Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tài chính quy mô nhỏ ở việt nam bài học từ hoạt động thực tiễn tại thành phố hồ chí minh (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (725.73 KB, 89 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH

___________________________

HOÀNG VĂN THÀNH

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH
QUY MÔ NHỎ Ở VIỆT NAM – BÀI HỌC TỪ
HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 603850

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
TS. Lê Nết

TP. Hồ Chí Minh – năm 2007


2

Lời cam đoan:

Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu do tơi thực hiện. Tơi chiu
trách nhiệm về tính trung thực của các dữ liệu, thơng tin trình bày trong luận
văn. Kết quả nghiên cứu trong luận văn chưa từng được cơng bố trong bất kỳ


cơng trình khoa học nào.

Người cam đoan

Hoàng Văn Thành


3

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa

1

Lời cam đoan

2

Mục lục

3

Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt

5

PHẦN MỞ ĐẦU

6


a. Tính cấp thiết của đề tài

6

b. Nội dung nghiên cứu;

8

c. Giới hạn đề tài, Khách thể và Đối tượng nghiên cứu

9

d. Phương pháp nghiên cứu:

9

e. Ý nghĩa thực tiễn, tính thời sự và những điểm mới của luận văn

9

CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HỌAT
ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH QUY MƠ NHỎ TẠI VIỆT
NAM : NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ BẤT CẬP

13

1.1. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về tổ chức và họat
động của các tổ chức tài chính quy mơ nhỏ tại Việt Nam


13

1.1.1. Môi trường kinh tế xã hội

13

1.1.2. Môi trường pháp luật

14

1.2. Thực trạng pháp luật về tổ chức và họat động của các tổ chức tài
chính quy mơ nhỏ tại Việt Nam : những ưu điểm và bất cập.

20

1.2.1. Bộ luật dân sự và những nội dung về hợp đồng cho vay tài sản.

20

1.2.2. Những quy định của Luật các tổ chức tín dụng hiện hành liên quan
đến tổ chức và hoạt động của các tổ chức tài chính quy mơ nhỏ.

29

1.2.3. Những quy định của nghị định 28/CP về tổ chức và hoạt động của các
tổ chức tài chính quy mô nhỏ.

36

1.2.3.1. Sơ lược về cơ cấu, nội dung Nghị định 28


36

1.2.3.2. Những quy định chung về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng,
các thuật ngữ và phạm vi hoạt động của tổ chức TCQMN

37

1.2.3.3. Nội dung cấp giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức
TCQMN

43


4

1.2.3.4. Tổ chức, quản trị, kiểm soát, điều hành của tổ chức tài chính quy
mơ nhỏ.

46

1.2.3.5. Về hoạt động của các tổ chức TCQMN

50

1.3. Tìm hiểu và đánh giá nguyên nhân của những ưu điểm và bất cập
của pháp luật về tổ chức và họat động của các tổ chức tài chính quy mơ
nhỏ tại Việt Nam.

53


CHƯƠNG II: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HỌAT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÀI
CHÍNH QUY MƠ NHỎ Ở VIỆT NAM

58

2.1. Kiến nghị về loại hình doanh nghiệp và cơ cấu tổ chức của tổ chức
tài chính quy mơ nhỏ Việt Nam.

58

2.1.1. Về loại hình doanh nghiệp của tổ chức tài chính quy mơ nhỏ.

58

2.1.2. Về cơ cấu tổ chức của tổ chức tài chính quy mơ nhỏ Việt Nam.

61

2.1.3. Về thành phần và cơ cấu các bộ phận trong cơ cấu tổ chức của tổ
chức TCQMN.

63

2.1.4. Về chức năng nhiệm vụ của các bộ phận trong cơ cấu tổ chức của tổ
chức TCQMN.

65


2.2. Kiến nghị về hoạt động của tổ chức tài chính quy mơ nhỏ Việt
Nam.

68

2.2.1 Kiến nghị về lãi suất áp dụng đối với hoạt động tài chính quy mơ nhỏ.

68

2.2.2. Về quản lý rủi ro đối với hoạt động tài chính quy mơ nhỏ:

72

2.2.3. Về vay vốn và nhận tài trợ.

78

2.3. Khiếm khuyết của việc áp dụng những kiến nghị nêu trên.

80

2.4. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện thêm nhằm hoàn thiện pháp luật về
tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính quy mô nhỏ Việt Nam.

82

KẾT LUẬN :

84


TÀI LIỆU THAM KHẢO

87


5

Danh mục chữ viết tắt:
-

TCQMN: tài chính quy mơ nhỏ;

-

NHNN : Ngân hàng nhà nước;

-

Luật tổ chức tín dụng: Luật tổ chức tín dụng năm 1997 được sửa đổi bổ
sung năm 2004;

-

Bộ Luật dân sự: Bộ Luật dân sự năm 2005;

-

Luật doanh nghiệp: Luật doanh nghiệp năm 2005;

-


TNHH: Trách nhiệm hữu hạn;

-

Nghị định 28: Nghị định số 28/2005/NĐ-CP ngày 09/03/2005 của Chính
Phủ về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tài chính quy mơ nhỏ;

-

Quỹ CEP: Quỹ trợ vốn cho người lao động nghèo tự tạo việc làm (gọi tắt là
Quỹ trợ vốn CEP) – Liên đoàn Lao động TP. Hồ Chí Minh;

-

Qũy CCM: Quỹ hỗ trợ xã viên hợp tác xã – Liên minh Hợp tác xã TP. Hồ
Chí Minh;

-

Qũy CWED: Quỹ hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế – Hội liên hiệp Phụ nữ
TP. Hồ Chí Minh;


6

PHẦN MỞ ĐẦU:
a. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những mơ hình tổ chức và hoạt động TCQMN thành công nhất
trên thế giới là Ngân hàng Grameen – Bangladesh. Phương pháp hoạt động và tiếp

cận người nghèo của Ngân hang này đã trở thành mẫu hình cho hoạt động TCQMN
trên khắp thế giới, trong đó có Việt Nam. Với việc Ủy ban Nobel của Na Uy chính
thức trao giải Nobel hồ bình năm 2006 nhằm vinh danh giáo sư Muhammad Yunus
và Ngân hàng Grameen do ơng sáng lập vì “nỗ lực giúp phát triển kinh tế và xã hội”
cho những người nghèo ở Bangladesh và ghi nhận : “Để có nền hồ bình bền vững,
phần lớn dân chúng phải có được phương cách thốt khỏi đói nghèo. Tín dụng nhỏ
là một trong những phương cách đó”1 đã chính thức nói lên tầm quan trọng và ý
nghĩa của hoạt động tài chính quy mơ nhỏ trên phạm vi tồn thế giới. Đó cũng là
một sự cổ vũ tinh thần to lớn, là động lực thúc đẩy cho sự phát triển TCQMN tại
Việt Nam.
Hoạt động tài chính quy mơ nhỏ (tài chính vi mơ) với đặc trưng là cung cấp
các khỏan cho vay có quy mơ nhỏ, có hoặc khơng có tài sản đảm bảo, từ lâu đã đáp
ứng được nhu cầu của các hộ gia đình có thu nhập thấp, khó hoặc khơng thể tiếp cận
hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính chính thức khác bởi một lẽ giản đơn là
họ khơng có tài sản có giá trị để thực hiện các biện pháp bảo đảm và như vậy họ
khơng thể gặp Ngân hàng ở mục đích chung là kinh doanh tiền tệ thuần túy.
Các tổ chức tài chính quy mơ nhỏ hình thành và phát triển bởi tính chất hoạt
động của nó với mục tiêu kép là hộ trợ các dịch vụ tài chính cho người nghèo, cung
cấp cho họ các món vay nhỏ, các dịch vụ tiết kiệm nhỏ, tạo lộ trình để họ trả nợ dần
vừa sức với khả năng của họ đồng thời lồng ghép các chương trình an sinh xã hội và
phát triển cộng đồng; mặt khác đạt được khả năng tự cung về tài chính đồng hành
1

Nobel Hồ bình dành cho những người tiên phong chống nghèo đói, Tường Vi, Báo tuồi trẻ ngày 13/10/2006


7

lâu dài cùng người nghèo qua chặng đường gian truân thóat đói nghèo và tiến đến
thịnh vượng của họ.

Cho đến nay kể cả vế mặt lý luận và thực tiễn, thông qua các hội thảo, diễn
đàn, chúng ta đều đã thừa nhận vai trò quan trọng của hoạt động tài chính quy mơ
nhỏ trong cơng cuộc xóa đói giảm nghèo bền vững, khả năng tạo cho người nghèo
thói quen tiết kiệm và giúp họ thóat nghèo từ chính những đồng vốn nhỏ ban đầu.
Và thực tế sự phát triển vượt bậc và nhân rộng mơ hình các tổ chức tài chính quy
mơ nhỏ khơng chỉ ở TP. Hồ Chí Minh mà trên phạm vi cả nước đều đã chứng tỏ
nhu cầu khách quan của xã hội đối với hoạt động này. Tuy nhiên về mặt luật pháp,
vẫn còn nhiều bất cập và lỗ hổng trong quản lý hoạt động này. Ở tầm vĩ mô, chưa
tạo được cơ chế pháp lý xứng với tầm quan trọng và ý nghĩa về kinh tế xã hội của
hoạt động này, vẫn còn thực sự thiếu một khuôn khổ pháp lý đầy đủ để định hướng
và xây dựng chiến lược phát triển lâu dài cho hoạt động tài chính quy mơ nhỏ.
Mượn lời Giáo sư Muhammad Yunus, Giám đốc Ngân hàng Grameen Bangladesh trên báo Người lao động ngày 26/5/2004: “Nếu được đảm bảo pháp lý
thì các tổ chức tài chính quy mơ nhỏ được thuận lợi hơn nhiều, vì đảm bảo pháp lý
sẽ có cơ quan tài trợ đến”. Đây mới chỉ là một trong những lợi ích mà pháp luật, cụ
thể trong trường hợp này là pháp luật về tổ chức và hoạt động của các tổ chức
TCQMN có thể đem lại sự phát triển của một loại hoạt động tài chính rất đặc thù
nhưng vô cùng quan trọng trong việc phát triển kinh tế, tham gia tích cực vào cơng
cuộc xố đói giảm nghèo. Hoàn thiện pháp luật về hoạt động tài chính quy mơ nhỏ,
gián tiếp thừa nhận vai trị, vị trí và tư các pháp lý của các tổ chức này thì hoạt động
tài chính quy mơ nhỏ sẽ phát triển mạnh, mang tính chiến lược dài hạn, đảm bảo là
các đối tác thích hợp nhất trong việc triển khai và giải ngân các chương trình viện
trợ và hỗ trợ phát triển của quốc tế dành cho Việt Nam, góp phần thực hiện chiến
lược từ xóa đói giảm nghèo đến xóa đói giảm nghèo bền vững (khơng có tái nghèo).


8

Mong muốn đóng góp một số vấn đề lý luận cơ bản góp phần thúc đẩy việc
hồn thiện Pháp luật về hoạt động tài chính quy mơ nhỏ, trên cơ sở khảo sát thực
tiễn hoạt động một số tổ chức tài chính quy mơ nhỏ điển hình tại Thành phố Hồ Chí

Minh, tác giả mong muốn làm rõ xu thế phát triển tất yếu của các tổ chức tài chính
quy mơ nhỏ, những đóng góp của chúng thơng qua các chương trình tín dụng - tiết
kiệm trong việc thoả mãn nhu cầu tài chính cho người nghèo và sự cần thiết phải
xây dựng văn bản pháp luật thích hợp, tạo cơ chế pháp lý thuận lợi cho hoạt động
này ngày càng phát triển góp phần thực hiện cơng cuộc xố đói giảm nghèo bền
vững trên địa bàn nghiên cứu trên nói riêng và Việt Nam nói chung.
b. Nội dung nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu các quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt
động của các tổ chức TCQMN đồng thời khảo sát thực trạng hoạt động và phát triển
của các tổ chức tài chính quy mơ nhỏ trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, tìm
hiểu cơ cấu tổ chức, tư cách pháp nhân, những thách thức về vấn đề pháp lý và môi
trường vĩ mơ, điều đó tác động như thế nào đến q trình phát triển của họ. Tìm
hiểu thực tế các hoạt động tài chính và hoạt động khác mà họ đang thực hiện có vai
trị và ý nghĩa như thế nào và đem lại những gì đối với đời sống xã hội, đối chiếu
các hoạt động đó với quy định hiện hành của pháp luật để chỉ ra những bất cập về
mặt pháp lý liên quan đến tổ chức và hoạt động của các tổ chức này.
Trên cơ sở những nghiên cứu, tìm hiểu nêu trên, tác giả đề xuất, kiến nghị
những điều chỉnh cần thiết để hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức và
hoạt động của các tổ chức TCQMN, tạo môi trường pháp lý thông thoáng và thuận
lợi cho sự phát triển của hoạt động này, góp phần vào cơng cuộc xố đói giảm
nghèo, đặc biệt tại khu vực nông thôn và vùng ven đô thị thơng qua cung cấp dịch
vụ tài chính và phi tài chính phù hợp với nhu cầu, khả năng chi trả và sự mong đợi
của họ.


9

c. Giới hạn đề tài, Khách thể và Đối tượng nghiên cứu
Tác giả tập trung nghiên cứu và tìm hiểu các văn bản pháp luật liên quan đến
tổ chức và hoạt động của các tổ chức tài chính quy mơ nhỏ tại Việt Nam, kết hợp

với việc tìm hiểu thực tiễn tổ chức và hoạt động của một số các tổ chức TCQMN
điển hình trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra và
phân tích những bất cập giữa các quy định của pháp luật và thực tiễn trong lĩnh vực
này, đồng thời đề xuất, kiến nghị điều chỉnh các quy định của pháp luật về tổ chức
và hoạt động của các tổ chức TCQMN, tạo môi trường pháp luật ổn định, vừa duy
trì, vừa tạo điều kiện thúc đẩy phát triển hoạt động TCQMN tại Việt Nam.
d. Phương pháp nghiên cứu
Trong Chương 1, tác giả chủ yếu sử dung phương pháp phân tích, tổng hợp,
so sánh, đối chiếu để làm rõ những ưu điểm và bất cập, những mâu thuẫn và sự
chống chéo cũng như những nội dung không hoặc chưa hợp lý của các quy định của
pháp luật hiện hành liên quan đến tổ chức và hoạt động của các tổ chức TCQMN.
Trong Chương 2, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp khảo sát, đối chiếu,
so sánh, tổng kết kinh nghiệm kết hợp với phân tích tổng hợp để thơng qua việc tìm
hiểu thực tiễn tổ chức và hoạt động của một số các tổ chức TCQMN điển hình tại
TP, Hồ Chí Minh, tác giả làm rõ thêm những “khoảng cách” từ thực tiễn đến các
quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề này, trên cơ sở đó đề xuất một số kiến
nghị nhằm điều chỉnh, bổ sung, từng bước hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt
động của các tổ chức TCQMN.
e. Ý nghĩa thực tiễn, tính thời sự và những điểm mới của luận văn
Với việc ban hành Nghị định số 28/2005/NĐ-CP ngày 9/3/2005 của Chính
phủ về tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính quy mơ nhỏ tại Việt Nam, Nhà


10

nước ta đã chính thức thừa nhận và tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển của lĩnh vực
này.
Có thể nói, hơn lúc nào hết, hoạt động TCQMN đang được quan tâm, không
chỉ trong nước mà cả trên phạm vi thế giới. Bởi người ta đã nhận thức được vai trị,
ý nghĩa “khơng thể thay thế” của hoạt động này trong cơng cuộc chống lại nghèo

đói và phát triển kinh tế. Điều này càng có ý nghĩa đối với các nước nghèo, trong đó
có Việt Nam; các vùng nghèo như vùn ven đô thị, khu vực nông thôn, miền núi.
Giáo sư Muhammad Yunus quan niệm rằng: “người nghèo có thể tự mình
thốt khỏi nghèo đói nếu chúng ta cho họ cùng hoặc tương đương các cơ hội mà
chúng ta cho những người khác. Người nghèo chính họ có thể tạo ra một thế giới
khơng có nghèo đói, tất cả những gì chúng ta phải làm là giải phóng họ khỏi các
xiềng xích mà chúng ta đặt chung quanh họ” và “Nghèo đói khơng được tạo ra bởi
người nghèo. Nghèo đói được tạo ra bởi hệ thống kinh tế và xã hội mà chúng ta tạo
ra cho thế giới. Đó là các thiết chế mà chúng ta đã xây dựng nên và cảm thấy hãnh
diện về chúng, vốn đã tạo ra sự nghèo đói… Đó là sự thất bại từ trên cao chứ không
phải là thiếu khả năng ở cấp dưới mà chúng là nguyên nhân của sự nghèo đói”2.
Đây là một kiến giải vô cùng nhân đạo và sâu sắc về nguyên nhân của “cái sự
nghèo”. Lý giải nguyên nhân này, chúng ta khơng đá trái bóng về phía người nghèo,
chúng ta hãy nhìn thấy trách nhiệm của mình, đặc biệt là các nhà quản lý, các nhà
xây dựng và hoạch định chính sách pháp luật. Hãy làm thức dậy trong người nghèo
động cơ “đi câu” bằng cách tạo ra cơ chế chính sách tạo điều kiện cho họ có thể vay
mượn “cần câu”- vốn, rồi họ sẽ tự “đi câu”, tự “kiếm cá” bằng trí tuệ và sự cần cù
của mình.
Luận văn này cũng nhằm thể hiện sự ủng hộ của tác giả đối với việc tạo cơ
chế khuyến khích sự phát triển của hoạt động TCQMN thơng qua việc đóng góp ý

2

Giảm phân nửa nghèo đói vào năm 2015, bài thuyết trình tại Hội nghị Khối cộng đồng chung, London,
ngày 11/3/2003.


11

kiến của mình trong việc xây dựng và hồn thiện pháp luật về về tổ chức và hoạt

động của tổ chức tài chính quy mơ nhỏ, để những nhà thực hành hoạt động tài chính
quy mơ nhỏ có cơ sở thực hiện, phát triển, mở rộng phạm vi hoạt động, phục vụ
ngày càng nhiều người nghèo, góp phần cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
Về những điểm mới của Luận văn, tác giả đề xuất và kiến nghị về loại hình
doanh nghiệp của các tổ chức TCQMN cũng như những nội dung liên quan đến cơ
cấu tổ chức và hoạt động của các tổ chức này. Bên cạnh đó, tác giả cũng sẽ đề xuất,
kiến nghị các biện pháp quản lý rủi ro, bảo đảm an toàn cho tổ chức và hoạt động
của các tổ chức TCQMN. Bên cạnh đó tác giả cũng đề xuất bổ sung các quy định
của pháp luật về hoạt động vay vốn và nhận tài trợ của tổ chức TCQMN.
Một trong những điểm nhấn quan trọng trong các nội dung trên là những nội
dung liên quan đến quản lý rủi ro và bảo đảm an toàn cho hoạt động của các tổ chức
TCQMN. Vì đặc trưng hoạt động này chủ yếu là cho vay tín chấp khơng được đảm
bảo bằng tài sản, hàm chứa nhiều rủi ro. Cần phải áp dụng các phương pháp, biện
pháp để tạo điều kiện cho các tổ chức này hoạt động một các an toàn, hiệu quả và
bền vững.
Theo hiểu biết thiển cận của mình, tác giả nhận định rằng đây là luận văn
luật học đầu tiên ở nước ta nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tài
chính quy mơ nhỏ, nên chắc chắn sẽ không trùng lắp về mặt ý tưởng. Tác giả dự
kiến sẽ nghiên cứu, tìm hiểu để chỉ ra những bất cập về mặt pháp lý đối với loại
hình hoạt động này, trên cơ sở đó kiến nghị điều chỉnh, bổ sung, từng bước hoàn
thiện Pháp luật liên quan đến hoạt động này.
Phù hợp với nội dung nghiên cứu, giới hạn đề tài, cơ cấu Luận văn bao gồm
những phần sau:
 Lời nói đầu.


12

 Chương I: Thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tài

chính quy mơ nhỏ tại Việt Nam : Những ưu điểm và bất cập.
 Chương II: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt
động của các tổ chức tài chính quy mơ nhỏ ở Việt Nam trên cơ sở hoạt động
thực tiễn tại TP. Hồ Chí Minh.
 Kết luận.


13

CHƯƠNG I
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HỌAT ĐỘNG
CỦA CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH QUY MƠ NHỎ TẠI VIỆT NAM :
NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ BẤT CẬP

1.1.

Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về tổ chức và hoạt
động của các tổ chức tài chính quy mơ nhỏ tại Việt Nam.

1.1.1. Mơi trường kinh tế xã hội
Q trình hình thành và phát triển pháp luật về tổ chức và hoạt động của các
tổ chức tài chính quy mơ nhỏ ở nước ta gắn liền với chiến lược xoá đói giảm nghèo
mà trọng tâm là tạo cơ hội cho người nghèo thốt khỏi đói nghèo bằng cách thúc
đẩy các hoạt động tạo thu nhập và cải thiện đời sống của họ. Sự song hành của hai
quá trình này được lý giải bởi một lý do dễ hiểu là bất cứ hoạt động nào của đời
sống xã hội cũng cần phải có “vốn”. Và đặc biệt, người nghèo lại càng cần vốn hơn
hết, nhưng lại khó tiếp cận nguồn vốn hơn hết bởi vì họ khơng có tải sản đáng giá
có thể quy đổi thành vốn. Từ năm 1986, cùng với quá trình đổi mới, Nhà nước ta đã
xác định và xây dựng chiến lược xố đói giảm nghèo cấp quốc gia, mà trong đó
cơng cụ tài chính đóng một vai trò rất quan trọng. Mục tiêu của chiến lược này là

nhằm giải quyết những nguyên nhân gây ra nghèo đói, thơng qua các biện pháp
khác nhau, trong đó việc tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn lực cho người
nghèo là một biện pháp then chốt. như vậy, có thể khẳng định, tài chính như một
cơng cụ đắc lực tạo ra “cú hích” ban đầu đề người nghèo có thể trang bị công cụ,
phương tiện lao động, tạo ra cơ sở để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh,
cải thiện và nâng cao thu nhập của mình.


14

Vấn đề đạt ra là, làm thế nào để kết nối giữa công cụ (vốn) và đối tượng
(người ngèo) trong chiến lược xố đói giảm nghèo này? Câu trả lời là cần có những
định chế, trong đó bao gồm các quy định của pháp luật liên quan đến việc làm thế
nào để người nghèo tiếp cận được các nguồn lực, mà cụ thể trong trường hợp này là
làm thế nào để nguồn vốn đến được với người nghèo hay người nghèo tiếp cận được
nguồn vốn. Và như vậy vai trò của các tổ chức tín dụng, của hệ thống ngân hàng
được đặt ra, cũng như các hoạt động tài chính – tín dụng phục vụ cho xố đói giảm
nghèo bắt đầu hình thành.
Đầu những năm 1990, Nhà nước bắt đầu thực hiện một cách sâu rộng hơn
chính sách tín dụng cho người nghèo nói chung, đặc biệt đối với khu vực nông thôn
thông qua việc phát triển hệ thống dịch vụ tài chính cho người nghèo và cung cấp
tín dụng trực tiếp cho các hộ nông dân. Hệ thống ngân hàng được cải cách sâu rộng,
chuyển từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hai cấp, đơn giản hoá thủ tục, áp dụng
lãi suất hợp lý và khác nhau cho từng khu vực. Tất cả những điều đó đã tạo tiền đề
thuận lợi cho sự hình thành và phát triển pháp luật về tổ chức và hoạt động của các
tổ chức tài chính quy mơ nhỏ tại Việt Nam.
1.1.2. Mơi trường pháp luật
Cùng với việc chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hệ thống pháp
luật của chúng ta đã từng bước được điều chỉnh, bổ sung và hồn thiện, thơng qua
đó vừa quản lý, vừa định hướng cho sự phát triển các hoạt động của đời sống kinh

tế - xã hội. Trong đó pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của các tổ chức
tài chính quy mơ nhỏ cũng tững bước được hình thành và phát triển.


Bộ Luật dân sự 1995, Bộ Luật dân sự 2005 và vai trị của chúng đối với
hình thành và phát triển của pháp luật về tổ chức và hoạt động của các
tổ chức TCQMN tại Việt Nam:


15

Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về tổ chức và hoạt động của các
tổ chức tài chính quy mô nhỏ tại Việt Nam cũng gắm liền với sự ra đời của Bộ luật
dân sự năm 1995. Trong khi Luật các tổ chức tín dụng chưa “đã động” gì nhiều đến
tổ chức và hoạt động của các tổ chức này, thì Bộ luật dân sự năm 1995 đã có tác
động và tạo ra một “khn khổ” hoạt động của chúng thông qua chế định “Hợp
đồng vay tài sản” gồm các điều từ 467 đến 475 Bộ luật dân sự. Thông qua chế định
này, Bộ luật dân sự cho phép xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp
đồng vay tài sản, quy định về lãi suất, quyền sở hữu đối với tài sản vay. Năm 2005,
Bộ luật dân sự mới được ban hành, trong đó vẫn duy trì và bổ sung, hồn thiện thêm
nội dung của chế định này. Như vậy, với những quy định về hợp đồng vay tài sản,
Bộ luật dân sự đã tạo ra cơ sở pháp lý cần thiết để các bên chủ thể trong quan hệ
vay tài sản có cơ sở xác lập các quyền và nghĩa vụ cụ thể của họ, xác định mức lãi
suất hợp lý và hợp pháp.


Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và cơng ty tài chính năm 1990,
luật các tổ chức tín dụng năm 1997 được sửa đổi bổ sung năm 2004 và
vai trị của chúng đối với hình thành và phát triển của pháp luật về tổ
chức và hoạt động của các tổ chức TCQMN tại Việt Nam:

Sự ra đời của Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và cơng ty tài chính

năm 1990 đã tác động trực tiếp đến các hoạt động trong lĩnh vực tài chính ngân
hàng. Đúng như tên gọi của mình, Pháp lệnh này chỉ quy định tổ chức, hoạt động
của các ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và cơng ty tài chính. Tuy nhiên trong nội
hàm của nó đã chứa đựng những nội dung liên quan đến hoạt động tài chính tín
dụng bao gồm hoạt động tài chính tín dụng có quy mơ nhỏ. Măc dù pháp lệnh này
chưa “bao sân” được hết các hoạt động tín dụng đang diễn ra một cách hợp pháp
trong đời sống xã hội, chưa mở rộng phạm vi điều chỉnh đến các tổ chức có hoạt
động tín dụng khác ngồi ba loại hình tổ chức nêu trên, tuy nhiên chính những quy
định này sẽ tạo ra tiền đề cho sự hình thành và phát triển pháp luật về tổ chức và
hoạt động của các tổ chức tài chính quy mô nhỏ.


16

Trong điều kiện kinh tế - xã hội có những chuyển biến nhanh chóng, cơ chế
thị trường ở nước ta đã được xác lập một cách rõ nét, các hoạt động tín dụng ngân
hàng ngày cáng phát triển phong phú và đa dạng, chiếc áo “Pháp lệnh ngân hàng,
hợp tác xã tín dụng và cơng ty tài chính” trở nên cũ và chật hẹp, khơng cịn phù hợp
nữa. Luật các tổ chức tín dụng ra đời năm 1997 như một sự tất yếu nhằm “bảo đảm
hoạt động của các tổ chức tín dụng được lành mạnh, an tồn và có hiệu quả; bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân; góp phần
thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa”3.
Luật này đã mở rộng phạm vi điều chỉnh, không chỉ quy định tổ chức, hoạt
động của các tổ chức tín dụng mà cịn điều chỉnh hoạt động ngân hàng của các tổ
chức khác. Như vậy có thể nói từ đây hoạt động ngân hàng của các tổ chức khơng
phải là tổ chức tín dụng sẽ được chính thức điều chỉnh bởi Luật các tổ chức tín dụng

trong đó bao gồm cả các hoạt động cung cấp các dịch vụ tài chính, ngân hàng ở quy
mơ nhỏ cho các hộ gia đình, cá nhân có thu nhập thấp, đặc biệt là hộ gia đình nghèo
và người nghèo mà theo cách gọi ngày nay là hoạt động tài chính quy mơ nhỏ (hay
tài chính vi mơ – theo cách gọi của những nhà kinh tế). Mặt khác, Luật này cũng đã
tạo ra những cơ sở pháp lý rất cần thiết và quan trọng, xác định sự “ủng hộ” của
Nhà nước cho các hoạt động tài chính ngân hàng cho các tổ chức không phải là tổ
chức tín dụng, trong đó xác định: Các tổ chức khơng phải là tổ chức tín dụng có thể
được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng khi đáp
ứng một số điều kiện nhất định4, cụ thể là:
a) Hoạt động ngân hàng là cần thiết và có liên quan chặt chẽ với hoạt động
chính;
b) Có đủ vốn, điều kiện vật chất phù hợp với yêu cầu của hoạt động ngân hàng;
3
4

Lời nói đầu, Luật các tổ chức tín dụng năm 1997.
Xem khoản 2, Điều 22, Luật các tổ chức tín dụng năm 1999.


17

c) Có đội ngũ cán bộ am hiểu hoạt động ngân hàng;
d) Có phương án kinh doanh khả thi về hoạt động ngân hàng.
Thông qua Luật này, nhà nước thống nhất quản lý mọi hoạt động ngân hàng,
phát triển các ngân hàng chính sách hoạt động khơng vì mục đích lợi nhuận phục vụ
người nghèo và các đối tượng chính sách khác nhằm thực hiện các chính sách kinh
tế - xã hội của Nhà nước đồng thời bảo hộ quyền sở hữu, quyền và lợi ích hợp pháp
khác trong hoạt động của các tổ chức tín dụng hợp tác nhằm tạo điều kiện cho
người lao động tương trợ nhau trong sản xuất và đời sống; xây dựng các ngân hàng
phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân với các chính sách ưu đãi về

vốn, lãi suất và các điều kiện vay vốn5.
Luật này cũng xác định chính sách tín dụng của nhà nước ta là động viên các
nguồn lực trong nước là chính đồng thời tranh thủ tối đa nguồn lực ngồi nước đồng
thời có chính sách tín dụng ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiện, thời hạn vay vốn đối
với nông nghiệp, nông thôn và nông dân và tại các vủng miền núi, hải đảo, vùng
sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt đối với người
nghèo và các đối tượng chính sách khác6.
Như vậy, với các chính sách tín dụng nêu trên, Luật các tổ chức tín dụng 1997
đã tác động đến hoạt động tài chính quy mơ nhỏ theo ba hướng chính, đó là:
-

Thứ nhất, việc xác định động viên các nguồn lực trong nước là chính đồng
thời tranh thủ tối đa nguồn lực ngồi nước sẽ mở rộng cánh cửa, cho phép các
tổ chức tín dụng và các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng có hoạt động
ngân hàng có thể tiếp cận nhiều nguồn vốn khác nhau, không chỉ trong nước
mà kể cả phạm vi quốc tế. Điều này càng có ý nghĩa đối với các chương trình
tài chính quy mơ nhỏ hay tài chính vi mơ thường là mơ hình hiệu quả để các
tổ chức NGO lựa chọn triển khai mục tiêu kép của họ là vừa để hỗ trợ tài

5
6

Điều 4, Luật các tổ chức tín dụng 1997.
Điều 5, Luật các tổ chức tín dụng 1997.


18

chính vừa để triển khai thực hiện các hoạt động phát triển cộng đồng cho khu
vực hay nhóm đối tượng của họ.

-

Thứ hai, với chính sách tín dụng ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiện, thời hạn
vay vốn đối với người nghèo, các đối tượng chính sách khác, các khu vực khó
khăn của đất nước sẽ tạo ra những cơ hội phát triển dễ dàng hơn cho các
chương trình tài chính vi mơ, các tổ chức tài chính tài chính quy mơ nhỏ. Bởi
vì, chính các tổ chức này cũng dành ưu tiên và tập trung cho người nghèo và
các khu vực khó khăn, kém phát triển của đấ nước.

-

Thứ ba, việc cho phép các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng có thể được
Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng khi đáp
ứng một số điều kiện nhất định sẽ tạo cơ sở pháp lý nhất định, bước đầu cho
pháp các tổ chức loại này có thể “danh chính ngơn thuận” để thực hiện các
hoạt động tài chính ngân hàng của họ.
Tuy nhiên, do những quy định của luật này liên quan đến tổ chức và hoạt động

của các tổ chức tài chính quy mơ nhỏ cịn rất “chung chung”, chưa có văn bản dưới
luật hướng dẫn cụ thể nên dường như các tổ chức tài chính quy mơ nhỏ, các chương
trình tài chính vi mơ của các đồn thể xã hội, các tổ chức NGO vẫn nằm ngoài
phạm vi điều chỉnh của Luật này, vẫn nằm ngồi khn khổ kiểm soát của Ngân
hàng nhà nước trong một thời gian dài.
Năm 2004, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng
được ban hành đã điều chỉnh, bổ sung một số nội dung cho phù hợp với tổ chức và
hoạt động của các tổ chức tín dụng và các hoạt động ngân hàng của tổ chức khác
trong thời kỳ mới. Nhưng dường như với việc sửa đổi lần này, các nhà hoạch định
chính sách vẫn chưa kịp đưa những quy định liên quan trực tiếp đến hoạt động tài
chính quy mơ nhỏ vào luật này. Hoạt động tài chính quy mơ nhỏ và các tổ chức
thực hiện chúng vẫn chưa có những “khn khổ pháp lý” cụ thể giúp các tổ chức

này có thể xây dựng chiến lược phát triển dài hạn và ổn định trong một khn khổ
lẽ ra phải có này.


19

Các văn bản trên, tuỳ theo mức độ, đã tác động đến tổ chức và hoạt động của
các chương trình tài chính – tín dụng, các tổ chức tài chính có quy mơ nhỏ. Tuy
nhiên vẫn chưa điều chỉnh một cách tồn diện, chưa hực sự tạo ra một khn khổ
pháp lý thống nhất để điều chỉnh các hoạt động tài chính quy mơ nhỏ, định hướng
cho được sự phát triển lâu dài và ổn định cho các tổ chức thực hiện hoạt động này.
 Nghị định 28/CP đánh dấu sự chính thức hố tồn diện về tổ chức và
hoạt động của các tổ chức TCQMN.
Ngày 09/03/2005 Chính phủ đã ban hành nghị định 28/2005/NĐ-CP về tổ
chức và hoạt động của các tổ chức tài chính quy mơ nhỏ, đánh dấu sự chính thức
hố một các tồn diện địa vị pháp lý của các tổ chức này.
Đúng như tên gọi của mình, Nội dung Nghị định này bao gồm những quy
phạm về tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính quy mơ nhỏ tại Việt Nam. Nghị
định này đánh dấu bước phát triển mới vô cùng quan trọng của pháp luật liên quan
đến hoạt động này, tạo điều kiện va cơ sở pháp lý cho sự phát triển của hoạt động
tài chính quy mơ nhỏ. Đây là lần đầu tiên, hoạt động này được chính thức thừa nhận
và điều chỉnh bởi một văn bản pháp luật cụ thể. Bởi đã đến lúc cần thừa nhận một
cách nghiêm túc hoạt động tài chính quy mổ nhỏ về bản chất là hoạt động ngân
hàng và có vai trị quan trọng trong việp tiếp cận và hỗ trợ dịch vụ tài chính tín dụng
cho người nghèo. Hoạt động đó cần được thừa nhận và quản lý một cách chuyên
nghiệp và an toàn. Từ đây, các tổ chức đang thực hiện các hoạt động tài chính quy
mơ nhỏ, các chương trình tìn dụng tiết kiệm của các tổ chức NGO có cơ hội có
được địa vị pháp lý rõ ràng, có thể tiếp cận được các nguồn vốn đa dạng để có thể
phát triển và mở rộng hoạt động. Nghị định này cũng tạo cơ sở pháp lý để các tổ
chức thực hiện hoạt động tài chính quy mơ nhỏ có thể tự xác định được những gì

mình có quyền thực hiện. Họ có thể đa dạng hố các sản phẩm dịch trong khuôn
khổ pháp lý đã định phù hợp với nhu cầu khách hàng, họ có thể mở rộng phạm vi
hoạt động khi đáp ứng đủ những điều kiện nhất định.


20

Khi có được địa vị pháp lý rõ ràng, cụ thể, họ có nhiều cơ hội thiết lập các
quan hệ đối tác, hợp tác với các cơ quan tổ chức khác trong và ngoài nước để kêu
gọi đầu tư nguồn vốn, tài trợ hoặc các dự án hợp tác, và điều quan trọng nhất, được
pháp luật thừa nhận và khuyến khích phát triền chính là giấy thơng hành để họ có
thể triển khai hoạt động trong phạm vi rộng lớn hơn, có tiếm năng và định hướng
chiến lược phát triển dài hạn hơn, mở rộng tầm ảnh hưởng trong cộng đồng xã hội,
đóng góp nhiều hơn cho cơng cuộc xố đói giảm nghèo, đặc biệt tại các vùng nơng
thơn và ven đô thị.

1.2.

Thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tài
chính quy mơ nhỏ tại Việt Nam : những ưu điểm và bất cập.

1.2.1. Bộ luật dân sự 2005 và những nội dung về hợp đồng cho vay tài sản.
Bộ luật này đã tạo ra những cơ sở pháp lý nhất định cho hoạt động của các tổ
chức tài chính quy mơ nhỏ thơng qua các quy định liên quan đến hợp đồng cho vay
tài sản gồm các điều từ 471 đến 479.
Bộ luật dân sự xác định hợp đồng vay tài sản là một trong những loại hợp
đồng dân sự thông dụng. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế khách quan của
đời sống kinh tế xã hội. Hoạt động cho vay là một hiện tượng kinh tế phổ biến xuất
hiện từ rất sớm trong xã hội loaì người. Bất cứ khi nào và bất cứ ở đâu, khi tồn tại
hiện tượng thừa hay thiếu vốn đều có thể phát sinh hoạt động cho vay tài sản, thơng

qua đó người cho vay giao cho người vay quyền sở hữu một số tiền hoặc tài sản, khi
hết thời hạn vay do hai bên thoả thuận, bên vay trả lại số tiền hoặc tài sản tương
đương với số tiền và tài sãn đã vay và trả thêm lợi ích vật chất theo sự thoả thuận
của các bên theo quy định của pháp luật.
Liên quan đến hoạt động tài chính quy mơ nhỏ, hợp đồng cho vay tài sản là
phương tiện pháp lý thông qua đó các hộ gia đình, cá nhân có thu nhập thấp có thể
thoả mãn nhu cầu về vốn bằng việc xác lập quan hệ hợp đồng với các tổ chức cung


21

cấp các dịch vụ tài chính với mức vay, lãi suất và phương thức cho vay phù hợp với
điều kiện kinh tế và mức thu nhập của họ. Thông qua việc xác lập hợp đồng cho
vay, người vay có điều kiện để giải quyết những khó khăn kinh tế do thiếu vốn
trong sản xuất hoặc phục vụ các nhu cầu tiêu dùng khác của họ. Điều 471 Bộ luật
dân sự 2005 định nghĩa “Hợp đồng vay tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo
đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho
bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu
có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định”. Như vậy, Hợp đồng cho vay tài sản
trước hết phải là sự thoả thuận giữa người cho vay và người vay về việc chuyển
quyền sở hữu một lượng tiền hay tài sản. Kể từ thời điểm nhận lượng tiền hay tài
sản đó, bên vay trở thành chủ sở hữu và có tồn quyền sử dụng số tiền hoặc tài sản
đó theo đúng mục đích đã thoả thuận.
 Về nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng cho vay tài sản, Bộ luật dân sự
xác định :
Thứ nhất, liên quan đến việc giao tài sản cho vay, bên cho vay giao tài sản
cho bên vay đầy đủ, đúng chất lượng, số lượng vào thời điểm và địa điểm đã thoả
thuận. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động cho vay nói chung, trong
hoạt động cho vay của các tổ chức tài chính quy mơ nhỏ lại càng có ý nghĩa quan
trọng. Khi giao kết hợp đồng cho vay tài sản, các bên đã cùng nhau bàn bạc thống

nhất dưạ trên nhu cầu của người vay và khả cung cấp vốn của người cho vay cũng
như khả năng trả nợ của người vay. Trước khi vay, do tính chất quan trọng của loaị
giao dịch dân sự này, người vay đã lên kế hoạch sử dụng vốn cụ thể để sử dụng món
vay một cách tối ưu nhất. Nếu bên cho vay không giao tài sản một cách đầy đủ,
đúng số lượng và chất lượng vào thời điểm , điạ điểm đã thoả thuận sẽ gây ra nguy
cơ phá vỡ kế hoạch sử dụng vốn vay của ngưởi vay, giảm thiểu hiệu quả sử dung
vốn vay cũng như tăng nguy cơ và rủi ro không trả được nợ của người vay, vì thực
chất ý nghĩa của đồng vốn đối với người sử dụng nó chỉ được phát huy khi được


22

giao đúng, đủ và kịp thời. Nếu không đảm bảo được những yếu tố đó, vốn vay sẽ
giảm giá trị và ý nghĩa.
Thực tế cho thấy, đối với khách hàng của các tổ chức tài chính quy mơ nhỏ,
thơng thường là những người nghèo, thu nhập thấp, khơng có tài sản giá trị để thế
chấp, rất khó vay tiền hoặc tiếp cận các dịch vụ tài chính khác của các tổ chức tài
chính, ngân hàng. Việc vay được nguồn vốn cần thiết để thực hiện các hoạt động
sản xuất kinh doanh nhỏ, cải thiện đời sống gia đình có tầm quan trọng đặc biệt đối
với họ, đôi khi quyết định đời sống kinh tế của họ. Chính vì vậy việc quy định bên
cho vay giao tài sản cho bên vay đầy đủ, đúng chất lượng, số lượng vào thời điểm
và địa điểm đã thoả thuận là tạo điều kiện để đảm bảo quyền lợi của bên vay, đặc
biệt đối với bên vay là người nghèo trong các quan hệ vay tài sản với quy mô nhỏ.
Thứ hai, trong trường hợp bên cho vay biết tài sản không đảm chất lượng mà
khơng báo cho bên vay biết thì phải bồi thường thiệt hại cho bên vay, trừ trường
hợp bên vay biết mà vẫn nhận tài sản đó.
Thứ ba, bên cho vay cũng không được yêu cầu bên vay trả lại tài sản trước
thời hạn, trừ trường hợp được bên vay đồng ý. Điều này tạo nên sự ổn định trong
việc sử dụng tài sản vay, và sự chủ động cho việc trả nợ của người vay. Khi đã xác
lập hợp đồng vay tài sản, các bên dựa trên thời hạn đã thoả thuận để lên kế hoạch sử

dụng vốn vay và kế hoạch trả nợ hợp lý. Nếu bên cho vay yêu cầu trả nợ trước thời
hạn sẽ gây ra khó khăn trong việc hồn trả của người vay, có thể làm phá sản hoặc
ảnh hưởng không tốt đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống của bên vay.
Chính vì vậy Bộ luật dân sự khơng cho phép bên vay được yêu cầu trả lại tài sản
cho vay trước thời hạn, điều đó chỉ có thể thực hiện trong trường hợp duy nhất là
được bên vay đồng ý. Quy định này tạo điều kiện thuận lợi đặc biệt cho các cá
nhân, hộ gia định nghèo đang tham gia các quan hệ vay tài sản với các tổ chức tài
chính quy mơ nhỏ và các tổ chức khác có thể sử dụng vốn vay một cách an toàn, ổn
định. Đồng thời hó có thể tính tốn sắc xếp trước việc trả nợ của mình.. Bởi vì với


23

điều kiện khó khăn hạn chế về kinh tế, việc địi nợ “bất ngờ” của bên cho vay sẽ gây
khó khăn hoặc bế tắc trong việc trả nợ của bên vay.
 Đối với bên vay, Bộ luật dân sự xác định các nghĩa vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất, nếu vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản
là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thoả
thuận khác. Trong trường hợp bên vay khơng thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo
trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.
Nghĩa vụ này nhằn đảm bảo quyền lợi của bên cho vay, bảo đảm rằng trong điều
kiện bình thường, mặc nhiên bên vay phải trả cho bên cho vay đúng loại tài sản mà
mình đã vay theo đúng số lượng và chất lượng. Đối với tổ chức tài chính, tín dụng
nói chung, tổ chức tài chính quy mơ nhỏ nói riêng, trong đó, việc thực hiện hoạt
động cho vay bằng tiền mặt như một chức năng chính của họ, quy định này có ý
nghĩa tạo điều kiện đảm bảo người vay phải trả nợ bằng tiền mặt khi đến hạn, đảm
bảo tính thanh khoản của đồng vốn và thuận lợi trong quản lý và sử dụng nguồn vốn
của các tổ chức tài chính tín dụng.
Thứ hai, về địa điểm trả nợ, Bộ luật dân sự xác định là nơi cư trú hoặc nơi
đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Quy định phù hợp

với thơng lệ chung của hoạt động cho vay tài sản, thông thường, người vay phải đến
trả nợ tại “nhà” của bên cho vay. Trong hoạt động của các ngân hàng, các tổ chức
tín dụng khác, có thể nói đây là “ngun tắc bất di bất dịch”.
Tuy nhiên trong thực tế hoạt động của các tổ chức tài chính quy mơ nhỏ, địa
điểm trả nợ thường là nơi cư trú của người vay hoặc các địa điểm do hai bên thoả
thuận nhưng thường phải gần nơi cư trú, thuận lợi cho việc trả nợ của người vay.
Các tổ chức tài chính quy mơ nhỏ thường áp dụng phương thức “tín dụng tận ngõ”
và “trao vốn tận tay”. Nghĩa là mọi giao dịch, thỏa thuận đều diễn ra tại “nhà” của
người vay, từ việc khảo sát, đánh giá, giao vốn cho đến thu nợ và tất toán các khoản
vay. Phương thức này, dường như đã trở thành “công thức chung” không chỉ của


24

các tổ chức tài chính quy mơ nhỏ trong nước mà kể cả các tổ chức thực hành tài
chính tín dụng quy mơ nhỏ trên khắp thế giới.
Mơ hình cho vay theo nhóm cụm của Ngân hàng Grameen – Bangladesh là
một ví dụ điển hình, tại đây người ta tập hợp người vay theo nhóm và cụm, mỗi
nhóm gồ 5 khách hàng thành viên, 01 nhóm tập hợp thành 01 cụm. Và mọi giao
dịch được được thực hiện tại nhóm, cụm hoặc tại nhà người vay. Đây cũng là
phương thức phổ biến được các tổ chức tài chính quy mơ nhỏ tại Việt Nam áp dụng.
“Tín dụng tận ngõ” và “trao vốn tận tay” có thể coi là một trong những cách tiếp
cận thành công nhất của các tổ chức tài chính quy mơ nhỏ vì nó phù hợp với tâm lý,
điều kiện kinh tế, văn hoá – xã hội của những người có thu nhập thấp, nghèo đói và
bần cùng. Vì “vai vế” xã hội của họ thấp kém, tâm lý tự ty, e ngại truyền từ đời này
sang đời khác cùng với vòng đời luẩn quẩn nghèo – đói rồi lại đói – nghèo mà họ
thừa kế từ ông cha mình và được “tô điểm” thêm màu sắc ảm đạm hơn từ sự thờ ơ
của xã hội. Họ là khách hàng hồn thụ động, khơng dám bước chân đến gõ cửa ngân
hàng. Vì thực ra, ngồi bản thân mình, họ đâu có thứ gì giá trị có thể thế chấp cho
“Q ơng ngân hàng”. Mặt khác những khó khăn về phương tiện đi lại cũng khiến

cho người nghèo gặp khó khăn trong việc chủ động tìm đến ngân hàng. Chính vì
vậy, việc chuyển nơi giao dịch đến nơi cư trú của người vay, việc áp dụng “tín dụng
tận ngõ” và “trao vốn tận tay” cũng như việc hướng dẫn giúp đỡ về phương pháp
sản xuất kinh doanh cho khách hàng nghèo có thể coi là “cuộc cách mạng nhỏ”
trong hoạt động của các tổ chức TCQMN góp phần giải phóng người nghèo.
Thứ ba, nghĩa vụ của bên vay trong trường hợp không trả nợ hoặc trả không
đầy đủ thì phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng
Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ, nếu có thoả
thuận (đối với trường hợp vay khơng có lãi) hoặc phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ
quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời
hạn vay tại thời điểm trả nợ (đối với trường hợp vay có lãi). Điều này tạo ra cơ sở
pháp lý đảm bảo cho quyền lợi của bên cho vay thông qua việc buộc bên vay thực


25

hiện đầy đủ cá nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên chưa phù hợp với tính chất của hoạt
động tài chính quy mơ nhỏ. Thực tế đây là hoạt động có chi phí lớn hơn hoạt động
của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Cũng giống như chi phí trên một
đơn vị sản phẩm bán lẻ bao giờ cũng lớn hơn một đơn vị sản phẩm bán sỹ. Mặt khác
đây là hoạt động kinh doanh hàm chứa yếu tố rủi ro. Rủi ro càng lớn lãi suất càng
cao để bảo đảm an toàn vốn và bền vững về tài chính.
Cũng có một thực tế khác là chi phí khách hàng phải chịu khi thực hiện các
giao dịch với ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác thì sẽ không phải chịu khi
thực hiện các giao dịch với tổ chức tài chính quy mơ nhỏ. Chi phí đó do tổ chức tài
chính quy mơ nhỏ “chịu thay ’’. Cụ thể là chi phí đi lại, chi phí ‘‘hạn chế rủi ro’’.
Giao dịch với tổ chức TCQMN, khách hàng sẽ được phục vụ tận nhà, khơng tốn chi
phí và thời gian đi lại, không bị rủi ro phát sinh trong q trình vận chuyển tiền vay.
Chính vì để bù đắp thêm các chi phí đó, lãi suất của các khoản vay quy mô nhỏ của
các tổ chức này thường lớn hơn so với ngân hàng. Và như vậy, về mặt logic, lãi đối

với khoản nợ chậm trả cũng phải được quy định riêng, cao hơn so với lãi suất cơ
bản dành cho ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác thì mới hợp lý.
 Quyền của các bên trong hợp đồng vay tài sản
Ngoài việc đề cập đến quyền sở hữu đối với tài sản vay của bên vay tại Điều
472, Bộ luật dân sự không quy định cụ thể các quyền có liên quan khác của các bên
phát sinh từ hợp đồng cho vay tài sản. Tuy nhiên việc quy định cụ thể về nghĩa vụ
của các bên khi tham gia hợp đồng này tại các điều 473 và điều 474 BLDS như đã
phân tích trên đã gián tiếp nêu lên các quyền của các bên chủ thể trong hợp đồng
vay tài sản : như quyền yêu cầu trả tài sản và lãi (nếu có thoả thuận) theo thời hạn
đã thống nhất của bên cho vay tài sản hay quyền yêu cầu bên cho vay tài sản phải
giao tài sản đầy đủ, đúng chất lượng và số lượng....
 Về lãi suất trong hợp đồng cho vay tài sản, Bộ luật dân sự xác định :


×