Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về trị giá tính thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





ĐỖ VĂN NHẬT





HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
TRỊ GIÁ TÍNH THUẾ NHẬP KHẨU TRONG ĐIỀU KIỆN
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ



CHUYÊN NGÀNH: LUẬT QUỐC TẾ
MÃ SỐ: 50512




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC






NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN QUYỀN




HÀ NỘI - NĂM 2005



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ TRỊ GIÁ TÍNH THUẾ
NHẬP KHẨU TRONG TƢ PHÁP QUỐC TẾ 5
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển phƣơng pháp xác định trị giá tính thuế nhập
khẩu 5
1.2 Khái niệm trị giá tính thuế nhập khẩu và pháp luật trị giá tính thuế nhập
khẩu 8
1.2.1 Khái niệm trị giá tính thuế nhập khẩu 8
1.2.2 Khái niệm pháp luật trị giá tính thuế nhập khẩu 15
1.3. Các điều ƣớc quốc tế về trị giá tính thuế nhập khẩu 17
1.3.1. Trị giá tính thuế nhập khẩu theo Định nghĩa Brussels 17
1.3.2. Trị giá tính thuế nhập khẩu theo Hiệp định trị giá GATT/WTO 19
1.3.3. Quy định của hiệp định thƣơng mại Việt – Mỹ (10/2001) về trị giá tính
thuế nhập khẩu 31
1.4 Mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và điều ƣớc quốc tế về trị giá tính thuế
nhập khẩu 31
Kết luận chương 1 34
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TRỊ GÍA TÍNH
THUẾ NHẬP KHẨU 36

2.1. Các quy định của Pháp luật Việt nam về trị giá tính thuế nhập khẩu 36
2.1.1 Trị giá tính thuế nhập khẩu theo quốc gia 37
2.1.2 Trị giá tính thuế nhập khẩu theo nguyên tắc của hiệp định thực hiện điều 7
hiệp định chung về thuế quan và thƣơng mại (trị giá tính thuế theo GATT)
45
2.2 Những hạn chế của pháp luật về trị giá tính thuế nhập khẩu trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế. 53
Kết luận chương 2 64

Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRỊ GIÁ TÍNH THUẾ NHẬP KHẨU
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM 65
3.1 Yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế đối với pháp luật về trị giá tính thuế
nhập khẩu 65
3.2 Căn cứ cho việc hoàn thiện pháp luật trị giá tính thuế nhập khẩu 69
3.2.1 Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế 69
3.2.2. Một vài đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thị trƣờng ở Việt nam trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế liên quan đến vấn đề hoàn thiện pháp luật về trị giá
tính thuế nhập khẩu 71
3.2.3 Lộ trình thực hiện các cam kết trong quá trình thực hiện hội nhập kinh tế
quốc tế 72
3.3. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật trị giá tính thuế nhập khẩu trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế 74
3.3.1. Bảo đảm sự phù hợp của pháp luật trị giá tính thuế nhập khẩu với hiệp
định trị giá GATT 1994 74
3.3.2. Tăng cƣờng tính thống nhất và minh bạch của pháp luật về trị giá tính thuế
nhập khẩu 77
3.3.3 Kết hợp hoàn thiện pháp luật trị giá tính thuế nhập khẩu với việc thực
hiện các chức năng của hệ thống thuế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
79
3.4 Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật trị giá tính thuế nhập khẩu 80

3.4.1. Bổ sung một số quy định nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật trị giá tính
thuế theo GATT 80
3.4.2 Sửa đổi quy định về trị giá hàng hoá nhập khẩu trong một số Luật thuế hiện
hành 83
3.4.3 Bãi bỏ các quy định về việc xác định trị giá tính thuế nhập khẩu theo quốc
gia 86
3.4.4 Xây dựng một số công cụ pháp lý để đấu tranh với những hành vi gian lận
trị giá 87
Kết luận chương 3 90
KẾT LUẬN CHUNG 92


1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống xác định thuế nhập khẩu trên thế giới hiện nay là một bức tranh
đa dạng với đặc điểm chính là khá phức tạp và chƣa có sự thống nhất cao giữa
các nhóm quốc gia phát triển và đang phát triển. Để xác định thuế nhập khẩu thì
trị giá tính thuế nhập khẩu đóng một vai trò quan trọng và quyết định. Trị giá
tính thuế nhập khẩu là một trong những yếu tố cơ bản của hệ thống thuế quan
hiện đại, hệ thống các nguyên tắc xác định trị giá không chỉ ảnh hƣởng tới nguồn
thu của ngân sách nhà nƣớc mà còn ảnh hƣởng đến giao lƣu thƣơng mại quốc tế.
Các quốc gia khác nhau sử dụng các phƣơng pháp xác định trị giá tính thuế nhập
khẩu khác nhau, điều này gây nên sự cản trở trong giao lƣu thƣơng mại quốc tế.
Do đó xu hƣớng chung của các nƣớc là xây dựng một hệ thống xác định trị giá
tính thuế nhập khẩu thống nhất, công bằng, khách quan và phù hợp với thông lệ
thƣơng mại quốc tế. Hiệp định trị giá Hải quan GATT/WTO là Hiệp định đáp
ứng đƣợc yêu cầu này và dần dần đang đƣợc nhiều quốc gia trên thế giới áp
dụng nhƣ một yêu cầu tất yếu trong quá trình hội nhập. Nhƣng vì nhiều lý do

khác nhau, trong đó quan trọng nhất là trình độ phát triển kinh tế và thể chế
chính trị, nhiều quốc gia vẫn chần chừ trong việc áp dụng Hiệp định.
Xác định trị giá tính thuế nhập khẩu luôn trở thành một chủ đề đƣợc quan
tâm hàng đầu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Bởi vì, một mặt, nó góp
phần giúp các cơ quan nhà nƣớc có các phƣơng pháp khắc phục các hiện tƣợng
gian lận thƣơng mại qua giá, đảm bảo thu đúng, thu đủ tiền thuế cho ngân sách
nhà nƣớc; mặt khác, nó là công cụ để bảo vệ các nhà kinh doanh trung thực bằng
việc yêu cầu cơ quan hải quan phải chấp nhận trị giá tính thuế là giá ngƣời nhập
khẩu thực sự phải thanh toán trong giao dịch, khuyến khích phát triển sản xuất
nội địa cũng nhƣ duy trì và phát triển quan hệ thƣơng mại, ngoại giao quốc tế.
Ngay từ những năm 40 của thế kỷ trƣớc việc xây dựng một cơ chế xác định trị

2
giá hải quan minh bạch, hợp lý, có thể áp dụng trên phạm vi toàn thế giới đã
đƣợc đặt ra nhƣ một yêu cầu tất yếu và đƣợc cộng đồng quốc tế nhiệt liệt ủng hộ.
Tuy nhiên, thiết lập một cơ chế pháp lý xác định giá tính thuế nhập khẩu trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt nam hiện nay là một vấn đề tƣơng đối
phức tạp nhƣng thực sự cần thiết, thể hiện trên một số khía cạnh sau:
Về mặt thực tiễn, giao lƣu quốc tế về thƣơng mại và dân sự diễn ra theo
nhiều hình thức, phƣơng cách đa dạng. Chính sự đa dạng này làm nảy sinh nhiều
vấn đề phức tạp, không thống nhất trong việc xác định trị giá hải quan.Thứ nhất,
nhiều nhà nhập khẩu đã lợi dụng triệt để những hạn chế của pháp luật về xác
định giá tính thuế nhập khẩu hiện nay để gian lận thƣơng mại qua giá, gây thất
thu thuế cho ngân sách Nhà nƣớc. Thứ hai, quy trình, phƣơng pháp xác định trị
giá tính thuế nhập khẩu hiện nay đã bộc lộ nhiều yếu kém, không đáp ứng đƣợc
những đòi hỏi của tình hình mới, về lâu dài có thể gây cản trở cho quá trình giao
lƣu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt nam.
Về mặt pháp lý, pháp luật điều chỉnh việc xác định giá tính thuế nhập
khẩu là một cơ chế pháp lý khá phức tạp, chia cắt nhỏ lẻ. Bởi vì, trị giá tính thuế
nhập khẩu đƣợc xây dựng trên cơ sở của nhiều bộ phận pháp luật khác nhau nhƣ

pháp luật thuế, pháp luật hải quan, pháp luật thƣơng mại … Trong khi đó, sự tồn
tại những bất cập, kém hiệu lực và không đồng bộ của các bộ phận pháp luật này
với nhau và ngay trong bản thân trong bộ phận ấy đã dẫn tới những hạn chế nhất
định trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật xác định giá tính thuế nhập khẩu
hiện nay ở nƣớc ta trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt sự vận
động của hệ thống pháp luật nƣớc ta hiện nay đang tiếp cận dần với các nguyên
tắc, quy định và thông lệ của thực tiễn giao dịch thƣơng mại quốc tế cũng đã đƣa
tới các điều kiện, cơ sở và yều cầu mới cho việc đánh giá một cách toàn diện
pháp luật về xác định trị giá tính thuế nhập khẩu hiện hành. Đối với Việt nam,
một nƣớc đang trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế thì việc từng bƣớc
tiếp cận và áp dụng các quy định quốc tế về trị giá hải quan là bƣớc đi thích hợp.

3
Tại điều 3(4) Chƣơng I Hiệp định thƣơng mại Việt nam-Hoa Kỳ, Việt nam đã
cam kết thực hiện các quy định của Hiệp định về việc Thi hành Điều 7 của
GATT 1994 trong vòng 2 năm kể từ khi hiệp định Thƣơng mại Việt nam Hoa kỳ
có hiệu lực (tức là đầu năm 2004). Tất nhiên khi Việt nam gia nhập WTO thì
phải có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ hiệp định về việc thi hành Điều 7 của GATT
1994. Do đó, Việc thực thi Hiệp định về việc Thi hành Điều 7 của GATT 1994
không còn là sự lựa chọn mà là một nghĩa vụ quốc tế của Việt nam trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Vì những lý do trên, là một cán bộ hải quan tôi chọn đề tài “Hoàn thiện
pháp luật Việt nam về trị giá tính thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế ” làm luận văn thạc sĩ luật.
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở đánh giá cơ chế xác định giá tính thuế nhập khẩu theo pháp
luật hiện hành, làm rõ những nội dung cần hoàn thiện để thiết lập và vận hành cơ
chế xác định giá tính thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật giá tính thuế nhập khẩu

và các yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đối với cơ chế xác định giá
tính thuế nhập khẩu
- Làm rõ thực trạng pháp luật hiện hành đối với việc vận hành cơ chế xác
định giá tính thuế nhập khẩu, tính tƣơng thích của pháp luật trong nƣớc về trị giá
tính thuế nhập khẩu với chuẩn mực quốc tế
- Đề xuất các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về trị giá tính thuế nhập
khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
*Đối tƣợng nghiên cứu:

4
- Các văn bản pháp luật liên quan đến cơ chế xác định giá tính thuế nhập
khẩu; các văn bản của các cơ quan chức năng liên quan đến xác định giá tính
thuế nhập khẩu;
- Các số liệu, thông tin thực tiễn về thực hiện pháp luật xác định giá tính
thuế nhập khẩu.
*Phạm vi nghiên cứu:
Dƣới góc độ nghiên cứu luật học, luận văn không nghiên cứu toàn bộ
những vấn đề liên quan đến trị giá hải quan mà giới hạn nghiên cứu đƣợc xác
định trên cơ sở làm rõ lý luận pháp luật điều chỉnh việc xác định trị giá tính thuế
nhập khẩu, đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành trên sơ sở đó xây dựng các
giải pháp hoàn thiện pháp luật về xác định trị giá tính thuế nhập khẩu ở Việt nam
phù hợp với chuẩn mực quốc tế phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin và phƣơng pháp phân tích tổng hợp, so sánh, thống kê v.v…
6. Những đóng góp mới của đề tài
- Về lý luận: Củng cố cơ sở lý luận toàn diện về giá tính thuế hàng nhập
khẩu, tạo ra những cơ sở pháp lý của việc xác định trị giá tính thuế nhập khẩu
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

- Về thực tiễn: Khẳng định việc xác định trị giá tính thuế nhập khẩu phù
hợp với tiêu chuẩn và chuẩn mực quốc tế là cần thiết, tạo tiền đề cho Việt nam
nhanh chóng đạt đƣợc mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về trị giá tính thuế nhập khẩu trong tƣ pháp
quốc tế
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật Việt nam về trị giá tính thuế nhập khẩu

5
Chƣơng 3: Hoàn thiện pháp luật việt nam về trị giá tính thuế nhập khẩu
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế



CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ TRỊ GIÁ
TÍNH THUẾ NHẬP KHẨU TRONG TƢ PHÁP QUỐC TẾ

1.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN PHƢƠNG PHÁP XÁC
ĐỊNH TRỊ GIÁ TÍNH THUẾ NHẬP KHẨU

Trị giá tính thuế nhập khẩu là một căn cứ tính thuế nhập khẩu dựa trên cơ
sở trị giá của hàng hoá không phải là phát minh của thời đại chúng ta mà nó đã
tồn tại từ thời Trung cổ, thậm chí trƣớc đó. Song ngày xƣa, việc xác định trị giá
tính thuế nhập khẩu tùy thuộc những phƣơng pháp ấn định giá cụ thể của từng
nƣớc, các nhà nhập khẩu không thể đệ đơn khiếu nại về quyết định của Hải quan
để giải quyết tranh chấp về vấn đề trị giá.
Trên thế giới đã tồn tại nhiều phƣơng pháp xác định giá khác nhau, hỗn
độn, có khi trái ngƣợc nhau và kém ổn định. Nhƣ phƣơng pháp giá thị trƣờng

trong nƣớc (thƣờng áp dụng ở những nƣớc kém phát triển ở châu Á, theo phƣơng
pháp này trị giá tính thuế nhập khẩu dựa trên giá bán buôn của hàng hoá nhập
khẩu khi bán ở nƣớc nhập khẩu trừ đi 15%); phƣơng pháp giá thị trƣờng trong
nƣớc hiện hành (đây là một phƣơng pháp do nƣớc Anh đƣa ra vào đầu thế kỷ 19
và đƣợc coi là một phƣơng pháp để bảo hộ hàng hoá đƣợc sản xuất tại Anh và
bán tại các nƣớc thuộc địa. Trị giá tính thuế dựa trên giá bán buôn tại thị trƣờng
nƣớc xuất khẩu; phƣơng pháp giá thị trƣờng hợp lý (phƣơng pháp này tƣơng tự

6
nhƣ phƣơng pháp giá thị trƣờng trong nƣớc hiện hành nhƣng đƣợc coi là có tính
linh hoạt hơn trong việc xác định giá nào đƣợc coi là giá thị trƣờng hợp lý);
phƣơng pháp giá tối thiểu (đây thực sự là phƣơng pháp mang tính áp đặt, theo
phƣơng pháp này cơ quan hải quan đƣa ra giá tối thiểu cho tất cả các mặt hàng
hoá nhập khẩu mà nó không phản ánh giá thực tế của hàng hoá-phƣơng pháp này
thƣờng đƣợc áp dụng ở các nƣớc kém phát triển) … Các phƣơng pháp này đã tạo
ra những mâu thuẫn nghiêm trọng trong quan hệ buôn bán quốc tế. Dần dần,
thông qua các cuộc đàm phán, giữa các quốc gia đã đạt đƣợc những kết quả đáng
khích lệ, đặc biệt là đƣa ra những thoả thuận chung về mặt thuế suất hợp lý.
Thực tế cũng cho thấy rằng, để những Hiệp định về thuế quan đƣợc thực hiện có
hiệu quả thì phải thay đổi các tiêu chuẩn xác định trị giá. Bởi vì nếu duy trì hệ
thống xác định trị giá hiện hành thì từng quốc gia có thể đƣa ra những phƣơng
pháp xác định trị giá riêng, làm mất đi tính hiệu quả của các mức thuế suất đã
thoả thuận. Hơn nữa, các thƣơng nhân, ngoài mặt thuế suất, còn muốn biết đƣợc
trị giá lô hàng cần trao đổi là bao nhiêu để có thể chủ động hơn trong kinh
doanh.
Do vậy, đầu thế kỷ 20, một trong những lĩnh vực đƣợc nhiều nƣớc quan
tâm, nghiên cứu là sự thay đổi hệ thống xác định trị giá tùy tiện ở các quốc gia
bằng một hệ thống xác định trị giá quốc tế có hiệu quả, nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho thƣơng mại quốc tế.
Sau nhiều cố gắng, dƣới sự bảo trợ của một số quốc gia, lần đầu tiên

những nguyên tắc chung về xác định trị giá Hải quan đã đƣợc đƣa ra tại Điều 7
của Hiệp định chung về Thuế quan và Thƣơng mại vào năm 1947, Hiệp định này
đƣợc gọi tắt là GATT (General Agreement on Tariffs and Trade). Từ đó đến nay
việc hình thành và phát triển của các phƣơng pháp xác định trị giá tính thuế nhập
khẩu quốc tế có thể chia làm ba giai đoạn sau:
a. Giai đoạn thứ nhất: Geneve năm 1947

7
Vào những năm của đầu thế kỷ mới, các nhóm nƣớc quan tâm đến việc
mở rộng thƣơng mại quốc tế đã nghiên cứu việc thay thế những phƣơng pháp
xác định trị giá không ổn định đang áp dụng từ trƣớc tới nay bằng một hệ thống
xác định trị giá hiệu quả thống nhất trên phạm vi thế giới.
Sau nhiều lần áp dụng thử dƣới sự bảo trợ của Hội Quốc liên (tiền thân
của Liên hiệp quốc), lần đầu tiên tại hội nghị của Liên hiệp quốc về vấn đề
thƣơng mại và việc làm tổ chức tại Geneve năm 1947, các quốc gia đã đƣa ra
các nguyên tắc chung để xác định trị giá.
Các kết luận của hội nghị này đã đƣợc thể hiện trong Điều 7 Hiệp định
chung về Thuế quan và Thƣơng mại (GATT) với nguyên tắc chính là việc xác
định trị giá Hải quan phải dựa trên bản thân giá trị thực tế của hàng hoá đó.
Tuy nhiên, tại thời điểm đó, Điều 7 Hiệp định GATT cũng chỉ mới đƣa ra
những nguyên tắc mang tính chất chung và cung cấp thêm một số ứng dụng thực
tế chứ chƣa đƣa ra đƣợc những phƣơng pháp xác định trị giá cụ thể. Hệ thống
xác định trị giá theo Hiệp định đã đƣa ra đƣợc những nguyên tắc xác định trị giá
thực tế, công bằng, đồng thời loại trừ đƣợc những việc xác định trị giá tùy tiện
hoặc giả tạo.
b. Giai đoạn thứ hai: Brussels 1953
Giai đoạn thứ hai trong lịch sử về xác định trị giá Hải quan bắt đầu khi
một nhóm nghiên cứu của Hiệp hội Hải quan các nƣớc Tây âu gồm 11 nƣớc
(Italia, Pháp, Tây Đức, Bỉ, Lucxembua, Phần lan, Anh, Bắc Ailen, Hy lạp, Tây
ban nha, Bồ đào nha) nghiên cứu về xác định trị giá Hải quan với ý định hình

thành một Liên minh Hải quan Châu âu.
Đặc biệt nhóm nghiên cứu này đã đƣa ra một định nghĩa về trị giá Hải
quan đƣợc áp dụng ở tầm cỡ quốc tế, đó là định nghĩa Brussels (viết tắt là BDV).
Định nghĩa này đƣợc nêu lên trong Công ƣớc về xác định trị giá Hải quan ký tại
Brussels ngày 15.12.1950 và có hiệu lực từ ngày 28.7.1953.

8
Định nghĩa này chủ yếu dựa vào hệ thống xác định trị giá đã đƣợc áp
dụng thành công ở các nƣớc thành viên qua vài năm, đồng thời tính đến những
nguyên tắc xác định trị giá Hải quan thời kỳ đó mới đƣợc đƣa vào Hiệp định
GATT.
Nội dung của Định nghĩa đã đƣa ra một khái niệm lý thuyết về trị giá Hải
quan, trong đó đề cập đến các yếu tố về giá cả, thời gian, địa điểm, số lƣợng và
cấp độ thƣơng mại. Đặc biệt sau khi xuất bản tập chú giải năm 1960 thì Định
nghĩa này nhận đƣợc sự ủng hộ từ khắp nơi trên thế giới, số lƣợng các nƣớc ký
kết Hiệp định lên tới 33 nƣớc và khoảng 70 nƣớc khác công nhận áp dụng Hiệp
định vào những năm đầu của thập kỷ 70.
c. Giai đoạn thứ 3: Geneve 1973 - 1979 và tới nay
Một thời kỳ mới trong lịch sử về xác định trị giá Hải quan đƣợc bắt đầu
vào những năm 1973 - 1979 thông qua các cuộc đàm phán thƣơng mại đa
phƣơng diễn ra tại Geneve, trung tâm của GATT, sau khi vòng đàm phán Tokyo
đƣa ra những chính sách thƣơng mại quốc tế lớn nhất trong thời đại chúng ta,
nhằm mục đích tự do hoá mậu dịch ngày càng lớn giữa các nƣớc khác nhau, loại
bỏ những trở ngại trong buôn bán quốc tế.
Một trong những biện pháp nhằm đạt đƣợc mục đích này là việc đƣa ra
đƣợc một hệ thống quốc tế về xác định trị giá Hải quan để áp dụng thống nhất
trên toàn thế giới. Đó là việc thông qua Hiệp định liên quan đến việc thực hiện
Điều 7 của GATT. Hiệp định đƣợc thông qua vào năm 1979 và có hiệu lực từ
01.01.1981, gọi tắt là Hiệp định giá Hải quan GATT. Hiệp định này quy định
một hệ thống các phƣơng pháp xác định trị giá Hải quan trên cơ sở trị giá giao

dịch thực tế của hàng hoá nhập khẩu, tức là giá thực tế đã thanh toán hoặc sẽ
phải thanh toán. Từ vòng đàm phán Uruguay, năm 1994, Hiệp định lại đƣợc bổ
sung, sửa đổi hoàn chỉnh. Hệ thống xác định trị giá theo Hiệp định này đã đƣa ra
những phƣơng pháp xác định trị giá có tính đến thực tiễn thƣơng mại quốc tế,
nhằm đảm bảo tính công bằng và chính xác [1], [2], [31].

9

1.2 KHÁI NIỆM TRỊ GIÁ TÍNH THUẾ NHẬP KHẨU VÀ PHÁP
LUẬT TRỊ GIÁ TÍNH THUẾ NHẬP KHẨU

1.2.1 Khái niệm trị giá tính thuế nhập khẩu
Trên thế giới đã và đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về trị giá tính
thuế nhập khẩu. Sự hình thành các quan niệm, khái niệm về trị giá tính thuế nhập
khẩu trải qua các thời kỳ khác nhau thì khác nhau và nó phụ thuộc vào từng quốc
gia trong việc áp dụng phƣơng pháp xác định trị giá. Theo quan điểm của các
quốc gia áp dụng phƣơng pháp áp dụng trị giá tính thuế nhập khẩu theo quốc gia
thì trị giá của hàng hoá nhập khẩu là giá đƣợc chuyển đến cửa khẩu nhập. Theo
đó trị giá cụ thể của từng mặt hàng đƣợc khống chế bằng bảng giá tối thiểu do cơ
quan nhà nƣớc của nƣớc nhập khẩu ban hành hoặc dùng các phƣơng pháp xác
định trị giá mang tính tuỳ tiện không có chuẩn mực nào. Các quốc gia áp dụng
các phƣơng pháp áp dụng trị giá theo phƣơng pháp xác định trị giá của hiệp định
trị giá GATT 1994 thì quan niệm trị giá tính thuế của hàng hoá nhập khẩu là trị
giá giao dịch theo nghĩa rộng. Theo đó, trị giá tính thuế nhập khẩu là giá thực
phải thanh toán hay sẽ phải thanh toán. Các quốc gia áp dụng phƣơng pháp tính
thuế theo định nghĩa Brussels thì đƣa ra khái niệm về trị giá tính thuế nhập khẩu
là trị giá mà ở đó, hàng hoá nhập khẩu trong điều kiện đƣợc xác định, tức là giá
của hàng hoá đó phải phù hợp với hàng hoá tại thời điểm nhập khẩu ma Hải
quan thực hiện thu thuế đối với việc mua bán hàng hoá trong điều kiện cạnh
tranh gay gắt, giữa ngƣời mua và ngƣời bán độc lập với nhau.

Các thuật ngữ trị giá tính thuế, giá tính thuế, trị giá hải quan, cơ bản là
đồng nghĩa. Mặc dù trong nhiều trƣờng hợp, việc sử dụng chúng thay thế cho
nhau không hẳn đã hoàn toàn chính xác nhƣng nhìn chung cũng không gây ra
những nhầm lẫn lớn. Lai lịch của những thuật ngữ này ở Việt nam đƣợc tóm tắt
là: 1- Giá tính thuế, đƣợc ghi nhận lần đầu trong Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu

10
1997, là một thuật ngữ có ý nghĩa pháp lý sử dụng để phản ánh mọi loại giá của
hàng hoá nhập khẩu, xuất khẩu đƣợc xác định theo các phƣơng pháp định giá mà
pháp luật quy định, không tính tới sự khác biệt về tính chất giữa các phƣơng
pháp; 2- Trị giá hải quan đƣợc du nhập vào Việt nam cùng quá trình tham gia
vào hội nhập kinh tế quốc tế khoảng nửa đầu những năm 1990 để chỉ phƣơng
pháp xác định trị giá hàng hoá xuất, nhập khẩu theo điều 7 của hiệp định chung
về thuế quan và thƣơng mại; 3- Trị giá tính thuế lần đầu tiên xuất hiện trong nghị
định 60/2002/NĐ-CP ngày 06/06/2002 quy định về việc xác định trị giá tính thuế
theo nguyên tắc của GATT, cho nên trị giá tính thuế và trị giá hải quan có nhiều
nét gần nhau. Nhƣng tóm lại việc xác trị giá tính thuế hay trị giá hải quan nhằm
mục đích tính thuế và thống kê đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Trị giá của hàng hoá nhập khẩu chƣa bao giờ là câu chuyện riêng của ngƣời
nhập khẩu. Sự tồn tại của chủ quyền quốc gia trong hoạt động kinh tế đối ngoại
thông qua thuế quan đã làm cho vấn đề có thêm những sắc thái chính trị pháp lý,
xã hội bên cạnh ý nghĩa kinh tế tự thân. Hệ thống thuế quan sử dụng trị giá tính
thuế nhập khẩu nhƣ một công cụ pháp lý tác động trực tiếp vào các quan hệ giá
cả của hàng hoá nhập khẩu phù hợp với mục đích của bản than hệ thống thuế
quan nhƣ thu ngân sách và/hoặc bảo vệ sản xuất. Khi mức độ thuế suất đƣợc cắt
giảm theo các cam kết của hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống thuế quan phải đặt
trọng tâm điều chỉnh vào việc xác định trị giá tính thuế nhập khẩu. Việc quy định
trị giá tính thuế nhập khẩu có ý nghĩa rất quan trọng, bởi lẽ, nó không chỉ có
quan hệ trực tiếp với nguồn thu ngân sách, bảo vệ sản xuất nội địa mà còn ảnh
hƣởng trực tiếp tới mối quan hệ thƣơng mại, ngoại giao giữa các nƣớc [19,17] .

Trị giá tính thuế nhập khẩu là một quan hệ xã hội phức tạp. Tính phức tạp
đó thể hiện ở sự đa dạng trong mục đích của những chủ thể tham gia, ở mối liên
hệ phong phú giữa nội dung gía trị với các biểu hiện hình thức khác nhau. Bởi
vậy, để làm sáng tỏ khái niệm trị giá tính thuế nhập khẩu cần tiếp cận theo những
vấn đề sau:

11
1. Trị giá tính thuế nhập khẩu là căn cứ tính thuế nhập khẩu. Trong khi
thiết kế thuế nhập khẩu ta có thể dựa vào các căn cứ sau: Chủng loại hàng hoá,
xuất xứ hàng hoá, trị giá hàng hoá. Xu hƣớng hiện nay là dùng trị giá tính thuế
làm căn cứ tính thuế vì tính tiện lợi, linh hoạt và khách quan của nó. Theo đó,
thuế nhập khẩu bằng: trị gía tính thuế X thuế xuất X tỷ giá quy đổi. Từ công
thức này ta thấy ngay rằng trị giá tính thuế nhập khẩu là một biến số đƣợc xác
định phụ thuộc vào mục tiêu của sắc thuế nhập khẩu. Chẳng hạn, nếu mục tiêu
cơ bản của thuế nhập khẩu nhằm bảo hộ mạnh mẽ và triệt để ngành, hàng sản
xuất nội địa thì trị giá tính thuế sẽ đƣợc xác định theo các tiêu thức áp đặt, hành
chính. Bởi vậy, khi bản thân luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu chứa đựng nhiều
mục đích khác nhau thậm chí là trái ngƣợc nhƣ ở Việt nam thì hệ thống về trị giá
tính thuế trở nên phức tạp và rắc rối.
Trị giá tính thuế nhập khẩu là một trong những căn cứ cơ bản để tính thuế
hải quan [14,48] và các thuế khác. Vấn đề gì sẽ xảy ra khi chúng ta mở rộng
phạm vi ngoại diên của khái niệm từ thuế nhập khẩu sang tới các sắc thuế khác
nhƣ thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế GTGT? Liệu có sự khác biệt đáng kể giữa
cái đƣợc gọi là giá vốn trong thuế nhập khẩu với giá để tính thuế giá trị gia tăng
đầu vào và với giá để xác định và với giá để xác định chi phí trong thuế thu nhập
doanh nghiệp? Lời gải thích cho những câu hỏi này phụ thuộc chủ yếu vào cách
đặt vấn đề về vị trí và mối quan hệ giữa các sắc thuế trong hệ thống thuế thống
nhất. Điều quan trọng là chúng tôi rút ra từ những lập luận này là phải chăng
chúng ta có thể lợi dụng những mối liên hệ nội tại giữa những sắc thuế để xác
định chính xác và kiểm tra tính đúng đắn của giá tính thuế nhập khẩu. Thật vậy,

vì trong đa số các trƣờng hợp, nhập khẩu chỉ là khâu đầu tiên của một quá trình
kinh doanh nên khi các hoạt động kinh doanh sản xuất đƣợc tiến hành trong nội
địa cho chúng ta cơ hội đƣợc tìm kiếm những bằng chứng xác thực về giá trị thật
sự của hàng hoá nhập khẩu. Thông thƣờng khi nhập khẩu, ngƣời nhập khẩu có
xu hƣớng khai không đúng số lƣợng, chất lƣợng, trị giá hàng hoá để giảm thiểu

12
thuế nhập khẩu. Nhƣng đến khi bán hàng, khi hạch toán kinh doanh, chủ hàng
buộc phải tính đúng các chi phí đầu vào để giảm số thuế phải nộp trong nội địa.
2. Trị giá tính thuế nhập khẩu chỉ liên quan và phụ thuộc vào hàng hoá
nhập khẩu.
Bởi vậy, khi làm rõ khái niệm trị giá tính thuế nhập khẩu đặt ra việc xem
xét nội dung của vấn đề hàng hoá nhập khẩu.
Thứ nhất, đặc tính nhập khẩu của hàng hoá. Hàng hoá đƣợc coi là nhập
khẩu nếu nó đƣợc đƣa từ một quốc gia khác đến quốc gia tiếp nhận hàng hoá
(trong trƣờng hợp hàng hoá từ khu chế xuất vào tiêu thụ trong nƣớc cũng đƣợc
coi là nhập khẩu). Xác định chính xác không gian và thời gian của hành vi nhập
khẩu có ý nghĩa thực tế cho việc xác định trị giá nhập khẩu. Không gian và thời
điểm nhập khẩu tác động tới việc tính toán chi phí phát sinh của hàng hoá nhƣ
phí vận chuyển, kho bãi, bảo hiểm, tỷ giá. Thực tiễn pháp lý quốc tế cho thấy, có
sự không thống nhất về cách hiểu hành vi nhập khẩu. Chẳng hạn, theo luật hải
quan 1995 của Cộng hoà Indonexia thì nhập khẩu là các hoạt động đƣa hàng hoá
vào lãnh thổ hải quan, trong đó lãnh thổ hải quan đƣợc hiểu là vùng đất, vùng
trời, vùng nƣớc, các địa điểm đặc biệt trong các vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa. Trong khi đó ở Philippin điều 102 của Bộ luật hải quan xác định công
việc nhập khẩu bắt đầu khi tầu thuyền, máy bay, vận tải hàng hoá bắt đầu vào
khu vực thẩm quyền để dỡ hàng xuống đó [17].
Ở Việt nam, Luật hải quan 2001 - đạo luật điều chỉnh trực tiếp các quan hệ
xuất khẩu, nhập khẩu – không đƣa ra một định nghĩa chính thức về hành vi nhập
khẩu. Vì vậy, có những biểu hiện không logic trong việc xác định trị giá nhập

khẩu. Khảo sát các quy định của Luật này cho thấy, nhập khẩu không phải là cơ
sở cho việc xác định trị giá tính thuế nhập khẩu mà ngƣợc lại, việc xác định trị
giá tính thuế là căn cứ cho việc nhập khẩu. Thật vậy, điều 4 Luật hải quan quy
định thông quan là việc cơ quan hải quan quyết định hàng hoá đƣợc nhập khẩu;
việc thông quan đƣợc tiến hành sau khi hàng hoá đã làm thủ tục hải quan trong
đó nộp thuế và các nghĩa vụ tài chính khác là một nội dung của thủ tục hải quan.

13
Từ góc độ quản lý nhà nƣớc về hải quan dễ dàng giải thích các quy định nêu
trên. Vì vậy, dƣới góc độ điều chỉnh trị giá tính thuế nhập khẩu, việc tách rời
không gian và thời gian giá nhập khẩu khỏi hành vi nhập khẩu, trong thời gian
dài sẽ đƣa lại nhiều bất lợi khi xây dựng và thực thi các chính sách có liên quan.
Bởi vì, chúng ta sẽ không thể thiết kế một hệ thống phƣơng pháp định giá toàn
diện nếu không có sự phân biệt giữa hàng nhập khẩu để bán với hàng là quà
biếu, hàng mẫu, hàng ký gửi, thuê, mƣợn hay vay.
Thứ hai. Mục đích nhập khẩu của hàng hoá. Mục đích nhập khẩu của hàng
hoá thể hiện ý định sử dụng hàng hoá của bên nhập khẩu và bên xuất khẩu. Mục
đích nhập khẩu rất đa dạng: Thƣơng mại, quá cảnh, hành lý theo ngƣời, tạm
nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập … Tuy không phải là cơ sở cơ bản để xác định
thuế nhập khẩu nhƣng mục đích nhập khẩu cũng có ý nghĩa nhất định trong việc
lựa chọn phƣơng pháp định giá nhập khẩu. Rõ ràng là hàng hoá nhập khẩu phi
mậu dịch không dựa trên các giao dịch mua bán nên phƣơng pháp định giá sẽ
không thể dựa vào giá cả thƣơng mại của hàng hoá.
3. Trị giá tính thuế nhập khẩu xác định căn cứ vào trị giá của hàng hoá
nhập khẩu.
Trong mối liên hệ phân tích khái niệm trị giá tính thuế nhập khẩu, chúng ta
chỉ xem xét trị giá của hàng nhập khẩu theo ba nội dung sau:
Thứ nhất, đánh giá chủ quan và khách quan trị giá hàng nhập khẩu. Về mặt
chủ quan, trị giá hàng nhập khẩu phản ánh phần trị giá của hàng nhập khẩu đƣợc
hải quan thừa nhận, xoay quanh giá trị trung bình của hàng hoá trên thị trƣờng.

Cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền thu thuế thƣờng có xu hƣớng xác định thuế
nhập khẩu theo trị giá chủ quan này vì nó tạo ra một căn cứ tính thuế loại bỏ
đƣợc những giả định về mối liên hệ bên trong giữa ngƣời xuất khẩu và ngƣời
nhập khẩu cũng nhƣ tác động bên ngoài (phạm vi, thời điểm bán hàng hoặc thủ
đoạn kinh doanh) làm biến dạng giá trị thực tế của hàng hoá. Về mặt khách quan,
trị giá của hàng hoá nhập khẩu phản ánh một mức giá giao dịch cụ thể giữa
ngƣời nhập khẩu và ngƣời xuất khẩu. Về nguyên tắc, ngƣời nhập khẩu có xu

14
hƣớng sử dụng trị giá khách quan vì nó phản ánh trực tiếp chi phí mà họ đã bỏ ra
để có hàng hoá. Thực chất tính hai mặt khách quan-chủ quan của giá trị hàng hoá
nhập khẩu là mối quan hệ giữa giá thị trƣờng với giá trị cá biệt, giữa lao động xã
hội với lao động tƣ nhân, giữa lao động trừu tƣợng với lao động cụ thể.
Thứ hai, trị giá thuế nhập khẩu là kết quả của quá trình định giá hàng hoá
nhập khẩu. Định giá là một thủ tục do các bên liên quan (hải quan, ngƣời nhập
khẩu) áp dụng nhằm xác định trị giá của hàng nhập khẩu. Nhƣ là hệ quả của tính
hai mặt nêu trong trị giá hàng nhập khẩu. Chẳng hạn nhƣ định giá hàng nhập
khẩu theo giá hàng sẽ đƣợc tiêu thụ trong nội địa hoặc theo giá phản ánh trong
quan hệ thanh toán giữa ngƣời xuất khẩu và ngƣời nhập khẩu. Việc lựa chọn
phƣơng pháp định giá tuỳ thuộc vào mục đích quản lý xuất nhập khẩu của từng
quốc gia. Tuy nhiên, xu hƣớng hội tụ các phƣơng pháp xác định giá giữa các
quốc gia ngày càng đƣợc khẳng định rõ nét thông qua quá trình tự do hoá thƣơng
mại toàn cầu. Mặt khác, việc định giá cũng xác lập trình tự thủ tục, các quyền và
nghĩa vụ của các cơ quan thuế và ngƣời nhập khẩu. Các trình tự và thủ tục định
giá xét về tính chất là các quan hệ hành chính. Mặc dù chỉ là những quan hệ hình
thức nhƣng chính những thủ tục này khai đƣợc quy định hợp lý sẽ là cơ sở để
xác định đúng đắn giá nhập khẩu, bảo đảm đƣợc quan hệ bình đẳng và dân chủ
giữa ngƣời nhập khẩu và cơ quan hải quan.
Thứ ba, khi phân tích nội dung trị giá tính thuế hàng nhập khẩu cần phân
biệt với khái niệm giá trị và giá cả. Có thể phân biệt ba khái niệm này qua mô tả

đơn giản sau: Giá trị phản ánh chi phí lao động trung bình của nhà sản xuất thì
giá cả phản ánh mối quan hệ giữa ngƣời nhập khẩu và ngƣời xuất khẩu trong
điều kiện của quá trình mua bán trao đổi hàng hoá cụ thể; trị giá tính thuế nhập
khẩu phản ánh mối quan hệ giữa ngƣời nhập khẩu với cơ quan hải quan trong
quá trình nhập khẩu hàng hoá.
4. Trị giá tính thuế nhập khẩu không đồng nhất với giá trên hợp đồng được
ký kết giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu.

15
Hợp đồng chỉ là một yếu tố cần xem xét đến bên cạnh những căn cứ, dữ liệu
khác. Có hai vấn đề cần lƣu ý ở đây:
Thứ nhất, trị giá tính thuế nhập khẩu phải đƣợc chứng minh bằng hệ thống
các căn cứ, dữ liệu khách quan. Các dữ liệu này thông thƣờng tồn tại dƣới hình
thức hợp đồng mua bán ngoại thƣơng, báo giá, hoá đơn thƣơng mại hoặc các loại
chứng từ khác. Ngƣời nhập khẩu có trách nhiệm cung cấp dữ liệu này. Tiêu
chuẩn khách quan trƣớc hết đòi hỏi bộ hoá đơn chứng từ phải đƣợc lập và xuất
trình phù hợp với yêu cầu của pháp luật và thông lệ tập quán quốc tế đƣợc thừa
nhận. Tính khách quan của tài liệu còn thể hiện ở tính có thể kiểm tra của bên
thứ ba đối với nội dung đƣợc thể hiện trên tài liệu. Nói tóm lại, khi đảm bảo
đƣợc tính khách quan, ngƣời nhập khẩu có thể sử dụng bất kỳ tài liệu nào để
chứng minh trị giá của hàng nhập khẩu.
Thứ hai, cơ quan hải quan có quyền yêu cầu ngƣời nhập khẩu phải chứng
minh về tính chính xác, trung thực của bất kỳ một tài liệu, một chứng từ hoặc
một tờ khai nào mà chủ hàng đã xuất trình cho hải quan. Nhƣ vậy, khi đánh giá
tính khách quan của tài liệu nhằm xác định trị giá tính thế, hải quan có quyền đòi
hỏi sự hợp tác toàn diện của ngƣời nhập khẩu.
Từ những dẫn giải trên đây trị giá tính thuế nhập khẩu đƣợc khái niệm nhƣ
sau:
Trị giá tính thuế nhập khẩu là một căn cứ tính thuế nhập khẩu dựa trên
cơ sở trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu phù hợp với những dữ liệu

khách quan, khoa học được đối tượng nộp thuế và cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thu thuế xác định và chấp nhận

1.2.2 Khái niệm pháp luật trị giá tính thuế nhập khẩu
Trị giá tính thuế nhập khẩu là một quan hệ xã hội tƣơng đối phức tạp và đặc
thù. Quan hệ này chịu sự tác động trực tiếp của các yếu tố kinh tế đa dạng không
chỉ các yếu tố kinh tế vi mô nhƣ giá cả trong những giao dịch cụ thể mà còn cả
các yếu tố kinh tế vĩ mô nhƣ tỷ giá hối đoái, mức độ điều tiết của thuế quan. Các

16
yếu tố này đã làm cho mối quan hệ lợi ích giữa các chủ thể trong mối quan hệ
càng trở nên phức tạp. Mục đích của quan hệ buôn bán ngoại thƣơng là xuất và
nhập khẩu hàng hoá. Mục đích của thuế quan là giữ một số quyền trong việc
quản lý xuất nhập khẩu để làm lợi cho nhà nƣớc. Vậy thì nhà nƣớc phải trung lập
giữa thƣơng mại và thuế quan, khiến cho hai phía này không chồng chéo nhau.
Có nhƣ vậy mới hƣớng đƣợc cái lợi của tự do thƣơng mại. Bên cạnh đó, cũng
cần thấy rằng, sự hình thành và thực hiện các quan hệ xã hội về trị giá tính thuế
nhập khẩu không chỉ vì mục đích tự thân của chúng. Trên thực tế, việc xác lập
quan hệ về trị giá tính thuế nhập khẩu là nhằm thực hiện các quan hệ xã hội về
thu thuế nhập khẩu hoặc để quản lý nhà nƣớc về hải quan. Nhƣ vậy, quan hệ xã
hội về giá tính thuế nhập khẩu không chỉ vận động bởi các nhân tố kinh tế bên
trong mà nó còn vận động trong mối liên hệ với các yếu tố bên ngoài nhƣ thủ tục
hải quan. Từ khía cạnh này, có quan điểm nhìn nhận trị giá tính thuế nhập khẩu
chỉ là một bộ phận của quan hệ xã hội về thuế quan. Thực ra điều này không
hoàn toàn chính xác. Bởi vì trong quan hệ thuế nhập khẩu đƣợc sử dụng làm căn
cứ tính thuế chỉ là kết quả đã đƣợc lƣợng hoá từ một quá trình trong đó diễn ra
việc phân tích, xác định các yếu tố tạo nên trị giá nhập khẩu phù hợp với yêu cầu
của nhà nƣớc. Nội dung cơ bản của quá trình này là thực hiện phƣơng pháp thích
hợp nhất có thể có để xác định trị giá tính thuế nhập khẩu. Sự tồn tại của nhiều
hệ thống phƣơng pháp xác định trị giá tính thuế nhập khẩu, tự thân nó đòi hỏi

phải có sự quy chuẩn và chấp nhận rộng rãi trong xã hội. Các phƣơng pháp xác
định trị giá tính thuế nhập khẩu tuy có cùng mục đích là nhằm tìm một trị giá
tính thuế phù hợp với thực tế khách quan, song xuất phát từ những cơ sở khoa
học khác nhau và phụ thuộc vào các điều kiện chính sách và kỹ thuật trong từng
giai đoạn cụ thể của mỗi quốc gia, nên việc lựa chọn phƣơng pháp, hoặc ƣu tiên
áp dụng phƣơng pháp nào phải đƣợc nhà nƣớc quy định.
Việc nhà nƣớc quy định về trị giá tính thuế nhập khẩu không chỉ bắt nguồn
từ những đòi hỏi tất yếu của bản thân quan hệ này mà còn là một phƣơng cánh
để nhà nƣớc thực hiện mục tiêu quan lý của mình. Trị giá tính thuế nhập khẩu

17
luôn là một nội dung cần tính tới trong việc đề ra và thực thi chính sách xuất
nhập khẩu, nhất là khi chính sách ấy hƣớng tới việc phòng chống gian lận
thƣơng mại. Trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, các biểu hiện của gian lận thƣơng
mại rất đa dạng, đặc biệt gian lận trị giá diễn ra rất phổ biến. Thông thƣờng có ba
loại hình gian lận trị giá phổ biến: Khai báo sai, miêu tả phân loại hàng hoá sai,
không khai báo quan hệ đặc biệt giữa ngƣời mua – ngƣời bán, tăng giảm không
đúng các loại chi phí, chiết khấu, hoa hồng. Để hạn chế hiện tƣợng này, nhà
nƣớc đã đề ra nhiều biện pháp chống gian lận, trong đó công cụ pháp luật chứng
tỏ ƣu thế của mình bằng tính quy phạm và khả năng bắt buộc. Theo kinh nghiệm
của Mỹ, để phòng ngừa và chống gian lận thƣơng mại qua giá, điều đầu tiên là
phải đảm bảo tính minh bạch trong hệ thống pháp quy về xác định trị giá hải
quan. Trên cơ sở đó, cộng đồng doanh nghiệp sẽ tin tƣởng vào hệ thống xác định
trị giá và hợp tác chặt chẽ với hải quan trong việc xác định trị giá. Luật pháp của
Mỹ về trị giá tính thuế nhập khẩu cho phép doanh nghiệp đạt đƣợc sự thông
thoáng trong quá trình kinh doanh mà vẫn đảm bảo tuân thủ đầy đủ các quy định
của cơ quan hải quan. Luật hải quan Mỹ quy định doanh nghiệp có quyền khiếu
nại lên các cấp có thẩm quyền, thậm chí tới cơ quan tƣ pháp, về các quyết định
của cơ quan hải quan liên quan đến xác định trị giá tính thuế nhập khẩu mà
không phải chịu bất cứ một khoản phạt nào. Theo kinh nghiệm của New Zealand

để đảm bảo hạn chế gian lận trị giá tính thuế nhập khẩu thì mọi quy định về xác
định trị tính thuế nhập khẩu đều đƣợc xây dựng ở cấp độ văn bản luật và với
mức độ chi tiết cao. Theo đó, doanh nghiệp hoàn toàn có khả năng áp dụng trực
tiếp các quy định vào hoạt động thực tế. Trong trƣờng hợp có vƣớng mắc, khó
khăn khi xác định trị giá tính thuế nhập khẩu, doanh nghiệp sẽ liên hệ trực tiếp
với cơ quan hải quan để nhận đƣợc hƣớng dẫn cụ thể, đồng thời các quyết định
của cơ quan hải quan phải đƣợc công bố bằng văn bản tới nhà nhập khẩu. Khi có
tranh chấp thì toà án quốc gia sẽ là cấp giải quyết cuối cùng. Để chống gian lận
thƣơng mại qua giá luật pháp New Zealand đã trao quyền rất rộng cho lực lƣợng
kiểm tra sau thông quan. Theo đó phạm vi kiểm tra sau thông quan mà hải quan

18
tiến hành là toàn bộ hoạt động của nhà nhập khẩu. Đồng thời Luật pháp cũng đặt
ra các cơ sở pháp lý hỗ trợ cho kiểm tra sau thông quan nhƣ hoá đơn của hàng
hoá nhập khẩu phải đƣợc lƣu giữ trong thời gian tối thiểu là 10 năm. Những
chứng từ giải trình dù dƣới dạng giấy, băng đĩa từ hay điện tử khi đƣợc xuất
trình cho cơ quan hải quan phải đƣợc nhà nhập khẩu lƣu trữ cẩn thận [21]. Nói
rộng ra, tuy công cụ pháp luật không đƣa lại hiệu quả tức thời nhƣ các biện pháp
tổ chức, kỹ thuật nghiệp vụ, song ngƣợc lại, nó tạo dựng nền tảng vững chắc,
thống nhất và ổn định cho việc mô hình hóa hành vi xử sự của các bên trong quá
trình xác định trị giá tính thuế. Mô hình pháp lý này phản ánh những phƣơng
thức mà các bên có thể tiến hành để xác định trị giá tính thuế.
Những dẫn giải trên đây cho thấy nội dung cơ bản của quan hệ xã hội về trị
giá tính thuế nhập khẩu là mối quan hệ giữa cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền
với ngƣời nhập khẩu trong việc áp dụng phƣơng pháp xác định trị giá tính thuế
nhập khẩu và nhu cầu tất yếu của việc điều chỉnh bằng pháp luật quan hệ đặc thù
này. Từ đó ta có thể đƣa ra một khái niệm pháp luật về trị giá tính thuế nhập
khẩu nhƣ sau:
Pháp luật trị giá tính thuế nhập khẩu là một bộ phận pháp luật điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và

người nhập khẩu hàng hoá trong việc sử dụng các phương pháp phù hợp để
xác định trị giá tính thuế của hàng hoá nhập khẩu.

1.3. CÁC ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ VỀ TRỊ GIÁ TÍNH THUẾ NHẬP
KHẨU
1.3.1. Trị giá tính thuế nhập khẩu theo Định nghĩa Brussels
Định nghĩa trị giá Brussels (Brussels Definition Value) có hiệu lực từ
ngày 28.07.1953. Vào thời kỳ đó, Định nghĩa BDV là phƣơng pháp xác định trị
giá Hải quan duy nhất trên thế giới mang tính quốc tế. Hơn nữa Định nghĩa BDV
đã đề cập đến những nguyên tắc cơ bản về xác định trị giá Hải quan vừa đƣợc

19
đƣa vào Hiệp định chung về thuế quan và thƣơng mại GATT. Do vậy hệ thống
xác định trị giá này đƣợc nhiều nƣớc trên thế giới hƣởng ứng áp dụng (33 nƣớc
ký kết tham gia Hiệp định và hơn 70 nƣớc công nhận áp dụng), chỉ đến khi Hiệp
định trị giá GATT ra đời thì các quốc gia tham gia ký kết mới chuyển dần sang
áp dụng theo Hiệp định trị giá GATT.
Theo Định nghĩa, các phƣơng pháp xác định trị giá phải dựa trên khái
niệm chung nhất là “trị giá” hoặc là khái niệm về giá mà với giá đó, hàng hoá
đƣợc nhập khẩu hay một hàng hoá tƣơng tự đƣợc bán để xuất khẩu (đây là khái
niệm mang tính hiện thực) hoặc là khái niệm về giá đƣợc công nhận đối với hàng
hoá nhập khẩu trong các điều kiện xác định (đây là khái niệm mang tính lý
thuyết). Các tác giả của Định nghĩa Brussels đã chọn khái niệm về mặt lý thuyết
để làm cơ sở xây dựng nguyên tắc xác định trị giá, với những nội dung cơ bản là:
1.3.1.1. Giá thông thường
Điều 1 của Định nghĩa Brussels đã thiết lập một nền tảng chủ yếu việc xác
định trị giá Hải quan đối với hàng nhập khẩu là giá thông thƣờng, tức giá đó phải
phù hợp với hàng hoá tại thời điểm nhập khẩu mà Hải quan thực hiện việc thu
thuế đối với việc mua bán hàng hoá trong điều kiện cạnh tranh gay gắt và giữa
ngƣời mua với ngƣời bán độc lập với nhau.

1.3.1.2. Điều kiện thị trường
Điều 2 nêu lên các chỉ dẫn, giải thích về các vấn đề đối với “việc mua bán
hàng hoá đƣợc thực hiện trong điều kiện cạnh tranh gay gắt và giữa ngƣời mua
với ngƣời bán độc lập với nhau”. Điều này đề cập đến việc mua bán thực hiện
trên thị trƣờng một cách tự do nâng giá, tức là vấn đề giá hàng hoá không bị ảnh
hƣởng đến các điều kiện, các mối liên hệ giữa ngƣời bán và ngƣời mua. Nhƣ vậy
các vấn đề Định nghĩa nêu lên hoàn toàn mang tính chất lý thuyết.
1.3.1.3. Các chi phí
Điều 3 chỉ rõ rằng trị giá Hải quan đối với trƣờng hợp có các chi phí về
bằng phát minh sáng chế, thiết kế mẫu mã và mác, nhãn sản xuất hoặc nhãn hiệu

20
thƣơng mại nƣớc ngoài của hàng hoá thì các chi phí đó cũng đƣợc cộng vào giá
trị thông thƣờng của hàng hoá. Điều này khẳng định trên cơ sở nguyên tắc của
Điều 1 nêu trên. Phần liệt kê các khoản thuế để phân tích, xem xét, đánh giá
không đƣợc triệt để. Nhƣng do Định nghĩa Brussels có thêm phần chú giải, giải
thích nhằm đảm bảo thống nhất áp dụng, nên rõ ràng hơn và thuận tiện hơn cho
việc thực hiện có hiệu quả hơn.
Nhƣ vậy, Định nghĩa Brussels dựa trên cơ sở khái niệm về trị giá lý
thuyết, bao gồm một tiêu chuẩn đánh giá duy nhất là giá thông thƣờng của hàng
hoá. Giá thông thƣờng này có thể nhận thấy đƣợc ngay cả khi không có giao
dịch bán hàng thực tế.
Với vai trò là một điều ƣớc quốc tế đa phƣơng đầu tiên đề cập một cách
chi tiết đến việc xác định trị giá Hải quan, Định nghĩa Brussels cũng đã đạt đƣợc
một số thành công đáng kể, đó là các quy định trong Định nghĩa cũng đã đi gần
với thực tiễn thƣơng mại, các yếu tố nhƣ số lƣợng hàng hoá, các chi phí có liên
quan cũng đƣợc xem xét khi xác định trị giá Hải quan, nhƣng do tồn tại các
khái niệm mơ hồ nên trong quá trình áp dụng các nƣớc đã đƣa ra các cách xác
định riêng làm mất đi tính thống nhất và xuất hiện việc can thiệp quá mức cần
thiết của các cơ quan quản lý vào quá trình xác định trị giá tính thuế. Thực tế cho

thấy Định nghĩa Brussels dần dần bị cô lập với thực tiễn thƣơng mại, ngày càng
ít đƣợc các quốc gia áp dụng, thay vào đó là các phƣơng pháp xác định trị giá
Hải quan theo Hiệp định Trị giá GATT. [3],[1],[2],[4]

1.3.2. Trị giá tính thuế nhập khẩu theo Hiệp định trị giá GATT/WTO
1.3.2.1. Khái quát chung về Hiệp định.
Hiệp định về việc thực hiện điều 7 của GATT đƣợc thông qua năm 1979
và có hiệu lực từ ngày 01.01.1981, đƣợc bổ sung, sửa đổi tại vòng đàm phán
Uruguay 1994, do vậy thƣờng đƣợc gọi là Hiệp định về xác định trị giá tính thuế
Hải quan GATT - 1994 (hay GATT/WTO). Nguyên tắc cơ bản của Hiệp định là

21
thiết lập một hệ thống các phƣơng pháp xác định trị giá đối với hàng hoá, đồng
thời tuân thủ các điều kiện thực tế về quan hệ thƣơng mại quốc tế nhằm loại bỏ
việc xác định trị giá Hải quan một cách tùy tiện hoặc giả tạo. [1]
Nội dung chính của Hiệp định là xác định trị giá hải quan một cách chính
xác đối với bản thân hàng hoá đó, bởi lẽ xu hƣớng xử lý hàng hoá nhập khẩu một
cách không công bằng nhằm bảo vệ nền công nghiệp trong nƣớc ngày càng lan
rộng đã biến trị giá Hải quan thành một hàng rào phi quan thuế trong quan hệ
thƣơng mại quốc tế.
Điều 7 Hiệp định GATT đã nêu lên việc xác định trị giá theo mục đích
Hải quan với 3 nguyên tắc cơ bản:
- Trị giá theo mục đích Hải quan của hàng nhập khẩu phải đƣợc căn cứ
vào trị giá thực của hàng nhập khẩu, đó là trị giá đƣợc sử dụng làm căn cứ tính
thuế hải quan. Trị giá này không đƣợc căn cứ vào trị giá hàng hoá đƣợc sản xuất
trong nƣớc nhập khẩu hoặc trị giá hƣ cấu.
- Trị giá thực này phải là giá cả đƣợc pháp luật của nƣớc nhập khẩu xác
định tại một thời điểm và địa điểm nhất định đối với hàng hoá đó, hoặc là hàng
hoá tƣơng tự bán trong quá trình kinh doanh bình thƣờng với các điều kiện cạnh
tranh không hạn chế.

- Nếu trị giá thực không đƣợc xác định theo nguyên tắc trên thì trị giá theo
mục đích Hải quan sẽ đƣợc tính trên cơ sở trị giá tƣơng đƣơng gần nhất.
Ngoài ra, tại các phần chú giải của điều 7 đã giải thích thêm về “trị giá
thực” đƣợc hiểu là trị giá ghi trong hoá đơn thƣơng mại cộng thêm các khoản chi
phí hợp lý, hợp pháp chƣa đƣợc tính vào trị giá, những khoản chi phí này là các
bộ phận cấu thành của trị giá thực.
Theo quy định của Hiệp định, để bảo vệ nền kinh tế trong nƣớc, các quốc
gia chỉ có thể điều tiết về mặt thuế suất đối với từng loại hàng hoá theo từng mức
thuế suất để hạn chế hoặc khuyến khích nhập khẩu đối với loại hàng hoá đó.

×