Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 87 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ TRUNG SƠN

NGƢỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ
SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - Năm 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ TRUNG SƠN

NGƢỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ
SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
MÃ SỐ: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn

Hà Nội - Năm 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn bảo
đảm tính chính xác và trung thực.
Tác giả luận văn

Lê Trung Sơn


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng

GCNNBC

Giấy chứng nhận người bào chữa

HĐBC

Hoạt động bào chữa


HĐXX

Hội đồng xét xử

KSV

Kiểm sát viên

NBC

Người bào chữa

NTHTT

Người tiến hành tố tụng

PLTCLS

Pháp lệnh tổ chức Luật sư

QBC

Quyền bào chữa

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TNHS


Trách nhiệm hình sự

TTHS

Tố tụng hình sự

TTHSVN

Tố tụng hình sự Việt Nam

VAHS

Vụ án hình sự

VKS

Viện kiểm sát


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƢỜI BÀO CHỮA

9


TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1.

Khái niệm và đặc điểm của người bào chữa trong giai đoạn xét

9

xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm

9

vụ án hình sự
1.1.2. Đặc điểm của người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ

15

thẩm vụ án hình sự
1.2.

Vai trò của người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án

19

hình sự ở Việt Nam
1.3.

Hoạt động của người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm

23


vụ án hình sự
1.3.1. Hoạt động của người bào chữa trước khi mở phiên tòa

23

1.3.2. Hoạt động của người bào chữa tại phiên tòa

25

Kết luận chƣơng 1

27

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG NGƢỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
2.1.
chữa

28

Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về người bào
28


2.1.1. Quy định người bào chữa trước khi có Bộ luật Tố tụng hình

28

sự năm 2003

2.1.2. Quy định về người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm

32

vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự
hiện hành
2.2.

Thực trạng hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm

35

2.2.1. Thực trạng hoạt động của người bào chữa trước khi mở

38

phiên tòa sơ thẩm
2.2.2. Thực trạng hoạt động của người bào chữa tại phiên tòa sơ

39

thẩm
2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế

46

Kết luận chƣơng 2

51


Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA

52

NGƢỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ
3.1.

Yêu cầu của việc hoàn thiện các qui định của Bộ luật tố tụng

52

hình sự năm 2003 về chế định người bào chữa trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm
3.2.

Hoàn thiện qui định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về

55

người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
3.2.1 Hoàn thiện quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào

55

chữa
3.2.2 Hoàn thiện quy định liên quan đến hoạt động của người bào

58


chữa
3.2.3 Sửa đổi bổ sung quy định nguyên tắc cơ bản của tố tụng

59


hình sự có liên quan đến người bào chữa
3.3.

Một số giải pháp khác nâng cao vai trò của người bào chữa

60

trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
Kết luận chƣơng 3

71

KẾT LUẬN

72

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

74


MỞ ĐẦU
1.


Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh công

cuộc cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, trong đó,
đặc biệt chú trọng cải cách về lĩnh vực tư pháp hình sự. Nghị quyết số 08/NQTW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị nhấn mạnh: các cơ quan tư pháp có
trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng, …tranh
luận dân chủ tại phiên toà,...; nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên
tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, NBC và những người
tham gia tố tụng khác [4]; Ngày 02 tháng 6 năm 2005, Bộ Chính trị ban hành
Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Trong đó, đặt ra một trong những định hướng quan trọng đó là phát triển đội
ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ
chuyên môn nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với chất
lượng dịch vụ pháp lý của luật sư, phục vụ đắc lực cho công cuộc cải cách tư
pháp và hội nhập quốc tế. Trên cơ sở Nghị quyết của Đảng, Nhà nước đã từng
bước xây dựng và hoàn thiện các thể chế pháp luật như: ban hành Luật Luật
sư; xây dựng dự thảo sửa đổi bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 trong
đó có một chương riêng quy định về vấn đề bào chữa; Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Quyết định 1072/QĐ-TTg ngày 05/7/2011 phê duyệt chiến lược
phát triển nghề luật sư đến năm 2020… đó là những bước đi thực tiễn nhằm
bảo đảm thực hiện đúng định hướng lãnh đạo của Đảng là nâng cao chất
lượng thực hiện hoạt động tố tụng để bảo đảm tính dân chủ, bảo vệ tốt nhất
các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp [51]. Quyền
được bào chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận
trong Hiến pháp và được cụ thể hóa, bảo đảm thi hành trong thực tế.
1


Trong hoạt động tố tụng hình sự, hoạt động xét xử được coi là khâu
trọng tâm vì ở đây biểu hiện sự tập trung và thể hiện đầy đủ quyền lực tư

pháp, là nơi mà trên cơ sở kết quả điều tra, truy tố và tranh luận, toà án nhân
danh Nhà nước đưa ra phán xét một người có tội hay không có tội cũng như
mức độ xử phạt tương xứng của Nhà nước đối với hành vi của người phạm
tội. Do đó, một phán xét chính xác, khách quan và đúng pháp luật hay không,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân có được bảo đảm hay không, không
những phụ thuộc vào quá trình điều tra, truy tố và xét xử từ phía CQTHTT mà
còn không thể thiếu vai trò của NBC cho bị cáo. NBC trong quá trình xét hỏi,
tranh luận tại phiên tòa sẽ góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án,
góp phần bảo vệ công lý.
Về mặt lý luận: Chế định bào chữa và NBC có vai trò rất quan trọng
trong tố tụng hình sự nhưng cho đến nay, vẫn chưa có khái niệm chính thức
và thống nhất về NBC. Đồng thời những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
hiện hành vẫn chưa qui định cụ thể về NBC, vai trò, quyền hạn của họ hoặc
có qui định nhưng việc áp dụng trên thực tế còn nhiều bất cập.
Về mặt thực tiễn: NBC góp phần không nhỏ trong việc tìm ra chân lý
khách quan của vụ án hình sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Ở
một khía cạnh nào đó, họ như là chủ thể “đối trọng” đối với cơ quan tố tụng
để giúp cho cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng thực hiện đúng quy
định của pháp luật, tránh sự cẩu thả, tùy tiện hoặc áp dụng pháp luật không
đúng từ những cơ quan này.
Từ sự phân tích trên có thể nói, tác giả lựa chọn đề tài: “Người bào
chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam” để
nghiên cứu ở cấp độ luận văn Thạc sĩ vì những lý do sau đây:
Một là, trong những năm qua, việc tham gia của tổ chức hành nghề luật
sư vào hoạt động bào chữa ngày càng tăng về số lượng và chất lượng, góp
2


phần bảo đảm dân chủ, bình đẳng, khách quan trong tố tụng hình sự. Tuy
nhiên việc tham gia tố tụng của người bào chữa trong một số vụ án còn gặp

khó khăn, chất lượng bào chữa chưa đáp ứng yêu cầu, một số trường hợp luật
sư chưa đóng vai trò giám sát, phản biện với quá trình điều tra, truy tố, kết
quả tham gia tranh tụng tại phiên tòa còn hạn chế [32]; tỷ lệ vụ án xét xử có
người bào chữa rất thấp, chủ yếu là luật sư chỉ định [30].
Hai là, BLTTHS năm 2003 có nhiều điểm chưa phù hợp với nội dung
mới về nguyên tắc tư pháp và vấn đề tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con
người, quyền công dân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013;
Ba là, BLTTHS cần thể chế hóa chủ trương về cải cách tư pháp của
Đảng theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng
thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động
tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả
tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu
đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp [4];
Bốn là, cần bảo đảm sự phù hợp giữa Bộ luật Tố tụng hình sự với các
đạo luật liên quan như Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật sửa đổi bổ sung Luật Luật sư năm
2012, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 nhằm bảo đảm tính thống nhất của hệ
thống pháp luật;
Năm là, với xu thế hội nhập quốc tế của Việt Nam với các nước trên
thế giới và trong khu vực, pháp luật TTHS cần phải được quy định phù hợp
với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.
2.

Tình hình nghiên cứu
Xuất phát từ tính chất quan trọng của chế định Bào chữa và NBC trong

TTHS nên các nhà nghiên cứu, các nhà luật học, ... đã có nhiều công trình
3



nghiên cứu về chế định NBC ở những mức độ, khía cạnh, phương diện khác
nhau, như:
-

Hoàng Thị Sơn “Mối quan hệ giữa người bào chữa với bị can, bị cáo”,

Tạp chí Luật học số 2/1996;
-

Trần Văn Bảy “Người bào chữa trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Khoa

học pháp lý 1/2000;
-

Phạm Hồng Hải “Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo”, Nhà

xuất bản Công an nhân dân 1999; “Vai trò của Luật sư, người bào chữa Thực trạng và những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng trong tố
tụng hình sự”;
-

Nguyễn Tiến Đạo “Suy nghĩ về việc bào chữa cho bị can, bị cáo theo

Điều 37 Bộ Luật tố tụng hình sự”, Tạp chí dân chủ và pháp luật số 12-2000;
-

Nguyễn Huy Hoàn “Cần đảm bảo quyền bào chữa theo qui định của

pháp luật”, Tạp chí dân chủ và pháp luật số 12-2000;
-


Lê Cảm: “Nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống nguyên tắc cơ bản của

Luật Tố tụng Hình sự”, Tạp chí Luật học số 6/2004;
-

Nguyễn Ngọc Chí & Đào Thị Hà “ Cơ chế minh oan trong tố tụng hình

sự”, Tạp chí khoa học Đại học quốc gia, kinh tế, luật số 3-2005;
-

Đinh Văn Quế “Một số vấn đề về người bào chữa trong Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2003”;
-

Lương Thị Mỹ Quỳnh “Bảo đảm quyền có người bào chữa trong tố

tụng hình sự Mỹ”, Tạp chí Khoa học pháp lý số 4/2011;
-

Lương Thị Mỹ Quỳnh “Những kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng

hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền có người bào chữa”, Tạp chí nghiên cứu
lập pháp số 23/2011;
-



4



Trên cơ sở tổng hợp cho thấy, ở nước ta đã có nhiều nhà khoa học có
các công trình nghiên cứu về chế định NBC. Tuy nhiên, các nhà luật học chỉ
tập trung phần lớn nghiên cứu những vấn đề mang tính nguyên tắc về việc
bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo hoặc về vai trò của Luật sư - một
trong những NBC trong tố tụng hình sự mà ít có các công trình khoa học
nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện, thống nhất về khái niệm NBC, các
dạng NBC và đặc biệt là vai trò của NBC cũng như thực tiễn áp dụng chế
định bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
3.

Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1.

Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở lý luận về NBC, quy định của pháp luật tố tụng hình sự và

thực tiễn thực hiện, luận văn phân tích, đánh giá những điểm còn bất cập, hạn
chế khi áp dụng chế định này trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở
nước ta, luận văn đề xuất những giải pháp phù hợp và khả thi nhằm hoàn
thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về NBC và kiến nghị
nhằm nâng cao chất lượng tham gia của NBC trong tố tụng hình sự.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu:

-

Từ việc nghiên cứu các qui định của pháp luật TTHS về NBC, luận văn


làm sáng tỏ một số vấn đề chung về NBC như: khái niệm NBC, địa vị pháp lý
và vai trò của NBC, các dạng NBC, NBC trong các mô hình tố tụng.
-

Phân tích, làm sáng tỏ những quy định của pháp luật TTHS hiện hành

về NBC. Từ đó chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của pháp luật TTHS hiện hành
về NBC;
-

Tìm hiểu, thu thập thông tin, số liệu và đánh giá thực trạng áp dụng chế

định NBC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, đồng thời phân tích
5


làm rõ những hạn chế, tồn tại xung quanh việc áp dụng và những nguyên
nhân của tồn tại đó;
-

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn áp dụng chế định

NBC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, luận văn đề xuất các giải
pháp nhằm hoàn thiện quy định về NBC và nâng cao vai trò của NBC trong
giai đoạn tố tụng này.
4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu


4.1.

Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan điểm khoa học và những

quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về NBC trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự và thực trạng NBC trong TTHS Việt Nam.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về NBC và chủ yếu tập trung vào Luật sư, luận văn

không nghiên cứu nhiều về bào chữa viên nhân dân và người đại diện hợp
pháp của bị can bị cáo với tư cách là người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự trong TTHS Việt Nam và thực tiễn áp dụng trong 5 năm
(từ 2009 - 2014).
5.

Phƣơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện

chứng, phương pháp duy vật lịch sử và các phương pháp phân tích, tổng hợp,
thống kê, so sánh, đối chiếu, khảo sát thực tế để chọn lọc kiến thức khoa học,
kinh nghiệm thực tiễn liên quan đến những vấn đề về chế định bào chữa và
vai trò của NBC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, từ đó làm sáng
tỏ những nội dung nghiên cứu của luận văn.
6


6.


Kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Với cấp độ là một luận văn thạc sĩ, tác giả kỳ vọng luận văn sẽ đóng

góp những điểm mới sau đây:
-

Khái quát về sự hình thành và phát triển chế định NBC, chỉ ra những

đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành và phát triển chế định NBC trong
từng giai đoạn, chế định NBC trong một số mô hình tố tụng. Từ đó đưa ra một
khái niệm khoa học về NBC, các dạng NBC, vị trí vai trò của NBC...;
-

Đánh giá thực trạng áp dụng chế định NBC và vai trò của người NBC

trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Phân tích làm rõ những tồn tại,
hạn chế khi áp dụng chế định này trong xét xử sơ thẩm, nguyên nhân của thực
trạng đó;
-

Đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam về NBC,

đặc biệt là nhấn mạnh và khẳng định vai trò của NBC trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự cũng như việc áp dụng chế định NBC trong giai đoạn
này trên thực tế.
7.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần bổ sung những vấn đề lý luận về NBC trong TTHS.


Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho những người
làm công tác nghiên cứu khoa học luật, những cán bộ, công chức công tác
thực tiễn trong các CQTHTT, các học viên và sinh viên thuộc các chuyên
ngành tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật và hy vọng có thể là tài liệu
tham khảo trong xây dựng, sửa đổi BLTTHS và một số văn bản pháp luật
khác có liên quan đến NBC.

7


8.

Bố cục của luận văn
Bố cục của Luận văn được xây dựng phù hợp với mục đích, đối tượng

và phạm vi nghiên cứu. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục, Danh mục
các tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về người bào chữa trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự;
Chương 2: Thực trạng người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam;
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao vai trò của người bào chữa trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

8


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƢỜI BÀO CHỮA
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1

Khái niệm và đặc điểm của ngƣời bào chữa trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự

1.1.1. Khái niệm người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự
Thứ nhất, về khái niệm người bào chữa.
Bào chữa theo từ điển tiếng Việt là việc một người dùng lý lẽ, chứng cứ
để bênh vực cho ai đó đang bị coi là phạm pháp hoặc bị lên án [68]. Hay bào
chữa là gạt bỏ lý lẽ khác để chữa tội mình hoặc chữa cho người khác [69].
Đây có thể coi là khái niệm chung nhất về thuật ngữ “bào chữa”. Tuy nhiên,
“Người bào chữa” theo tố tụng hình sự Việt Nam có những đặc điểm cụ thể,
chuyên biệt cần phải xem xét dưới góc độ lý luận và thực tiễn. Hiện nay trong
các văn bản pháp luật của nước ta không có quy định cụ thể về khái niệm
người bào chữa. Nhưng qua nghiên cứu, có nhiều quan điểm khác nhau khi
đưa ra khái niệm người bào chữa. Cụ thể là:
NBC là người giúp Tòa án trong việc xác định tất cả các tình tiết cần
thiết về vụ án để cuối cùng Tòa án ra một bản án có căn cứ và đúng pháp luật
[24, tr. 15]. Khái niệm này chưa chỉ ra được đối tượng được bảo vệ là ai và dễ
dẫn đến việc hiểu lầm rằng NBC là người tham gia tố tụng để giúp cơ quan
tiến hành tố tụng.
NBC là người thực hiện việc bảo vệ các quyền và lợi ích của người bị
tình nghi và bị can và giúp họ về mặt pháp lý trong quá trình tố tụng đối với
vụ án [63] theo quy định của pháp luật. Khái niệm này chỉ rõ hơn đối tượng

9


được bào chữa nhưng chỉ dừng lại ở người bị tình nghi và bị can. Chúng tôi

cho rằng cần phải mở rộng hơn nữa, tức là bị cáo cũng phải là đối tượng được
bào chữa.
NBC là người tham gia tố tụng với mục đích làm sáng tỏ những tình
tiết liên quan đến sự thật của vụ án nhằm chứng minh về sự vô tội hoặc giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và giúp bị can, bị cáo về mặt pháp
lý cần thiết [70, tr. 128, 129]. So với khái niệm trên, khái niệm này chỉ rõ hơn
đối tượng được bảo vệ là bị can, bị cáo và mục đích của việc bào chữa là làm
sáng tỏ những tình tiết liên quan đến sự thật của vụ án nhằm chứng minh về
sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và giúp bị can,
bị cáo về mặt pháp lý cần thiết. Tuy nhiên, đối tượng bào chữa theo quan
điểm này lại quá hẹp và mới dừng lại ở hai chủ thể là bị can và bị cáo.
NBC trong TTHS là người tham gia tố tụng để chứng minh sự vô tội
hoặc làm giảm nhẹ TNHS của người bị buộc tội, giúp người bị buộc tội về
mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời thông
qua đó góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa [3]. So với hai quan điểm
trên thì, những người theo quan điểm này đã chỉ ra tương đối đầy đủ và khái
quát hơn nhưng chưa giải thích rõ người bị buộc tội là những người nào.
NBC trong TTHS là người có bằng cử nhân luật hoặc có trình độ tương
đương, tham gia tố tụng theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
hoặc người đại diện hợp pháp của họ hay theo yêu cầu của cơ quan tiến hành
tố tụng, nhằm mục đích làm sáng tỏ những tình tiết liên quan đến sự thật của
vụ án, chứng minh về sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ họ về mặt pháp lý [24, tr.16]. Khái niệm này
cũng giống một số khái niệm trên là nêu được đối tượng bào chưa, mục đích
bào chữa nhưng cụ thể hơn về điều kiện tham gia tố tụng của NBC. Tuy
10


nhiên, chúng tôi cho rằng đối tượng bào chữa cũng cần phải được mở rộng

hơn chứ không chỉ dừng ở người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Theo chúng tôi,
người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp cũng là đối tượng được bào chữa.
Những người tham gia tố tụng thuộc đối tượng được NBC tham gia với bốn
tư cách tố tụng khác nhau là: người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can và bị cáo
và gọi là “người bị buộc tội”.
Người bị buộc tội là người mà cơ quan tiến hành tố tụng coi là người đã
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, mà BLHS quy định là tội phạm.
Những người này chưa có bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực kết tội
nên họ không bị coi là có tội. Đây là nguyên tắc cơ bản, là điều được khẳng
định trong Hiến pháp năm 2013, cụ thể tại khoản 1, Điều 31 Hiến pháp năm
2013 quy định Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được
chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật [45]. Họ là những người bị tình nghi phạm tội, có thể đó là
những người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử trong
quá trình tố tụng hình sự. Theo pháp luật tố tụng hình sự thì những người bị
tình nghi là phạm tội được xác lập địa vị pháp lý tùy theo các giai đoạn tố
tụng khác nhau, qua đó có các chủ thể được định danh thành các khái niệm cụ
thể. Trước nay, chưa có một khái niệm chỉ ra được người bị buộc tội mang
tính pháp lý, ngay cả trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003 với các quy định về
từng người bị buộc tội khác nhau cũng nêu quy định mang tính chỉ định, liệt
kê từng chủ thể mà theo luật trong từng trường hợp khác nhau với tư cách
khác nhau trong hoạt động tố tụng hình sự.
Người bị buộc tội trong tố tụng hình sự là người bị xác định bởi quyết
định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền với tư cách là người bị bắt trong
trường hợp khẩn cấp, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo theo quy định của pháp

11


luật khi có căn cứ rằng người đó đã thực hiện hành vi có dấu hiệu phạm tội,

hoặc đã thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật hình sự.
Căn cứ vào quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 56,
57) thì người bào chữa có thể là: Luật sư; người đại diện hợp pháp của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân.
Như vậy, theo quy định của Luật thì người được quyền bào chữa cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo rất đa dạng. Tuy nhiên, trên thực tế việc thực
hiện chức năng bào chữa của các chủ thể nêu trên không đồng đều, thậm chí
có những chủ thể không được quy định cụ thể trong các văn bản pháp lý, dẫn
đến không có cơ sở để thực hiện và thực tế ít khi tham gia thực hiện chức
năng bào chữa do Bộ luật tố tụng hình sự quy định.
Hiện nay, khi nói đến NBC, người ta thường nghĩ ngay đến luật sư.
Đúng vậy, bởi luật sư là chủ thể bào chữa chủ yếu trong các vụ án hình sự,
đặc biệt là kể từ khi nhà nước xây dựng và ban bành Bộ luật tố tụng hình sự;
Pháp lệnh luật sư và Luật luật sư.
Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định
của Luật luật sư, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan,
tổ chức. Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và
pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo
nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm
hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư. Người có đủ tiêu chuẩn trên
đây, để được hành nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia
nhập một Đoàn luật sư.
Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là bố mẹ
đẻ, bố mẹ nuôi, anh, chị em ruột và những người theo quy định của pháp luật
đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần. Người đại diện hợp pháp của người bị
12


tạm giữ, bị can, bị cáo nếu họ tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa

thì họ có quyền và nghĩa vụ như đối với người bào chữa. Đối với trường hợp
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người đã thành niên, không có nhược điểm
về thể chất hoặc tâm thần nhưng vẫn yêu cầu người đại diện hợp pháp (không
phải là luật sư hoặc bào chữa viên nhân dân) làm người bào chữa cho mình.
Vậy những người này có được bào chữa cho họ không? Có rất nhiều ý kiến
trái chiều về điều này, tuy nhiên nếu áp dụng theo đúng quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự thì họ vẫn có thể trở thành người bào chữa cho người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo và trong thực tiễn xét xử đã có nhiều trường hợp Tòa án đã
cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho họ để thực hiện quyền bào chữa.
Bào chữa viên nhân dân được hiểu là người được tổ chức, đoàn thể xã
hội cử ra để bào chữa cho bị can, bị cáo. Căn cứ vào hướng dẫn của Hội đồng
Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP
ngày 02-10-2004 về quy định tại khoản 2 Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự thì
một người được coi là bào chữa viên nhân dân khi người đó được Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử NBC cho thành
viên của tổ chức mình [56].
Như vậy, người bào chữa trong tố tụng hình sự là người có đủ tiêu
chuẩn và điều kiện do pháp luật quy định, được cơ quan tiến hành tố tụng
chứng nhận tham gia tố tụng hình sự để làm sáng tỏ những tình tiết chứng
minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị buộc tội và
giúp đỡ họ về mặt pháp lý cần thiết khác nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ.
Thứ hai, về khái niệm người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Trong hoạt động tố tụng hình sự, xét xử sơ thẩm có thể coi là giai đoạn
trung tâm và quan trọng nhất. Giai đoạn này được bắt đầu từ khi Tòa án nhận
được quyết định truy tố bị can ra trước Tòa cùng với bản cáo trạng và toàn bộ
13


hồ sơ vụ án hình sự. Tòa án, bằng việc xét xử sơ thẩm, thông qua quá trình

thẩm vấn trực tiếp tại phiên tòa, trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai và
dân chủ của các bên để kiểm tra lại và đánh giá một cách toàn diện, khách
quan và đầy đủ các chứng cứ, các tình tiết của vụ án hình sự; kiểm tra lại tính
hợp pháp và có căn cứ của các quyết định mà cơ quan Điều tra và Viện kiểm
sát đã thực hiện trước khi chuyển vụ án hình sự sang Tòa án, nhằm loại trừ
những hậu quả tiêu cực của các sơ suất, sai lầm hoặc sự lạm dụng trong ba
giai đoạn tố tụng hình sự trước đó (khởi tố, điều tra và truy tố) để đưa ra đánh
giá có hay không có hành vi phạm tội, hoặc mức độ hành vi phạm tội của bị
cáo nhằm tuyên một bản án có hiệu lực pháp luật một cách công minh và
đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục, tránh bỏ lọt tội phạm
và kết án oan người vô tội. Như vậy giai đoạn xét xử sơ thẩm kết thúc bằng
việc Tòa án ra bản án quyết định bị cáo có tội hay không có tội, hình phạt
hoặc các biện pháp tư pháp khác, hay các quyết định tố tụng khác nhằm giải
quyết vụ án hình sự.
Do tầm quan trọng của giai đoạn xét xử sơ thẩm như vậy, nên để bảo
đảm tính khách quan, dân chủ trong hoạt động tố tụng, để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bị cáo khi bị đưa ra xét xử thì sự tham gia của NBC trong
giai đoạn này là tối cần thiết. NBC trên cơ sở các quyền và nghĩa vụ theo luật
định sẽ tham gia các hoạt động tố tụng như nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng
cứ, tham gia thẩm vấn công khai tại phiên tòa để nhằm: 1) Bảo đảm việc tiến
hành tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng được thực hiện đúng pháp luật;
2) Giúp đỡ bị cáo về mặt pháp lý; 3) Bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho bị cáo; 4) Góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, giúp
Hội đồng xét xử đánh giá đúng bản chất của vụ án để tuyên bản án khách
quan, đúng pháp luật.

14


Như trên đã phân tích, tùy theo từng giai đoạn tố tụng mà người bị buộc

tội tham gia với tư cách tố tụng khác nhau. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
người bị buộc tội tham gia tố tụng với tư cách là bị can, bị cáo. Sau khi nhận
được bản cáo trạng truy tố và hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển sang Tòa
án thì người bị buộc tội tiếp tục tham gia tố tụng với tư cách là bị can cho đến
khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định
đưa vụ án ra xét xử.
Với ý nghĩa và sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về NBC trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm như sau:
Người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là người
có đủ tiêu chuẩn và điều kiện do pháp luật quy định, tham gia tố tụng từ khi
Tòa án nhận được hồ sơ do Viện kiểm sát chuyển sang và vào sổ thụ lý đến
khi ra bản án hoặc quyết định cần thiết khác để giải quyết vụ án để làm sáng
tỏ những tình tiết chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
của bị can, bị cáo; giúp đỡ bị cáo về mặt pháp lý cần thiết khác nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ”.
1.1.2. Đặc điểm của người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự
Giai đoạn xét xử vụ án hình sự có những đặc thù riêng so với các hoạt
động tố tụng khác. Những đặc thù của giai đoạn này có ảnh hưởng, tác động
nhất định đến hoạt động bào chữa. Những đặc thù này khác với giai đoạn điều
tra, truy tố biểu hiện ở việc có sự tranh luận chứng cứ trực tiếp giữa các bên
buộc tội và gỡ tội; những thông tin, tài liệu làm cơ sở cho việc xác định sự
thật của vụ án đối với NBC đã được nắm bắt thông qua việc đọc hồ sơ vụ án.
Do vậy, NBC phải biết tập trung tranh thủ cả về mặt thời gian và trí tuệ để
nghiên cứu, đánh giá tính hợp pháp và tính có căn cứ của những quyết định,
15


biên bản về hoạt động điều tra trong hồ sơ vụ án để kịp thời đưa ra những
kiến nghị phù hợp nhằm bảo vệ tốt nhất cho bị can, bị cáo, giúp cho việc giải

quyết vụ án hình sự khách quan, chính xác, hợp tình, hợp lý và góp phần nâng
cao hiệu quả của pháp luật. Trong giai đoạn này, NBC có một số đặc điểm
sau:
-

Người bào chữa tham gia tố tụng khi bị can, bị cáo hoặc người đại diện

hợp pháp của họ lựa chọn hoặc Tòa án yêu cầu
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và quy định của BLTTHS thì,
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, NBC do bị can, bị cáo lựa chọn. Trường hợp
bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất
hay tâm thần thì người đại diện hợp pháp của họ cũng có quyền lựa chọn
NBC cho họ.
Ngoài ra, trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc
người có nhược điểm về thể chất hay tâm thần, bị can, bị cáo phạm tội theo
khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại BLHS mà họ
hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời NBC thì Tòa án phải yêu cầu
Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề
nghị Mặt trận Tổ quốc, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa
cho thành viên của tổ chức mình. Đây là trường hợp bắt buộc phải có sự tham
gia của NBC. Tuy nhiên, trong trường hợp này bị can, bị cáo và người đại
diện hợp pháp của họ vẫn có quyền từ chối hoặc yêu cầu thay đổi NBC.
Trong giai đoạn xét xử, việc yêu cầu thay đổi hoặc từ chối NBC được
giải quyết cụ thể như sau:
+

Trường hợp thay đổi NBC: Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên

tòa (trước khi mở phiên tòa) hoặc Hội đồng xét xử (tại phiên tòa) xem xét
quyết định trên cơ sở quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 57 BLTTHS.


16


+

Trường hợp yêu cầu từ chối NBC thì Tòa án phải giải thích cho họ biết

quyền có NBC và NBC sẽ giúp họ trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp mà họ không cần phải trả chi phí. Nếu sau khi giải thích mà họ vẫn từ
chối người bào chữa thì Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa vẫn
tiến hành mời người bào chữa được cử theo quy định chung. Nếu tại phiên
tòa, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ vẫn giữ nguyên ý kiến từ chối
người bào chữa thì HĐXX tiến hành xét xử theo thủ tục chung mà không có
sự tham gia của người bào chữa đã được cử. Nếu tại phiên tòa chỉ có bị cáo từ
chối người bào chữa, còn người đại diện hợp pháp của họ không từ chối
người bào chữa, hoặc ngược lại thì HĐXX tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục
chung có sự tham gia của người bào chữa đã được cử [56].
-

Việc tham gia tố tụng tại giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của

người bào chữa không chỉ bảo vệ bị can, bị cáo mà còn là một hình thức giám
sát việc thực thi pháp luật của Tòa án.
NBC tham gia trong giai đoạn này giúp cho người bị can, bị cáo nhận
thức đúng đắn hơn quyền được bào chữa của mình. Xuất phát từ nguyên tắc
suy đoán vô tội “không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có
bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật” được quy định tại Điều 9
BLTTHS năm 2003 và nguyên tắc bảo đảm quyền tự bào chữa của bị can, bị
cáo được quy định tại Điều 11 BLTTHS năm 2003 “Bị can, bị cáo có quyền

tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”, sự tham gia của người bào chữa
trong tố tụng hình sự là cần thiết, đặc biệt là từ giai đoạn xét xử sơ thẩm. Đây
là một điểm mới thể hiện tính dân chủ của pháp luật tố tụng hình sự nước nhà,
phù hợp với những đặc điểm của giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân do Đảng cộng sản Việt Nam đề ra.

17


-

Người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự không

chỉ là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo mà còn là
người tham gia tố tụng độc lập
NBC trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự không chỉ là người đại diện
của bị can, bị cáo mà còn là người tham gia tố tụng độc lập, có những quyền
và nghĩa vụ tố tụng nhất định, hoạt động bào chữa cùng với bị can, bị cáo bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ và với mục đích đó, NBC tích cực thực
hiện chức năng bào chữa do pháp luật quy định và đáp ứng những nhiệm vụ
mà giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đặt ra, góp phần nâng cao pháp chế
xã hội chủ nghĩa và giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, đầy đủ, thực
hiện quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật.
Việc tham gia tố tụng của NBC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự nói chung đã đáp ứng được yêu cầu và đạt được những kết quả đáng
khích lệ, khắc phục được những vi phạm tố tụng, làm rõ sự thật khách quan,
đảm bảo cho việc xét xử của tòa án được tiến hành đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, loại trừ dần tình trạng lạm quyền trong việc áp dụng pháp luật
và củng cố niềm tin của nhân dân đối với Tòa án hướng tới xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam vững mạnh.

Sự tham gia của NBC là một trong những quy định bảo đảm quyền bào
chữa của bị can, bị cáo. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo không chỉ đảm bảo
khỏi sự buộc tội không có căn cứ mà còn là phương tiện quan trọng để nhận
biết sự thật khách quan của vụ án nhằm thực hiện các bảo đảm trong tố tụng
hình sự.
-

Người bào chữa là người tham gia tố tụng để bảo vệ người bị buộc tội,

không có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án
Là chủ thể tham gia tố tụng chứ không phải là chủ thể tiến hành tố tụng
nên hoạt động của NBC không chỉ bảo vệ bị can, bị cáo trong giai đoạn xét xử
18


×