Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Mua bán doanh nghiệp theo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (682.01 KB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
______________________________

TRẦN THANH TÙNG

MUA BÁN DOANH NGHIỆP
THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2007


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của cá nhân tơi, khơng
sao chép của các cơng trình nghiên cứu khoa học khác.
Các số liệu là trung thực, các tham khảo đều được trích dẫn đầy đủ.

Tác giả luận văn

Trần Thanh Tùng


3

NHỮNG TỪ VIẾT TẮT VÀ VIẾT GỌN SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN

DNTN:

Doanh nghiệp tư nhân



TNHH:

Trách nhiệm hữu hạn

WTO:

Tổ chức Thương mại Thế giới

Luật Doanh nghiệp:

Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH1, đã được
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khố XI, kỳ họp thứ 8 thơng qua ngày 29
tháng 11 năm 2005.

Luật

Doanh

1999:

nghiệp Luật Doanh nghiệp số 123/1999/QH10, đã được
Quốc hội nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khố X, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 12
tháng 6 năm 1999.

Luật Đầu tư:

Luật Đầu tư số 59/2005/QH1, đã được Quốc hội

nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khố
XI, kỳ họp thứ 8 thơng qua ngày 29 tháng 11
năm 2005.

Nghị Định 139:

Nghị Định 139/2007/NĐ-CP ngày 05 tháng 09
năm 2007 của Chính phủ, hướng dẫn chi tiết một
số điều của Luật Doanh nghiệp.


4

MỤC LỤC
MỤC LỤC.............................................................................................................. 1
LỜI NĨI ĐẦU ....................................................................................................... 6
1.

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ...................................................... 6

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................... 6

3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ................................................ 7

4.


Phạm vi nghiên cứu của đề tài ...................................................................... 8

5.

Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 8

6.

Kết cấu của luận văn: .................................................................................... 8

CHƯƠNG 1: .......................................................................................................... 9
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MUA BÁN DOANH NGHIỆP ...... 9
1.1.

Khái quát về doanh nghiệp............................................................................ 9

1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp ........................................................................... 9
1.1.2. Các đặc điểm pháp lý của doanh nghiệp ..................................................... 11
1.1.3. Các loại hình doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành ................................ 13
1.2.

Một số vấn đề lý luận cơ bản về mua bán doanh nghiệp.............................. 16

1.2.1. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của mua bán doanh nghiệp ........................ 16
1.2.2. Lợi ích kinh tế của mua bán doanh nghiệp .................................................. 21
1.2.3. Phân loại mua bán doanh nghiệp................................................................ 23
1.2.5. Các mục tiêu kinh tế chủ yếu của mua bán doanh nghiệp ........................... 25
CHƯƠNG 2: ........................................................................................................ 28
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ MUA BÁN DOANH NGHIỆP
VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN.................................................. 28

2.1.

Mua bán doanh nghiệp trong bối cảnh hiện tại của Việt Nam và những định
hướng về kinh tế của Việt Nam có ảnh hưởng đến mua bán doanh nghiệp .. 28

2.1.1. Mua bán doanh nghiệp trong bối cảnh hiện tại của Việt Nam ..................... 28
2.1.2. Những định hướng về kinh tế của Việt Nam có ảnh hưởng đến mua bán
doanh nghiệp .............................................................................................. 30
2.2.

Thực trạng pháp luật hiện hành về mua bán doanh nghiệp .......................... 32


5

2.3.

Một số vấn đề pháp lý phát sinh khi thực hiện pháp luật hiện hành về mua
bán doanh nghiệp ........................................................................................ 36

2.3.1. Chuyển giao quyền và nghĩa vụ pháp lý sau mua bán ................................. 36
2.3.2. Vấn đề tài sản và tài chính .......................................................................... 38
2.3.3. Vấn đề lao động .......................................................................................... 41
2.3.4. Đất đai....................................................................................................... 42
2.3.5. Loại hình doanh nghiệp ............................................................................. 43
2.3.6. Ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp ................................................. 47
2.3.7. Chuyển đổi loại hình doanh nghiệp sau mua bán ........................................ 48
2.3.8. Thơng báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh ................................................. 57
2.3.9. Những nội dung trong các cam kết WTO khác biệt so với Luật Doanh nghiệp
................................................................................................................... 58

2.4.

Phương hướng hoàn thiện pháp luật hiện hành về mua bán doanh nghiệp ... 62

2.4.1. Sự cần thiết của pháp luật hiện hành về mua bán doanh nghiệp tại Việt Nam
................................................................................................................... 62
2.4.2. Một số định hướng hoàn thiện pháp luật về mua bán doanh nghiệp ............ 63
2.4.3. Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật hiện hành về mua bán
doanh nghiệp .............................................................................................. 64
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 69
PHỤ LỤC 1 .......................................................................................................... 71
PHỤ LỤC 2 .......................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 82


6

LỜI NĨI ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Mua bán doanh nghiệp là một hiện tượng kinh tế đã xuất hiện trên thế giới

từ rất lâu và là hiện tượng tất yếu nảy sinh từ quá trình cạnh tranh và tích tụ tư bản.
Tại Việt Nam, hiện tượng này cũng đã xuất hiện cùng với quá trình đổi mới, phát
triển nền kinh tế thị trường và đặc biệt là xu hướng hội nhập đa chiều của nền kinh
tế Việt Nam với nền kinh tế khu vực và thế giới. Trong bối cảnh hiện tại của Việt
Nam, mua bán doanh nghiệp đã tạo ra sự năng động và tính cạnh tranh của nền
kinh tế, khơi thơng dịng chảy vốn và thúc đẩy hoạt động kinh doanh trở nên sôi
động hơn.

Cùng với việc ban hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, các nhà đầu tư
trong và ngoài nước, các doanh nghiệp dân doanh và nhà nước đã có một nền tảng
pháp lý chung trong hoạt động đầu tư và kinh doanh. Đồng thời, với bối cảnh Việt
Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và các tổ chức kinh tế - thương mại
khu vực, một số rào cản đầu tư đã và sẽ được dỡ bỏ, nhà đầu tư được tự do hơn
trong việc lựa chọn cách thức đầu tư của mình. Một trong những cách thức ấy là
mua bán doanh nghiệp. Trong trường hợp này, mua bán doanh nghiệp đóng vai trị
như một phương thức đầu tư và tiếp cận thị trường.
Hiện nay, trên thực tế, đã xuất hiện xu hướng mua bán doanh nghiệp, và xu
hướng này chắc chắn sẽ còn phát triển trong tương lai. Tuy nhiên, các quy định của
pháp luật hiện hành liên quan đến mua bán doanh nghiệp chưa đầy đủ trong khi
những quy định hiện hành đã bước đầu bộc lộ nhiều điểm bất hợp lý. Thực tế địi
hỏi cần có một số điều chỉnh, sửa đổi trong hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan
đến mua bán doanh nghiệp.
Chính vì vậy, tác giả mạnh dạn chọn đề tài: “Mua bán doanh nghiệp theo
pháp luật hiện hành” để thực hiện luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có những thực tế về việc mua bán doanh nghiệp tại Việt Nam. Đó là việc

mua bán doanh nghiệp nhà nước theo Nghị định số 103/1999/NĐ-CP ngày 10


7

tháng 9 năm 1999 của Chính phủ về giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh
nghiệp nhà nước và hiện tại là Nghị định số 80/2005/NĐ-CP ngày 22 tháng 6 năm
2005 về cùng nội dung trên.
Trên cơ sở thực tiễn đó, một số đề tài nghiên cứu đã tập trung nghiên cứu về

vấn đề mua bán doanh nghiệp nhà nước, mà cụ thể là đề tài “Một số vấn đề về bán,
khoán kinh doanh và cho thuê các doanh nghiệp nhà nước” của các tác giả TS.
Nguyễn Văn Phúc, TS. Vũ Thành Hưng và TS. Nguyễn Văn Định, do Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia phát hành năm 2003. Tuy nhiên, tác giả chưa thấy đề tài nào
nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề mua bán các loại doanh nghiệp nói chung cũng
như các đề tài tổng kết thực tiễn việc mua bán doanh nghiệp theo Luật Doanh
nghiệp và Luật Đầu tư .
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu hiện tượng mua bán doanh nghiệp dưới góc độ thực tế,

phân tích bản chất kinh tế cũng như các yếu tố tác động đến hiện tượng này. Trên
cơ sở đó, đề tài so sánh, đối chiếu các quy định của pháp luật hiện hành về mua bán
doanh nghiệp với thực tế thi hành. Mục tiêu cuối cùng của đề tài là tìm ra các giải
pháp về mặt pháp lý nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc, thúc đẩy hoạt động mua
bán doanh nghiệp trong thời gian tới.
Với mục đích đó, đề tài có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất, nghiên cứu hiện tượng mua bán doanh nghiệp dưới góc độ kinh tế
và pháp lý.
Thứ hai, nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về mua
bán doanh nghiệp.
Thứ ba, phân tích hiện tượng mua bán doanh nghiệp tại Việt Nam trong thời
gian qua, những vấn đề pháp lý phát sinh cũng như dự đoán phương hướng phát
triển/thay đổi của hiện tượng này trong tương lai, nhất là trong bối cảnh Việt Nam
gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và các tổ chức kinh tế trong khu vực.
Trên cơ sở phân tích thực tế, đề ra một số biện pháp hoàn thiện các quy định
của pháp luật Việt Nam, đặc biệt là Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư về mua bán



8

doanh nghiệp.
4.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan đến việc mua

bán toàn bộ doanh nghiệp với tư cách một “hàng hóa đặc biệt”.
Đề tài khơng nghiên cứu việc mua bán một phần tài sản của doanh nghiệp,
mua bán một phần vốn góp hoặc mua bán doanh nghiệp bằng việc mua cổ phần
thơng qua thị trường chứng khốn.
Tuy nhiên, trong suốt nội dung đề tài, các hiện tượng này cũng được xem
xét trong mối tương quan với hiện tượng mua bán doanh nghiệp.
5.

Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cở sở vận dụng phương pháp luận của chủ

nghĩa Mác - Lênin với phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để giải quyết các
vấn đề về liên quan đến mua bán doanh nghiệp, vai trò của pháp luật về mua bán
doanh nghiệp trong việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong thực tế. Đồng thời,
luận văn còn dựa trên cơ sở các quan điểm của Đảng về đường lối đổi mới trong
phát triển kinh tế thị trường để định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật hiện hành
về mua bán doanh nghiệp.
Bên cạnh đó trong từng nội dung cụ thể của luận văn, tác giả sử dụng phối
hợp các phương pháp tổng hợp, so sánh, phương pháp phân tích các quy phạm pháp
luật, khảo sát thực tiễn… để làm sáng tỏ các vấn đề được đề cập trong luận văn.
6.


Kết cấu của luận văn:
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận

văn có kết cấu chính bao gồm hai chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về mua bán doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng pháp luật về mua bán doanh nghiệp theo pháp luật
hiện hành và phương hướng hoàn thiện


9

CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MUA BÁN DOANH NGHIỆP
1.1.

Khái quát về doanh nghiệp

1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một thành phần quan trọng trong nền kinh tế của bất cứ
quốc gia nào. Đó là lực lượng chính cung cấp các dịch vụ, sản xuất ra các sản phẩm
thiết yếu, tạo ra của cải và sự hưng thịnh cho quốc gia. Doanh nghiệp chính là các
tế bào cho cơ thể sống kinh tế. Doanh nghiệp năng động, lành mạnh và phát triển
thì nền kinh tế tăng trưởng và phát triển và ngược lại, doanh nghiệp trì trệ, khơng
thể mở rộng sản xuất hoặc lâm vào tình trạng khó khăn. Vì lý do đó, doanh nghiệp
được coi là tấm gương phản ánh sức mạnh của nền kinh tế quốc gia và là trung tâm
nghiên cứu của nhiều ngành khoa học.
Cũng như bất cứ hiện tượng nào, hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau
về doanh nghiệp, tùy theo cách tiếp cận của từng ngành khoa học và của từng tác
giả.
Xét theo quan điểm chức năng: "Doanh nghiệp là một đơn vị tổ chức sản

xuất mà tại đó người ta kết hợp các yếu tố sản xuất (có sự quan tâm giá cả của các
yếu tố) khác nhau do các nhân viên của công ty thực hiện nhằm bán ra trên thị
trường những sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ để nhận được khoản tiền chênh lệch
giữa giá bán sản phẩm với giá thành của sản phẩm ấy.” (M.Francois Peroux).
Xét theo quan điểm phát triển: "Doanh nghiệp là một cộng đồng người sản
xuất ra những của cải. Nó sinh ra, phát triển, có những thất bại, có những thành
cơng, có lúc vượt qua những thời kỳ nguy kịch và ngược lại có lúc phải ngừng sản
xuất, đơi khi tiêu vong do gặp phải những khó khăn không vượt qua được."[13]
Xét theo quan điểm hệ thống: "Doanh nghiệp bao gồm một tập hợp các bộ
phận được tổ chức, có tác động qua lại và theo đuổi cùng một mục tiêu.”
Như vậy, chúng ta thấy có rất nhiều định nghĩa về doanh nghiệp. Vậy đâu là
điểm chung các tất cả các khái niệm trên? Chúng tôi nhận thấy có một điểm chung
trong các quan điểm nên trên, đó chính là doanh nghiệp hoạt động vì mục đích kinh


10

doanh. Do đó, để có thể hiểu rõ bản chất của doanh nghiệp, cần bắt đầu tư việc tìm
hiểu khái niệm “kinh doanh”. Có nhiều định nghĩa về hoạt động kinh doanh nhưng
tựu chung lại đều đề cập đến các vấn đề cơ bản là việc cung ứng hàng hóa, dịch vụ
nhằm mục tiêu lợi nhuận. Với tư tưởng đó, Luật Công ty đưa ra một khái niệm khá
chuẩn mực về kinh doanh, theo đó, kinh doanh là “việc thực hiện một, một số hoặc
tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc
thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” [70, đ3]. Vậy doanh
nghiệp là một tổ chức được thành lập để thực hiện việc kinh doanh. Điều này nghĩa
là doanh nghiệp là hình thức pháp lý còn hoạt động kinh doanh là cốt lõi kinh tế
của doanh nghiệp.
Chính từ góc độ này, chúng ta mới thấy được sự đa dạng của các hình thức
doanh nghiệp trong thực tế. Về tên gọi, đó có thể là công ty TNHH, Công ty Cổ
phần, Công ty Liên doanh, xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100% vốn đầu tư nước

ngồi, ngân hàng, văn phịng luật sư . . . miễn là đó là một tổ chức được tạo ra để
thực hiện các hoạt động kinh doanh. Với cách hiểu này, chúng ta cịn có thế lý giải
được vấn đề về công ty TNHH một thành viên do một cá nhân thành lập và điều
hành. Với xuất phát điểm như trên, phạm vi khái niệm doanh nghiệp là rất rộng.
Tuy nhiên, với tư cách là một nghiên cứu thực tiễn, luận văn này chỉ nghiên cứu
những loại hình doanh nghiệp đã được thừa nhận trong pháp luật hiện hành.
Về mặt luật thực định, văn bản pháp lý đầu tiên sử dụng khái niệm “doanh
nghiệp” là Sắc Lệnh số 104-SL ngày 01 tháng 01 năm 1948 của Chủ tịch Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cơng hồ, ấn định các ngun tắc căn bản của các “doanh
nghiệp quốc gia”. Tuy nhiên, sau đó, khái niệm doanh nghiệp được khơng được sử
dụng nhiều mà thay vào đó là khái niệm xí nghiệp, xí nghiệp quốc doanh, xí nghiệp
liên doanh. . . . Luật Công ty 1990 lần đầu tiên đã đưa ra định nghĩa doanh nghiệp,
theo đó doanh nghiệp là “đơn vị kinh doanh được thành lập nhằm mục đích chủ yếu
là thực hiện các hoạt động kinh doanh” [70, đ3]. Như vậy, Luật Công ty chú trọng
nhiều đến yếu tố kinh doanh khi định nghĩa về doanh nghiệp. Chúng tơi cho rằng
đó là một cách tiếp cận chính xác. Định nghĩa này được kế thừa trong Luật Doanh


11

Nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp, theo đó: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo
quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.” [61,
đ4]. Đây là định nghĩa được dùng làm cơ sở nghiên cứu trong toàn bộ luận văn này.
1.1.2. Các đặc điểm pháp lý của doanh nghiệp
Căn cứ vào Luật Doanh nghiệp, một tổ chức được coi là doanh nghiệp khi
hội đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế. Đó là một tổ chức được
thành lập để tiến hành hoạt động kinh doanh nhằm thu lợi nhuận thông qua việc
cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho thị trường. Hoạt động trung tâm của doanh

nghiệp là kinh doanh. Chính hoạt động kinh doanh sẽ quyết định cơ cấu tổ chức
của doanh nghiệp chứ không phải ngược lại. Mục tiêu lợi nhuận là mục tiêu kinh tế
xuyên suốt hoạt động của doanh nghiệp, phân biệt doanh nghiệp với các tổ chức
khác như tổ chức chính trị, tổ chức hoạt động phi lợi nhuận, tổ chức hành chính . . .
Để thực hiện mục tiêu lợi nhuận, pháp luật trao cho doanh nghiệp thẩm quyền kinh
tế. Thẩm quyền kinh tế là tổng thể các quyền và nghĩa vụ về kinh tế được Nhà nước
xác nhận, tương ứng với chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực hoạt động của mỗi doanh
nghiệp. Thẩm quyền kinh tế là cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp thực hiện các
hành vi pháp lý xác lập quyền và nghĩa vụ pháp lý trong hoạt động của mình. Ở
đây có một vấn đề phát sinh liên quan đến các doanh nghiệp nhà nước tiến hành
hoạt động công ích (thường được quen gọi là doanh nghiệp công ích). Xuất phát từ
bản chất của sản phẩm, dịch vụ công ích là các sản phẩm, dịch vụ “mà việc sản
xuất, cung cấp theo cơ chế thị trường thì khó có khả năng bù đắp chi phí đối với
doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ này”[65, đ3], do đó, trong
trường hợp các khoản thu khơng đủ để bù đắp chi phí hợp lý thì ngân sách nhà
nước cấp bù phần chênh lệch và bảo đảm lợi ích thoả đáng cho người lao động
[65, đ19]. Như vậy ở đây có một sự chuyển giao tài sản từ ngân sách nhà nước (bù
lỗ) cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động cơng ích để thanh tốn giá trị hàng hóa
và dịch vụ mà doanh nghiệp này đã cung ứng cho xã hội theo yêu cầu của Nhà


12

nước. Như vậy, việc cung cấp dịch vụ, hàng hóa cơng ích khơng dựa trên cơ sở thị
trường cạnh tranh. Vì thế, mục đích lợi nhuận khơng phải là mục đích chính của
việc cung ứng sản phẩm, dịch vụ cơng ích. Vì lý do đó, đề tài này khơng nghiên
cứu việc mua bán doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích mà chỉ nghiên cứu
hoạt động mua bán các loại hình doanh nghiệp vì mục đích lợi nhuận.
Thứ hai, doanh nghiệp phải có tài sản. Tài sản là cơ sở vật chất để doanh
nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh cũng như khả năng tạo khả năng cho doanh

nghiệp tham gia vào các quan hệ kinh tế một cách độc lập. Tài sản của doanh
nghiệp được thể hiện dưới hình thức vốn sản xuất, kinh doanh. Doanh nghiệp phải
có quyền chi phối đối với vốn sản xuất, kinh doanh và chịu trách nhiệm với bên thứ
ba trên cơ sở vốn sản xuất, kinh doanh đó.
Thứ ba, doanh nghiệp phải có tên riêng. Tên riêng của doanh nghiệp là một
thành tố thuộc về “nhân thân”, phân biệt doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác..
Thứ tư, doanh nghiệp phải có trụ sở. Trụ sở của doanh nghiệp không chỉ là
nơi đặt cơ quan điều hành của doanh nghiệp, nơi tiến hành hoạt động kinh doanh,
nơi doanh nghiệp giao dịch với các bên liên quan mà, về góc độ pháp lý, trụ sở
doanh nghiệp còn xác định các mối quan hệ giữa doanh nghiệp và các cơ quan nhà
nước liên quan. Rộng hơn nữa, trụ sở của doanh nghiệp còn xác nhận quốc tịch của
doanh nghiệp: Doanh nghiệp có trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam sẽ mang quốc tịch
Việt Nam.
Thứ năm, doanh nghiệp là một tổ chức được thành lập hợp pháp. Doanh
nghiệp phải được các cơ quan nhà nước thành lập, cho phép thành lập, đăng ký
hoặc công nhận. Việc thành lập doanh nghiệp có thể dưới hình thức đăng ký kinh
doanh, đăng ký đầu tư, đăng ký hoạt động, . . . mà trong dề tài này được gọi chung
là đăng ký kinh doanh. Dưới góc độ quản lý, đăng ký kinh doanh là một thủ tục
hành chính – tư pháp công nhận tư cách pháp lý của doanh nghiệp. Hiện nay tại
Việt Nam, chưa có quy định thừa nhận các hình thức doanh nghiệp thực tế, tức là
những doanh nghiệp hội đủ các điều kiện luật định để trở thành doanh nghiệp
nhưng không hoặc chưa đăng ký kinh doanh. Vấn đề doanh nghiệp thực tế cũng là


13

một vấn đề cần nghiên cứu, tuy nhiên, các doanh nghiệp này sẽ không nằm trong
phạm vi nghiên cứu của đề tài này.
Một số tài liệu cho rằng doanh nghiệp có thêm một đặc điểm chung là có tư
cách pháp nhân. Tuy nhiên, theo tác giả, tư cách pháp nhân không phải là dấu hiệu

bắt buộc đối với doanh nghiệp. Pháp luật Việt Nam vẫn thừa nhận nhiều hình thức
doanh nghiệp khơng có tư cách pháp nhân như DNTN, văn phòng luật sư, . . .Trong
bối cảnh pháp lý của Việt Nam hiện nay khi mà Luật Doanh nghiệp quy định cơng
ty hợp danh cũng có tư cách pháp nhân thì tư cách pháp nhân có thể coi là đặc
trưng chung của công ty chứ không phải là đặc điểm chung của doanh nghiệp.
Theo nghĩa này, khái niệm doanh nghiệp có ngoại diên rộng hơn khái niệm cơng ty.
1.1.3. Các loại hình doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành
Với quan điểm rằng doanh nghiệp là một tổ chức được thành lập để thực
hiện việc kinh doanh, trên cơ sở nghiên cứu các quy định hiện hành của pháp luật,
đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu trong các loại hình doanh nghiệp sau:
a. Các loại hình doanh nghiệp được quy định trong Luật Doanh nghiệp, bao
gồm:
- Cơng TNHH: Loại hình này được chia thành hai tiểu loại là công ty
TNHH một thành viên và cơng ty TNHH có hai thành viên trở lên. Cơng ty TNHH
là doanh nghiệp do ít nhất một thành viên là tổ chức hoặc cá nhân thành lập (công
ty TNHH một thành viên) và tối đa là 50 thành viên. Thành viên chịu trách nhiệm
về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn
cam kết góp vào doanh nghiệp và công ty TNHH không được phát hành các loại
chứng khốn.
- Cơng ty cổ phần: doanh nghiệp do tối thiểu 3 thành viên (cổ đông) thành
lập và không giới hạn số cổ đông tối đa. Vốn điều lệ của công ty được chia thành
các phần bằng nhau nhỏ nhất gọi là cổ phần. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp
vào doanh nghiệp. Cổ đơng có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho
người khác theo luật định.


14

- Cơng ty hợp danh: doanh nghiệp, trong đó có ít nhất hai thành viên là chủ

sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (thành
viên hợp danh); ngồi các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Các
thành viên hợp danh phải là cá nhân, liên đới chịu trách nhiệm bằng tồn bộ tài sản
của mình về các nghĩa vụ của cơng ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về
các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào cơng ty. Điều đang
được tranh cãi là Luật Doanh nghiệp thừa nhận công ty hợp danh có tư cách pháp
nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
- DNTN: doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng
tồn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. DNTN không được
phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một
DNTN. Trong Luật Doanh nghiệp, DNTN là loại hình doanh nghiệp duy nhất
khơng có tư cách pháp nhân.
b. Hợp tác xã, hoạt động theo Luật Hợp tác xã được ban hành năm 2003.
Hợp tác xã là một loại hình doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân,
hộ gia đình, pháp nhân (xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp
sức lập ra để tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Hợp tác xã có tư cách
pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn
điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác.
c. Các hình thức doanh nghiệp khác:
Ngồi ra, có một số loại hình doanh nghiệp được điều chỉnh bởi các văn bản
pháp luật khác như các tổ chức tín dụng theo Luật các tổ chức Tín dụng; Văn
phịng luật sư, Công ty luật hợp danh, Công ty luật TNHH theo Luật Luật sư;
Phịng cơng chứng theo Luật cơng chứng . . .
Một điểm lưu ý là trước khi ban hành Luật Doanh nghiệp, tại Việt Nam, có
đồng thời ba văn bản luật cùng điều chỉnh các vấn đề về doanh nghiệp, đó là:
(i) Luật Doanh nghiệp 1999, áp dụng đối với những doanh nghiệp thuộc khu
vực kinh tế tư nhân trong nước;
(ii) Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, áp dụng đối với các doanh nghiệp



15

có vốn đầu tư nước ngồi, được ban hành năm 1987 và liên tục được bổ sung, sửa
đổi vào các năm 1990, 1992, 1996 và 2000; và
(iii) Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995, áp dụng cho các doanh nghiệp
nhà nước, được sửa đổi vào năm 2003.
Với mục đích tạo ra một mặt bằng pháp lý bình đẳng cho các loại hình
doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp đã mở rộng phạm vi điều chỉnh của mình theo
hướng khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà
nước và Luật Đầu tư nước ngoài chuyển sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp
thông qua việc đăng ký lại, chuyển đổi doanh nghiệp, cụ thể:
(i) Đối với các doanh nghiệp nhà nước, sẽ tiến hành chuyển đổi thành công
ty TNHH hoặc công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp trong thời hạn 4 năm kể từ
ngày Luật Doanh nghiệp có hiệu lực. Trong thời hạn chuyển đổi, những quy định
của Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 được tiếp tục áp dụng đối với doanh
nghiệp nhà nước trong trường hợp Luật Doanh nghiệp này khơng có quy định. Như
vậy, tại thời điểm hiện tại, vẫn tồn tại các doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo
Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003.
(ii) Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi được thành lập trước khi
Luật Doanh nghiệp có hiệu lực, doanh nghiệp có quyền đăng ký lại và tổ chức quản
lý, hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp hoặc tiếp tục hoạt động kinh
doanh trong phạm vi ngành, nghề và thời hạn được ghi trong Giấy phép đầu tư.
Như vậy, vẫn còn những doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trước đây và chưa đăng ký chuyển sang hoạt
động theo Luật Doanh nghiệp. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi khơng phải
là một loại hình doanh nghiệp riêng theo pháp luật Việt Nam. Về bản chất, các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi là các cơng ty TNHH. Mặc dù Luật Doanh
nghiệp và Luật Đầu tư đã thay thế Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nhưng hai
văn bản luật này cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi được chọn lựa
việc chuyển đổi hay khơng chuyển đổi sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và

Luật Đầu tư, do đó, vẫn có nhiều doanh nghiệp khơng chuyển đổi như mong muốn


16

của Luật. Theo Nghị định 139: “Việc tổ chức quản lý nội bộ và hoạt động của
doanh nghiệp thực hiện theo quy định của Điều lệ; trường hợp Điều lệ khơng quy
định thì áp dụng theo các quy định tương ứng của Luật Doanh nghiệp và các văn
bản hướng dẫn thi hành”. Luận văn này cũng không coi các doanh nghiệp hoạt
động theo Luật Đầu tư nước ngoài là một hình thức doanh nghiệp riêng biệt mà sẽ
được coi như những công ty TNHH.
1.2.

Một số vấn đề lý luận cơ bản về mua bán doanh nghiệp

1.2.1. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của mua bán doanh nghiệp
Khái niệm mua bán doanh nghiệp cũng đã được đề cập trong pháp luật Việt
Nam. Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990 đã đề cập vấn đề bán và cho thuê DNTN
[71, đ24]. Sau đó, các quy định về giao, khốn, bán, cho th doanh nghiệp nhà
nước, mặc dù không nêu định nghĩa khái niệm chung về “mua bán doanh nghiệp”
nhưng có nêu khái niệm bán doanh nghiệp nhà nước, theo đó "bán một doanh
nghiệp nhà nước (gọi tắt là bán doanh nghiệp) là việc chuyển đổi sở hữu có thu tiền
tồn bộ tài sản của doanh nghiệp nhà nước sang sở hữu tập thể, cá nhân hoặc pháp
nhân khác”. Theo định nghĩa này, bán doanh nghiệp nhà nước chỉ là sự chuyển giao
toàn bộ tài sản của doanh nghiệp nhà nước mà không có sự chuyển giao quyền và
nghĩa vụ pháp lý khác, trừ trường hợp các bên có quy định cụ thể trong hợp đồng
mua bán doanh nghiệp1. Khái niệm mua bán trong luận văn này sẽ được hiểu theo
nghĩa rộng hơn, tức là mua bán doanh nghiệp không chỉ là sự chuyển giao các tài
sản mà còn bao gồm sự chuyển giao các quyền và nghĩa vụ pháp lý khác của doanh
nghiệp.

Theo thông lệ quốc tế, khái niệm mua bán doanh nghiệp thường được đề cập
đến với thuật ngữ “sáp nhập và mua lại” (Merger and Acquitision – M&A). Thuật
ngữ “sáp nhập và mua lại” có nội hàm rất rộng, từ việc mua bán tài sản, mua bán
phần vốn góp đến mua bán toàn bộ doanh nghiệp. Trong phạm vi đề tài này, mua
bán doanh nghiệp được nghiên cứu trong phạm vi hẹp hơn: mua bán toàn bộ doanh
1
Khoản 1 Điều 20 Nghị Định 103/1999/NĐ-CP: “Các khoản nợ phải thu, phải trả do doanh nghiệp giải
quyết. Trường hợp người mua cam kết kế thừa các khoản nợ phải thu, phải trả thì ghi trong hợp đồng mua
bán doanh nghiệp và thơng báo cho các bên có liên quan biết.”


17

nghiệp. Do vậy, có thể tạm đưa ra khái niệm về mua bán doanh nghiệp như sau:
“Mua bán doanh nghiệp là sự chuyển giao toàn bộ các quyền và nghĩa vụ pháp lý
của một doanh nghiệp cho một hoặc một vài cá nhân, tổ chức khác trên cơ sở hợp
đồng”.
Với quan điểm này, mua bán doanh nghiệp mang những đặc điểm pháp lý
sau:
Thứ nhất, mua bán doanh nghiệp được thể hiện thông qua một hợp đồng giữa
hai bên: Bên bán, bên mua doanh nghiệp. Đối tượng của hợp đồng này là doanh
nghiệp được mua bán: doanh nghiệp mục tiêu. Đây một giao dịch mang tính chất
dân sự, diễn ra giữa các bên có địa vị pháp lý ngang nhau, do đó về mặt ngun tắc,
hợp đồng này hồn tồn do các bên liên quan quyết và chịu trách nhiệm. Trong giao
dịch này, khơng thể và khơng nên có sự can thiệp của cơng quyền, chừng nào mà
các thỏa thuận đó khơng ảnh hưởng đến lợi ích của các bên khác hoặc của xã hội.
Nếu có sự can thiệp của cơng quyền, giao dịch này sẽ bị bóp méo và khơng thể hiện
đúng bản chất của nó. Cũng vì thế, trong trường hợp cần sự can thiệp của cơng
quyền vì lợi ích cơng cộng, sự can thiệp này nếu có cũng chỉ nên ở phạm vi vĩ mô,
tức là tạo ra các hành lang pháp lý cho các bên tự do thỏa thuận chứ không nên can

thiệp trực tiếp vào các giao dịch cụ thể, trừ trường hợp mua bán doanh nghiệp dẫn
đến tập trung kinh tế mà có thể bị kiểm soát theo pháp luật cạnh tranh.
Ở đây phát sinh thêm một vấn đề pháp lý giữa hợp đồng mua bán doanh
nghiệp với các hợp đồng khác (hợp đồng giữa doanh nghiệp mục tiêu và khách
hàng, hợp đồng lao động của doanh nghiệp mục tiêu . . ). Vấn đề hợp đồng mua bán
doanh nghiệp là một vấn đề khá phức tạp về lý luận và thực tế. Hiện nay, chưa có
nhiều nghiên cứu chuyên sâu về vấn đế này. Tác giả hy vọng vấn đề mới mẻ này sẽ
được quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, luận văn này không đi sâu vào các khía cạnh
cụ thể của loại hợp đồng này mà sẽ nhìn nhận hợp đồng này một cách tổng quát như
một văn bản thể hiện những thỏa thuận của các bên trong quá trình mua bán doanh
nghiệp và là văn bản quan trọng nhất quy định tất cả các vấn đề liên quan của một
giao dịch mua bán doanh nghiệp.


18

Thứ hai, đối tượng của hợp đồng mua bán doanh nghiệp là một thực thể pháp
lý với tư cách là một “hàng hóa đặc biệt”. Theo học thuyết kinh tế - chính trị Mác –
Lênin, hàng hố ln bao gồm yếu tố: giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng của
hàng hóa là cơng dụng của hàng hóa thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. Cịn
giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong
hàng hóa. Nhìn trên góc độ kinh tế, doanh nghiệp cũng là hàng hố. Doanh nghiệp
có giá trị sử dụng. Tất nhiên giá trị sử dụng của doanh nghiệp không cụ thể như
cơm để ăn, áo để mặc. Giá trị sử dụng trừu tượng hơn: doanh nghiệp là một tổ chức
được thành lập để sản xuất sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ cho thị trường. Doanh
nghiệp có giá trị. Giá trị của doanh nghiệp được thể hiện bởi doanh nghiệp được kết
tinh giá trị từ lao động của các lao động trong doanh nghiệp và sự đầu tư của các cá
nhân đã thành lập và điều hành doanh nghiệp đó. Cũng như bất cứ hàng hóa nào
khác, khi được trao đổi trên thị trường, doanh nghiệp có giá trị trao đổi, đó là giá cả
mà bên mua và bên bán thống nhất. Giá cả này đựơc xác định dựa trên quan hệ cung

– cầu của thị trường, giá cả là yếu tố dễ biến động nhất. Một doanh nghiệp có thể
được mua bán với nhiều tỷ đồng hoặc với những mức giá tượng trưng, 01 đồng
chẳng hạn. Tuy nhiên, giá cả dù thay đổi nhưng luôn xoay quanh giá trị của doanh
nghiệp. Mở rộng hơn nữa, khi doanh nghiệp là hàng hố, tất yếu sẽ hình thành một
thị trường mua bán loại hàng hố đó - thị trường mua bán doanh nghiệp. Thị trường
này đã hình thành từ lâu tại các quốc gia phát triển và đã từng bước trở thành một
thị trường có tính quốc tế.
Trong mua bán doanh nghiệp, doanh nghiệp trở thành hàng hố, “hàng hố
đặc biệt”. Tính chất “đặc biệt” của hàng hoá phải được hiểu như thế nào? Hàng hóa
đó là một thực thế pháp lý và hàng ngày hàng giờ có khả năng tự tạo ra các quyền
và nghĩa vụ pháp lý cho chính nó. Nó là một loại hàng hố phi vật chất, khơng thể
cầm nắm nhưng nó vận hành như một cơ thể sống thông qua những cá nhân hoạt
động trong doanh nghiệp. Vì thế, giá trị của doanh nghiệp từng giờ, từng phút thay
đổi. Có lẽ đến đây, chúng ta nên quay lại định nghĩa của D.Larua.A Caillat về
doanh nghiệp: "Doanh nghiệp là một cộng đồng người sản xuất ra những của cải.


19

Nó sinh ra, phát triển, có những thất bại, có những thành cơng, có lúc vượt qua
những thời kỳ nguy kịch và ngược lại có lúc phải ngừng sản xuất, đơi khi tiêu vong
do gặp phải những khó khăn khơng vượt qua được".
Thứ ba, mua bán doanh nghiệp có nội dung là sự chuyển giao toàn bộ quyền
và nghĩa vụ pháp lý của doanh nghiệp mục tiêu. Mua bán doanh nghiệp không chỉ là
sự chuyển giao các tài sản của doanh nghiệp mà còn là sự chuyển giao những quyền
và nghĩa vụ pháp lý khác như các nghĩa vụ và quyền lợi về lao động, quyền và
nghĩa vụ đối với khách hàng, hệ thống phân phối của doanh nghiệp . . . thậm chí là
cả những quyền và nghĩa vụ gắn với nhân thân của người chủ doanh nghiệp mục
tiêu phát sinh trước khi mua bán.
Thứ tư, mua bán doanh nghiệp phải thông qua sự thừa nhận của công quyền

thông qua các thủ tục pháp lý nhất định. Điều này xuất phát từ bản chất của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp được khai sinh thông qua thủ tục đăng ký kinh doanh – thủ
tục để gán cho nó một tư cách pháp lý, gán cho những người thành lập nên nó
những quyền và nghĩa vụ pháp lý. Do đó, khi doanh nghiệp được mua bán, khi có
sự chuyển giao các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các thành viên sáng lập nên
doanh nghiệp, cần một sự chứng nhận của công quyền về việc chuyển giao này.
Việc đăng ký này là thực sự quan trọng và đôi khi người ta dùng các hình thức cơng
nhận này để đặt tên cho giao dịch mua bán doanh nghiệp ấy. Nếu doanh nghiệp mục
tiêu chuyển giao toàn bộ quyền và nghĩa vụ pháp lý cho doanh nghiệp khác và chấm
dứt hoạt động của mình, đó là sáp nhập. Nếu doanh nghiệp mục tiêu hợp nhất với
doanh nghiệp của bên mua hình thành một doanh nghịêp mới, đó là hợp nhất. Nếu
các bên mua bán doanh nghiệp dưới hình thức chuyển nhượng tồn bộ vốn góp
trong doanh nghiệp, đây cũng là một dạng mua bán doanh nghiệp thơng qua chuyển
nhượng vốn. Đứng ở góc độ này, chúng ta nhận ra vị trí và vai trị của Nhà nước với
tư cách người công nhận các thỏa thuận của các bên. Nhà nước sẽ là người đặt ra
các khung pháp lý để các bên liên quan tuân thủ và cân nhắc hành vi của mình. Một
thực tế tại Việt Nam hiện nay là chưa có khung pháp lý chuẩn cho các bên trong
giao dịch mua bán doanh nghiệp do đó, nhiều giao dịch hợp pháp của người dân


20

không thể thực hiện được.
* Các tiền đề xuất hiện, tồn tại và phát triển họat động mua bán doanh
nghiệp
Mua bán doanh nghiệp là một hiện tượng kinh tế - pháp lý phức tạp. Nó cần
những điều kiện và bối cảnh nhất định để xuất hiện, tồn tại và phát triển. Mua bán
doanh nghiệp chỉ xuất hiện, tồn tại và phát triển trong bối cảnh kinh tế nhất định,
mà cụ thể là:
Trước hết, phải có sự tồn tại của nền kinh tế thị trường. Mua bán doanh

nghiệp là sản phẩm của nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế tâp trung bao cấp,
không tồn tại cạnh tranh và do đó, khơng tồn tại hiện tượng mua bán doanh nghiệp.
Việc một doanh nghiệp sáp nhập, hợp nhất với một doanh nghiệp khác hồn tồn
dựa vào ý chí của nhà nước và q trình đó được thực hiện bằng thủ tục hành chính.
Đấy khơng thể gọi là mua bán doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh
tranh với tư cách là động lực của sự phát triển, buộc các doanh nghiệp phải tìm mọi
giải pháp để nâng cao năng suất lao động để đưa ra thị trường sản phẩm, dịch vụ có
chất lượng, giá cả hợp lý, từ đó mở rộng kinh doanh, tăng tích luỹ. Trong q trình
cạnh tranh, sẽ có những doanh nghiệp tồn tại và phát triển, và cũng có những doanh
nghiệp thua lỗ, bị phá sản hoặc bị mua lại. Đồng thời, quá trình cạnh tranh cịn kéo
theo sự tích tụ, tập trung vốn và tạo tiền đề tài chính cho hoạt động mua bán doanh
nghiệp.
Tiếp theo, phải có nhu cầu tự thân của nền kinh tế. Nhu cầu mua bán doanh
nghiệp là một nhu cầu tất yếu phát sinh từ quá trình kinh doanh. Trong q trình
này, có nhiều doanh nghiệp muốn tham gia vào thị trường, muốn cấu trúc lại doanh
nghiệp và muốn rút lui khỏi thị trường . . . từ đó, xuất hiện nhu cầu mua bán doanh
nghiệp. Như thế, một nền kinh tế vận hành theo nguyên tắc của thị trường sẽ tạo ra
nhu cầu mua bán doanh nghiệp. Nhu cầu này phát sinh từ chính các chủ thể kinh
doanh trong nền kinh tế chứ không thể là một nhu cầu phát sinh từ ý chí của nhà
nước hoặc một thực thể quyền lực phi thị trường.
Tiếp đến, phải có hành lang pháp lý cho hoạt động mua bán doanh nghiệp.


21

Hành lang này trước tiên phải ghi nhận quyền sở hữu của các thành viên sáp l6a5p
doanh nghiệp mục tiêu. Kế đến, hành lang này phải thừa nhận khả năng mua bán
doanh nghiệp mục tiêu. Hành lang này tạo ra các điều kiện cho hoạt động mua bán
doanh nghiệp, quy định quyền và địa vị pháp lý của các bên trong giao dịch, các thủ
tục thực hiện giao dịch cũng như hậu quả pháp lý của giao dịch đó. Khi hành lang

pháp lý này đầy đủ, ổn định, lòng tin của các bên trong giao dịch mua bán doanh
nghiệp được củng cố và kết quả là chi phí giao dịch của xã hội giảm đi nhiều.
1.2.2. Lợi ích kinh tế của mua bán doanh nghiệp
* Mua bán doanh nghiệp có thể được xem xét dưới nhiều góc độ:
Mua bán doanh nghiệp là một hình thức gia nhập thị trường. Thơng thường,
để gia nhập thị trường, các nhà đầu tư có nhiều chọn lựa như thành lập một doanh
nghiệp mới, tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, tham gia các dự án BT, BOT,
BTO . . Và giờ đây, các nhà đầu tư cịn có thêm chọn lựa nữa là mua lại doanh
nghiệp hiện có, tùy theo chiến lược kinh doanh của mình. Khi thành lập một doanh
nghiệp mới, nhà đầu tư cần một khoảng thời gian nhất định để thiết lập cơ cấu tổ
chức, nhân sự, các kênh phân phối, thị trường, xây dựng thương hiệu . . .Tuy nhiên,
thời gian này có thể rút ngắn khi họ mua lại một doanh nghiệp đã có sẵn với đầy đủ
các yếu tố trên. Đây hiển nhiên là một lợi thế to lớn của mua bán doanh nghiệp.
Mua bán doanh nghiệp còn là một biện pháp rút lui khỏi thị trường. Rút lui
khỏi thị trường cũng là một nhu cầu tự nhiên như gia nhập thị trường. Thông
thường, doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường thông qua các thủ tục giải thể hoặc phá
sản. Tuy nhiên, các thủ tục này tương đối phức tạp và mất thời gian. Cách hiệu quả
nhất là bán doanh nghiệp của mình cho nhà đầu tư khác. Như thế, nhìn ở góc độ
tổng quan của nền kinh tế, việc gia nhập và rút lui khỏi thị trường dễ dàng tạo ra
khả năng luân chuyển vốn nhanh chóng từ nơi có hiệu quả thấp sang nơi có hiệu
quả cao, từ đó, thúc đẩy tính năng động của toàn bộ nền kinh tế.
Mua bán doanh nghiệp là một cách thức tái tổ chức doanh nghiệp. Trong
quá trình kinh doanh, các doanh nghiệp ln có nhu cầu tái cấu trúc để tồn tại và
phát triển. Mua các doanh nghiệp có tiềm năng để thâm nhập thị trường mới hoặc


22

bán các doanh nghiệp khơng cịn khả cạnh tranh nữa là cách thức phổ biến để thực
hiện mục tiêu này.

Mua bán doanh nghiệp còn là một ngành kinh doanh. Khi doanh nghiệp là
hàng hóa, điều tất yếu sẽ có một thị trường cho “hàng hoá đặc biệt” này. Trên thị
trường này sẽ có những người thành lập doanh nghiệp, điều hành doanh nghiệp với
mục tiêu chính là chuyển nhượng doanh nghiệp ấy cho người khác, hoặc chuyên
kinh doanh việc mua đi – bán lại doanh nghiệp. Thị trường mua bán doanh nghiệp
đã hình thành từ lâu tại các quốc giao phát triển. Tại Việt Nam, thị trường này cũng
đã và đang bắt đầu hình thành.
* Mua bán doanh nghiệp tạo ra nhiều lợi ích cho các bên liên quan:
Lợi ích đối với các bên liên quan: Trong mua bán doanh nghiệp, các bên là
các chủ thể bình đẳng và độc lập về mặt tài sản. Lợi ích là động lực tạo ra mối quan
hệ của các bên trong hoạt động mua bán doanh nghiệp. Lợi ích mà các bên nhận
được thông qua mua bán doanh nghiệp là rất đa dạng. Các lợi ích này sẽ đạt được
thơng qua việc đạt được các mục tiêu được phân tích trong phần 1.2.5 dưới đây.
Lợi ích đối với Nhà Nước: Khi doanh nghiệp được mua bán thành công –
Nhà nước thu được thuế thơng qua hoạt động mua bán doanh nghệp. Nếu đó là một
hoạt động mua bán đối với doanh nghiệp đang kinh doanh có lãi, hiển nhiên rằng
giá bán doanh nghiệp sẽ cao hơn giá trị tài sản ròng của doanh nghiệp ấy, phần
chênh lệch này sẽ phải chịu thuế (thuế thu nhập doanh nghiệp theo pháp luật hiện
hành). Nếu đó là một doanh nghiệp thua lỗ, bên mua sẽ đầu tư để khôi phục sản
xuất của doanh nghiệp này và khi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tốt, có lợi
nhuận, Nhà nước sẽ tiếp tục thu được các loại thuế từ doanh nghiệp này.
Lợi ích về mặt xã hội: mua bán doanh nghiệp tạo kênh chu chuyển và lưu
thông vốn trong nền kinh tế. Nếu một doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả,
không chỉ tài sản của doanh nghiệp bị mất đi theo thời gian mà một nguồn lực của
xã hội cũng bị giảm đi. Trong trường hợp này xuất hiện nhu cầu rút vốn khỏi
những ngành nghề kém hiệu quả và mua bán doanh nghiệp có thể giải quyết được
nhu cầu này, giải phóng nguồn vốn bị “chơn” trong các doanh nghiệp kinh doanh


23


kém hiệu quả. Như thế, mua bán doanh nghiệp giúp vốn từ các ngành nghề kém
hiệu quả sẽ được chuyển sang những ngành nghề có khả năng sinh lợi cao hơn. Khi
luồng vốn được chu chuyển hiệu quả, hiển nhiên tạo ra lợi ích cao hơn cho xã hội,
thúc đẩy kinh tế phát triển.
Lợi ích đối với người lao động: Lợi ích này đặc biệt được nhận thấy rõ nhất
qua việc mua bán các doanh nghiệp thua lỗ hoặc trong tình trạng phá sản. Sau mua
bán, doanh nghiệp mục tiêu được tổ chức lại hoạt động kinh doanh, và mặc dù, có
thể có những người lao động phải chuyển đi làm những cơng việc khác, tuy nhiên,
nhìn trên bình diện chung, việc tổ chức lại doanh nghiệp mục tiêu có thể duy trì
việc làm cho người lao động.
Tuy nhiên, ở góc độ tiêu cực, mua bán doanh nghiệp thường được đề cập
như một cách thức thâu tóm doanh nghiệp và tiến tới độc quyền. Kết quả của
những vụ mua bán doanh nghiệp có thể là việc hình thành một hoặc một vài doanh
nghiệp lớn, tức là dẫn đến độc quyền và độc quyền nhóm. Điều này dẫn đến hạn
chế cạnh tranh – tiền đề sinh ra mua bán doanh nghiệp. Chính khả năng tạo ra độc
quyền và độc quyền nhóm giải thích tại sao cần có sự can thiệp của nhà nước vào
trong các giao dịch mua bán doanh nghiệp khi mà mua bán doanh nghiệp có thể
ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lợi của người tiêu dùng.
1.2.3. Phân loại mua bán doanh nghiệp
a. Theo tính chất của giao dịch: Mua bán doanh nghiệp được phân thành
mua bán hữu hảo hoặc mua bán thù nghịch.
Mua bán hữu hảo: việc mua bán phù hợp với mong muốn của các thành viên
hoặc ban lãnh đạo của doanh nghiệp mục tiêu. Trong trường hợp này bên bán thực
sự có nhu cầu bán doanh nghiệp và bên mua được “chào đón” mua doanh nghiệp
mục tiêu.
Mua bán thù địch: việc mua bán đối lập với mong muốn của các thành viên
hoặc ban lãnh đạo của doanh nghiệp mục tiêu. Các thành viên của doanh nghiệp
mục tiêu không mong muốn thực hiện giao dịch mua bán này, nhưng dưới sức ép
của bên mua với khả năng về tài chính hoặc các nguồn lực khác, bên bán phải miễn



24

cưỡng chấp nhận thực hiện giao dịch này. Hiện tượng này thường được đề cập dưới
tên gọi thơn tính doanh nghiệp.
b. Dựa vào cấu trúc của từng doanh nghiệp, chúng ta có mua bán ngang,
mua bán dọc và mua bán kiểu tập đoàn:
Mua bán ngang: Diễn ra đối với các doanh nghiệp cùng cạnh tranh trực tiếp
và chia sẻ cùng dòng sản phẩm và thị trường, tức là diễn ra trên một phân khúc thị
trường. Ví dụ tiêu biểu của mua bán ngang là việc hãng luật Allens Arthur
Robinson mua lại toàn bộ hãng luật Phillips Fox trong năm 2006 vừa qua. Hình
thức mua bán này đặc biệt được pháp luật canh tranh của hầu hết các quốc gia trên
thế giới quan tâm bởi lẽ sau khi thương vụ này được thực, trên thị trường có khả
năng xuất hiện những doanh nghiệp có khả năng thống lĩnh thị trường hoặc có khả
năng tác động đến sự cạnh tranh của thị trường, từ đó ảnh hưởng đến quyền lợi của
người tiêu dùng.
Mua bán dọc: Diễn ra đối với các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng, ví dụ
giữa một cơng ty với khách hàng hoặc nhà cung cấp của cơng ty đó. Khác với mua
bán ngang, mua bán dọc khơng có khả năng tác động nhiều đến sự cạnh tranh trên
thị trường vì doanh nghiệp sẽ hoạt động trên hai phân khúc thị trường khác nhau mà
ở đó vẫn tồn tại các doanh nghiệp cạnh tranh sẵn có. Hay nói cách khác, khơng có
sự thay đổi trong tương quan quyền lực thị trường giữa các doanh nghiệp sau khi
kết thúc thương vụ này.
Mua bán kiểu tập đoàn: Trong trường hợp này, hai doanh nghiệp khơng có
cùng lĩnh vực kinh doanh nhưng muốn đa dạng hóa hoạt động lĩnh vực kinh doanh
đa ngành nghề. Điểm phân biệt giữa mua bán kiểu tập đoàn và mua bán dọc là nếu
mua bán dọc diễn ra trên hai phân khúc thị trường liên tiếp trong chuỗi cung ứng thì
mua bán kiểu tập đồn diễn ra trên hai phân khúc thị trường khơng có mối liên hệ
cung ứng như vậy, ví dụ một ngân hàng mua một siêu thị bán lẻ.

c. Dựa vào cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp sau mua bán, người ta có thể
chia mua bán doanh nghiệp thành:
Bên mua doanh nghiệp giữ nguyên tên gọi, cơ cấu tố chức, . . của doanh


25

nghiệp mục tiêu. Điều này nghĩa là về mặt pháp lý, khơng có sự thay đổi thực thể
pháp lý nào, doanh nghiệp mục tiêu vẫn tồn tại như nó vốn có, chỉ có chủ sở hữu
của doanh nghiệp đó thay đổi mà thôi.
Bên mua doanh nghiệp sẽ sáp nhập doanh nghiệp bị mua vào doanh nghiệp
mà bên mua sẵn có. Trong trường hợp này, doanh nghiệp mục tiêu sẽ chấm dứt sự
tồn tại của mình, chuyển tồn bộ tài sản, quyền và nghĩa vụ pháp lý cho danh
nghiệp của bên. Hình thức này gọi là sáp nhập doanh nghiệp.
Bên mua doanh nghiệp có thể hợp nhất doanh nghiệp mà mình sẵn có với
doanh nghiệp mục tiêu để hình thành một doanh nghiệp mới. Như vậy, sẽ có ít nhất
hai doanh nghiệp chấm dứt tồn tại và xuất hiện một doanh nghiệp mới kế thừa tài
sản, quyền và nghĩa vụ pháp lý của hai doanh nghiệp đó. Hình thức này gọi là hợp
nhất doanh nghiệp.
Ngồi ra, một số tác giả cịn dựa vào các tiêu chí khác để phân loại mua bán
doanh nghiệp. Dựa vào mục tiêu thị trường của mua bán doanh nghiệp, chúng ta có
mua bán doanh nghiệp để mở rộng thị trường (diễn ra đối với hai doanh nghiệp bán
cùng loại sản phẩm nhưng ở những thị trường khác nhau) hoặc mua bán doanh
nghiệp để mở rộng sản phẩm (diễn ra đối với hai doanh nghiệp bán những sản phẩm
khác nhau nhưng có liên quan tới nhau trong cùng một thị trường). Hoặc dựa vào
hình thức thanh tốn để phân chia thành mua bán thanh toán bằng tiền mặt hoặc
mua bán thanh toán bằng cổ phiếu hay các tài sản khác. Tuy nhiên, cách phân loại
này không thể hiện một các đặc trưng về bản chất của hoạt động mua bán doanh
nghiệp, và chỉ được đề cập mang tính tham khảo.
1.2.5. Các mục tiêu kinh tế chủ yếu của mua bán doanh nghiệp

Mục tiêu gia tăng giá trị doanh nghiệp. Đây là mục tiêu hàng đầu trong hoạt
động mua bán doanh nghiệp. Doanh nghiệp mục tiêu sẽ gia tăng nhiều lần giá trị
của chính nó hoặc của doanh nghiệp mà bên mua đang sở hữu khi đặt chúng trong
mối liên hệ với nhau theo nguyên tắc “1 + 1 > 2”. Ví dụ, giá trị của một cơng ty sản
xuất sữa và nơng trường bị sữa sẽ đều tăng lên khi một trong hai bên mua lại lẫn
nhau vì cơng ty sản xuất sữa sẽ đảm bảo được nguồn cung cấp nguyên liệu trong


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×