Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh, chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (769.79 KB, 99 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH


LÊ NHƯ THƠ

KIỂM SỐT HÀNH VI HẠN CHẾ CẠNH TRANH,
CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
TRONG LĨNH VỰC HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế- Mã số: 60.38.50

Người hướng dẫn khoa học: TS. PHẠM TRÍ HÙNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2009


2

LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong luận văn là trung thực. Các dữ liệu, luận điểm được trích dẫn đầy đủ
nếu khơng thuộc ý tưởng hoặc kết quả tổng hợp của chính bản thân tơi. Những
kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ cơng trình
nào khác.
Tác giả luận văn


Lê Như Thơ


3

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ PHÁP
LUẬT CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG..........................7
1.1 Khái niệm cạnh tranh và pháp luật cạnh tranh............................................7
1.1.1 Khái niệm cạnh tranh...........................................................................7
1.1.2 Pháp luật cạnh tranh.......... .................................................................8
1.2 Tính đặc thù của cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng............15
1.2.1 Sự liên kết mang tính tự nhiên giữa các đối thủ cạnh tranh trên thị
trường dịch vụ ngân hàng. .........................................................................17
1.2.2 Sự tham gia của Nhà nước (Ngân hàng Trung ương) vào quá trình
cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng.
................................19
1.2.3 Sự cạnh tranh trên lĩnh vực ngân hàng đòi hỏi những chuẩn mực khắt
khe hơn bất cứ loại hình kinh doanh nào khác. ..........................................21
1.2.4 Các đặc thù khác do sự tác động của hành vi cạnh tranh trong lĩnh
vực ngân hàng.
....................................................................................26
1.3 Tổng quan pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động ngân
hàng.................................................................................................................29
Kết luận Chương 1............................................................................................32
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ KIỂM SOÁT HÀNH VI HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG LĨNH
VỰC NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM........................................................34



4

2.1 Pháp luật về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực ngân
hàng tại Việt Nam:
...................................................................................34
2.1.1 Kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh:........................................34
2.1.2 Kiểm soát lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc
quyền: ........................................................................................................37
2.1.3 Kiểm sốt tập trung kinh tế ...............................................................39
2.2 Một số vấn đề về thực trạng áp dụng pháp luật kiểm soát hành vi hạn chế
cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam.
................................43
2.2.1 Vấn đề phân biệt đối xử giữa các tổ chức tín dụng.

......................43

2.2.2 Vấn đề xác định thị trường liên quan trong lĩnh vực ngân hàng.

..44

2.2.3 Một số biểu hiện của hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh trên lĩnh vực
ngân hàng.................................................................................................... 49
2.2.4 Vấn đề tập trung kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt
Nam.....5257
2.3 Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh
tranh trên lĩnh vực ngân hàng.
...............................................................57
2.3.1 Sửa đổi Luật các TCTD theo hướng xóa bỏ và hạn chế phân biệt đối
xử

........................................................................................................57
2.3.2 Cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể một số quy định về kiểm soát
hành vi hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng............................... 58
Kết luận Chương 2............................................................................................60


5

Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC
NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM..................................................................62
3.1 Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng:
...................................................................................................................62
3.2 Xác định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân
hàng:..........................................................................................................63
3.2.1 Hành vi khuyến mại bất hợp pháp trong hoạt động ngân hàng:.......63
3.2.2 Hành vi thông tin sai sự thật làm tổn hại đến lợi ích của tổ chức tín
dụng khác và của khách hàng.................................................................... 67
3.2.3 Hành vi đầu cơ lũng đoạn thị trường tiền tệ, vàng, ngoại tệ. .............70
3.2.4 Các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp khác...................................... 71
3.3 Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật về chống cạnh tranh không lành
mạnh trên lĩnh vực ngân hàng:.......................................................................82
Kết luận Chương 3.............................................................................................85
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


6


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:
Một trong những cam kết quan trọng của Việt Nam khi gia nhập WTO
là hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ phải mở cửa rộng hơn theo đúng lộ trình.
Bên cạnh những cơ hội có thể có được thì hệ thống ngân hàng cũng sẽ phải
đương đầu với những thách thức hết sức to lớn. Việt Nam phải chấp nhận sự
gia tăng nhanh chóng của các ngân hàng thương mại nước ngồi có kinh
nghiệm, có điều kiện tài chính, hiểu biết rõ luật pháp Việt Nam. Đồng thời,
Việt Nam cũng sẽ phải bắt buộc thực hiện chính sách khơng phân biệt đối xử
giữa các ngân hàng trong nước và ngoài nước. Thực tế đó dẫn đến cạnh tranh
trong lĩnh vực ngân hàng càng trở nên quyết liệt hơn trong cuộc đua đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế.
Cạnh tranh là động lực để phát triển và cũng là cơ sở quan trọng đảm
bảo tự do kinh doanh hợp pháp và mang lại lợi ích thiết thực cho người tiêu
dùng. Là một lĩnh vực quan trọng và nhạy cảm trong nền kinh tế, ngành ngân
hàng cần phải có quy định pháp lý hết sức chặt chẽ và hiện đại để điều chỉnh
các hành vi cạnh tranh rất đa dạng và liên tục thay đổi nhằm duy trì mơi
trường kinh doanh lành mạnh cho tất cả các tổ chức tín dụng.
Hành vi cạnh tranh của ngân hàng, về mặt lý thuyết và thực tế, chịu sự điều
chỉnh của cả Luật Cạnh tranh 2004 (sau đây gọi là Luật Cạnh tranh) và Luật các Tổ
chức Tín dụng năm 1997 (sửa đổi bổ sung năm 2004), (sau đây gọi là Luật các
TCTD). Hiện nay Luật các TCTD và Luật Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa có những
quy định cụ thể, riêng biệt về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh và chống cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng. Trong khi đó, ngành
ngân hàng lại là một ngành kinh tế khá đặc thù khác hẳn so với các loại hình
khác trong nền kinh tế, vì vậy khi áp dụng các quy định của Luật Cạnh tranh


7


trong lĩnh vực ngân hàng đã bộc lộ rõ những điểm không phù hợp của pháp
luật, cần xem xét một cách khoa học trên cơ sở lý luận và thực tiễn. Những
vấn đề về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh như: quy định về doanh
nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường dựa trên cách tính
về thị phần trên thị trường liên quan, vấn đề tập trung kinh tế; chống những
hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng cần
phải có những quy định cụ thể, phải đưa ra được các quy phạm mang tính chất
riêng, thể hiện đặc thù của ngành ngân hàng.
Hoạt động ngân hàng là một loại hình dịch vụ và lĩnh vực hoạt động
ngân hàng là một lĩnh vực nhạy cảm, mọi biến động của ngân hàng cũng có
tác động khơng nhỏ tới sự phát triển của nền kinh tế và ảnh hưởng đến lợi ích
của người tiêu dùng. Do đó, việc quản lý cạnh tranh và hoàn thiện pháp luật
về quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng là rất cần thiết, đặc biệt khi
Việt Nam trở thành thành viên WTO.
Vì vậy luận văn Kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh, chống cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng” tập trung
phân tích, đánh giá một cách khoa học trên cở sở lý luận và thực tiễn về kiểm
soát hành vi hạn chế cạnh tranh, chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực hoạt động ngân hàng từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Liên quan đến đề tài luận văn đã có một số cơng trình ngiên cứu như:
- Báo cáo về các quy định liên quan đến cạnh tranh trong lĩnh vực ngân
hàng tại Việt Nam của Ths. Thái Bảo Anh (Chủ biên), được biên soạn trong
khuôn khổ Dự án Hổ trợ Thương mại Đa biên II (ASIE/2003/005711). Báo
cáo này cung cấp tổng quan về các quy định liên quan đến cạnh tranh ở Việt


8


Nam, cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng và phương hướng
xây dựng các quy phạm pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng.
- Báo cáo Tập trung kinh tế tại Việt Nam 2008- Hiện trạng và dự báo,
do Ths. Bạch Văn Mừng, Cục Quản lý cạnh tranh Bộ Công Thương chủ biên,
biên soạn tháng 01/2009. Báo cáo rà soát, tổng kết các vấn đề liên quan đến
tập trung kinh tế tại Việt Nam và những dự báo nhằm tạo lập một môi trường
cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng. Trong báo cáo này có đề cập vấn đề tập
trung kinh tế trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng.
Ngồi ra cịn có một số bài viết, đề tài nghiên cứu có đề cập phần nào
nội dung đề tài như: “Áp dụng Luật cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ ngân
hàng” của TS. Nguyễn Văn Tuyến - Tạp chí Luật học số 6/2006; “Một số vấn
đề pháp lý về hoạt động cạnh tranh của các ngân hàng thương mại ở Việt
Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” của Lê Thị Thu Thủy, Tạp chí
Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật số 23/2007...
Nhìn chung, các cơng trình, bài viết này chủ yếu tập trung nghiên cứu
về xây dựng và thực hiện pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam nhưng chỉ ở tầm
khái quát mà chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu chun sâu và đầy
đủ các cơ sở lý luận và thực tiễn về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh và
chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực đặc thù: lĩnh vực hoạt động
ngân hàng.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu:
3.1 Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của đề tài là làm sáng tỏ cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc
áp dụng pháp luật cạnh tranh trên lĩnh vực hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
hiện nay; nghiên cứu hệ thống pháp luật hiện hành về kiểm sốt hành vi hạn
chế cạnh tranh, chống cạnh tranh khơng lành mạnh trong lĩnh vực hoạt động
ngân hàng và thực trạng áp dụng pháp luật; từ đó rút ra những đánh giá và



9

kiến nghị hợp lý cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh
trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng tại Việt Nam phù hợp với điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế.
3.2 Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài là: phân tích, đánh giá những
quy định của pháp luật về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh, chống cạnh
tranh không lành mạnh trong hoạt động của các ngân hàng thông qua các quy
định của Luật Cạnh tranh; Luật các TCTD, các văn bản hướng dẫn và thực
trạng áp dụng pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam
hiện nay, trong đó có so sánh, đối chiếu với pháp luật của một số nước trên
thế giới. Đưa ra những kiến nghị nhằm mục đích góp phần xây dựng và hồn
thiện pháp luật cạnh tranh trên lĩnh vực chuyên biệt: lĩnh vực hoạt động ngân
hàng.
3.3 Phạm vi nghiên cứu: Là các vấn đề lý luận, lý thuyết về kiểm soát
hành vi hạn chế cạnh tranh và chống cạnh tranh khơng lành mạnh nói chung
và trên lĩnh vực hoạt động ngân hàng nói riêng thơng qua các quy định của
pháp luật Việt Nam và một số nước trên Thế giới, chủ yếu là: Liên bang Nga,
Trung Quốc, Liên minh Châu Âu. Luận văn nghiên cứu thực trạng áp dụng
pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng trên cơ sở hoạt động của các
ngân hàng tại Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
4.1 Cơ sở lý luận: Là lý luận về nhà nước và pháp luật của chủ nghĩa
Mác - Lênin; chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh
tế nói chung và phát triển các ngành dịch vụ nói riêng, đặc biệt là những cam
kết quan trọng của Việt Nam khi gia nhập WTO.
4.2 Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng hai phương pháp
nghiên cứu chính là: phương pháp phân tích - tổng hợp (phân tích quy định
của pháp luật; vấn đề áp dụng của pháp luật trên thực tiễn); phương pháp so



10

sánh luật (so sánh pháp luật cạnh tranh của Việt Nam với pháp luật cạnh tranh
một số nước để làm sáng tỏ vấn đề trong q trình phân tích, đánh giá). Đồng
thời, trong nội dung phân tích của đề tài có sử dụng nhiều tình huống thực tế.
Tuy nhiên, với một vài dấu hiệu được nhận diện, những ví dụ đó chỉ mang
tính chất minh họa. Việc đưa ra kết luận về hành vi vi phạm pháp luật cạnh
tranh thuộc về các cơ quan có thẩm quyền và chỉ khi nào có đầy đủ các dấu
hiệu.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
Với thái độ nghiên cứu nghiêm túc, kết quả thực hiện đề tài chứa đựng
nhiều nội dung khoa học có giá trị. Khơng chỉ dừng lại ở mức độ của một tài liệu
tham khảo trong q trình tìm hiểu về pháp luật cạnh tranh nói chung và cạnh
tranh trong lĩnh vực đặc thù: lĩnh vực ngân hàng nói riêng, đề tài đã phân tích,
luận giải và đánh giá mức độ phù hợp của các quy định pháp luật về vấn đề này.
Luận văn đã chỉ rõ những vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp
luật và thực trạng áp dụng pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động ngân
hàng, đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng tại Việt Nam phù hợp
với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Những kiến nghị, đề xuất trong luận văn
có ý nghĩa cho các cơ quan cơ thẩm quyền trong việc xác định, xử lý những hành
vi vi phạm pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng cũng như trong nghiên
cứu xây dựng và hoàn thiện pháp luật cạnh tranh nói chung, pháp luật cạnh tranh
trên lĩnh vực hoạt động ngân hàng nói riêng
6. Bố cục của luận văn gồm:
- Phần mở đầu
- Phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về cạnh tranh và pháp luật cạnh tranh
trong lĩnh vực ngân hàng.



11

Chương 2: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát
hành vi hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam.
Chương 3: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về chống cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam.
- Phần kết luận.


12

Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ PHÁP LUẬT
CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG
1.1 Khái niệm cạnh tranh và pháp luật cạnh tranh:
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh:
Cạnh tranh thường được hiểu là việc các đối thủ ganh đua nhau trong việc
giành lấy phần thắng về mình, nhằm nâng cao vị thế của mình trên thương trường,
thơng qua việc sử dụng những khả năng sẵn có về mọi phương tiện. Cạnh tranh xuất
hiện và tồn tại khách quan trong quá trình hình thành, phát triển của sản xuất hàng
hoá và trở thành đặc trưng cơ bản của cơ chế thị trường. Cạnh tranh là qui luật tất yếu
của nền kinh tế thị trường, là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Để đứng vững
và phát triển, các doanh nghiệp phải chấp nhận và đối đầu với cạnh tranh, phải áp
dụng các biện pháp khác nhau để sử dụng tối đa các nguồn lực, trên cơ sở đó có thể
vượt lên đối thủ cạnh tranh cùng loại để khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế.
Cạnh tranh trong kinh doanh được hiểu là hành vi của các doanh nghiệp kinh
doanh cùng loại hàng hoá hoặc những hàng hố có thể thay thế cho nhau nhằm tiêu
thụ hàng hoá hoặc dịch vụ trên một thị trường1.

Cạnh tranh chỉ có thể xuất hiện trong điều kiện của cơ chế thị trường, là
một thuộc tính, một nhân tố khơng thể thiếu của q trình phát triển. Khi nhận
dạng tính chất và mức độ biểu hiện của cạnh tranh trong các hình thái thị trường
cho thấy tầm quan trọng của việc nhận dạng và xác lập được các tiêu chí phân
loại hình thái thị trường để đánh giá tính chất và mức độ biểu hiện của cạnh
tranh theo từng hình thái:
1

Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo Luật kinh tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.


13

- Căn cứ vào tính chất và mức độ can thiệp của công quyền vào đời sống
kinh tế, người ta phân thị trường thành hai hình thái: Cạnh tranh tự do và cạnh
tranh có sự điều tiết. Trong khi cạnh tranh tự do là hiện tượng khơng thể có trong
thế giới hiện đại vì kinh tế thị trường hiện đại ln có nhu cầu được điều tiết và
Nhà nước nào cũng có chính sách kinh tế riêng và vì thế ln tìm cách hướng
các hoạt động kinh tế vào mục tiêu kinh tế (vĩ mơ) của mình.
- Căn cứ vào cơ cấu doanh nghiệp và mức độ tập trung trong một ngành,
một lĩnh vực kinh tế, người ta phân thị trường thành các hình thái: cạnh tranh
hồn hảo, cạnh tranh khơng hồn hảo mà biểu hiện cực đoan nhất của nó là độc
quyền.
- Căn cứ vào mục đích, tính chất của các phương thức cạnh tranh người ta
phân nhóm các hành vi cạnh tranh trên các hình thái thị trường gồm hai loại: cạnh
tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, vì được bảo hộ bởi các
nguyên tắc về quyền tự do kinh doanh, tự do khế ước và tự do lập hội và sự giục giã
của lợi nhuận, nên thực trạng của thương trường luôn diễn ra theo hướng khơng lành
mạnh. Đây chính là một trong những tiền đề để pháp luật cạnh tranh ra đời2.
1.1.2 Pháp luật cạnh tranh:

Trên cơ sở nguyên tắc chung, các chủ thể kinh tế khi tham gia thị trường có
thể thực hiện quyền tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh để phát huy hết tiềm năng của
mình nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Song khi hoạt động trên thị trường, mặc dù
đã có những giới hạn về mặt pháp lý, nhưng tâm thế của các chủ thể cạnh tranh là
luôn hướng tới đạt vị thế cao trong thị trường, để sau đó lạm dụng vị thế có lợi này
khai thác tối đa lợi nhuận trong một thời gian dài. Để đối phó với tình trạng này, Nhà
nước ln có những cơng cụ điều tiết và quản lý cạnh tranh như: chính sách thuế,

2

Đào Trí Úc, Quan điểm về cạnh tranh và pháp luật cạnh tranh hiện nay ở Việt Nam, NXB Công an nhân dân,
Hà Nội, 2001, tr. 6


14

kiểm soát giá cả, điều chỉnh độc quyền, quốc hữu hóa, ban hành pháp luật cạnh tranh
nhằm chống lại mọi hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh,
nhằm khuyến khích, bảo vệ cạnh tranh, kiểm sốt và chống xu hướng độc quyền.
Tuy nhiên, ban hành và cho thực hiện pháp luật cạnh tranh luôn là công cụ có hiệu
quả hơn cả vì nó là phương thức đưa các công cụ điều tiết cạnh tranh khác vào cuộc
sống trong điều kiện của Nhà nước pháp quyền và xã hội cơng dân3.
Pháp luật về kiểm sốt độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh trong
điều kiện kinh tế thị trường là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban
hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các hành vi, quan hệ cạnh tranh hoặc có liên quan
đến cạnh tranh của các chủ thể trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh trên
thị trường, nhằm mục đích chống lại các hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh, các
hành vi làm hạn chế cạnh tranh, kiểm soát hiệu quả tình trạng độc quyền, thiết lập và
bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh4.
Cơ cấu của hệ thống pháp luật cạnh tranh ở các quốc gia là khác nhau,

song khi xem xét các cấu thành cụ thể, họ đều chia pháp luật cạnh tranh thành
hai lĩnh vực khác biệt. Đó là pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh và
pháp luật chống hạn chế cạnh tranh (cịn gọi là chống độc quyền hay kiểm sốt
độc quyền). Sở dĩ có sự phân biệt này vì tính chất, mức độ nguy hại đối với thị
trường và theo đó là phương thức và tính cương quyết trong việc tương tự của
pháp luật đối với hai nhóm hành vi: cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế
cạnh tranh (độc quyền hóa) là rất khác nhau mặc dù chúng đều làm hại đến sự
vận động bình thường và lành mạnh của thị trường. Tuy nhiên, bên cạnh hai lĩnh
vực pháp luật cơ bản này, thuộc về hay liên quan đến pháp luật cạnh tranh người

3

Nguyễn Như Phát, Xây dựng pháp luật về cạnh tranh trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, Số 3/1997, tr. 21.
4

Đặng Vũ Huân, Pháp luật về kiểm sốt độc quyền và chống cạnh tranh khơng lành mạnh ở Việt Nam, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 79.


15

ta cịn có thể kể đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác nữa như: pháp luật về sở hữu
trí tuệ, pháp luật về nhãn hiệu hàng hoá, pháp luật về quảng cáo, pháp luật về
khuyến khích và hỗ trợ phát triển kinh tế, pháp luật về điều kiện thương mại
chung. Bên cạnh đó, khi xem xét pháp luật cạnh tranh từ phương diện xã hội học
pháp luật, các nhà luật học cịn quan tâm đến cả cơ chế chuyển hố pháp luật
cạnh tranh vào cuộc sống như những vấn đề về tổ chức và hoạt động của các cơ
quan quản lý nhà nước về cạnh tranh, về trình tự và thủ tục thẩm định, khiếu nại
và khiếu kiện, thẩm quyền của các cơ quan tài phán cũng như khả năng áp dụng

các chế tài.
Mặc dù có sự phân chia thành hai lĩnh vực, song cả pháp luật chống cạnh
tranh không lành mạnh và pháp luật chống hạn chống hạn chế cạnh tranh, kiểm
sốt độc quyền đều nhằm mục đích bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh,
bảo đảm cho các hoạt động cạnh tranh được diễn ra bình thường và đúng quy
luật.
1.1.2.1 Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh và kiểm soát độc quyền:
Chế định pháp luật này gồm tổng thể các quy phạm pháp luật thể hiện sự
can thiệp trực tiếp của Nhà nước nhằm kiểm soát, giới hạn hoặc cấm đoán tất cả
các thỏa thuận, liên kết dẫn đến sự hạn chế hoặc triệt tiêu sự cạnh tranh; giám sát
các chủ thể đang nắm giữ vị trí có quyền lực thị trường để kìm chế, ngăn cản
khơng cho các chủ thể này lạm dụng vị thế quyền lực thị trường hạn chế sự cạnh
tranh; giới hạn và điều hịa lợi ích của các chủ thể có vị trí độc quyền thị trường
(bất kể là độc quyền tự nhiên hay độc quyền hành chính, độc quyền nhóm hay
độc quyền hoàn toàn) trong một tương quan hợp lý với lợi ích chung của toàn xã
hội. Mục đích lớn nhất của pháp luật chống hạn chế cạnh tranh và kiểm soát độc
quyền là bảo vệ cơ cấu và tương quan thị trường, bảo vệ cơ chế cạnh tranh và
môi trường cạnh tranh lành mạnh.
So với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì tính chất, mức độ nguy
hại của các thỏa thuận, dàn xếp, liên kết nhằm hạn chế cạnh tranh (độc quyền


16

hóa) gây ra hậu quả cho thị trường và xã hội lớn hơn gấp nhiều lần. Theo các
nguyên tắc về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh trong kinh doanh của Tổ
chức thương mại và phát triển Liên Hiệp Quốc (UNCTAD); của Tổ chức hợp tác
và phát triển kinh tế (OECD), của Tổ chức Ngân hàng Thế giới (WB) cũng như
các quy định của EC qua Hiệp ước Romem1957, pháp luật về chống hạn chế
cạnh tranh (hay còn gọi là pháp luật chống hay kiểm soát độc quyền) bao gồm 3

nội dung:
Nhóm 1: Cấm những thỏa thuận hoặc dàn xếp nhằm hạn chế cạnh tranh
(Cấm Các-ten). Bao gồm cả thỏa thuận ngang và thỏa thuận dọc. Các hành vi
điển hình trong nhóm này là:
- Thỏa thuận ấn định giá cả hoặc điều kiện bán hàng bao gồm cả thỏa
thuận trong thương mại quốc tế.
- Thỏa thuận để thực hiện đấu thầu thông đồng.
- Thỏa thuận để phân chia thị trường hay khách hàng
- Thông đồng từ chối mua hoặc cung cấp hàng hóa mang tính tập thể.
Các hạn chế cạnh tranh theo thỏa thuận dọc bao gồm: duy trì giá bán lại,
giao dịch độc quyền, hạn chế thị trường theo phạm vi địa lý.
Nhóm 2: Xác định và xử lý hành vi lạm dụng quyền lực thị trường của
các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường (độc quyền tự nhiên), bao gồm:
- Loại bỏ đối thủ cạnh tranh bằng việc bán phá giá hàng hóa dưới mức chi
phí.
- Phân biệt đối xử trong kinh doanh (như từ chối giao dịch khơng chính
đáng, giao dịch có điều kiện...)
- Ấn định giá mua lại.
- Không hướng tới mục tiêu kinh doanh chính đáng như chất lượng, an
tồn, dịch vụ và phân phối đầy đủ, công bằng, kịp thời.


17

Nhóm 3: Quy định kiểm sốt tất cả các hoạt động hợp nhất doanh
nghiệp qua các hình thức sáp nhập, mua lại, liên doanh hay các hình thức mua
bán, thơn tính khác, bao gồm cả việc kiêm nhiệm các vị trí lãnh đạo trong các
doanh nghiệp dù là liên kết ngang, liên kết dọc hay liên kết kết hợp5...
1.1.2.2 Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh:
Đây là chế định bao gồm các quy phạm pháp luật xác định những hành vi

bị coi là cạnh tranh không lành mạnh; trách nhiệm pháp lý của các chủ thể thực
hiện những hành vi này; trình tự, thủ tục khiếu kiện và giải quyết khiếu kiện; các
biện pháp chế tài được áp dụng...
Cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cụ thể của các chủ thể,
nhằm mục đích cạnh tranh, được thực hiện bằng các thủ đoạn không trung thực,
không lành mạnh (có thể là trái pháp luật hoặc đi ngược lại với đạo đức, tập quán
truyền thống trong kinh doanh) cố ý hoặc vô ý gây thiệt hại cho các đối thủ cạnh
tranh khác và người tiêu dùng xã hội. Tính không lành mạnh và mức độ thiệt hại
phụ thuộc và nhiều yếu tố của quan hệ thị trường. Tuy nhiên, chỉ xác định là
cạnh tranh không lành mạnh khi hành vi của các chủ thể xâm phạm quyền lợi
của chủ thể khác đang cùng tồn tại trong một thị trường hàng hóa, dịch vụ hay
thị trường liên quan; những hành vi này được tiến hành vì mục đích cạnh tranh
và có biểu hiện khơng lành mạnh. Về ngun tắc, các chủ thể có quyền lợi bị
xâm hại có quyền kiện các chủ thể đã thực hiện hành vi cạnh tranh khơng lành
mạnh tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu được giải quyết. Biện pháp
chế tài được áp dụng trong các trường hợp này là buộc phải chấm dứt hành vi vi
phạm và bồi thường thiệt hại. Như vậy, pháp luật chống hành vi cạnh tranh
không lành mạnh được áp dụng như một chế định đặc biệt bao hàm cả tính mệnh
lệnh của chế tài hành chính (buộc chấm dứt hành vi vi phạm, buộc khôi phục trở

5

Đặng Vũ Huân, Tlđd số 4, tr. 271.


18

lại tình trạng hợp pháp ban đầu trước khi bị hành vi cạnh tranh không lành mạnh
xâm hại), đồng thời, lại như là một hình thức trách nhiệm bồi thường thiệt hại
dân sự ngồi hợp đồng. Tuy nhiên, mục đích của pháp luật trong trường hợp này

không chỉ đơn thuần ở việc buộc các chủ thể vi phạm phải thực hiện trách nhiệm
pháp lý theo chức năng bù đắp thiệt hại, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp về
nhân thân cũng như về tài sản cho người sản xuất, kinh doanh khác và người tiêu
dùng xã hội, mà cao hơn là nhằm ren đe, nghiêm cấm mọi hành vi cạnh tranh
khơng lành mạnh có nguy cơ xâm hại và làm vẩn đục môi trường cạnh tranh
không lành mạnh trong nền kinh tế.
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể được phân theo nhiều
cách khác nhau. Sự phân loại chỉ mang tính tương đối vì một hành vi cạnh tranh
khơng lành mạnh có thể bị xếp vào hai hay nhiều loại khác nhau do có những
tính chất, dấu hiệu, đặc điểm tương tự, cho nên không tránh khỏi sự trùng hợp.
Nếu xét về lợi ích của các chủ thể bị xâm hại, người ta có thể phân loại thành
những hành vi xâm hại lợi ích của đối thủ cạnh tranh và hành vi xâm hại lợi ích
của khách hàng.
- Những hành vi xâm hại lợi ích của đối thủ cạnh tranh gồm các nhóm
hành vi sau đây: ngăn cản, dèm pha và nói xấu đối thủ; bóc lột...
- Những hành vi xâm hại lợi ích của khách hàng bao gồm: can thiệp vào
quyền tự do quyết định của khách hàng, khuyến mại nhằm cạnh tranh không
lành mạnh; quảng cáo sai lệch6...
Theo quy định của Điều 10 Bis Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu
cơng nghiệp thì: cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cạnh tranh

6

Nguyễn Như Phát, Đối tượng điều chỉnh của pháp luật chống cạnh tranh khơng lành mạnh, Tạp chí Nhà nước
và pháp luật, Số 9 (149/2000), Hà Nội, tr. 27


19

không trung thực, vi phạm những nguyên tắc cơ bản của đạo đức kinh doanh,

được tiến hành trong quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, nhằm hưởng lợi bất
hợp pháp từ thành quả kinh doanh của người khác hoặc dèm pha đối thủ cạnh
tranh, qua đó giành giật khách hành về phía mình7.
Pháp luật cạnh tranh các nước có nhiều cách giải quyết khác nhau về vấn
đề cạnh tranh không lành mạnh. Đồng thời việc xác định hành vi bị coi là cạnh
tranh không lành mạnh cũng hết sức đa dạng, nhưng về cơ bản, vẫn dựa trên
nhóm những hành vi được phân loại theo Điều 10 Bis Công ước Paris. Các hành
vi này thường được phân thành các nhóm sau đây: hành vi gây nhầm lẫn; hành vi
lừa dối; làm mất uy tín đối thủ cạnh tranh; vi phạm bí mật thương mại; lợi dụng
khơng chính đáng thành quả trong kinh doanh của người khác, quảng cáo so
sánh.
Tại Việt Nam, khoản 3, Điều 4 Luật Cạnh tranh quy định: “Hành vi cạnh
tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình
kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây
thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”. Như vậy, hành vi cạnh
tranh không lành mạnh theo quy định của Luật Cạnh tranh cần có các dấu hiệu
cơ bản sau đây:
- Là hành vi của doanh nghiệp nhằm mục đích cạnh tranh.
- Hành vi vi đó phải nhằm vào đối thủ cạnh tranh cụ thể, xác định được.
- Hành vi đó có biểu hiện trái với các chuẩn mực đạo đức kinh doanh,
hoặc trái với pháp luật.

7

Theo Đặng Vũ Huân, Tlđd số 4, tr. 102.


20


Theo quy định của Luật Cạnh tranh, hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh
bị cấm (khơng có ngoại lệ) bao gồm: (i)chỉ dẫn nhầm lẫn, (ii) xâm phạm bí mật
kinh doanh, (iii) ép buộc, (iv) gièm pha doanh khác, (v) gây rối hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp khác, (vi) quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh,
(vii) khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, (viii) phân biệt đối xử của
hiệp hội, (ix) bán hàng đa cấp bất hợp pháp, và (x) các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh khác do Chính phủ quy định.
Nhìn chung, khái niệm và các dấu hiệu của hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong pháp luật Việt Nam tương đồng với pháp luật các nước và thơng lệ
quốc tế 8. Ví dụ, Luật về bảo vệ cạnh tranh trên thị trường dịch vụ tài chính của
Liên bang Nga năm 1999, các luật cạnh tranh của các nước khác cũng có qui
định tương tự.
Đồng thời theo chúng tôi, việc xác định các dấu hiệu cơ bản của hành vi
cạnh tranh không lành mạnh bị pháp luật cạnh tranh cấm như trên là tiền đề quan
trọng cho việc xác định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong các lĩnh
vực riêng biệt, chẳng hạn lĩnh vực hoạt động ngân hàng tại Việt Nam.
1.2 Tính đặc thù của cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động ngân
hàng:
Tại Việt Nam, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế với việc gia nhập WTO
sẽ là cơ hội cho các ngành kinh tế phát triển, tuy nhiên cạnh tranh sẽ diễn ra trên quy
mô rộng hơn với mức độ gay gắt hơn trong mọi lĩnh vực. Đối với ngành Ngân hàng,
hội nhập quốc tế mở ra cơ hội để trao đổi, hợp tác quốc tế, nâng cao năng lực và hiệu
quả trong điều hành và thực thi chính sách tiền tệ; đổi mới cơ chế kiểm soát tiền tệ,
lãi suất, tỷ giá trên cơ sở thị trường, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của thị trường
tiền tệ; áp dụng các thông lệ tốt nhất trong quản trị ngân hàng, các chuẩn mực về

8

Lê Hồng Oanh, Bình luận khoa học Luật cạnh tranh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005.



21

thơng tin báo cáo tài chính, các tiêu chí trong phịng ngừa rủi ro và an tồn hoạt động
ngân hàng. Đồng thời, do có sự xâm nhập của các ngân hàng nước ngồi và các tổ
chức tín dụng khác dưới nhiều hình thức sẽ làm tăng sức ép cạnh tranh đối với các
ngân hàng. Sự cạnh tranh này được thể hiện giữa các ngân hàng trong nước với nhau
và giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài. Hiện nay ở Việt Nam (đến
cuối tháng 6-2008), hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam có 5 ngân hàng thương
mại nhà nước (trong đó Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã tiến hành cổ phần
hố), Ngân hàng Chính sách Xã hội, Ngân hàng Phát triển, 6 ngân hàng liên doanh,
36 ngân hàng thương mại cổ phần, 44 chi nhánh ngân hàng nước ngồi, 10 cơng ty
tài chính, 13 cơng ty cho thuê tài chính, 998 quỹ tín dụng nhân dân và 2 ngân hàng
nước ngoài (HSBC và Standard Chartered)9.
Mặc dù còn khiêm tốn so với các nước trong khu vực nhưng nếu chỉ tính riêng
ở Việt Nam thì có thể thấy số lượng các chủ thể trên chứng tỏ thị trường dịch vụ ngân
hàng có những bước phát triển vượt bậc. Mặt khác điều này cũng cho thấy bức tranh
tồn cảnh về sở hữu ngân hàng sẽ có những thay đổi căn bản khi các tổ chức tài chính
nước ngoài từng bước nắm giữ cổ phần của các ngân hàng Việt Nam. Những ngân
hàng yếu kém, quy mô nhỏ sẽ phải sáp nhập, giải thể. Thách thức lớn nhất đối với
quá trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng của Việt Nam cũng xuất
phát từ chỗ tiềm lực về vốn yếu, công nghệ và tổ chức ngân hàng cịn nhiều bất cập
và trình độ quản lý thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực cũng như trên thế giới,
trong khi điểm mạnh của các ngân hàng nước ngồi là phát triển dịch vụ thì các ngân
hàng trong nước sản phẩm tín dụng vẫn cịn phổ biến.
Như vậy, đối với một lĩnh vực kinh doanh đặc biệt như thị trường dịch vụ
ngân hàng, vai trò động lực của yếu tố cạnh tranh cũng không phải là ngoại lệ. Tuy
nhiên, ngoài những điểm chung giống như sự cạnh tranh trong các lĩnh vực khác, cần

9


Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công thương, Báo cáo tập trung kinh tế tại Việt Nam: Hiện trạng và dự báo, Hà
Nội, 2009, tr.67.


22

nhận thức rằng sự cạnh tranh giữa các đối thủ trong thị trường dịch vụ ngân hàng còn
thể hiện những điểm khác biệt sau đây:
1.2.1 Sự liên kết mang tính tự nhiên giữa các đối thủ cạnh tranh trên thị
trường dịch vụ ngân hàng:
Giống như bất cứ một loại hình đơn vị nào trong nền kinh tế thị trường, các
ngân hàng trong kinh doanh luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, không chỉ
từ các ngân hàng khác, mà từ tất cả các tổ chức tín dụng cùng hoạt động kinh doanh
trên thương trường với mục tiêu là để giành giật khách hàng, tăng thị phần tín dụng
cũng như mở rộng cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế.
Tuy nhiên, hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng nhằm đảm bảo an
toàn động của cả hệ thống ngân hàng, do vậy nó khơng thể coi là cuộc chiến “một
mất một cịn”. Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, các ngân hàng phải có mối
liên hệ mật thiết với nhau, thường xuyên chia sẻ thông tin, kinh nghiệm kinh doanh,
quản trị, điều hành…Sự liên kết này là tất yếu, bởi lẽ không một ngân hàng nào có
thể hoạt động bình thường nếu khơng có sự liên kết, bình đẳng và thân thiện đối với
đối thủ cạnh tranh khác (ngân hàng khác). Nếu trong hoạt động của một ngân hàng
nào đó gặp bất trắc, dẫn đến tình trạng phá sản thì ngay lập tức nó ảnh hưởng đến đối
thủ cạnh tranh khác do tính phản ứng dây chuyền trong hoạt động của hệ thống ngân
hàng. Ngược lại, nếu ngân hàng phát triển, sự lớn mạnh của nó khơng nhất thiết đồng
nghĩa với việc triệt tiêu các đối thủ cạnh tranh còn lại, mà ngược lại, lại tạo điều kiện
cho các đối thủ này phát triển10.
Bên cạnh đó, ngân hàng là một lĩnh vực kinh doanh đặc biệt, đóng vai trị là
trung gian tài chính đi vay để cho vay góp phần vào q trình ln chuyển nguồn

vốn. Chính vì tính chất đặc thù này mà sự tồn tại hay phát triển của bất kỳ một ngân

10

Lê Thị Thu Thủy, Một số vấn đề pháp lý về hoạt động cạnh tranh của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật, Số 23/2007, tr. 159-167


23

hàng nào cũng ảnh hưởng tới sự phát triển hay khủng hoảng của nền kinh tế, trong
phạm vi và mức độ phụ thuộc vào nguồn tiền mà nó đóng góp vào nền kinh tế. Ví dụ,
trong kinh doanh, khả năng phá sản không từ bất kỳ một doanh nghiệp nào. Khi
doanh nghiệp phá sản sẽ để lại nhiều hậu quả tùy theo mức độ lớn hay nhỏ của doanh
nghiệp. Một doanh nghiệp sản xuất hoặc thương mại kinh doanh không thành cơng
có thể phá sản, hậu quả của nó chỉ trong phạm vi cơng ty đó và với số người ăn lương
của nó. Nhưng sự sụp đổ của ngân hàng thì ảnh hưởng rộng khắp đến tồn bộ mạng
lưới các đối tác, và nếu ở mức cao có thể ảnh hưởng dây chuyền đến những ngân
hàng khác, nhà sản xuất kinh doanh khác và từ đó sẽ có những tác động dây chuyền
khó lường, nghiêm trọng đến nền kinh tế. Khủng hoảng hệ thống tín dụng ở Việt
Nam đầu những năm 1990 và khủng hoảng tài chính ở các nước Đơng Nam Á cuối
những năm 1990 là một ví dụ điển hình11.
Đồng thời, kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ là lĩnh vực kinh doanh rất nhạy
cảm, chịu tác động bởi rất nhiều nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý, truyền
thống văn hoá… mỗi một nhân tố này có sự thay đổi dù là nhỏ nhất cũng đều tác
động rất nhanh chóng và mạnh mẽ đến môi trường kinh doanh chung. Chẳng hạn:
Chỉ cần một tin đồn thổi dù là thất thiệt cũng có thể gây nên cơn chấn động rất lớn,
thậm chí đe dọa sự tồn vong của cả hệ thống các tổ chức tín dụng. Một ngân hàng
hoạt động yếu kém, khả năng thanh khoản thấp cũng có thể trở thành gánh nặng cho
nhiều tổ chức kinh tế và dân chúng trên địa bàn… Chính vì vậy, trong kinh doanh,

các ngân hàng vừa phải cạnh tranh để từng bước mở rộng khách hàng, mở rộng thị
phần, nhưng cũng không thể cạnh tranh bằng mọi giá, sử dụng mọi thủ đoạn, bất
chấp pháp luật để thơn tính đối thủ của mình. Bởi vì, nếu đối thủ là các ngân hàng
khác bị suy yếu dẫn đến sụp đổ, thì những hậu quả đem lại thường là rất to lớn, thậm
chí dẫn đến đổ vỡ ln chính ngân hàng này do tác động dây chuyền.

11

Võ Xuân Vĩnh, Khi doanh nghiệp đua nhau lập ngân hàng, - 06/11/2007


24

Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng có liên quan đến tất cả các tổ chức
kinh tế, chính trị - xã hội, đến từng cá nhân thông qua các hoạt động huy động tiền
gửi tiết kiệm, cho vay cũng như các loại hình dịch vụ tài chính khác; đồng thời, trong
hoạt động kinh doanh của mình, các ngân hàng cũng đều mở tài khoản cho nhau để
cùng phục vụ các đối tượng khách hàng chung. Chính vì vậy, nếu như một ngân hàng
bị khó khăn trong kinh doanh, có nguy cơ đổ vỡ, thì tất yếu sẽ tác động dây chuyền
đến gần như tất cả các ngân hàng khác, khơng những thế, các tổ chức tài chính phi
ngân hàng cũng sẽ bị “vạ lây”. Đây quả là điều mà các ngân hàng khơng bao giờ
mong muốn. Chính vì vậy, các ngân hàng trong kinh doanh luôn vừa phải cạnh tranh
lẫn nhau để dành giật thị phần, nhưng luôn phải hợp tác với nhau, nhằm hướng tới
một môi trường lành mạnh để tránh rủi ro hệ thống. Vì thế trong hoạt động của các
ngân hàng, đi liền với cạnh tranh lẫn nhau là sự hợp tác với nhau nhằm hướng đến
một môi trường cạnh tranh lành mạnh hơn.
1.2.2 Sự tham gia của Nhà nước (Ngân hàng Trung ương) vào quá trình cạnh
tranh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng.
Một đặc thù khác của hoạt động cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại
chịu sự quản lý chặt chẽ của cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân

hàng (Ngân hàng Trung ương) và chịu sự điều chỉnh không chỉ bởi qui định pháp luật
chung về cạnh tranh mà còn bằng qui định riêng của Luật ngân hàng. Do hoạt động
ngân hàng là hoạt động có nhiều điểm đặc thù, tiềm ẩn rủi ro cao, liên quan đến
quyền và lợi ích của nhiều chủ thể trong nền kinh tế, chịu sự tác động mạnh mẽ do
yếu tố tâm lý của khách hàng, có ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh kinh tế và những
biến động chính trị, nên cần thiết phải có sự quản lý chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà
nước chuyên ngành về ngân hàng. Nếu Nhà nước không quản lý được hoạt động
ngân hàng nói chung và hoạt động cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại nói
riêng thì những hậu quả mà nó mang lại là khơn lường, khó tránh khỏi. Bởi hoạt động
của các ngân hàng có liên quan đến tất cả các chủ thể, đến mọi mặt hoạt động kinh tế
- xã hội, cho nên, để tránh sự hoạt động của các ngân hàng thương mại mạo hiểm


25

nguy cơ đổ vỡ hệ thống, tất cả Ngân hàng Trung ương (NHTW) các nước đều có sự
giám sát chặt chẽ thị trường này và đưa ra hệ thống cảnh báo sớm để phòng ngừa rủi
ro. Thực tiễn đã chỉ ra những bài học đắt giá, khi mà NHTW thờ ơ trước những diễn
biến bất lợi của thị trường đã dẫn đến hậu quả là sự đổ vỡ của thị trường tài chính tiền tệ làm suy sụp tồn bộ nền kinh tế quốc dân12.
Trong thị trường dịch vụ ngân hàng, mặc dù Nhà nước vẫn chấp nhận và
khuyến khích sự cạnh tranh giữa các đối thủ tham gia thị trường nhưng vì mục tiêu
giữ gìn sự ổn định của nền kinh tế và quyền lợi của công chúng gửi tiền hay các chủ
thể vay tiền, Nhà nước có thể can thiệp vào quá trình cạnh tranh này bằng việc thực
thi những chính sách đặc thù như chính sách tiền tệ quốc gia (trong đó bao gồm các
nội dung chủ yếu như chính sách tín dụng, chính sách dự trữ bắt buộc, chính sách
ngoại hối, chính sách thị trường mở…) hay chính sách kiểm sốt đặc biệt. Sự can
thiệp này từ phía cơng quyền khiến cho giới hạn cạnh tranh giữa các đối thủ trên thị
trường dịch vụ ngân hàng có phần bị thu hẹp. Những quy định đặc thù của “luật
chơi” trong thị trường dịch vụ ngân hàng không cho phép các đối thủ cạnh tranh
được toàn quyền hành xử theo ý chí của riêng mình chỉ cốt để nhằm thoả mãn những

lợi ích tư của chính họ. Các quyết định rõ ràng mang tính cạnh tranh của mỗi đối thủ
trên thị trường dịch vụ ngân hàng như tăng lãi suất tiền gửi và giảm lãi suất cho vay
hoặc đưa ra những điều kiện cho vay dễ dãi để thu hút và lơi kéo khách hàng về phía
mình bằng mọi cách đều bị kiểm soát và giám sát chặt chẽ bởi một cơ quan công
quyền đặc biệt là NHTW. Như vậy, thông qua các biện pháp trên thị trường tiền tệ,
NHTW sẽ tác động đến hoạt động cạnh tranh của ngân hàng thương mại. Nói cách
khác, hoạt động cạnh tranh của các ngân hàng chịu sự quản lý rất chặt chẽ của cơ
quan quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, đó chính là NHTW.

12

Nguyễn Trọng Tài, Cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại nhìn từ góc độ lý luận và thực tiễn tại Việt
Nam, Tạp chí Ngân hàng, Số 3/2008.


×