Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Hoàn thiện pháp luật tố tụng trọng tài việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.34 KB, 52 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ



LÊ THỊ KIỀU DUYÊN

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
TRỌNG TÀI VIỆT NAM TRONG ĐIỀU
KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

KHÓA LUẬN CỬ NHÂN LUẬT

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT QUỐC TẾ
GVHD: ThS. NGUYỄN NGỌC LÂM

TP. Hồ Chí Minh, năm 2006

1


LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Từ sau Đại Hội Đảng lần thứ VI (1986), Đảng và nhà nước ta chủ trương xây
dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng
quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó trong những năm qua,
nền kinh tế đã không ngừng phát triển, các chủ thể tham gia hoạt động thương mại
cũng đa dạng và phong phú, không chỉ độc nhất thành phần doanh nghiệp nhà nước.
Nhiều doanh nghiệp đủ khả năng tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế, trở
nên năng động hơn trong việc tìm kiếm thị trường và ký kết các hợp đồng kinh
doanh với đối tác nước ngoài. Ngoài ra, nhiều doanh nhân đã đến Việt Nam đầu tư


kinh doanh .
Kinh tế ngày càng phát triển, các giao dịch thương mại ngày càng nhiều hơn,
đa dạng hơn, phức tạp hơn đặc biệt là trong điều kiện hội nhập và trong tương lai
gần Việt Nam sẽ là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Do đó,
tranh chấp phát sinh là điều tất yếu. Các doanh nghiệp khi tham gia vào các quan hệ
“làm ăn”, họ luôn phải lựa chọn một giải pháp tốt nhất để bảo vệ quyền lợi cho
mình nhất là khi tranh chấp xảy ra. Điều này không kém phần quan trọng.
Do tố tụng trọng tài thương mại có nhiều ưu điểm hơn so với Tòa án, trung
gian, thương lượng, hịa giải. Cho nên, nó được ưa chuộng và sử dụng rộng rãi trên
thế giới. Nó được thành lập phù hợp với ý chí của các bên và giúp các bên giải
quyết những tranh chấp phát sinh giữa họ nhưng vẫn giữ được mối quan hệ tốt đẹp.
Và nó được xem là một phần không thể thiếu trong hoạt động thương mại quốc tế.
Do vậy việc nghiên cứu về trọng tài và tố tụng trọng tài ngày càng trở nên cấp thiết,
giúp các doanh nghiệp Việt Nam lựa chọn tốt hơn cơ quan giải quyết tranh chấp
thương mại Quốc tế và bảo đảm quyền lợi của mình. Tơi đã chọn đề tài “hoàn thiện
pháp luật tố tụng trọng tài Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế Quốc tế” làm
khóa luận tốt nghiệp cho mình.
2.Mục đích khóa luận
Nghiên cứu một cách có hệ thống trình tự tố tụng trọng tài trong quá trình giải
quyết các tranh chấp thương mại Quốc tế cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn.

2


Để có những kết luận về hồn thiện pháp luật tố tụng trọng tài Việt Nam trong
điều kiện hội nhập kinh tế Quốc tế, khóa luận nghiên cứu trình tự tố tụng của trọng
tài Hoa Kỳ và Singapore làm cơ sở đối chiếu so sánh với trọng tài ở Việt Nam.
Từ việc nghiên cứu những vấn đề đặt ra khóa luận đã rút ra một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng trọng tài Việt Nam trong điều kiện mới hiện nay.
3.Phƣơng pháp nghiên cứu

Khóa luận được nghiên cứu dựa trên quan điểm duy vật biện chứng của chủ
nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với đường lối chính sách của Đảng
và nhà nước ta trong điều kiện hội nhập kinh tế Quốc tế, ngoài phương pháp luận
nêu trên thì khóa luận cịn sử dụng các phương pháp cụ thể như phân tích, so sánh
để từ đó giải quyết các nhiệm vụ đặt ra.
4.Bố cục của đề tài
Ngồi lời nói đầu khóa luận, tài liệu tham khảo khóa luận gồm 2 chương:
Chương 1:Khái quát chung về tố tụng trọng tài.
Chương 2:Thực trạng trọng tài tại Việt Nam và hướng hồn thiện.
Khóa luận là cơng trình nghiên cứu đầu tay của bản thân. Đây là một đề tài
khó, tài liệu tham khảo khơng có nhiều, thời gian có hạn. Hơn nữa trình độ nghiên
cứu của bản thân có hạn, do vậy chắc chắn khóa luận khơng tránh khỏi những thiếu
sót nhất định. Rất mong các thầy cơ góp ý giúp đỡ em để em hồn thành tốt hơn
trong công tác thực tiễn cũng như nghiên cứu sau này.
Xin chân thành cảm ơn
Tác giả

3


CHƢƠNG 1:

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỐ TỤNG TRỌNG TÀI
1. Trọng tài thƣơng mại và tố tụng trọng tài thƣơng mại.
1.1. Trọng tài thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp rất phổ biến trên thế
giới trong hoạt động thương mại quốc tế và ra đời từ rất lâu nhưng mãi đến đầu
những năm 60, nó mới chính thức trở thành cơ chế giải quyết tranh chấp với tên gọi
là trọng tài kinh tế ở Việt Nam.

Trước 1986: Các hội đồng trọng tài hoạt động với tư cách là cơ quan lâm thời
theo quy chế tạm thời của nó và chức năng chính là giải quyết các tranh chấp kinh
tế phát sinh từ hoạt động của các cơ quan và các doanh nghiệp nhà nước theo yêu
cầu của các bên tranh chấp, theo nhu cầu của quan hệ kinh tế quốc tế giữa Việt Nam
và các nước đặc biệt là với các nước Xã hộI chủ nghĩa. Nói chung giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài rất ít vì hoạt động ngoại thương kém phát triển và nếu có, bị đơn
thường tự nguyện bồi thường tồn bộ yêu cầu của nguyên đơn đưa ra và nguyên
đơn rút lại đơn kiện.
Từ 1986 đến nay: Với chính sách mở cửa, đã làm cho nền kinh tế của đất nước
có sự phát triển mạnh mẽ. Khi hoạt động kinh doanh phát triển thì tranh chấp phát
sinh từ hoạt động đó là điều tất yếu. Vì vậy mà số vụ tranh chấp đưa ra hội đồng
trọng tài giải quyết cũng tăng theo. Trong khi đó Hội đồng trọng tài Ngoại Thương
và Hội đồng trọng tài Hàng hải chỉ giải quyết tranh chấp phát sinh giữa Việt Nam
và các nước XHCN. Hai hội đồng trọng tài này khơng cịn đủ khả năng để giải
quyết các tranh chấp ngày càng tăng, đòi hỏi phải có sự thay đổi với nhu cầu phát
triển của hoạt động kinh doanh. Trước yêu cầu này, Thủ tướng chính phủ (TTCP)
ban hành quyết định 204/TTg 28/04/1993 thành lập Trung tâm trọng tài quốc tế
Việt Nam (gọi tắc là VIAC) bên cạnh phịng thương mại và cơng nghiệp Việt Nam
trên cơ sở hợp nhất hai hội đồng trọng tài trên và ngày 05/09/1993, Chính phủ ban
hành Nghị Định 116/CP qui định về tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế.

4


Tuy nhiên, Nghị Định này đã sớm bộc lộ những hạn chế, bất cập gây bất lợi cho
trọng tài Việt Nam và hạn chế rất nhiều so với pháp luật trọng tài của các nước
trong khu vực cũng như của thế giới. Để tạo môi trường pháp lý đầy đủ cho doanh
nghiệp Việt Nam trong việc đàm phán với đối tác nước ngoài, để chọn trọng tài giải
quyết tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh giữa họ. Vì vậy việc ban hành
văn bản pháp luật khác về trọng tài thương mại để thay thế NĐ 116 là hết sức cần

thiết và phù hợp với nhu cầu phát triển của đất nước lúc bây giờ. Ngày
25/02/2003UBTVQH đã thông qua pháp lệnh trọng tài thương mại (gọi tắt là pháp
lệnh) có hiệu lực vào ngày 01/07/2003. Tiếp theo ngày 31/07/2003 TANDTC đã
ban hành Nghị Quyết 05/2004/NQ-TANDTC hướng dẫn thi hành một số qui định
của pháp lệnh và ngày 15/01/2004 Chính Phủ ban hành Nghị Định 25/2004/ND-CP
qui định chi tiết một số điều của pháp lệnh.
Theo khoản 1 Điều 2 pháp lệnh qui định: Trọng tài là phương thức giải quyết
tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và được
tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng do pháp lệnh qui định. Trọng tài với chức
năng chính là giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại giữa các
bên tranh chấp là cá nhân kinh doanh hoặc tổ chức kinh doanh. Trọng tài là cá nhân
hoặc tổ chức xã hội nghề nghiệp do các bên lựa chọn và ủy quyền cho họ để giải
quyết các tranh chấp của chính các bên theo trình tự thủ tục khơng trái với qui định
của pháp luật.
Trọng tài là một tòa án tư của các bên, giải quyết tranh chấp giữa họ khi các bên
có thỏa thuận trọng tài, các bên tự do lựa chọn trọng tài viên, địa điểm giải quyết
tranh chấp….và là một tổ chức phi chính phủ hoạt động theo pháp luật và qui chế
trọng tài, các trọng tài viên không phải là cán bộ công chức nhà nước, không hưởng
lương từ ngân sách nhà nước, nó tồn tại độc lập khơng bị ràng buộc bởi một tổ chức
hay một tổ chức trọng tài nào khác.
1.1.2 Các loại trọng tài
Trong thực tế trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức: Trọng tài ad-hoc
và Trọng tài quy chế.

5


Trọng tài ad-hoc hay còn gọi là trọng tài vụ việc được thành lập do ý chí của các
bên, cho từng vụ tranh chấp cụ thể. Đây là loại trọng tài khơng có cơ quan thường
trực, khơng có trụ sở, không lệ thuộc bất kỳ quy tắc tố tụng nào. Quyền tự định đoạt

của các bên được mở rộng tối đa: Các bên có quyền chọn quy tắc tố tụng của bất kỳ
cơ quan trọng tài nào, chọn địa điểm và tự chịu trách nhiệm thành lập hội đồng
trọng tài để tiến hành giải quyết tranh chấp, có quyền chọn bất cứ người nào có đủ
điều kiện qui định tại Điều 12 pháp lệnh làm trọng tài viên mà không bị hạn chế vào
một danh sách có sẵn. Trọng tài ad-hoc xuất hiện và tồn tại khi giải quyết một vụ
việc cụ thể nào đó, khi giải quyết xong tự nó chấm dứt. Đây là loại hình trọng tài
phù hợp cho những tranh chấp nhỏ, đơn giản, các bên am hiểu pháp luật và có kinh
nghiệm trên thương trường cũng như trong việc tranh tụng. Pháp lệnh trọng tài
thương mại thừa nhận hình thức này tại Điều 4 của Pháp lệnh.
Trọng tài quy chế hay còn gọi là trọng tài thường xuyên là loại hình trọng tài
được thành lập ở các Ủy ban thương mại công nghiệp quốc gia, hiệp hội, liên minh
và các tổ chức khác. Trọng tài quy chế có tên gọi riêng, có trụ sở, có tài khoản, có
điều lệ và quy tắc tố tụng riêng, có danh sách trọng tài viên cho các bên lựa chọn.
Khác với trọng tài ad-hoc, trọng tài quy chế có một cơ quan hoạt động thường
xuyên, cơ quan này không tham gia vào việc giải quyết tranh chấp mà có chức năng
kiểm tra giám sát, trợ giúp cho Ủy ban trọng tài trong quá trình giải quyết tranh
chấp. Những vụ tranh chấp lớn, phức tạp thích hợp với loại hình trọng tài này. Các
bên tranh chấp được trung tâm trọng tài mà mình lựa chọn trợ giúp. Các hoạt động
hành chính cũng như các hoạt động dịch vụ khác như phiên dịch, thông tin liên
lạc…khá tốt giúp các bên tiết kiệm được thời gian. Trên thế giới hiện nay có một
số trung tâm trọng tài có uy tín như: Tịa án trọng tài thương mại quốc tế ở Paris,
trung tâm trọng tài thương mại quốc tế London, trung tâm trọng tài thương mại
quốc tế Stockhom, trung tâm trọng tài thương mại quốc tế Hoa Kỳ….Ở Việt Nam
hiện có 5 trung tâm trọng tài Quốc tế hoạt động theo Pháp lệnh trọng tài.
1.2 Tố tụng trọng tài thƣơng mại
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của tố tụng trọng tài
Tố tụng trọng tài khơng thuộc tố tụng tịa án, trọng tài là tịa án tư của các bên .
Tố tụng trọng tài phát sinh dựa trên sự thỏa thuận đồng ý của các bên đưa tranh
6



chấp giữa họ ra trọng tài. Mỗi trung tâm trọng tài đều có qui chế riêng khơng theo
một trình tự nhất định hay theo một trình tự luật định. Do đó, tố tụng trọng tài là
một trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại
theo quy chế trọng tài nhưng không trái với pháp luật về trọng tài của quốc gia.
Tố tụng trọng tài chỉ phát sinh khi có sự thỏa thuận của các bên đồng ý đưa
tranh chấp có thể hoặc đã phát sinh giữa họ ra trọng tài giải quyết. Đây là nguyên
tắc được thừa nhận trong pháp luật trọng tài trên thế giới và ở Việt Nam. Tại khoản
1 Điều 3 pháp lệnh qui định: Tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài, nếu trước
hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thỏa thuận trọng tài. Khi tranh chấp phát
sinh, nguyên đơn nộp đơn kiện đến trung tâm trọng tài hoặc tới bị đơn đồng thời
nguyên đơn phải nộp bản chính hoặc bản sao thỏa thuận trọng tài nếu không đơn
kiện của nguyên đơn không được chấp nhận.
Thủ tục tố tụng trọng tài mềm dẻo, linh hoạt, nhanh chóng, hoạt động khơng bắt
buộc cơng khai. Khác với tồ án phải qua nhiều cấp xét xử, thủ tục cứng nhắc phải
tuân theo một trình tự luật định, phiên xét xử phải cơng khai trong trường hợp có lý
do chính đáng được xét xử kín nhưng sau đó phải tun án công khai. Thủ tục Tố
tụng trọng tài không phải vậy, theo qui định tại Điều 38 khoản 3 Pháp lệnh: phiên
họp giải quyết vụ tranh chấp khơng cơng khai. Trình tự tố tụng trọng tài có thể do
các bên lựa chọn trong trường hợp hội đồng trọng tài do các bên thành lập hoặc do
trung tâm trọng tài qui định trong trường hợp các bên lựa chọn trung tâm trọng tài.
Thủ tục trọng tài diễn ra theo một cấp xét xử, khơng có quyền kháng cáo và quyết
định của trọng tài là chung thẩm. Cho nên các bên tiết kiệm được thời gian, cơng
sức và giữ được bí mật kinh doanh và giữ được quan hệ làm ăn giữa các bên.
Tố tụng trọng tài thương mại không đặt ra vấn đề về thẩm quyền theo lãnh thổ.
Khác với tòa án khi một tranh chấp phát sinh điều đầu tiên cần phải xác định là tịa
án nào có thẩm quyền giải quyết, đối với trọng tài thì khơng các bên có quyền lựa
chọn bất kỳ trung tâm trọng tài nào mà các bên thích, địa điểm giải quyết tranh chấp
miễn là trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thỏa thuận trọng tài.


7


1.2.2. Tố tụng trọng tài tại một số nước
1.2.2.1. Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ (AAA) và trình tự thủ tục tố tụng trọng tài
thương mại của AAA
Ở Mỹ không có sự phân biệt giữa hoạt động trọng tài trong nước và trọng tài
quốc tế theo luật liên bang. Hoạt động của trọng tài trong việc giải quyết trang chấp
thương mại quốc tế được điều chỉnh bởi đạo luật số 9 gọi tắc là FAA-Federal
Arbitration Act. Đây là luật trọng tài liên bang được ban hành vào năm 1925 và
được sửa đổi vào năm 1970. Các bang căn cứ vào luật trọng tài liên bang để ban
hành luật trọng tài các bang trên cơ sở sửa đổi bổ sung cho phù hợp. Trong phạm vi
bài khóa luận này, tác giả chỉ xin đề cập đến các qui tắc tố tụng giải quyết tranh
chấp thương mại bằng trọng tài của Hiệp hội trọng tài Mỹ gọi tắc là AAA..
AAA là một tổ chức trọng tài rất nổi tiếng bởi họ có một đội ngũ trọng tài viên
chẳng những giỏi về chuyên mơn mà cịn giỏi về nghiệp vụ, trọng tài viên có phẩm
chất đạo đức cao và đây là điều mà AAA ln chú trọng. AAA có một loạt các qui
tắc trọng tài phù hợp với các ngành, lĩnh vực chuyên biệt.
Và đặc biệt là quy tắc trọng tài thương mại được sửa đổi và có hiệu lực từ
ngày 01/09/2000. Ngồi ra, AAA còn đặt chi nhánh ở nhiều nơi trên đất nước Hoa
Kỳ rộng lớn, liên kết chặt chẽ với nhiều tổ chức trọng tài trên thế giới. Khi tranh
chấp phát sinh các bên có quyền nộp đơn yêu cầu bất kỳ chi nhánh nào của AAA.
Điều này rất thuận lợi cho các bên tranh chấp khi nộp đơn yêu cầu cũng như thuận
lợi cho việc xét xử .
Trình tự thủ tục tố tụng trọng tài thương mại của AAA
a) Nộp đơn: Tố trụng trọng tài được coi là bắt đầu kể từ khi AAA nhận được
đơn khởi kiện của Nguyên đơn. Nội dung đơn kiện: tóm tắt nội dung tranh chấp, tên
và địa chỉ của tất cả các bên, trị giá tranh chấp liên quan, cách thức giải quyết mong
muốn (nếu có) và nơi xét xử mong muốn. Kèm theo đơn kiện, Ngun Đơn cịn
xuất trình bằng chứng chứng minh có thỏa thuận trọng tài. Trước khi hoặc ngay khi

nộp đơn kiện cho AAA, Nguyên Đơn phải gởi bản thông báo về ý định đưa ra trọng
tài giải quyết tranh chấp giữa họ cho Bị Đơn. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Bị
Đơn nhận được hồ sơ khởi kiện, Bị Đơn phải nộp bản giải trình. Trong trường hợp

8


Bị đơn có đơn kiện lại thì cả Bị đơn và Nguyên đơn đều phải nộp một khoản tiền để
đảm bảo phí hành chính cho việc tố tụng phù hợp u cầu của mình theo biểu phí
mà AAA qui định (R-4).
Trước khi xác lập Ủy ban trọng tài, AAA có thể tiến hành một buổi gặp gỡ trực
tiếp hoặc qua điện thoại với các bên và với đại diện của họ hoặc với đại diện của họ
để bàn bạc về các vấn đề như lựa chọn trọng tài viên, khả năng giải quyết tranh
chấp bằng trung gian, khả năng trao đổi thơng tin, thời gian biểu cho q trình xét
xử…theo đề nghị của bất kỳ bên nào hoặc theo sáng kiến của AAA (R-10).
b) Xác lập Uỷ Ban trọng tài: Nếu các bên không thỏa thuận số lượng trọng tài
viên, vụ tranh chấp sẽ do một trọng tài viên duy nhất xét xử và quyết định trừ khi
các bên có yêu cầu khác hoặc AAA thấy rằng cần phải có 3 trọng tài viên giải quyết
(R-17).
Trường hợp Uỷ Ban trọng tài có 1 trọng tài viên: Nếu các bên thỏa thuận chỉ
ra một trọng tài viên cụ thể hoặc đưa ra cách thức chỉ định trọng tài viên thì theo
cách đó. Thơng báo chỉ định trọng tài viên cùng với tên và địa chỉ của trọng tài viên
sẽ gởi cho AAA (R-14). Nếu không, AAA sẽ gởi cùng lúc cho các bên tranh chấp
một danh sách xác định tên của một số người được lựa chọn từ danh sách trọng tài
viên, Nếu các bên không thể thỏa thuận chọn một trọng tài viên thì trong thời hạn
15 ngày kể từ ngày nhận được danh sách mà AAA gởi cho các bên, các bên phải
loại bỏ những tên mà mình khơng đồng ý và đánh những tên còn lại theo thứ tự ưu
tiên và gởi lại cho AAA.. Nếu các bên không gởi lại danh sách hoặc không đồng ý
với bất cứ người nào được giới thiệu hoặc các trọng tài viên được mời khơng thể
tham gia hoặc vì lý do nào khác thì AAA sẽ chỉ định trong tài viên cho các bên (R3) hoặc trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc chỉ định một trọng tài viên

cụ thể hoặc xác định một cách thức chỉ định có xác định thời hạn, nếu hết thời hạn
này mà khơng bên nào thực hiện hoặc khơng có xác định thời hạn để thực hiện thì
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày thông báo được gởi đi mà trọng tài viên chưa
được xác định thì AAA sẽ chỉ định trọng tài viên (R-14).
Đối với tranh chấp có nhiều bên thì việc chỉ định trọng tài viên sẽ do AAA
quyết định trừ khi các bên có thỏa thuận khác trong vòng 15 ngày kể từ khi thủ tục
trọng tài bắt đầu (R-13).
9


Trường hợp Uỷ Ban trọng tài gồm 3 trọng tài viên: Mỗi bên tranh chấp sẽ chỉ
định cho mình một trọng tài viên theo trình tự thủ tục nêu trên. Hai trọng tài viên do
các bên chỉ định hoặc do AAA chỉ định được các bên ủy quyền cho họ lựa chọn một
trọng tài viên trung lập làm chủ tịch Uỷ Ban trọng tài. Trong một thời hạn nhất định
hoặc trong bất kỳ sự gia hạn nào theo sự thỏa thuận của các bên hoặc trong trường
hợp khơng có sự thỏa thuận thời hạn, nếu trong thời hạn 15 ngày kể từ khi trọng tài
viên do đương sự chỉ định sau cùng được chỉ định mà các bên không chỉ định một
trọng tài viên trung lập làm chủ tịch Uỷ Ban trọng tài thì AAA sẽ chỉ định thay cho
các bên (R-15). Theo yêu cầu của một trong các bên hoặc tự mình, AAA có thể chỉ
định một trọng tài viên trung lập khác quốc tịch với các bên (R-16).
Sau khi chỉ định trọng tài viên trung lập, AAA sẽ gởi đến trọng tài viên đó bản
thơng báo cùng với bản sao qui tắc này và trọng tài viên được chọn phải gởi đến cho
AAA trước khi tiến hành xét xử phiên đầu tiên văn bản chấp thuận có chữ ký của
chính trọng tài viên đó (R-18). Và khơng bên nào liên lạc với trọng tài viên đó hoặc
các trọng tài viên do các bên chỉ định (R-20) trừ khi các bên có thỏa thuận khác
hoặc trọng tài viên trực tiếp liên hệ. Từ khi được chọn, Trọng tài viên trung lập phải
thơng báo cho AAA tất cả các hồn cảnh có thể gây nghi ngờ về sự độc lập và tính
vơ tư của mình bao gồm một trong các trường hợp sau: Có lợi ích tài chính hoặc lợi
ích cá nhân liên quan đến vụ tranh chấp, hoặc thiên vị, hoặc trong quá khứ hoặc
hiện tại có quan hệ với các bên hoặc với đại diện của họ.

Và AAA sẽ thông báo những thông tin này cho các bên và quyết định trọng tài
viên có đủ yêu cầu để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ hay khơng nếu có sự phản đối của
một trong các bên. Quyết định của AAA là quyết định cuối cùng (R-19).
c) Chuẩn bị phiên xét xử,các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Chuẩn bị xét xử: Trước khi phiên xét xử chính thức diễn ra, theo yêu cầu của
bất kỳ bên nào, hoặc theo quyết định của trọng tài viên, hoặc của AAA, trọng tài
viên có thể tiến hành phiên xét xử sơ bộ với các bên và đại diện của họ hoặc với đại
diện của họ để bàn về các bước tiếp theo của vụ việc (R-22).
Các bên có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho u cầu của mình, có thể là lời khai
hoặc bản khai có tuyên thệ (R-34). Trọng tài viên nghiên cứu hồ sơ vụ kiên cùng

10


với chứng cứ mà các bên giao nộp, khi thấy cần thiết, trọng tài viên tiến hành kiểm
tra hoặc điều tra xác minh sự việc liên quan đến tố tụng trọng tài và có thể bằng các
biện pháp như: gặp gỡ để nghe các bên trình bày, yêu cầu đề xuất chứng cứ liên
quan đến sự việc, tự mình thu thập chứng cứ….(R-35) và trong bất kỳ giai đoạn nào
của q trình tố tụng, Uỷ Ban trọng tài cũng có thể yêu cầu các bên xuất trình các
chứng cứ khác trong thời hạn Uỷ Ban trọng tài qui định.
Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời: Khi thấy cần thiết, trọng tài viên có
thể ra một phán quyết tạm thời về việc sử dụng bất cứ biện pháp tạm thời nào mà họ
cho là phù hợp (R-32). Trong trường hợp các bên có thỏa thuận đặc biệt hoặc trong
điều khoản trọng tài đã chấp nhận qui tắc áp dụng cho biện pháp bảo vệ khẩn cấp,
một trong các bên có thể yêu cầu AAA (trường hợp chưa thành lập Uỷ Ban trọng
tài) hoặc Uỷ Ban trọng tài (O-1) hoặc yêu cầu cơ quan tịa án có thẩm quyền ra
quyết định áp dụng (R-36). Bên yêu cầu phải có nghĩa vụ đảm bảo các khoản chi
phí cho việc thực hiện các biện pháp này.
Nếu Uỷ Ban trọng tài chưa thành lập thì sau khi nhận được đơn yêu cầu, AAA
phải chỉ định một trọng tài viên khẩn cấp trong danh sách đặc biệt để chỉ đạo việc

áp dụng các biện pháp khẩn cấp. Trọng tài viên khẩn cấp phải đảm bảo tính vơ tư,
độc lập của mình đồng thời thơng báo mọi thơng tin có thể gây nghi ngờ về điều
này. Trong vòng hai ngày kể từ ngày chỉ định, trọng tài viên khẩn cấp phải thiết lập
kế hoạch xem xét việc áp dụng biện pháp khẩn cấp (O-3) và ra phán quyết tạm thời
nếu bên yêu cầu chứng minh được những thiệt hại hay thua lỗ tức thời và không thể
khắc phục được nếu không được áp dụng và thấy rằng bên u cầu hồn tồn có
quyền hưởng biện pháp đó (O-4). Và trường hợp Bên u cầu khơng nộp đơn đến
cho AAA mà lại nộp đơn đến cho cơ quan tư pháp có thẩm quyền, cơ quan này có
quyền xem xét hoặc chỉ đạo AAA chỉ định một đặc phái viên để xem xét. Đặc phái
viên xem xét theo thủ tục giống như trọng tài viên khẩn cấp nhưng thay vì ra quyết
định, đặc phái viên sẽ ra bản báo cáo (O-7).
Khi Uỷ Ban trọng tài được thành lập thì mọi yêu cầu áp dụng hay đề nghị sửa
đổi, hủy bỏ đều do Uỷ Ban trọng tài quyết định. Lúc này quyền của trọng tài viên
khẩn cấp sẽ chuyển cho Uỷ Ban trọng tài trừ khi các bên có thỏa thuận khác (O-5).

11


d) Hòa giải trong tố tụng trọng tài: Ở bất kỳ giai đọan nào của quá trình tố
tụng, các bên có thể thỏa thuận tiến hành hội nghị trung gian theo các qui tắc trung
gian của AAA (R-9) hoặc các bên tự tiến hành hịa giải (R-46). Thơng qua trung
gian viên, nếu các bên thỏa thuận được với nhau về vụ tranh chấp, trung gian viên
sẽ ra quyết định thừa nhận và có giá trị chung thẩm, các bên phải có nghĩa vụ thi
hành. Nếu khơng hịa giải thành, vụ tranh chấp được tiếp tục giải quyết bằng trọng
tài. Trong trường hợp các bên tự hòa giải thành và theo yêu cầu của họ, trọng tài
viên sẽ ra phán quyết đồng thuận và phán quyết này có giá trị ràng buộc các bên.
e) Phiên xét xử trọng tài: Trừ khi các bên có thỏa thuận khác, trọng tài viên sẽ
quyết định ngày, giờ, địa điểm của từng phiên xét xử và các bên phải tuân theo lịch
xét xử đã được xác định. AAA có trách nhiệm thơng báo cho các bên ít nhất 10
ngày trước phiên xét xử (R-24).

Trừ khi pháp luật có qui định khác, phiên họp của Uỷ Ban trọng tài khơng cơng
khai, ngồi trọng tài viên, các bên, đại diện của họ, người có quyền lợi liên quan
trực tiếp liên quan đến thủ tục trọng tài, nhân chứng. Bất cứ người nào khác muốn
tham gia phiên xét xử phải do trọng tài viên quyết định (R-25).
Các bên có thể trực tiếp tham gia phiên xét xử hoặc có thể ủy quyền cho luật sư
hoặc một người nào khác có thẩm quyền theo luật định (R-26) hoặc có thể yêu cầu
xét xử vắng mặt trừ khi pháp luật có qui định khác (R-31). Nếu các bên có thỏa
thuận hoặc theo yêu cầu của một bên có lý do chính đáng hoặc trọng tài viên cho là
hợp lý thì trọng tài viên có thể hỗn bất kỳ phiên xét xử nào (R-30). Khác với các
qui tắc tố tụng trọng tài của các tổ chức trọng tài khác, Uỷ Ban trọng tài trước khi
bắt đầu phiên xét xử đầu tiên, các trọng tài viên, các nhân chứng buộc phải đưa ra
lời tuyên thệ nếu luật qui định hoặc theo yêu cầu của bất cứ bên nào (R-27). Trọng
tài viên có tồn quyền quyết định trình tự tiến hành các thủ tục cũng như sắp xếp
trình tự chứng cứ miễn sao các bên được đối xử cơng bằng.
Các bên có thể thỏa thuận bỏ qua thủ tục hỏi và tranh luận. Sau khi nghe các
bên, các nhân chứng trình bày xong (R-32), Uỷ Ban trọng tài tuyên bố kết thúc
phiên xét xử nếu các bên không đưa thêm chứng cứ nào khác hoặc không muốn
nghe thêm nhân chứng nào khác (R-37). Phiên xét xử có thể được mở lại theo sáng

12


kiến của trọng tài viên hoặc theo yêu cầu của bất kỳ bên nào trước khi có phán
quyết (R-38).
Tố tụng trọng tài kết thúc bằng một phán quyết cuả Uỷ Ban trọng tài theo
nguyên tắc đa số và có giá trị chung thẩm (trừ trường hợp Uỷ Ban trọng tài bao gồm
trọng tài viên duy nhất) và phán quyết này không được muộn hơn 30 ngày kể từ
ngày kết thúc phiên xét xử hoặc kể từ ngày AAA chuyển các giải trình và chứng cứ
cuối cùng đến trọng tài viên trong trường hợp bỏ qua giai đoạn tranh luận (R-43) trừ
khi pháp luật có qui định khác hoặc các trọng tài viên có qui định khác.

Bên cạnh phán quyết cuối cùng, trọng tài viên có thể ra các phán quyết, mệnh
lệnh, phán quyết lâm thời, tạm thời hoặc từng phần. Trong bất kỳ loại phán quyết
nào cũng phải lập thành văn bản (R-44). Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày các bên
nhận được phán quyết, các bên có quyền yêu cầu trọng tài viên, thông qua AAA,
sửa những lỗi sai khi ghi chép, in ấn hay tính tốn trong phán quyết.Trọng tài viên
có nghĩa vụ đáp ứng các yêu cầu của các bên trong thời hạn do luật định (R-48).
Trong trường hợp, một trong các bên cho rằng phán quyết của Uỷ Ban trọng tài là
không hợp pháp, rơi vào một trong những qui định tại điểm a Điều 10 FAA thì có
quyền nộp đơn lên tịa án Hợp chủng quốc của hoặc cho quận nơi phán quyết trọng
tài được tuyên để yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.
Thi hành quyết định trọng tài: Nếu các bên khơng có yêu cầu trọng tài viên sửa
chữa những lỗi kỹ thuật hoặc khơng u cầu tịa án hủy phán quyết trọng tài thì
phán quyết trọng tài có giá trị ràng buộc các bên, các bên có nghĩa vụ thi hành. Nếu
một trong các bên không tự nguyện thi hành sẽ bị cưỡng chế thi hành.
Điểm đặc biệt ở tố tụng trọng tài thương mại của AAA mà các qui tắc tố tụng
trọng tài thương mại của các tổ chức trọng tài khác đó là AAA có thủ tục rút gọn
dành cho những vụ tranh chấp đơn giản giúp các bên tiết kiệm thời gian hoặc thủ
tục lựa chọn cho các tranh chấp thương mại có qui mơ lớn, phức tạp dành cho
những vụ tranh chấp phức tạp có qui mơ lớn, được xây dựng để bổ sung cho các qui
tắc trọng tài thương mại thơng thường. Trong trường hợp có sự khác biệt giữa thủ
tục thông thường và thủ tục lựa chọn thì áp dụng thủ tục lựa chọn.

13


Thủ tục rút gọn: Áp dụng cho những vụ tranh chấp mà đơn kiện hoặc
đơn kiện lại cơng khai có giá trị từ 75.000$ trở xuống, hoặc áp dụng cho những vụ
việc không công bố công khai về kinh tế hoặc các vụ việc liên quan đến nhiều hơn
hai bên trừ khi các bên hoặc AAA có quyết định khác (E-1). Nếu sau khi trọng tài
viên được chỉ định mà đơn kiện hoặc đơn kiện lại của các bên có giá trị vượt quá

75.000$ thì vụ việc sẽ được giải quyết theo thủ tục thông thường trừ khi các bên và
trọng tài viên có thỏa thuận khác (E-3). Thành phần của Uỷ Ban trọng tài gồm một
trọng tài viên do AAA chỉ định trong trường hợp các bên khơng có thỏa thuận hoặc
không thỏa thuận được với nhau về số lượng trọng tài viên (E-5). Cũng như trong
thủ tục thông thường, các bên có quyền phản đối trọng tài viên do AAA chỉ định
nếu như trọng tài viên không đảm bảo tính vơ tư, độc lập trong q trình giải quyết
tranh chấp của các bên (E-5).
Phiên xét xử sẽ được tiến hành dựa trên chứng cứ, tài liệu mà các bên cung cấp
trừ khi các bên yêu cầu phải tiến hành vấn đáp hoặc trọng tài viên thấy cần thiết và
thông thường phiên xét xử không quá một ngày, nếu cần thiết trọng tài viên sẽ mở
lại phiên xét xử bổ sung trong thời hạn luật định (E-9). Khơng có buổi gặp gỡ hành
chính và khơng có phiên xét xử sơ bộ. Thời hạn ra phán quyết là 14 ngày kể từ khi
kết thúc phiên xét xử hoặc kể từ ngày AAA chuyển cho trọng tài viên các giải trình
và chứng cứ cuối cùng, nếu bỏ qua phiên xét xử vấn đáp (E-10).
Thủ tục lựa chọn cho các tranh chấp thương mại có qui mơ lớn, phức tạp: Trừ
khi các bên có thỏa thuận khác, thủ tục này được áp dụng cho các đơn kiện hoặc
đơn kiện lại có giá trị cơng khai thấp nhất là 1.000.000$ khơng tính lãi của trị giá
khiếu kiện, phí và các chi phí trọng tài với điều kiện các bên đều đồng ý áp dụng thủ
tục này để giải quyết tranh chấp giữa họ hoặc một cơ quan có thẩm quyền quyết
định rằng vụ kiện này phải đươc giải quyết tại AAA theo qui tắc tố tụng này, hoặc
các bên đồng ý đưa đơn kiện hoặc đơn kiện lại có trị giá dưới 1.000.000$, các vụ
khơng mang tính kinh tế hoặc các vụ việc mà trị giá đơn kiện không xác định được,
ra giải quyết theo thủ tục này thì thủ tục này sẽ được áp dụng (L-1). Các bên tranh
chấp có thể thỏa thuận loại bỏ, sửa đổi hoặc thay thế bất kỳ nội dung nào của thủ
tục này và nó chỉ được áp dụng cho vụ việc đó mà thơi (L-1).

14


Cũng giống như thủ tục thông thường, AAA tiến hành cuộc gặp gỡ hành chính

khi AAA thấy cần thiết trước khi thành lập Uỷ Ban trọng tài nhằm mục đích:
- Để thu thập các thông tin bổ sung về bản chất và qui mô của tranh chấp và
khoản thời gian dự kiến của phiên xét xử và kế hoạch.
- Để bàn luận quan điểm của các bên về các yêu cầu về kỹ thuật và các yêu
cầu khác đối với trọng tài viên.
- Để thu thập các giải trình về xung đột giữa các bên.
- Để cùng các bên xem xét khả năng có thể áp dụng thủ tục trung gian hoặc
các phương pháp ngoài xét xử khác để đạt được một giải pháp hợp lý cho tranh
chấp và những mục đích khác nếu các bên và AAA cho là phù hợp (L-2).
Khác với thủ tục thông thường, thủ tục lựa chọn sẽ do 3 trọng tài viên tham gia
xét xử vụ việc nếu các bên khơng có thỏa thuận khác (L-3). AAA có danh sách
trọng tài viên để giải quyết theo thủ tục này (L-3) để các bên lựa chọn hoặc AAA
chỉ định. Nếu các bên và trọng tài viên đồng ý, phiên xét xủ sơ bộ sẽ được bỏ qua.
Qui tắc tố tụng trọng tài của AAA đã tạo điều kiện thuận lợi cho các bên có
quyền lựa chọn qui tắc tố tụng phù hợp với vụ tranh chấp của họ. AAA có một đội
ngũ trọng tài viên phù hợp với từng thủ tục, được đào tạo vững chắc về pháp luật,
có phẩm chất đạo đức và có uy tín chun mơn. Đây là một trong những lý do giúp
cho AAA trở thành một trong những tổ chức trọng tài xuất sắc nhất trên thế giới.
1.2.2.2. Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore (IAA)
Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore được thành lập vào năm 1991 theo luật
công ty của cộng hịa Singapore như một cơng ty trách nhiệm hữu hạn đảm bảo.
Đây là điều khác biệt so với các tổ chức trọng tài trên thế giới. Trung tâm trọng tài
quốc tế Singapore hoạt động theo qui tắc tố tụng riêng của mình được soạn thảo dựa
trên quy tắc Uncitral, Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ, tòa án trọng tài quốc tế London
nhưng vẫn giữ được nét riêng của pháp luật Singapore. SIAC khuyến khích các bên
sửa đổi quy tắc tố tụng cho phù hợp với vụ tranh chấp của mình, các bên có thể
thỏa thuận áp dụng quy tắc khác để giải quyết tranh chấp tại SIAC.

15



Trình tự thủ tục tố tụng trọng tài thương mại của trung tâm trọng tài quốc tế
Singapore được tiến hành theo các bước
a) Nộp đơn: Theo quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài quốc tế Singapore,
nguyên đơn sẽ đồng thời gởi bản thông báo ra bị đơn và thư ký của trung tâm trọng
tài quốc tế Singapore (gọi tắt là trung tâm). Ngày của thư ký của trung tâm nhận
được thông báo này là ngày bắt đầu việc trọng tài. Bản thông báo bao gồm những
nội dung sau:
Yêu cầu đưa tranh chấp ra trọng tài giải quyết, tên và địa chỉ các bên tham gia
ra trọng tài, văn bản chỉ ra điều khoản trọng tài hay thỏa thuận trọng tài riêng biệt
được văn bản đó dẫn chiếu đến, văn bản dẫn chiếu đến hợp đồng mà tranh chấp
phát sinh hoặc liên quan tới, một bản tóm tắt về nội dung và các tình tiết tranh chấp,
ghi yêu cầu bồi thường và một bản về mọi vấn đề liên quan tới việc tiến hành trọng
tài mà các bên đã có thỏa thuận trước đó hoặc liên quan đến vấn đề mà nguyên đơn
muốn đề nghị (Điều 3). Trong thời hạn 14 ngày kể từ ngày nhận được bản thông
báo ra trọng tài, bị đơn gởi bản trả lời cho nguyên đơn và thư ký của trung tâm.
Viêc bị đơn không gởi bản trả lời không làm cho bị đơn mất quyền khiếu kiện cũng
như kiện lại trong đơn biện hộ. Bản trả lời gồm những nội dung sau:
Khẳng định hoặc từ chối tất cả hoặc một phần các khiếu kiện, một bản giải
trình ngắn gọn về tích chất và các tình tiết của đơn biện hộ và ý kiến trả lời về
những vấn đề nêu trong thông báo ra trọng tài, theo yêu cầu của một văn bản về mọi
vấn đề liên quan tới việc tiến hành trọng tài mà các bên đã có thỏa thuận trước đó
hoặc liên quan tới vấn đề mà nguyên đơn muốn đề nghị.
b) Thành lập Hội đồng trọng tài: Nếu các bên không thỏa thuận được với
nhau về số lượng trọng tài viên thì vụ tranh chấp sẽ do trọng tài viên duy nhất giải
quyết (Điều 6). Nếu các bên không thỏa thuận được việc chỉ định trọng tài viên duy
nhất hoặc một trong các bên đưa ra tên của một cá nhân hoặc một vài cá nhân có thể
trở thành trọng tài viên nhưng không đạt được thỏa thuận trong việc lựa chọn trọng
tài viên duy nhất thì trọng tài viên duy nhất sẽ do cơ quan có thẩm quyền mà các
bên đã thỏa thuận chỉ định. Nếu hai bên không thỏa thuận cơ quan có thẩm quyền

chỉ định hoặc cơ quan này không chỉ định trong thời hạn qui định hoặc một trong
các bên không đưa ra tên của một vài hoặc một cá nhân có thể trở thành trọng tài
16


viên duy nhất thì chủ tịch trung tâm sẽ chỉ định trọng tài viên duy nhất cho các bên
một cách nhanh nhất (Điều 7).
Trong trường hợp Uỷ Ban trọng tài gồm 3 trọng tài viên, việc chỉ định được tiến
hành như sau:
Về nguyên tắc mỗi bên chỉ định cho mình một trọng tài viên. Hai trọng tài
viên này sẽ chỉ định một trọng tài viên thứ 3 làm chủ tịch Uỷ Ban trọng tài. Tuy
nhiên trong thời hạn 21 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của một bên về việc
chỉ định trọng tài viên mà bên kia không thơng báo trọng tài viên mà mình chọn,
bên đã chỉ định sẽ yêu cầu cơ quan có thẩm quyền chỉ định mà hai bên đã thỏa
thuận trước đó chỉ định trọng tài viên hoặc chủ tịch sẽ chỉ định nếu các bên khơng
có thỏa thuận về cơ quan nêu trên hoặc cơ quan đó từ chối khơng chỉ định hoặc
khơng chỉ định trong thời hạn luật định. Hai trọng tài viên sau khi đã đươc chỉ định
không thỏa thuận được việc chỉ định trọng tài viên thứ 3 làm chủ tịch Uỷ Ban trọng
tài, chủ tịch sẽ chỉ định trong trường hợp hai bên không thỏa thuận được việc chỉ
định hoặc khơng có thỏa thuận về cơ quan chỉ định hoặc có thỏa thuận nhưng cơ
quan này từ chối chỉ định hoặc không chỉ định trong thời hạn. Quyết định của chủ
tịch về việc chỉ định trọng tài viên sẽ không bị kháng cáo (Điều 8).
Chỉ định trọng tài viên trong trường hợp tranh chấp nhiều bên: theo quy tắc
trọng tài của SIAC, tranh chấp nhiều bên là tranh chấp có 3 hoặc 3 bên trở lên. Nếu
các bên khơng thỏa thuận được với nhau thủ tục chỉ định trọng tài viên trong thời
hạn 21 ngày kể từ ngày nhận được thơng báo ra trọng tài thì chủ tịch sẽ chỉ định và
quyết định này sẽ không bị kháng cáo (Điều 9).
Thay đổi trọng tài viên: Bất cứ trọng tài viên nào được chỉ định theo trình tự nêu
trên phải đảm bảo tính độc lập, vơ tư và sẽ khơng hành động với tư cách là luật sư
cho bất cứ bên nào. Trong trường hợp các bên có quốc tịch khác nhau, chủ tịch sẽ

xem xét khả năng chỉ định trọng tài viên có quốc tịch khác với quốc tịch của các
bên và trong mọi trường hợp trọng tài viên phải cơng khai mọi hồn cảnh có thể tạo
ra sự ghi ngờ về tính độc lập và vơ tư của mình cho các bên biết trừ trường hợp các
bên đã được thông báo rồi (Điều 11).

17


Nếu trọng tài viên được lựa chọn không đảm bảo được tính độc lập, vơ tư của
mình trong q trình tố tụng thì tự mình hoặc theo yêu cầu của một bên và được bên
kia đồng ý, trọng tài viên sẽ bị khước từ. Thông báo hoặc quyết định khước từ này
sẽ được gởi đến bên kia, trọng tài viên bị khước từ cũng như các trọng tài viên khác
của Uỷ Ban trọng tài. Trong trường hợp phía bên kia không đồng ý viêc khước từ,
trọng tài viên bị khước từ khơng tự mình rút khỏi nhiệm vụ của mình thì chủ tịch sẽ
quyết định việc khước từ trừ trường hợp trước đó các bên có thỏa thuận cơ quan có
thẩm quyền chỉ định trọng tài viên (Điều 13,14).
Trường hợp một bên muốn khước từ trọng tài viên do chính mình chỉ định, điều
này chỉ có thể xảy ra nếu những lý do để một bên khước từ là những lý do biết được
sau khi đã tiến hành chỉ định (Điều 21 khoản 2). Nếu trong quá trình tiến hành thủ
tục trọng tài, trọng tài viên chết hoặc xin thôi việc hoặc trọng tài viên từ chối thực
hiện hoặc không có khả năng thực hiện nhiệm vụ của mình, trọng tài viên đó có thể
tự mình khước từ. Trọng tài viên thay thế sẽ được chỉ định tương tự như thủ tục chỉ
định trọng tài viên nêu trên.
c) Chuẩn bị phiên họp, các biện pháp tạm thời: Các bên được khuyến khích
thỏa thuận về thủ tục trọng tài và nếu các bên không thỏa thuận về thủ tục trọng tài
hoặc khơng có trong qui tắc trọng tài của SIAC thì Uỷ Ban trọng tài có tồn quyền
quyết định miễn sao quyết định trọng tài đảm bảo tính cơng minh, nhanh gọn, tiết
kiệm và quyết định này có giá trị chung thẩm (Điều 17). Ngồi ra, các bên cịn phải
gởi bản giải trình cho Uỷ Ban trọng tài và thư ký trung tâm đồng thời kèm theo các
tài liệu cần thiết hoặc danh sách tài liệu.

Trước khi tiến hành phiên xét xử đầu tiên, Uỷ Ban trọng tài sẽ xem xét hồ sơ,
xác minh sự việc và thu thập chứng cứ. Các bên có nghĩa vụ cung cấp tài liệu chứng
cứ cho Uỷ Ban trọng tài chứng minh yêu cầu của mình đồng thời gởi cho bên kia
kể cả mọi báo cáo giám định viên. Uỷ Ban trọng tài có tồn quyền cho phép, từ chối
hoặc hạn chế sự hiện diện của các nhân chứng mà các bên đưa ra.
Biện pháp khẩn cấp tạm thời: Khi một bên cho rằng quyền và lợi ích hợp
pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại nếu khơng có biện pháp ngăn
chặn, có quyền nộp đơn yêu cầu Hội đồng trọng tài áp dụng các biện pháp tạm thời.
Hội đồng trọng tài trên cơ sở yêu cầu của một bên và trên cơ sở bên đó đã có sự bảo
18


đảm thích hợp, có quyền ra lệnh áp dụng các biện pháp tạm thời mà Hội đồng trọng
tài thấy là cần thiết đối với nội dung tranh chấp.
d) Hòa giải trong tố tụng: Trong quá trình tố tụng, các bên có thể tự mình
hoặc u cầu Uỷ Ban trọng tài tiến hành hòa giải. Trong trường hợp các bên tự hịa
giải thành thì theo u cầu của một trong các bên, Uỷ Ban trọng tài ra quyết định
ghi nhận sự hòa giải thành hoặc Uỷ Ban trọng tài tiến hành hịa giải cho các bên,
nếu hịa giải thành thì Uỷ Ban trọng tài ra một phán quyết ghi nhận và quyết định
hay phán quyết đó có giá trị ràng buộc các bên. Nếu các bên không yêu cầu, các bên
phải xác nhận bằng văn bản sự hịa giải thành đó gởi cho thư ký trung tâm. Lúc đó
Uỷ Ban trọng tài sẽ giải tán và kết thúc quá trình tố tụng. Các bên tự nguyện thực
hiện.
e) Phiên họp giải quyết tranh chấp: Các bên có thể tham gia trực tiếp hoặc ủy
quyền cho luật sư hoặc những đại diện khác thay mình tham gia tố tụng (Điều 21).
Trừ khi các bên có thỏa thuận khác, phiên họp xét xử kín. Chủ tịch Uỷ Ban trọng tài
hoặc trọng tài viên duy nhất sẽ thông báo cho các bên biết ngày, giờ, địa điểm các
phiên họp và các cuộc họp. Sau khi nghe các bên trình bày, các cuộc chất vấn, các
tài liệu chứng cứ, nhân chứng của các bên, Uỷ Ban trọng tài sẽ tuyên bố kết thúc
phiên xét xử nếu thấy rằng khơng cịn bằng chứng hay nhân chứng nào khác. Uỷ

Ban trọng tài có thể mở lại phiên họp nhưng phải trước ngày ra phán quyết, theo đề
nghị của một bên hoặc tự mình thấy là cần thiết (Điều 22).
Phán quyết của Uỷ Ban trọng tài được tuyên theo nguyên tắc đa số trừ trường
hợp Uỷ Ban trọng tài chỉ có trọng tài viên duy nhất. Trừ khi các bên có thỏa thuận
khác, phán quyết được lập thành văn bản và nêu rõ cơ sở ra phán quyết. Thời hạn ra
phán quyết là 45 ngày kể từ ngày kết thúc phiên họp cuối cùng . Uỷ Ban trọng tài có
thể ra phán quyết từng phần, phán quyết tạm thời phù hợp với từng vấn đề khác
nhau vào từng thời điểm khác nhau (Điều 28).

19


CHƢƠNG 2:

THỰC TRẠNG TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM VÀ HƢỚNG
HOÀN THIỆN
1) Sự cần thiết của tố tụng trọng tài trong giải quyết tranh chấp thƣơng

mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Tham gia quan hệ thương mại, các chủ thể đều đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng
đầu và một khi lợi ích của một trong các bên bị xâm hại thì tranh chấp phát sinh là
điều dễ hiểu và tất yếu. Trong nền kinh tế thị trường, các bên tự do thỏa thuận giao
kết hợp đồng, hay nói cách khác là tự do kinh doanh và một trong những nội dung
quan trọng của tự do kinh doanh là sự tự do lựa chọn hình thức và phương thức giải
quyết tranh chấp. Hiện nay, trên thế giới có các hình thức giải quyết tranh chấp như:
thương lượng, hòa giải. trọng tài và tòa án. Song trọng tài là hình thức được ưa
chuộng nhất, được sử dụng phổ biến nhất và rộng rãi nhất trên thế giới.
Đối với thương lượng, hịa giải, địi hỏi sự thiện chí của các bên rất cao, thiệt hại
có thể sẽ khơng được đền bù kịp thời nếu khơng có sự thiện chí của các bên, như
vậy sẽ trái với nguyên tắc “thiệt hại phải được đền bù kịp thời”. Trong trường hợp

các bên tự nguyện tiến hành hòa giải và hòa giải thành thì cũng khơng có một biện
pháp cưỡng chế nào bắt buộc các bên phải thi hành mà cần phải có sự tự nguyện thi
hành của các bên.
Đối với tịa án, hiện nay trên thế giới khơng có một bộ luật chung nào được sử
dụng cũng như tòa án của một quốc gia nào có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi
tranh chấp phát sinh. Nếu tranh chấp được các bên thỏa thuận đồng ý cho tòa án
quốc gia giải quyết thì gây ra rất nhiều khó khăn cho các bên trong việc tìm hiểu thủ
tục tố tụng của tịa án của quốc gia đó, phải dịch tồn bộ chứng cứ, tài liệu, giấy tờ
ra ngôn ngữ của quốc gia đó1… đặc biệt là khi tịa án ra quyết định rất thường xảy
ra tình trạng kháng cáo, điều này làm cho quá trình giải quyết tranh chấp kéo dài,
gây cho các bên tốn nhiều thời gian, công sức, tiền bạc và phán quyết đó có được
cơng nhận ở quốc gia khác hay khơng thường thì rất hạn chế trong vấn đề này vì
hiện nay chưa có một cơng ước quốc tế nào được đa số các quốc gia thừa nhận các
phán quyết của tịa án nước ngồi, được cơng nhận và cho thi hành trên lãnh thổ
1

trích từ cuốn sách Hợp đồng Thương mại Quốc Tế

20


nước mình như quyết định của trọng tài. Ngồi ra trong nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần với nhiều mối quan hệ đan xen nhau rất đa dạng, phức tạp, và chính vì
vậy rất dễ phát sinh tranh chấp, lúc này địi hỏi phải có một đội ngũ các chuyên gia
giỏi cả về chuyên môn lẫn am hiểu về tính chất của một nền kinh tế thị trường. Giải
quyết bằng trọng tài ngày càng hiện rõ những ưu điểm đáp ứng được những nhu cầu
của nền kinh tế thị trường, khắc phục những hạn chế của tòa án trong việc giải
quyết tranh chấp thương mại quốc tế.
Chính vì trọng tài có nhiều ưu điểm trong việc giải quyết tranh chấp thương mại
quốc tế so với các hình thức giải quyết tranh chấp khác cho nên nó được đón nhận

và sử dụng rộng rãi và là một phần không thể thiếu trong hoạt động thương mại ở
các nước phát triển, các nước có nền kinh tế thị trường.
Từ năm 1986 đến nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện đường lối đổi
mới, chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay
Việt Nam đã là thành viên của hiệp hội các nước Đông Nam Á ( gọi tắt là ASEAN),
tham gia khu vực thương mại tự do ASEAN (gọi tắt là AFTA), là thành viên của
diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC), tham gia diễn đàn
hợp tác kinh tế Á – Âu (Asem), đã tham gia Công ước New York 1958 về công
nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài và đã ký kết nhiều hiệp
định đa phương và song phương với các nước như Hiệp định thương mại Việt – Mỹ
ngày 14-7-2003. Và hiện đang đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới gọi
tắt là WTO. Việt Nam đang từng bước đưa nền kinh tế phát triển ngang tầm với các
nước trong khu vực cũng như trên thế giới, trở thành một nền kinh tế thị trường
đúng nghĩa2. Quan hệ thương mại là quan hệ với tính chất đa dạng và phức tạp,
tranh chấp phát sinh là điều dễ hiểu và tất yếu. Việt Nam đã, đang, và sẽ tiếp tục gia
nhập “cuộc chơi” thì khơng thể tránh khỏi qui luật này. Trong những năm qua,
nhiều vụ tranh chấp đã phát sinh cả về số lượng lẫn tính chất phức tạp từ hoạt động
kinh doanh giữa các doanh nghiệp Việt Nam với nhau và giữa doanh nghiệp Việt
Nam với đối tác nước ngồi. Chính vì vậy Việt Nam đã từng bước hồn thiện hệ
thống pháp luật, phù hợp với pháp luật thế giới nhưng vẫn phù hợp với tình hình

2

trích dẫn từ tờ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội về dự án Pháp lệnh Trọng tài Thương Mại

21


kinh tế, chính trị của xã hội Việt Nam, có cái nhìn đúng đắn hơn về trọng tài, điển

hình là các luật đã thừa nhận vai trò của trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp.
Điều 24 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996 sửa đổi, bổ sung 9/6/2000
quy định “các tranh chấp giữa các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc
giữa các bên liên doanh cũng như các tranh chấp giữa các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngồi, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp
Việt Nam trước hết phải được giải quyết thông qua thương lượng, hịa giải.
Trong trường hợp các bên khơng hịa giải khơng hịa giải được thì vụ tranh chấp
vụ tranh chấp được đưa ra giải quyết tại tổ chức trọng tài hoặc tòa án Việt Nam theo
pháp luật Việt Nam .
Đối với tranh chấp giữa các bên tham gia doanh nghiệp liên doanh hoặc hợp
đồng hợp tác kinh doanh, các bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng việc lựa chọn
một tổ chức trọng tài khác để giải quyết vụ tranh chấp…”.
Điều 4 Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005 quy định: “Các bên tham gia trong hợp
đồng liên quan đến hoạt động hàng hải mà trong đó có ít nhất một bên là tổ chức
hoặc cá nhân nước ngồi thì có quyền thỏa thuận áp dụng luật nước ngoài hoặc tập
quán hàng hải quốc tế trong các quan hệ hợp đồng và chọn trọng tài, tòa án ở một
trong hai nước hoặc ở một nước thứ ba để giải quyết tranh chấp”.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 317 Luật thương mại Việt Nam 2005 quy định
về hình thức giải quyết tranh chấp: “ Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài hoặc Tòa
án: Thủ tục giải quyết tranh chấp trong thương mại tại Trọng tài, Tòa án được tiến
hành theo các thủ tục tố tụng của Trọng tài, Tòa án do pháp luật quy định.”
Và trước những đòi hỏi khách quan về đa dạng hóa các hình thức và phương
thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh phù hợp với đặc điểm của cơ chế thị
trường, cũng như đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Ủy Ban thường vụ
quốc hội ban hành Pháp lệnh trọng tài thương mại Việt Nam 2003, khẳng định Việt
Nam đã thừa nhận tầm quan trọng của trọng tài trong việc giải quyết các tranh chấp
thương mại, là một phần không thể thiếu của quan hệ thương mại. Các doanh
nghiệp Việt Nam đã bắt đầu biết đến trọng tài như là một phương thức hữu hiệu để
giải quyết tranh chấp thương mại, tuy chưa thành một thói quen nhưng đã được đón
nhận. Trong bối cảnh phát triển kinh tế và hội nhập của Việt Nam và nhất là Việt

Nam sắp gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì vấn đề giải quyết tranh
22


chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài ngày càng thu hút sự quan tâm của các
doanh nghiệp Việt Nam.
2. Căn cứ pháp lý phát sinh thủ tục tố tụng trọng tài.
2.1.Thỏa thuận trọng tài
Khác với tòa án, thẩm quyền xét xử được quy định trong luật, trọng tài chỉ có
thể nhận tranh chấp để giải quyết khi có sự đồng ý của các bên về điều này. Hay nói
cách khác, sẽ khơng có trọng tài khi khơng có thỏa thuận trọng tài, khơng có bất cứ
một cơ quan, cá nhân nào có quyền bắt buộc họ đưa tranh chấp giữa họ ra giải quyết
nếu như họ không muốn. Theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Pháp lệnh trọng tài
thương mại: “Thỏa thuận trong tài là thỏa thuận giữa các bên cam kết giải quyết
bằng trọng tài các tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động
thương mại.”
Thỏa thuận trọng tài có thể là điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc là một
thỏa thuận riêng (Khoản 2 Điều 9 Pháp lệnh trọng tài thương mại). Cho dù là một
điều khoản trong hợp đồng hay là một thỏa thuận riêng đều có hiệu lực pháp lý như
nhau, có giá trị ràng buộc các bên và bản chất các loại thỏa thuận trọng tài nói trên
hồn tồn giống nhau và điều này có nghĩa là loại trừ thẩm quyền của tòa án, khi
một bên nộp đơn u cầu tịa án giải quyết tranh chấp thì tịa án sẽ bác đơn yêu
cầu3. Tại Điều 5 của Pháp lệnh trọng tài thương mại quy định: “ trong trường hợp
vụ tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài, nếu một bên khởi kiện tại tịa án thì tịa án
từ chối thụ lý…”.
Tại khoản 3 Điều II Công ước New York 1958 quy định: “Tòa án của một quốc
gia thành viên, khi nhận được một đơn kiện về một vấn đề mà đối với vấn đề đó các
bên đã có thỏa thuận trọng tài, theo yêu cầu của một bên Tịa án đó sẽ chuyển cho
trọng tài trừ khi tịa án thấy rằng thỏa thuận nói trên khơng có hiệu lực hoặc không
thể thực hiện được”.

Theo Điều 6 Luật trọng tài quốc tế Singapore 1995 quy định: “trong trường hợp
bất cứ bên nào tham gia thỏa thuận trọng tài mà luật này áp dụng lại tiến hành tố
tụng pháp lý tại bất kỳ tòa án tại Singapore khởi kiện bên kia của thỏa thuận trong
tài về bất cứ vấn đề nào là đối tượng của thỏa thuận thì bên kia có thể vào bất cứ

3

trích dẫn từ cuốn sách Hợp đồng Thương mại Quốc tế

23


thời điểm nào nộp đơn kiến nghị lên tòa án trên để yêu cầu tòa án ra quyết định
dừng tố tụng đó. Tịa án được u cấu sẽ ra quyết định dừng tố tụng trừ khi tòa án
thấy rằng thỏa thuận trọng tài là vơ hiệu và khơng có giá trị pháp lý, khơng thể thực
hiện hoặc khơng có khả năng thực hiện”.
Qua đây ta thấy được giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài được các nước thừa
nhận, nếu các bên có thỏa thuận trọng tài thì đồng thời loại trừ thẩm quyền xét xử
của tòa án quốc gia.
Tại khoản 1 và khoản 3 Điều 6 của Quy tắc tố tụng trọng tài của phòng thương
mại quốc tế (ICC) quy định: “Khi các bên thỏa thuận đưa tranh chấp ra trọng tài giải
quyết theo quy tắc này thì tố tụng trọng tài được coi là bắt đầu có hiệu lực từ ngày
các bên bắt đầu đưa tranh chấp ra giải quyết hoặc từ ngày các bên ký thỏa thuận
trọng tài”.
Và “nếu bất kỳ bên nào trong các bên từ chối hoặc khơng tham gia trọng
tài…thì tố tụng trọng tài vẫn được tiến hành bất kể sự không tham gia hoặc từ chối
tham gia của các bên.”. Tương tự tại khoản 1 Điều II Công ước New York 1958 quy
định: “Mọi quốc gia thành viên đều công nhận văn bản thỏa thuận, theo đó các bên
buộc phải đưa ra trọng tài xem xét mọi tranh chấp đã hoặc có thể nảy sinh giữa các
bên về việc một quan hệ pháp lý xác định, có quan hệ hợp đồng hay khơng, liên

quan tới một vấn đề có khả năng giải quyết được thông qua trọng tài”.
Đặc điểm cơ bản của thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận trọng tài hoàn tồn độc
lập với hợp đồng chính, trường hợp hợp đồng chính vơ hiệu khơng đương nhiên dẫn
đến việc thỏa thuận trọng tài cũng vô hiệu theo. Tại Điều 11 Pháp lệnh trọng tài quy
định: “điều khoản trọng tài tồn tại độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy
bỏ hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu lực của điều
khoản trọng tài.”
Khi đàm phán ký kết hợp đồng, các bên đều không muốn tranh chấp xảy ra, tuy
nhiên quan hệ thương mại trong nền kinh tế hiện nay quá đa dạng và phức tạp,
khơng chỉ có quan hệ thương mại trong nước mà cịn có cả quan hệ thương mại có
yếu tố nước ngoài, đụng chạm đến nhiều hệ thống pháp luật cũng như những phong
tục tập quán thương mại. Nhận thức được điều này và để bảo vệ quyền lợi của
mình, các bên chủ động tìm cách bảo vệ quyền lợi đó từ khi ký kết hợp đồng thông
qua điều kiện trọng tài. Và nó là một điều khoản dự liệu. Nếu hợp đồng được thực
24


hiện đầy đủ thì coi như điều khoản dự liệu không cần áp dụng, nhưng khi một trong
các bên không thực hiện hoặc thực hiện khơng đầy đủ thì điều khoản đó sẽ phát sinh
hiệu lực. Tính độc lập pháp lý của thỏa thuận trọng tài cùng với nguyên tắc tự
nguyện yêu cầu trọng tài giải quyết tranh chấp đã thể hiện sự độc lập của thỏa thuận
trọng tài với hợp đồng chính. Chính vì vậy mà mọi sự thay đổi, gia hạn hay hủy bỏ
hợp đồng chính hay sự vơ hiệu của hợp đồng chính sẽ khơng làm ảnh hưởng đến
điều khoản trọng tài.
2.2. Hình thức của thỏa thuận trọng tài
Hầu hết các nước trên thế giới đều quy định thỏa thuận trọng tài phải được lập
thành văn bản và chỉ thừa nhận một hình thức duy nhất của thỏa thuận trọng tài thể
hiện dưới hình thức văn bản. Văn bản có thể là thư, điện báo, telex, fax, thư điện tử
hoặc hình thức văn bản khác hoặc nó nằm trong văn bản được các bên ký kết.
Khoản 1 Điều 9 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 quy định:

“Thỏa thuận trọng tài phải được lập bằng văn bản. Thỏa thuận trọng tài thông qua
thư, điện báo, telex,fax, thư điện tử hoặc hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí
của các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài đều được coi là thỏa thuận trọng
tài bằng văn bản”.
Luật mẫu Uncitral về trọng tài thương mại quốc tế 1985 quy định tại khoản 2
Điều 7: “ thỏa thuận trọng tài phải được lập thành văn bản… việc dẫn chiếu trong
hợp đồng tới một văn bản ghi nhận điều khoản trọng tài lập nên thỏa thuận trọng tài
với điều kiện hợp đồng này phải là văn bản và sự dẫn chiếu đó phải là một bộ phận
của hợp đồng này”. Bên cạnh, một số nước theo hệ thống pháp luật án lệ cịn thừa
nhận cả hình thức thỏa thuận trọng tài bằng miệng, ví dụ như Anh, Hồng Kơng,
Australia.
Ngồi ra, thỏa thuận trọng tài cịn có thể được lập thành một văn bản riêng biệt,
khoản 2 Điều 9 Pháp lệnh trọng tài thương mại quy định: “Thỏa thuận trong tài có
thể là điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc là một điều khỏan riêng”. Như vậy
trong thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại có hai loại thỏa thuận trọng tài:
Thỏa thuận trọng tài được quy định trực tiếp trong văn bản của hợp đồng chính.
Loại này thường được sử dụng trong trường hợp các bên dự phịng có tranh chấp
xảy ra thì được đảm bảo giải quyết bằng trọng tài chuyên nghiệp và quyết định của
trọng tài được thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế.
25


×