc làm cần thiết để chuẩn bị mở phiên tòa và thực tiễn áp dụng..........52
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .................................................................................................56
CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ
THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ................................................................................................57
3.1. Cải các tƣ p áp v n u cầu nâng cao hiệu quả chuẩn bị xét xử sơ t ẩm vụ
án hình sự ..........................................................................................................................57
3.2. Các giải pháp nâng cao hoạt động chuẩn bị xét xử sơ t ẩm vụ án hình sự.........60
3.2.1. Các giải pháp về pháp luật ......................................................................................60
3.2.2. Các giải pháp khác...................................................................................................64
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .................................................................................................67
KẾT LUẬN .......................................................................................................................68


-1-

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Hoạt động tư pháp là một trong những phương thức thực hiện quyền lực nhà
nước thông qua hoạt động điều tra, hoạt động thực hành quyền công tố, hoạt động
xét xử và hoạt động thi hành án, có sự phân định rạch ròi giữa chức năng buộc tội,
chức năng gỡ tội và chức năng xét xử. Điều 127 Hiến pháp năm 1992 quy định:
“Tòa án nhân dân Tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và
các Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam”. Điều 102 Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định: “Tòa án
nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực
hiện quyền tư pháp”. Do vậy, Tòa án là cơ quan xét xử duy nhất của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam và xét xử các vụ án hình sự là một trong
những nhiệm vụ của Tịa án để thực hiện chức năng đó.
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình giải
quyết vụ án hình sự. Khi tiến hành xét xử, Tòa án mà cụ thể là Hội đồng xét xử
(HĐXX) sẽ tập trung xác định sự thật khách quan của vụ án, đánh giá một cách tổng
thể, khách quan các chứng cứ do các bên cung cấp, xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến
của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, Tòa án nhân danh
nước CHXHCN Việt Nam để định tội danh đối với bị cáo, áp dụng hình phạt tương
ứng với hành vi phạm tội, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó
gây ra, nhằm đạt được mục đích là xử lý người phạm tội, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa (XHCN), bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức và công
dân.
Để việc xét xử vụ án hình sự bảo đảm tính chính xác, khách quan, cơng bằng,
bình đẳng, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm
oan người vô tội, giữ nghiêm kỷ cương phép nước và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp của nhà nước, tổ chức và cơng dân, thì q trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
địi hỏi phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có khâu chuẩn bị xét xử. Kết
quả phiên toà phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động này. Khi thực hiện các hoạt động
chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử vụ án hình sự phải


-2-

chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đưa vụ án ra xét xử theo đúng thời hạn quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) nếu như khơng thuộc trường hợp phải
trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án.
Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến cải cách tư pháp, xem đây là một

trong những nhân tố thúc đẩy q trình xây dựng, hồn thiện nhà nước pháp quyền
XHCN, thể hiện qua các Nghị quyết của Đảng và các văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, X, XI của Đảng. Nội dung của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ chính trị nêu rõ: “Địi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan
tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân
trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo
vệ pháp luật và pháp chế XHCN, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi
phạm”. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X cũng đặt ra nhiệm vụ: “Xây dựng nền tư
pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con
người” và văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI tiếp tục đặt ra nhiệm vụ: “Đẩy mạnh
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, trong đó đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh,
bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người,…, bảo đảm cải cách hoạt động
tư pháp, …”. Như vậy, cải cách tư pháp nói chung, cải cách tư pháp trong lĩnh vực
tư pháp hình sự nói riêng có liên quan chặt chẽ đến chất lượng giải quyết, xét xử các
vụ án hình sự.
BLTTHS năm 2003 ra đời trên cơ sở kế thừa và có sửa đổi, bổ sung những
quy định của BLTTHS năm 1988. Qua hơn 10 năm thực hiện, BLTTHS năm 2003
đã bộc lộ một số hạn chế nhất định, khơng cịn phù hợp với tình hình mới. Vì vậy,
việc sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2003, trong đó có những quy định về hoạt động
chuẩn bị xét xử, là rất cần thiết và cấp bách trong công cuộc cải cách tư pháp do
Đảng ta đề xướng hiện nay, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam theo hướng hiện đại, hiệu quả, dân chủ, bảo đảm quyền con người, quyền
công dân, ….. Đây cũng là lý do mà tác giả chọn đề tài: “Chuẩn bị xét xử sơ thẩm
trong tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
BLTTHS năm 2003 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thơng qua ngày 26/11/2003 và có hiệu lực ngày 01/7/2004, theo sau nó là các



-3-

Nghị quyết, Thông tư, công văn hướng dẫn, chỉ thị,… của các cơ quan Cơng an,
Viện kiểm sát (VKS), Tịa án,… hướng dẫn áp dụng pháp luật vào thực tiễn. Từ đó
cho đến nay, có nhiều cơng trình nghiên cứu của các tác giả đề cập đến hoạt động
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như:
- Luận văn Thạc sỹ Luật học “Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong tố
tụng hình sự Việt Nam”, năm 2004 của Tống Thị Thanh Thanh. Cơng trình này chỉ
dừng lại ở những vấn đề mang tính lý luận về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
mà chưa đề cập đến việc áp dụng thủ tục này trong thực tiễn.
- Luận văn Thạc sỹ Luật học “Chuẩn bị xét xử vụ án hình sự - Thực trạng và
giải pháp”, năm 2012 của Bùi Thị Hồng. Cơng trình này có đề cập đến thực tiễn áp
dụng những quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm hình sự nhưng khơng đi sâu phân
tích những hạn chế, bất cập của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục này, mặt khác,
tác giả xem chuẩn bị xét xử vụ án hình sự là một giai đoạn độc lập.
- Nhiều giáo trình giảng dạy của Trường Đại học Luật Hà Nội, Trường Đại
học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, khoa Luật của Học viện cảnh sát, Học viện An
Ninh, Trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội đều có đề cập đến hoạt động chuẩn bị xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự. Các tài liệu chuyên khảo hoặc bình luận như: cuốn
“Những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”
của Trần Minh Hưởng - Trịnh Tiến Việt, năm 2011, Nhà xuất bản (Nxb) Lao động;
cuốn “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự”, năm 2005, Nxb Tư pháp; giáo
trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, năm 2012, Nxb Hồng Đức và gần đây là cuốn
“Xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam”, năm 2011 của tác giả Võ Thị Kim
Oanh, … đều có đề cập đến chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Ngồi ra, những
bài viết trên các Tạp chí Tịa án nhân dân (TAND), Tạp chí dân chủ và pháp luật của
các tác giả Đinh Văn Quế, Trịnh Tiến Việt, Lê Thị Kim Âu, … đều có đề cập đến
hoạt động chuẩn bị xét xử. Tuy nhiên, các cơng trình, các bài viết trên chỉ phân tích,
bình luận những quy định của BLTTHS về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
nhưng ít đề cập đến việc áp dụng những quy định này trong thực tiễn.

Chính vì vậy, tơi chọn đề tài “Chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Việt Nam” để viết luận văn, với mong muốn nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện
hơn về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong pháp luật tố tụng hình sự hiện
hành, từ đó đưa ra các đề xuất nhằm khắc phục những thiếu sót trong cơng tác xây


-4-

dựng và thi hành pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác giải quyết,
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
3. Mục đíc , đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu đề tài này, mục đích của tác giả là làm
sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,
đi sâu phân tích, từ đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tố
tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần nâng cao chất lượng xét xử
các vụ án hình sự.
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề về lý luận, những
quy định về hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm và thực trạng việc áp dụng những
quy định này tại Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các hoạt động về
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Tịa án nhân dân các cấp mà không nghiên
cứu hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm của Tòa án quân sự.
4. P ƣơn p áp n

i n cứu của luận văn

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa MacLênin, các quan điểm chính sách của Đảng, pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình
sự. Đồng thời, luận văn còn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh
nhằm làm sáng tỏ các vấn đề về lý luận và thực tiễn của đề tài.
5. Ý n


ĩa k oa ọc và giá trị ứng dụng của đề tài

- Ý nghĩa khoa học: Luận văn là cơng trình khoa học được nghiên cứu tương
đối tồn diện và có hệ thống về các hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
trong tố tụng hình sự Việt Nam nhằm góp phần hồn thiện về mặt lý luận đối với các
quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn đã đưa ra được những luận cứ khoa học và các
giải pháp để hoàn thiện những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về
hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nhằm nâng cao hiệu quả của các
hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn này có thể được sử dụng để làm tài liệu tham khảo trong q trình
tiếp tục hồn thiện BLTTHS ở nước ta.


-5-

6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và kết luận, nội
dung của luận văn được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình
sự Việt Nam.
Chương 2: Pháp luật thực định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và
thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự.


-6-


CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ
SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.

Khái niệm chung về chuẩn bị xét xử sơ t ẩm vu án hình sự

1.1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Tịa án là cơ quan duy nhất thực hiện chức năng xét xử các vụ án, trong đó có
xét xử về hình sự. Khơng một cơ quan nhà nước, một cá nhân nào có quyền áp dụng
trách nhiệm hình sự cho một người bị nghi ngờ đã thực hiện hành vi phạm tội khi họ
chưa bị đưa ra xét xử. Điều 9 BLTTHS quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải
chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật”.
Điều 11 Luật tổ chức TAND và điều 20 BLTTHS năm 2003 quy định Tòa án
nước ta thực hiện chế độ hai cấp xét xử, xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Xét xử
sơ thẩm được coi là việc xét xử vụ án ở cấp xét xử thứ nhất. Khi hồ sơ vụ án có đủ
chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội, VKS ra quyết định truy tố bị can
ra trước Tòa án có thẩm quyền bằng bản cáo trạng thì hồ sơ vụ án hình sự được
chuyển đến Tịa án.
Sau khi nhận được hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân cơng giải quyết, xét xử
vụ án hình sự có một khoảng thời gian để chuẩn bị xét xử, đó là nghiên cứu hồ sơ vụ
án, giải quyết yêu cầu của những người tham gia tố tụng, … và khi hết thời hạn đó
phải ra một trong các quyết định: trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ vụ án, tạm
đình vụ án, đưa vụ án ra xét xử. Nếu có đủ căn cứ chứng minh tội phạm, người phạm
tội và các căn cứ khác để xác định trách nhiệm hình sự của người phạm tội thì Tịa
án mở phiên tòa xét xử. Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có sự tham gia của
đại diện Viện kiểm sát (VKS) và sự có mặt của bị cáo, người bị hại, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, …Trên cơ sở những tài liệu, chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án và những chứng cứ khác do các bên cung cấp đã được thẩm tra tại
phiên tịa, HĐXX làm rõ bị cáo có tội hay khơng có tội, nếu có tội thì tội gì, các tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân người phạm tội và các tình

tiết khác liên quan đến vụ án, làm rõ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội,… để từ đó có đủ cơ sở áp dụng trách nhiệm hình sự và quyết định
hình phạt đối với bị cáo một cách khách quan, cơng bằng, chính xác và đúng pháp
luật.


-7-

Như vậy, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động nhà nước do Tòa án thực
hiện ở cấp xét xử thứ nhất nhằm xem xét, đánh giá toàn diện các chứng cứ, các tài
liệu của vụ án hình sự, trên cơ sở đó ra bản án, quyết định để xác định có hành vi
phạm tội hay khơng, người thực hiện hành vi phạm tội, hình phạt được áp dụng đối
với người đã thực hiện hành vi phạm tội và giải quyết các vấn đề khác có liên quan
trong vụ án hình sự 1.
* Vị trí của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong tố tụng hình sự
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn trung tâm, quyết định trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, xét xử sơ thẩm chỉ được tiến hành sau khi
cơ quan điều tra (CQĐT) đã điều tra vụ án và VKS đã quyết định truy tố bị can ra
trước Tịa án có thẩm quyền bằng bản cáo trạng. Không thể xét xử nếu không có sự
buộc tội, hay nói cách khác, ở đâu có buộc tội thì ở đó phát sinh hoạt động xét xử.
Trên cơ sở quyết định khởi tố vụ án hình sự, giai đoạn điều tra bắt đầu đi vào thu
thập chứng cứ chứng minh tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội; trên cơ sở
kết luận điều tra, VKS tiến hành đánh giá một cách toàn diện những tài liệu do
CQĐT chuyển đến và quyết định truy tố hay không truy tố bị can; trên cơ sở cáo
trạng cũng như hồ sơ do VKS chuyển đến, Tòa án thẩm tra tính hợp pháp và có căn
cứ của các chứng cứ để giải quyết, xét xử vụ án. Mọi hoạt động điều tra, truy tố đều
phục vụ cho quá trình giải quyết, xét xử vụ án tại TAND có thẩm quyền, phục vụ
cho việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Với vị trí là giai đoạn trung tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự, giai
đoạn xét xử có mối quan hệ chặt chẽ với các giai đoạn tố tụng khác, đó là giai đoạn

điều tra và giai đoạn truy tố. Các giai đoạn tố tụng được tiến hành gắn liền và kế tiếp
nhau, giai đoạn tố tụng này kết thúc, giai đoạn tố tụng sau bắt đầu, giai đoạn tố tụng
trước làm tiền đề cho giai đoạn tố tụng sau, giai đoạn tố tụng sau kiểm nghiệm lại
kết quả đạt được của giai đoạn tố tụng trước. Giai đoạn xét xử, Tòa án kiểm tra, đánh
giá đầy đủ và toàn diện các chứng cứ do CQĐT, VKS cũng như những người tham
gia tố tụng cung cấp, kết hợp với việc tranh tụng cơng khai và bình đẳng giữa những
người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng để tuyên bố bị cáo có tội
hay khơng có tội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức và
1

Võ Thị Kim Oanh (2011), Xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, NXB ĐHQG Thành phố Hồ Chí
Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 8.


-8-

công dân. Nếu CQĐT, VKS thực hiện tốt chức năng buộc tội thì hỗ trợ đắc lực cho
hoạt động xét xử, nếu ngược lại thì tác dụng khơng tốt. Ngay từ khi thu thập chứng
cứ, đánh giá chứng cứ nhằm xác định tội trạng và khung hình phạt truy tố, cũng như
thủ tục tố tụng được tiến hành chặt chẽ sẽ đặt nền móng cho Tịa án thực hiện có
hiệu quả hoạt động tố tụng. Tại phiên tòa, nếu KSV làm tốt vai trị cơng tố nhà nước
thì tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xét xử. Ngược lại, Tòa án thực hiện chức
năng xét xử đúng đắn tạo điều kiện thuận lợi cho VKS thực hành quyền công tố nhà
nước và kiểm sát hoạt động tư pháp.
* Vai trò, ý nghĩa của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Xã hội ngày càng phát triển thì vai trị của Tịa án trong việc duy trì trật tự,
cơng bằng xã hội, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm thông qua các hoạt động
giải quyết, xét xử vụ án ngày càng lớn. Khi thực hiện chức năng xét xử của mình,
Tịa án giải quyết sự xung đột của các mối quan hệ xã hội, góp phần bảo vệ chế độ
XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, của nhân dân, các quyền và tự do của con

người, góp phần bảo vệ hịa bình và an ninh của nhân loại, hỗ trợ cho việc đấu tranh
phòng và chống tội phạm.
Xét xử là chức năng quan trọng nhất của Tòa án nói riêng và của tồn bộ q
trình tố tụng hình sự nói chung nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để
kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của tồn bộ các quyết định mà CQĐT,
VKS đã thông qua trước khi chuyển vụ án hình sự sang Tịa án. Xét xử có vai trị đặc
biệt quan trọng mang tính quyết định trong việc giải quyết đúng đắn, khách quan,
chính xác vụ án hình sự. Xét xư sơ thẩm là nơi xem xét vụ án một cách toàn diện để
xác định hành vi của bị cáo có phạm tội hay khơng, tội gì, trách nhiệm hình sự được
áp dụng đối với bị cáo như thế nào. Nếu bị cáo có tội thì hình phạt được áp dụng đối
với bị cáo phải tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Một bản án
tun hình phạt q nặng sẽ khơng có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân
tốt vì bị cáo cảm thấy bất mãn về tâm lý. Một bản án tun hình phạt q nhẹ lại
khơng có tác dụng giáo dụng riêng đối với bị cáo, vừa khơng có tính răn đe và phịng
ngừa chung. Một bản án làm oan người vơ tội thì xâm phạm nghiêm trọng đến quyền
cơng dân. Cịn trường hợp bỏ lọt tội phạm thì tạo cho người dân tâm lý bất an, ngờ
vực. Tất cả những bất hợp lý trên sẽ ảnh hưởng khơng tốt đến uy tín của hệ thống cơ
quan nhà nước nói chung và của hệ thống cơ quan Tịa án nói riêng, người dân sẽ


-9-

không tin tưởng vào sự vô tư, khách quan trong khi xét xử của cơ quan Tịa án và
mục đích đấu tranh phịng, chống tội phạm sẽ khơng đạt được.
Xét xử sơ thẩm là giai đoạn đầu tiên và có ý nghĩa rất quan trọng trong cả quá
trình xét xử vụ án, bởi vì phạm vi xét xử sơ thẩm rộng, toàn bộ nội dung vụ án sẽ
được xem xét trong giai đoạn này. Xét xử sơ thẩm là bắt buộc đối với bất kỳ vụ án
nào. Những quyết định và bản án của Tòa án phần lớn kết thúc ở thủ tục sơ thẩm,
một số thì được phúc thẩm do có kháng cáo, kháng nghị và một số khác theo thủ tục
giám đốc thẩm và tái thẩm. Vì vậy không thể xem nhẹ xét xử sơ thẩm. Bản án, quyết

định của Tòa án ảnh hưởng rất lớn đến an ninh chính trị, trật tự an tịa xã hội, ảnh
hưởng trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự của cơng dân. Vì vậy,
phán quyết của Tịa án sơ thẩm phải thật sự công tâm, không thiên vị, khơng vì áp
đặt hay sức ép từ bất cứ phía nào. Bản án sơ thẩm thật sự công bằng, nghiêm minh sẽ
góp phần giảm tỷ lệ kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Bản án sơ thẩm
có hiệu lực pháp luật góp phần tiết kiệm thời gian, tiền bạc của nhà nước và của
nhân dân. Trường hợp có kháng cáo, kháng nghị mà bản án sơ thẩm không xem xét
toàn diện chứng cứ, bỏ lọt tội phạm, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng,… thì bản
án sơ thẩm đã tuyên sẽ bị hủy, sửa, ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của cơ quan Tịa án.
Mặt khác, nếu bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật vì khơng bị kháng cáo, kháng
nghị, nhưng bản án sơ thẩm có sai sót thì hậu quả sẽ rất nghiêm trọng, dễ dẫn đến
oan sai, vi phạm nghiêm trọng đến quyền lợi hợp pháp của công dân. Nếu bản án sơ
thẩm khi có kháng cáo, kháng nghị khơng bị hủy, sửa, được tun y án thì có tác
dụng rất lớn trong cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm.
Xét xử sơ thẩm góp phần rất lớn vào việc giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật
trong nhân dân. Qua phiên tịa xét xử, với hình phạt áp dụng tương xứng với hành vi
phạm tội của mình, bị cáo nhận thức được hậu quả của hành vi sai trái mà mình gây
ra để từ đó nghiêm túc sửa chữa và sau này khơng tái phạm. Bên cạnh đó, xét xử sơ
thẩm cịn có tác dụng răn đe đối với những người có ý định phạm tội và nâng cao sự
hiểu biết của người dân về sự nghiêm khắc của nhà nước đối với những hành vi vi
phạm pháp luật hình sự. Thông qua các bản án, quyết định nghiêm minh của Tịa án,
nó sẽ có tác dụng tun truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân, giáo dục mọi người
ý thức tơn trọng pháp luật, lấy đó làm bài học cho bản thân và không đi vào con
đường phạm tội.


-10-

Thơng qua việc xét xử sơ thẩm góp phần ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp
thời, nghiêm minh các loại tội phạm, góp phần bảo vệ trật tự kỷ cương, bảo đảm và

tộn trọng quyền dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và của công dân,
niềm tin của người dân vào sự vô tư, khách quan và công bằng của cơ quan thực thi
cơng lý được nâng cao và từ đó tạo điều kiện cho xã hội ngày càng phát triển.
1.1.2. Khái niệm, ý nghĩa của chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt
Nam
- Khái niệm chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự:
Theo từ điển tiếng Việt thì thuật ngữ “chuẩn bị” là “làm cho có sẵn cái cần
thiết để làm việc gì” 2.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Quan
điểm thứ nhất thì cho rằng: “Chuẩn bị xét xử là khoảng thời gian mà trong đó Thẩm
phán được giao nhiệm vụ thụ lý hồ sơ và được phân cơng sẽ làm chủ tọa phiên tịa
(nếu vụ án đó được đưa ra xét xử) nghiên cứu hồ sơ để xem xét có đủ căn cứ đưa vụ
án ra xét xử hay chưa”. Quan điểm thứ hai thì cho rằng: “Chuẩn bị xét xử chính là
việc tạo ra những điều kiện cần thiết để việc tiến hành xét xử được thuận lợi, trôi
chảy và đúng đắn … hoặc để đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật”.
Nếu hiểu chuẩn bị xét xử theo quan điểm thứ nhất thì thật sự chưa đầy đủ vì
trong thời gian chuẩn bị xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tịa khơng chỉ nghiên cứu
hồ sơ để xem xét có đủ căn cứ đưa vụ án ra xét xử hay chưa mà còn làm nhiều việc
khác như giải quyết khiếu nại và yêu cầu của những người tham gia tố tụng, xem xét
việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn (trừ việc áp dụng, thay đổi
hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam), …. Còn nếu hiểu chuẩn bị xét xử theo quan điểm
thứ hai thì chưa rõ ràng, chưa làm rõ vấn đề cần giải thích.
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một chế định được quy định trong
BLTTHS. Hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là khâu đầu tiên, là một
phần bắt buộc trong thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, bao gồm chuẩn bị về nội
dung (như nghiên cứu hồ sơ; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn; quyết định tạm đình chỉ vụ án; quyết định đình chỉ vụ án; quyết định trả
hồ sơ điều tra bổ sung; quyết định đưa vụ án ra xét xử, … ) và chuẩn bị về hình thức
2


Từ điển tiếng Việt (2006), Nxb Lao động, tr.234.


-11-

(thơng báo thời gian, địa điểm mở phiên tịa; tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử
và giấy triệu tập, …). Những hoạt động trên nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết
cho hoạt động xét xử sơ thẩm, bảo đảm việc giải quyết, xét xử vụ án hình sự được
đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Vì vậy có thể hiểu chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là việc mà Thẩm
phán được phân cơng chủ tọa phiên tịa và các thành viên khác của HĐXX tiến hành
các hoạt động tố tụng trước khi mở phiên tòa, chuẩn bị những điều kiện cần thiết
được pháp luật quy định để bảo đảm tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án,
quyết định sơ thẩm.
Có ý kiến cho rằng hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một
giai đoạn độc lập với giai đoạn xét xử, có ý kiến thì cho rằng hoạt động trên chỉ là
một phần gắn kết, không thể tách rời giai đoạn xét xử. Chúng tơi đồng ý với quan
điểm thứ hai bởi vì: giai đoạn là khoảng thời gian trong đó cơ quan tiến hành tố tụng
thực hiện một loạt các hoạt động tố tụng bao gồm các hành vi tố tụng khác nhau,
hướng tới mục đích cụ thể khơng trùng với mục đích của các giai đoạn khác. Trong
khi đó, chuẩn bị xét xử là khoảng thời gian trong đó Thẩm phán được phân công giải
quyết, xét xử vụ án tiến hành nghiên cứu hồ sơ và quyết định một loạt những công
việc về thủ tục cũng như về nội dung để chuẩn bị tiến tới mở phiên tòa xét xử như
việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đưa vụ án ra xét
xử; quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung; quyết định tạm đình chỉ hoặc đình
chỉ vụ án; việc tống đạt các lệnh, quyết định, giấy triệu tập…. Các hoạt động này
cùng tiến tới mục đích cuối cùng là bảo đảm cho việc xét xử tại phiên tòa được thuận
lợi, đúng thời hạn do pháp luật quy định, bảo đảm cho bản án, quyết định sơ thẩm
được khách quan, công bằng và chính xác. Vì vậy, khơng thể coi chuẩn bị xét xử là
một giai đoạn độc lập vì đây chỉ là một khâu, một phần vô cùng quan trọng của một

giai đoạn lớn là giai đoạn xét xử.
Hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm do Thẩm phán và các Hội thẩm tiến hành.
Đặc biệt, vai trò của Thẩm phán được phân cơng chủ tọa phiên tịa trong thời gian
này là vơ cùng quan trọng. Để phiên tịa được diễn ra theo đúng dự kiến, đúng trình
tự thủ tục do pháp luật quy định, bản án, quyết định được ban hành có cơ sở pháp lý
vững chắc thì địi hỏi phải có sự chuẩn bị. Việc chuẩn bị tốt sẽ tạo điều kiện cho
phiên tòa diễn ra đúng thời hạn, hồ sơ không phải kéo dài, tiết kiệm được thời gian,


-12-

tiền bạc của nhà nước, tổ chức và công dân, bản án được tun sẽ có tính thuyết
phục cao.
- Về thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự
Giai đoạn xét xử bắt đầu từ khi hồ sơ vụ án cùng bản cáo trạng của VKS được
chuyển đến Tòa án. Sau khi vào sổ thụ lý, Chánh án Tòa án ra quyết định phân công
Thẩm phán giải quyết, xét xử vụ án hình sự 3. Như vậy, thời điểm bắt đầu của giai
đoạn xét xử cũng là thời điểm bắt đầu của hoạt động chuẩn bị xét xử.
Điều 176 BLTTHS quy định thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quy định
thời điểm bắt đầu của giai đoạn xét xử là khi nào. Trong khi đó, thời hạn chuẩn bị
xét xử được tính kể từ ngày Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử vụ án
nhận được hồ sơ vụ án chứ khơng phải thời điểm Tịa án nhận hồ sơ vụ án 4. Mà thời
điểm Tòa án nhận hồ sơ vụ án không trùng khớp với thời điểm Thẩm phán nhận hồ
sơ vụ án vì sau khi nhận hồ sơ vụ án do VKS chuyển sang, Chánh án phải xem xét
rồi mới phân công vụ án cho Thẩm phán. Như vậy từ khi Tòa án nhận được hồ sơ vụ
án do VKS chuyển sang, vào sổ thụ lý vụ án cho đến khi Thẩm phán nhận được hồ
sơ vụ án, khoảng thời gian này không được luật điều chỉnh.
Tương tự như vậy, BLTTHS cũng không quy định thời điểm kết thúc của
khâu chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Hiện nay tồn tại hai cách hiểu khác nhau về thời điểm

kết thúc của chuẩn bị xét xử. Quan điểm thứ nhất thì cho rằng thời điểm kết thúc của
chuẩn bị xét xử là khi Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử vụ án ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử. Quan điểm thứ hai thì cho rằng thời điểm kết thúc của
chuẩn bị xét xử là thời điểm mở phiên tòa. Nếu hiểu theo cách thứ nhất thì sau khi có
quyết định đưa vụ án ra xét xử, các công việc như nghiên cứu hồ sơ vụ án, nhận và
giải quyết các khiếu nại của những người tham gia tố tụng, tống đạt giấy triệu tập và
quyết định đưa vụ án ra xét xử, … sẽ thuộc hoạt động tố tụng nào? Trong khi đó,
những cơng việc trên đều hướng tới việc làm cho phiên tòa xét xử được tiến hành
theo đúng trình tự và thủ tục do pháp luật quy định. Vì vậy, quan điểm thứ hai là hợp
lý vì quyết định đưa vụ án ra xét xử chưa phải là điểm kết thúc của chuẩn bị xét xử
3

Điểm b khoản 1 điều 38 Bộ luật tố tụng hình sự nước CHXHCN Việt Nam số 19/2003/QH11 ngày 26 tháng
11 năm 2003.
4
Khoản 1 điều 176 Bộ luật tố tụng hình sự nước CHXHCN Việt Nam số 19/2003/QH11 ngày 26 tháng 11
năm 2003 .


-13-

bởi vì sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán còn phải thực hiện một
số công việc như tiếp tục nghiên cứu hồ sơ để phục vụ cho cơng tác xét xử tại phiên
tịa, nhận và giải quyết các khiếu nại của những người tham gia tố tụng, triệu tập
những người cần xét hỏi đến phiên tòa, chuẩn bị thời gian, địa điểm mở phiên tịa…
Vì vậy, chúng tơi cho rằng chuẩn bị xét xử sơ thẩm được bắt đầu kể từ ngày
Tòa án thụ lý hồ sơ vụ án từ VKS chuyển sang và kết thúc là khi mở phiên tòa.
- Vai trò, ý nghĩa của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Hoạt động xét xử nói chung và hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự nói riêng đều có vai trị quan trọng trong việc bảo vệ nhà nước CHXHCN Việt

Nam, củng cố chính quyền, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ
chức, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Hoạt động chuẩn bị xét xử là điều kiện cần và đủ cho các hoạt động tố tụng
tiếp theo, đó là trường hợp ra quyết định tạm đình chỉ vụ án, đình chỉ vụ án, hoạt
động điều tra bổ sung trong trường hợp quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ
sung, hoạt động xét xử tại phiên tịa và thi hành án hình sự.
Hoạt động xét xử của Tịa án là vơ cùng quan trọng, bởi vì kết quả của hoạt
động xét xử là bản án được tuyên bởi HĐXX nhân danh nước CHXHCN Việt Nam,
đó là sự phán quyết chính thức đối với một người rằng họ có tội hay khơng có tội,
nếu có tội thì hình phạt được áp dụng đối với họ như thế nào, quyền và nghĩa vụ
pháp lý của các cá nhân và tổ chức ra sao, ….. Qua đó thể hiện chất lượng, uy tín
hoạt động của cả hệ thống các cơ quan tư pháp nói chung và của HĐXX nói riêng.
Vì vậy, để đưa vụ án ra xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, công tác chuẩn
bị là rất quan trọng cho việc xét xử tại phiên tịa. Nếu chuẩn bị tốt thì việc xét xử đạt
kết quả tốt. Thông qua hoạt động chuẩn bị xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm có được cái
nhìn tổng thể về vụ án và từ đó, khi xét xử vụ án sẽ có cách xử lý vụ án được cơng
bằng, khách quan và chính xác, khơng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, khơng làm
oan người vơ tội. Ngồi ra, việc chuẩn bị tốt còn tránh được việc đưa ra xét xử
những vụ án mà việc điều tra, truy tố chưa đầy đủ.
Hoạt động chuẩn bị xét xử mang tính sáng tạo, khoa học cao, thể hiện ở chỗ
để có thể chuẩn bị xét xử sơ thẩm tốt, địi hỏi Thẩm phán được phân cơng chủ tọa
phiên tịa phải có trình độ kiến thức pháp luật cũng như năng lực chun mơn cao, có
vốn sống, hiểu rõ ngun nhân, điều kiện phát sinh, phát triển của tội phạm và các


-14-

mâu thuẫn nảy sinh trong xã hội. Có thể nói những bản án, quyết định sơ thẩm bị
hủy, sửa là do trình độ kiến thức pháp luật và năng lực chuyên môn thấp kém của
một số người tiến hành tố tụng. Những sai sót trong nhiều vụ án là do người tiến

hành tố tụng đã không căn cứ vào những yếu tố cấu thành tội phạm để định tội danh,
không nắm vững hết tất cả các quy định của pháp luật liên quan đến yếu tố cấu thành
tội phạm. Ngoài ra, một nguyên nhân nữa đó là do người tiến hành tố tụng vi phạm,
coi thường việc tuân thủ các thủ tục tố tụng. Bản án, quyết định của Tòa án có ảnh
hưởng rất lớn đến tâm tư, tình cảm, đến sinh mạng chính trị, của cải vật chất và cả
mạng sống của con người cho nên đòi hỏi Thẩm phán phải có được bản lĩnh chính
trị, bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng và trong công tác chuẩn bị xét xử phải thật khoa
học.
Do vậy, chuẩn bị xét xử sơ thẩm giữ vai trị vơ cùng quan trọng, là điều kiện
cần thiết bảo đảm cho việc xét xử, có mối quan hệ gắn bó và khơng thể tách rời với
phiên tòa sơ thẩm. Muốn xét xử vụ án đạt hiệu quả thì khơng thể khơng có hoạt động
chuẩn bị xét xử.
1.1.3. Chủ thể tiến hành hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Tịa án thực hiện chức năng xét xử thông qua các Thẩm phán và Hội thẩm.
Khi được Chánh án phân công, Thẩm phán và Hội thẩm trở thành người tiến hành tố
tụng và có toàn quyền quyết định những vấn đề liên quan đến vụ án được giao. Theo
quy định của pháp luật, HĐXX sơ thẩm gồm có một Thẩm phán và hai Hội thẩm.
Trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì HĐXX có thể gồm hai
Thẩm phán và ba Hội thẩm. Đối với vụ án mà bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo
khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì HĐXX gồm hai Thẩm phán và ba
Hội thẩm 5. Như vậy, hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm cũng do những chủ thể trên
tiến hành, gồm có Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
- Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tịa
Chánh án có nhiệm vụ tổ chức cơng tác xét xử của Tịa án và quyết định phân
cơng Phó Chánh án, Thẩm phán giải quyết, xét xử vụ án hình sự 6. Khi nhận hồ sơ
vụ án từ VKS chuyển sang, Tòa án sẽ thụ lý vụ án và Chánh án hoặc Phó Chánh án
5

Điều 185 Bộ luật tố tụng hình sự nước CHXHCN Việt Nam số 19/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm
2003.

6
Khoản 1 điều 38 Bộ luật tố tụng hình sự nước CHXHCN Việt Nam số 19/2003/QH11 ngày 26 tháng 11
năm 2003.


-15-

được ủy quyền sẽ xem xét phân công Thẩm phán, Hội thẩm giải quyết, xét xử vụ án.
Thẩm phán được phân cơng giải quyết, xét xử vụ án hình sự là người trực tiếp xét xử
vụ án hình sự với tư cách là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Theo quy định tại khoản 1
điều 39 BLTTHS thì Thẩm phán được phân cơng giải quyết, xét xử vụ án hình sự có
những nhiệm vụ và quyền hạn sau: Nghiên cứu hồ sơ trước khi mở phiên tòa, tham
gia xét xử các vụ án hình sự, giải quyết các khiếu nại, yêu cầu của những người tham
gia tố tụng và tiến hành những công việc khác cần thiết cho việc mở phiên tịa 7. Như
vậy, người chịu trách nhiệm chính trong tất cả các hoạt động chuẩn bị xét xử là
Thẩm phán được phân cơng chủ tọa phiên tịa. Quy định này dễ dẫn đến sự hiểu lầm
là chỉ có Thẩm phán được phân cơng chủ tọa phiên tịa mới có quyền nghiên cứu hồ
sơ, cịn Hội thẩm khơng có trách nhiệm phải nghiên cứu hồ sơ.
- Các Hội thẩm nhân dân
Hội thẩm nhân dân tham gia giải quyết, xét xử vụ án hình sự theo sự phân
cơng của Chánh án Tòa án cùng cấp 8. Hội thẩm là những người đại diện cho các
tầng lớp nhân dân tham gia xét xử để bảo vệ quyền lợi cho nhân dân và thay mặt
nhân dân giám sát việc xét xử của Tòa án. Hội thẩm là những người có kiến thức
pháp luật trong lĩnh vực chun mơn mình cơng tác, là những người có uy tín, có
đạo đức và nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Khi tham gia xét xử,
Hội thẩm sẽ bổ sung thêm kiến thức xã hội, những hiểu biết chun mơn của mình
để cùng kết hợp với kiến thức pháp luật của Thẩm phán ra bản án, quyết định vừa
phù hợp pháp luật, vừa phù hợp lịng dân.
Hội thẩm được phân cơng giải quyết, xét xử vụ án có nhiệm vụ, quyền hạn
sau: nghiên cứu hồ sơ trước khi mở phiên tòa, tham gia xét xử các vụ án hình sự theo

thủ tục sơ thẩm, …9. Để tham gia xét xử, Hội thẩm cũng phải nghiên cứu hồ sơ,
chuẩn bị cho việc xét xử tại phiên tòa. Việc nghiên cứu hồ sơ giúp cho Hội thẩm có
cái nhìn tổng quan về tồn bộ nội dung vụ án, từ đó khi tham gia xét xử sẽ có cái
nhìn khách quan, khơng phiến diện, bản án, quyết định bảo đảm được sự vô tư, công
bằng, đạt hiệu quả xét xử cao.
7

Khoản 1 điều 176 Bộ luật tố tụng hình sự nước CHXHCN Việt Nam số 19/2003/QH11 ngày 26 tháng 11
năm 2003.
8
Điều 39 Bộ luật tố tụng hình sự nước CHXHCN Việt Nam số 19/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm
2003..
9
Điều 40 Bộ luật tố tụng hình sự nước CHXHCN Việt Nam số 19/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm
2003.


-16-

1.2.

Sơ lƣợc qu định pháp luật tố tụng hình sự về chuẩn bị xét xử sơ t ẩm từ

năm 1954 đến trƣớc k i có B TTHS năm 2003
* Thời kỳ từ năm 1954 đến trước khi có BLTTHS năm 1988
Trước đây, theo Nghị định số 301/TTg ngày 10/7/1957 thì thời hạn chuẩn xét
xử được quy định như sau: “Khi hồ sơ vụ án đã chuyển sang TAND tỉnh hoặc thành
phố, TAND phúc thẩm hoặc Tòa án binh để xét xử, thì từ ngày nhận được hồ sơ, các
Tịa án trên phải xét xử trong thời hạn 02 tháng đối với những vụ án mà luật pháp
phạt từ 05 năm tù trở xuống, và trong thời hạn 04 tháng đối với những vụ án mà luật

pháp phạt trên 05 năm tù”10. Như vậy, thời hạn chuẩn bị xét xử được quy định
chung, khơng phân biệt thành tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm
trọng hay tội đặc biệt nghiêm trọng.
Với sự ra đời của Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức TAND năm 1960 và
Luật tổ chức VKSND năm 1960 đã đánh dấu bước phát triển mới trong lịch sử lập
pháp của nước ta. Lần đầu tiên, nhiệm vụ, chức năng của các cơ quan tiến hành tố
tụng được xác định trong văn bản pháp luật. Chức năng xét xử tách khỏi chức năng
buộc tội, cơ quan công tố tách khỏi Chính phủ. Mặc dù trong giai đoạn này vẫn chưa
có BLTTHS thống nhất nhưng những quy định của pháp luật tố tụng hình sự trong
thời kỳ này đã góp phần to lớn vào việc giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của cơng dân.
Năm 1964, căn cứ vào quy định của pháp luật và kinh nghiệm trong cơng tác
xét xử, TANDTC đã gửi cho Tịa án nhân dân các địa phương bản đề án về trình tự
xét xử sơ thẩm về hình sự. Bản đề án này quy định những nguyên tắc chung về trình
tự tố tụng sơ thẩm.
Ngày 27/9/1974, TANDTC có bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về
hình sự kèm theo Thơng tư số 16/TANDTC ngày 27/9/1974. Bản hướng dẫn này đã
làm cơ sở cho việc xây dựng BLTTHS sau này. Nội dung của Bản hướng dẫn về
trình tự tố tụng sơ thẩm có đề cập đến việc họp trù bị giữa Tịa án với VKS. Theo đó,
những trường hợp sau đây trước khi xét xử Tòa án phải họp trù bị với VKS:

10

Điều 9 Nghị định số 301/TTg ngày 10/7/1957 quy định chi tiết thi hành Luật số 103/SL-L005 ngày
20/5/1957 bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của
nhân dân.


-17-


- Hồ sơ thiếu những chứng cứ chủ yếu hoặc trong q trình điều tra có sự vi
phạm pháp luật nghiêm trọng về thủ tục tố tụng (truy cung, mớm cung,…) làm cho
việc điều tra khơng chính xác;
- TAND có ý kiến khác với bản cáo trạng về các vấn đề như cấu thành tội
phạm, năng lực TNHS của bị cáo, số người bị đưa ra xét xử, toi danh, điều luật áp
dụng, .…
- Có những điều kiện phải xét việc đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án;
- Có lý do để tạm tha bị cáo đang bị tạm giam hoặc cần bắt giam bị cáo đang
tại ngoại;
- Cần thi hành những biện pháp bảo đảm bồi thường, tịch thu tài sản hoặc
giảm bớt tài sản đã bị kê biên;
- Cần di lý vụ án;
- Vụ án thuộc loại cần bảo đảm thật tốt việc truy tố và xét xử để phục vụ cho
việc thực hiện những nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Bản cáo trạng và quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được tống đạt chậm nhất
là 05 ngày trước khi mở phiên tòa. Nếu vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì
thời gian đó phải dài hơn 11.
Đến năm 1988, khi nhà nước ta có BLTTHS đầu tiên, thủ tục này đã khơng
cịn được áp dụng nữa.
Sau ngày miền Nam hồn tồn giải phóng, việc hồn thiện hệ thống pháp luật
tố tụng hình sự phục vụ cho cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được coi là
nhiệm vụ cấp bách. Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chuẩn bị xét xử sơ
thẩm trong thời kỳ 1954 - 1975 tiếp tục được áp dụng và từng bước hoàn thiện, bổ
sung, đáp ứng nhu cầu của xã hội mới.
* Thời kỳ từ năm 1988 đến trước khi ban hành BLTTHS năm 2003
Sau hơn 10 năm soạn thảo, BLTTHS đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được thơng qua và có hiệu lực pháp luật từ ngày 01/01/1989. Sự ra
đời của BLTTHS năm 1988 đánh dấu bước phát triển của ngành luật tố tụng hình sự
11


Tòa án nhân dân tối cao (1976), Tập hệ thống hóa luật lệ về tố tụng hình sự tập 2, Tòa án nhân dân tối cao,
Thành phố Hà Nội, tr.126.


-18-

nước ta. Là vũ khí đấu tranh phịng chống tội phạm, pháp luật tố tụng hình sự ln là
một bảo đảm cho thắng lợi trên mặt trận đấu tranh chống tội phạm, góp phần xứng
đáng vào nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của cơng dân. Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp tố tụng hình sự,
một Bộ luật đã quy định đầy đủ trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án hình sự. BLTTHS năm 1988 là sự kế thừa những quy định của pháp luật
tố tụng hình sự trước đó, nó đánh dấu một bước phát triển mới của q trình pháp
điển hóa pháp luật tố tụng hình sự. Thủ tục chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
được quy định tại Chương XVI Phần thứ ba của BLTTHS năm 1988. Vấn đề về thời
hạn chuẩn bị xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; về
việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung; về đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án và những
cơng việc cần thiết khác như giao các quyết định của Tòa án, triệu tập những người
cần xét hỏi đến phiên tòa,… lần đầu tiên những thủ tục trên được quy định chi tiết từ
điều 151 đến điều 158 BLTTHS năm 1988.
Nhìn chung, BLTTHS năm 1988 đã thể hiện tương đối đầy đủ, rõ ràng về
trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự nói chung và thủ tục chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự nói riêng. Trong q trình thi hành, BLTTHS năm 1988 cũng
được Quốc hội sửa đổi, bổ sung ba lần vào năm 1990, năm 1996 và năm 2000.
1.3. Chuẩn bị xét xử sơ t ẩm trong luật tố tụng hình sự một số nƣớc trên thế
giới
1.3.1. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Cộng hòa Liên bang Nga
BLTTHS Liên bang Nga quy định thời hạn chuẩn bị xét xử như sau: khi hồ sơ
vụ án được chuyển đến Tòa án, trong thời hạn không quá 30 ngày, Thẩm phán ra
một trong những quyết định: chuyển vụ án theo thẩm quyền xét xử; tiến hành thẩm

tra sơ bộ; đưa vụ án ra xét xử. Nếu trong vụ án có bị can bị tạm giam thì Thẩm phán
ra quyết định trong thời hạn khơng quá 14 ngày kể từ ngày vụ án được chuyển đến
Tòa án 12. Như vậy, khi quy định thời hạn chuẩn bị xét xử, BLTTHS Liên bang Nga
không phân biệt tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất
nghiêm trọng hay tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà quy định thời hạn chung
chung, không phân định rõ đối với từng nhóm tội.

12

Điều 227 BLTTHS Cộng hịa Liên bang Nga.


-19-

Khi có những căn cứ quy định tại điều 229 BLTTHS Liên bang Nga (khi có
yêu cầu của các bên về việc loại trừ chứng cứ, khi có căn cứ trả lại vụ án cho VKS,
…) thì một Thẩm phán tiến hành thẩm tra sơ bộ tại phiên tịa kín với sự tham gia của
các bên 13. Căn cứ vào kết quả thẩm tra sơ bộ, Thẩm phán ra một trong những quyết
định sau: Chuyển vụ án theo thẩm quyền; trả hồ sơ vụ án cho VKS; tạm đình chỉ giải
quyết vụ án; đình chỉ vụ án; đưa vụ án ra xét xử14. Như vậy, BLTTHS Liên bang
Nga quy định Thẩm phán chỉ được trả hồ sơ cho VKS, tạm đình chỉ giải quyết vụ án,
đình chỉ vụ án khi đã qua phiên tòa sơ bộ. Khi nghiên cứu hồ sơ, cho dù có đủ cơ sở
để trả hồ sơ cho VKS, tạm đình chỉ giải quyết vụ án, đình chỉ vụ án nhưng Thẩm
phán không thể quyết định ngay những việc trên mà bắt buộc phải mở phiên tòa kín
để kiểm tra sơ bộ, sau đó mới được ban hành một trong những quyết định như vừa
nêu ở trên.
Ngoài ra, BLTTHS Liên bang Nga còn quy định về việc triệu tập đến phiên
tịa , ….
15


Nhìn chung, pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga quy định khá cụ thể, chi
tiết về hoạt động chuẩn bị xét xử như thời hạn chuẩn bị xét xử, về quyền hạn của
Thẩm phán khi hồ sơ vụ án được chuyển đến Tòa án.
1.3.2. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Cộng hịa liên bang Hoa Kỳ
Theo pháp luật tố tụng hình sự Cộng hịa Liên bang Hoa Kỳ, Thẩm phán giữ
vai trò trọng tài trong việc giải quyết vụ án. Để bảo đảm sự vô tư, khách quan tại
phiên tịa, Thẩm phán khơng có hồ sơ vụ án và việc chuẩn bị xét xử rất đơn giản,
công việc chính là của Cơng tố viên và Luật sư bào chữa. Công tố viên cũng như
Luật sư bào chữa sẽ tìm cách chứng minh và thuyết phục Bồi thẩm đồn đồng ý với
yêu cầu của họ tại phiên tòa. Vấn đề chuẩn bị xét xử không phải là vấn đề quan
trọng, ảnh hưởng đến tính chất giải quyết vụ án. Thơng thường, trước ngày diễn ra
phiên tịa sẽ có sự thương lượng giữa Công tố viên và Luật sư bên bị can về những
lời buộc tội chính thức sẽ được đưa ra và nội dung bản án mà Bang sẽ khuyến nghị
với Tòa án. Để đổi lấy lời khai tự nhận tội, trên thực tế sẽ có cam kết về một hình
thức khoan dung. Điều này có nghĩa là số phận của họ đã được định đoạt trước khi
13

Điều 234 BLTTHS Cộng hòa Liên bang Nga.
Khoản 1 điều 236 BLTTHS Cộng hòa Liên bang Nga.
15
Điều 232 BLTTHS Cộng hòa Liên bang Nga.
14


-20-

xét xử nên vai trò của Thẩm phán chỉ đơn giản là để bảo đảm những thủ tục về mặt
pháp lý. Giả sử việc thương lượng lời khai không thành cơng và bị cáo cho rằng
mình vơ tội thì một phiên tịa chính thức sẽ diễn ra.
Như vậy, pháp luật tố tụng hình sự của Hoa Kỳ theo hệ tố tụng tranh tụng nên

hoạt động chuẩn bị xét xử rất đơn giản, phiên tòa diễn ra và phán quyết cuối cùng
của Tòa án dựa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
1.3.3. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Cộng hịa nhân dân Trung Hoa
Để hạn chế tình trạng xem xét chứng cứ trước khi xét xử và quyết định hậu
quả trước khi mở phiên tòa, khơng để việc xét xử mang tính hình thức, bảo đảm việc
tranh luận có ý nghĩa, BLTTHS của nước Cộng hịa nhân dân Trung Hoa khơng quy
định thủ tục chuẩn bị xét xử thành một chương riêng mà chỉ quy định thành một
chương chung là chương thủ tục xét xử sơ thẩm. Thủ tục chuẩn bị xét xử được quy
định tại điều 150, điều 151 BLTTHS. Theo đó, KSV khơng được phép chuyển toàn
bộ hồ sơ vụ án cùng các chứng cứ đến phiên tòa trước khi xét xử mà KSV phải nộp
danh sách chứng cứ, danh sách các nhân chứng và bản sao hoặc ảnh của các chứng
cứ quan trọng đến Tòa án 16.
Sau khi thẩm tra các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nếu thấy cáo
trạng đã nêu đầy đủ các tình tiết, chứng cứ phạm tội thì Tịa án có thẩm quyền phải
quyết định mở phiên tịa. Sau khi có quyết định mở phiên tòa, Tòa án cần làm những
việc sau: 10 trước khi mở phiên tòa, Tòa án chuyển bản cáo trạng của VKS cho bị
cáo, thông báo cho bị cáo quyền có Luật sư bào chữa hoặc chỉ định Luật sư bào chữa
cho họ trong những trường hợp pháp luật quy định; 03 ngày trước khi mở phiên tòa,
Tòa án phải thông báo cho VKS về thời gian, địa điểm mở phiên tòa; chậm nhất là
03 ngày trước khi mở phiên tịa, Tịa án phải gửi giấy triệu tập và thơng báo về nội
dung vụ án, thời gian, địa điểm mở phiên tòa cho bị cáo, Luật sư bào chữa, bị hại và
những người tham gia tố tụng khác; 03 ngày trước khi mở phiên tịa, Tịa án phải
cơng bố nội dung vụ án trước công chúng, họ tên bị cáo, thời gian và địa điểm mở
phiên tòa; quyết định thành viên của HĐXX 17. Vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung
chỉ được thực hiện tại phiên tòa nếu thấy cần bổ sung về chứng cứ hoặc giám định
lại nội dung nào đó.
16
17

Điều 150 BLTTHS Cộng hịa nhân dân Trung Hoa.

Điều 151 BLTTHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.


×