Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Thực trạng và một số kiến nghị đối với hoạt động mua bán doanh nghiệp tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.58 KB, 39 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI GIỚI THIỆU
Trong giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay, hoạt động kinh tế ngày càng sôi
động và dần đi đúng qui luật của thị trường. Nên xu hướng tất yếu của thị
trường là nhu cầu phát triển, bất cứ doanh nghiệp (DN ) nào cũng luôn đặt
mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Vì vậy các DN sẽ tìm sẽ tìm mọi cách dể
nâng cao cạnh tranh của mình. Nhưng nếu chỉ dựa vào năng lực của từng DN
riêng lẻ thì rất khó có thể đạt được điều đó. Các DN sẽ không thể tồn tại được
nếu đứng ngoài qui thị trường, hơn nữa các nhà tư bản không chỉ muốn tồn tại
mà còn có tham vọng trong hoạt động kinh doanh của mình. Một trong các
phương thức lớn lên của DN là tiến hành các hoạt động tập trung kinh tế
(TTKT) nhằm mở rộng thị trường , tập trung vốn, tận dụng được ưu thế cạnh
tranh của nhau, cải tiến trình độ quản lý , phát triển khoa học công nghệ, nâng
cao thị phần, khách hàng ,… Hiện nay ở nước ta các hoạt động TTKT đã và
đang diễn ra khá sôi động trong thời gian qua có nhiều vụ TTKT lớn diễn ra
khá sôi động.Trong thời gian qua có nhiều vụ TTKT lớn diễn ra gây ra nhiều
sự biến động trên thị trường. Vai trò của TTKT là không thể phủ nhận nhưng
bên cạnh đó cũng có những măt trái cần phải khắc phục và kiểm soát để cho
hoạt động này diễn ra hoàn hảo hơn.Trong khi đó các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền chưa có sự quan tâm đúng mức đến mức đến hoạt động này, các
vụ TTKT đa số diễn ra một cách tự phát mà chưa có sự kiểm soát của nhà
nước, vì vậy nó tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến sự đổ vỡ của nền kinh tế.
Đứng trước tình hình đó, vấn đề đặt ra là cần phải có sự nghiên cứu họat
động này một cách có hệ thống nhằm xây dựng các quy chế pháp lí điều chỉnh
hoạt động này và đưa nó vào khuôn khổ.
Tập trung kinh tế có rất nhiều hình thức khác nhau nhưng trong phạm
vi bài viết này tôi chỉ đề cập đến hoạt động mua bán doanh nghiệp (M&A) tại
Việt Nam. Nội dung bài viết bao gồm ba phần lớn đó là:
Phần I . Mua bán doanh nghiệp và pháp luật về mua bán doanh nghiệp
tại Việt Nam
Phần II. Thực trạng và một số kiến nghị đối với hoạt động mua bán


doanh nghiệp tại Việt Nam
Phần III. Kết luận
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
PHẦN I : MUA BÁN DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT
MUA BÁN DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MUA BÁN DOANH NGHIỆP
1. Khái niệm, đặc điểm.
Mua bán DN trên thế giới được coi là một ngành viết tắt là M&A
(Mergers&Acquisitions) có nghĩa là mua bán sáp nhập DN. Đây là hình thức
đầu tư trực tiếp. Trong đó nhà đầu tư đem tiền đến mua lại hoặc sáp nhập với
cơ sở kinh doanh đã có sẵn .Trên thế giới đây là một nghành đã hình thành từ
lâu và cũng rất nhộn nhịp ở các nước phát triển nhưng ở nước ta mới hình
thành trong vài năm trở lại đây và chỉ thực sự có nhiều thương vụ mua bán
khi Thị trường chứng khoán đi vào hoạt động từ năm 2000 .
a) Khái niệm
Theo điều 17.3 luật cạnh tranh 2004 “Mua lại doanh nghiệp là việc một
doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của DN khác đủ để kiểm
soát, chi phối toàn bộ hoặc một nghành nghề của doanh nghiệp bị mua lại”
Theo qui định tại điều 34 Nghị định 116/2005/NĐ-CP của chính phủ
ngày 15/9/2005 qui định chi tiết một số điều của Luật cạnh tranh 2004 thì việc
kiểm soát toàn bộ hay một nghành nghề của DN khác là trường hợp một DN
(gọi là doanh nghiệp kiểm soát) giành được quyền sở hữu tài sản của DN
khác (gọi là DN bị kiểm soát) đủ chiếm được trên 50% quyền bỏ phiếu tại đại
hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị hoặc ở mức mà theo pháp luật qui định
hoặc điều lệ của DN bị kiểm soát, chi phối các chính sách tài chính và hoạt
động của DN bị kiểm soát nhằm thu được lợi ích từ hoạt động kinh doanh của
DN bị kiểm soát tại (điều 26). Một công ty có thể mua lại một phần DN khác
bằng tiền mặt, cổ phiếu hoặc kết hợp cả hai loại trên, mua toàn bộ tài sản của
công ty.

VD:Công ty X mua lại tài sản của công ty Y đồng nghĩa với việc công ty
Y chỉ còn lại tiền mặt (và nợ nếu trước đó có nợ). Hoạt động M&A có thể
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
được thực hiện khi một công ty tư nhân mua lại một DN đã niêm yết trên sàn
giao dịch chứng khoán trong một thời gian tương đối ngắn tức là một công ty
tư nhân có triển vọng lớn muốn tăng vốn sẽ mua công ty đang niêm yết trên
sàn giao dịch chứng khoán để biến minh thành công ty đại chúng và được
phát hành cổ phiếu.
Mục tiêu của các vụ mua bán là tạo ra sự cộng hưởng và nâng cao giá
trị của DN so với từng DN riêng lẻ. Tuy nhiên sự thành công của hoạt động
M&A tuỳ thuộc vào việc có đạt được sự cộng hưởng hay không.
Như vậy, mua lại doanh nghiệp gồm hai trường hợp: mua lại một phần
hoặc mua lại toàn bộ DN.Tuy nhiên, mua lại toàn bộ DN về bản chất chính là
hình thức sáp nhập DN, người mua trở thành chủ sở hữu DN cũng như tài sản
của DN, được hưởng các quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của DN đó. Sự
khác biệt giữa hai hình thức này, đó là việc DN bị mua lại có chấm dứt tồn tại
hay không? Điều đó tuỳ thuộc vào ý trí chủ quan của doanh nghiệp mua, nếu
DN bị chấm dứt tồn tại thì đó chính là sáp nhập, còn nếu nó tiếp tục hoạt động
như một chủ thể độc lập thì sẽ trở thành công ty con trong một tập đoàn kinh tế .
Mua lại một phần DN được thực hiện dưới hình thức mua tài sản, cổ
phần của DN khác đủ để kiểm soát chi phối hoạt động của DN bị mua lại.
Như vậy, thông qua TTKT nhà đầu tư có thể tiếp cận thị trường một
cách nhanh nhất thông qua việc kế thừa các giá trị của DN bị mua bị sáp
nhập. Mua bán DN với tư cách là một hình thức TTKT, việc tập trung nguồn
lực sẽ tạo ra sức cạnh tranh mạnh mẽ, ngăn cản sự ra nhập thị trường của nhà
đầu tư mới, giảm thiểu rủi ro. Việc đầu tư bằng hình thức mua bán sáp nhập
sẽ làm tăng giá trị của DN mới.
b) Đặc điểm
- Chủ thể : Đó là nhà đầu tư trong và ngoài nước có đầy đủ các điều kiện

về năng lực chủ thể mà pháp luật có qui định .
- Đối tượng của hoạt động mua bán DN đó chính là các DN. Các DN này
có thể đang hoạt động rất có hiệu quả nhưng cũng có thể đang đứng trước
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nguy cơ phá sản và muốn tìm một biện pháp để thoát khỏi gánh nặng nợ nần.
Biện pháp tốt nhất là bán DN của mình cho một nhà đầu tư khác .
- Mục đích: Khi thực hiện hoạt đông mua bán và sáp nhập cả bên mua và
bên bán đều nhằm mục đích lợi nhuận. Nhà đầu tư khi tiến hành các thương
vụ M&A là nhằm giành quyền kiểm soát DN ở mức độ nhất định chứ không
đơn thuần chỉ là sở hữu một phần vốn góp hay cổ phần như các nhà đầu tư
nhỏ lẻ khác. Vì vậy, khi một nhà đầu tư đạt được mức sở hữu phần vốn góp
cổ phần của DN đủ để tham gia quyết định các vần đề quan trọng khi đó mới
được coi là hoạt động M&A .
+ Bên bán : đa số là các DN đang lâm vào tình trạng khó khăn về tài
chính nên đây sẽ là cơ hội để nó thoát khỏi nguy cơ phá sản và chuyển các
khoản nợ đó cho bên mua, tránh được các trách nhiệm pháp lí do việc DN
không có khả năng duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh mà luật phá sản
2004 qui định. Bên bán DN nếu đang lâm vào tình trạng khó khăn đó là giải
pháp tối ưu. Nếu DN bị phá sản, toàn bộ tài sản sẽ bị phát mãi và chủ DN bị
cấm kinh doanh trong một thời gian nhất định.Bên bán có thể tiến hành bán
một phần tài sản của DN thông qua việc phát hành cổ phiếu. Khi bán một
phần DN thì mục đích mà họ đặt ra là nhằm huy động vốn để mở rộng sản
xuất kinh doanh, qua đó bên bán cũng có cơ hội nâng cao năng lực cạnh
tranh vì lúc này qy mô vốn dã lớn hơn .
+ Bên mua: Chủ yếu là các DN có tiềm lực kinh tế muốn mở rộng qui
mô hoạt động hoặc thâu tóm đối thủ cạnh tranh, nâng cao năng lực tài chính,
cải tiến tổ chức quản lí, phát triển công nghệ mới …từ đó hình thành các tập
đoàn kinh tế lớn có sức cạnh tranh ở trong và ngoài nước. Nhưng đôi khi bên
mua, lại thực hiện hoạt động mua bán nhằm mục đích thương mại. Khi đó DN

trở thành một loại hàng hoá để mua đi bán lại nhằm mục đích kiếm lời tức là
nhà đầu tư tiến hành mua lại các DN hoạt động không hiệu quả sau đó tiến
hành các biện pháp khôi phục lại để nó đi vào hoạt động bình thường, trả hết
khoản nợ và đem bán trên thị trường để thu lợi nhuận.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Hiện nay, có nhiều nhà đầu tư muốn gia nhập thị trường nhưng nếu phải
bắt đầu từ việc xây dựng cơ sở vật chất, thị trường, thương hiệu, khách hàng
… thì sẽ mất rất nhiều công sức và tốn kém mà đôi khi lại không hiệu quả
bằng việc mua lại các DN đã có sẵn trên thị trường. Khi đó nhà đầu tư có thể
tiếp cận thị trường nhanh nhất thông qua việc kế thừa các giá trị có sẵn mà
công ty bị mua bị sáp nhập để lại. Thông qua TTKT bên mua có thể tập trung
nguồn lực tạo ra sức cạnh tranh mạnh mẽ, tạo ngùôn lực lớn hơn đồng thời
giảm bớt đối thủ cạnh tranh nhằm tạo thế độc quyền trên thị trường.
Đặc điểm của mua bán sáp nhập nói riêng và hình thức đầu tư nói chung
là nhà đầu tư muốn trực tiếp tham gia vào quá trình kinh doanh, sinh lợi của
DN mà họ đầu tư. Do có thể triệt tiêu cạnh tranh giữa các DN nên mua bán
sáp nhập DN hình thành nên các tập đoàn độc quyền trên thị trường. Nhìn từ
góc độ kinh tế DN hay dự án thực chất cũng là hàng hoá vì nó được kết tinh
giá trị từ sự đầu tư của chủ DN. Trong nền kinh tế có nhiều chủ DN muốn bán
DN của mình vì nhiều lý do như:
- Muốn chuyển lĩnh vực kinh doanh
-Thu hồi vốn
- Kinh doanh không hiệu quả
- Muốn bán DN do có lãi
- Có cơ hội kinh doanh mới xuất hiện và DN chuyển hướng đầu tư
- Không thích nghi được với sự thay đổi của môi trường kinh doanh…
Trong khi đó có nhiều nhà đầu tư muốn mua lại DN để tiếp tục kinh
doanh và không phải bắt đầu lại từ đầu. Mua lại DN để phát triển DN cuả
mình như vậy DN trở thành một loại hàng hoá được lưu thông trên thị trường.

2. Hình thức:
Hình thức TTKT là cách thức tiến hành các hoạt động giao dịch liên
quan đến DN teo quy định và cách thức mà pháp luật có quy định.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Luật cạnh tranh có một số qui định về hình thức thực hiện M&A. Tập
trung kinh tế gồm các hình thức sau đây:
- Sáp nhập DN : Theo Điều 17.1 Luật cạnh tranh 2004 qui định “Sáp
nhập DN là việc một hoặc một số DN chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ
và lợi ích hợp pháp của mình sang một DN khác, đồng thời chấm dứt sự tồn
tại cua DN bị sáp nhập. Như vậy, sau khi bị sáp nhập DN bị sáp nhập không
còn tồn tại và bị xoá tên trong Sổ đăng kí kinh doanh, còn DN nhận sáp nhập
được hưởng mọi tài sản cũng như các quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp của
DN bị xoá sổ kia.
- Hợp nhất DN : Theo điều 17.2 Luật cạnh tranh 2004 “Hợp nhất DN là
việc hai hay nhiều DN chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ, và lợi ích hợp
pháp của mình để hình thành một DN mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của
các DN bị hợp nhất. Sau khi đăng kí kinh doanh các DN bị hợp nhất chấm dứt
tồn tại, còn công ty hợp nhất mới thành lập được hưởng tất cả các quyền và
lợi ích hợp pháp của các công ty bị hợp nhất.
- Mua lại DN
- Liên doanh giữa các DN: Theo điều 17.4 Luật cạnh tranh2004 “Liên
doanh giữa các DN là việc hai hay nhiều DN cùng nhau góp một phần tài sản,
quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một DN mới”.
Việc liên doanh này có thể được tiến hành giữa các DNVN với một hoặc
nhiều DN nước ngoài, miễn là có mục đích thành lập một DN mới. Tuy nhiên
không phải liên doanh nào cũng là tập trung kinh tế mà nó sẽ trở thành một
hình thức tập trung kinh tế trong trường hợp kết quả của liên doanh là sự ra
đời của một tổ chức độc lập.
- Các hình thức tập trung kinh tế khác nhằm kiểm soát, chi phối hoạt

động của DN khác.
Đây là cách xây dựng pháp luật phổ biến của Việt Nam khi sử dụng
phương pháp liệt kê nhưng vẫn dự phòng một điều khoản mở cho phép bổ
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sung khi cần thiết. Về bản chất tất cả các hình thức TTKT đều nhằm kiểm
soát toàn bộ hoặc một phần hoạt động của DN khác.
Như vậy mua bán DN là một hình thức TTKT nên nó chịu sự điều
chỉnh của luật cạnh tranh 2004. Đây là hoạt động kinh tế có ảnh hưởng rất lớn
đối với cơ cấu nền kinh tế, đặc biệt là trong giai đoạn khi Việt Nam đã trở
thành thành viên của WTO, thì tự do thương mại sẽ đặt các DN trong nước
trước những thời cơ và thách thức lớn đòi hỏi mỗi DN phải tự vận động để
nâng cao sức cạnh tranh các DN trong nước phải biết liên kết sức mạnh với
nhau có như vậy mới không thua ngay trên sân nhà.
II. HOẠT ĐỘNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP TRÊN THẾ GIỚI
Đối với các nước có một nền kinh tế thị trường hoàn hảo thì nhìn chung
hoạt đông kinh tế diễn ra theo đúng qui luật của bàn tay vô hình, sự can thiệp
của nhà nước chỉ mang tính định hướng nên tạo ra một cơ chế hoạt động
tương đối đồng bộ, các DN tự chủ trong hoạt động kinh doanh của mình. Họ
có quyền tự quyết trong mọi linh vực kinh doanh. Trên thế giới có rất nhiều
tập đoàn kinh tế lớn mà sự ảnh hưởng của nó không chỉ là trong phạm vi lãnh
thổ quốc gia mà còn vươn xa ra ngoài biên giới. Nhiều tập đoàn xuyên quốc
gia được thành lập dựa trên các vụ mua bán, sáp nhập với các công ty ở các
quốc gia khác nhau nhằm mở rộng thị phần, nâng cao sức cạnh tranh. Có
nhiều vụ M&A lớn diễn ra trong những năm vừa qua. Chưa bao giờ thị trường
M&A trên thế giới lại diễn ra sôi động như hiện nay, liên tiếp có các thương
vụ mua bán lớn được tiến hành ở các khu vực TRUNG và ĐÔNG ÂU .Theo
công ty Price water house Cooper (một hãng kiểm toán ), mặc dù hoạt động
M&A trên thế giới năm 2006 diễn ra kém sôi động hơn nhưng tại khu vực này
các giao dịch M&A lại tăng cả về lượng vốn lẫn số vụ.

Theo thông kê của hãng PWC năm 2003 có 1176 vụ mua bán với tổng
giá trị đạt 36.8 tỷ USD. Năm 2002 có 1070 vụ mua bán với tổng lượng vốn
đạt 17.7 tỷ USD. Theo báo cáo của hãng THOMSON FINANCIAL của
CANADA ngày 22-6 hoạt động M&A nửa đầu năm 2007 đạt giá trị gần 2510
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tỷ USD tăng 53% so với cùng kỳ năm ngoái. Gía trị sáp nhập tại CHÂU ÂU
lần đầu tiên đã vượt qua MỸ điển hình là vụ HEIDELBERG CEMENT AG
mua lại công ty HANSON PLC với giá 7.85 tỷ bảng ANH. Tập đoàn
THOMSON CORP thâu tóm REUTERS GROUP PLC với giá 8.7 ty bảng
ANH. Tổng giá trị giao dịch tại CHÂU ÂU đạt 1200 tỷ USD. Sáu tháng đầu
năm 2007 ở CHÂU ÂU có nhiều thương vụ lớn như ngân hàng HÀ LAN
ABN AMRO được ngân hàng ANH BARCLAYS mua với giá 90.8 tỷ USD
vào tháng 4-2007. Tại MỸ cũng có thương vụ M&A lớn nhất lịch sử nước
này diễn ra đó là một nhóm các nhà đầu tư nước ngoài dẫn đầu bởi 2 tập đoàn
hàng đầu thế giới là Kohlberg Robert&Co và TexasPacisfic Group cho biết đã
đồng ý mua lại TXU Corp nhà sản xuất điện lớn nhất bang TEXAS cua MỸ
với giá 43.8 tỷ USD. Hãng này cũng cho biết những vụ sáp nhập với giá trị
hợp đồng lớn bằng GDP cả năm của một số nước đang phát triển sẽ suất hiện
nhiều trong thời gian tới.
Theo dự đoán của các nhà kinh tế làn sóng sáp nhập và mua bán năm
2007 có thể vượt quá kỷ lục của năm 2006 với tổng giá trị sáp nhập mua bán
có thể lên tới 3490 tỷ USD. Làn sóng mua bán và sáp nhập DN ở NGA, ẤN
ĐỘ, TRUNG ĐÔNG, TRUNG QUỐC…cũng rất náo nhiệt. Điển hình là việc
Công ty sản xuất NIKEN lớn thứ 4 của NGA Xstrata PLC đang đề nghị mua
lại công ty sản xuất Vàng và NIKEN Lion Ore Mining International của
CANADA với giá 5.6 tỷ USD
Mặc dù tại Trung và Đông Âu số lượng các vụ M&A tăng về số lượng
nhưng nhìn chung đây không phải là khu vực có nền kinh tế phát triển lên các
vụ mua bán thực sự lớn thì chưa nhiều , giá trị còn nhỏ chưa tạo ra được các

tập đoàn lớn để có thể lũng đoạn thị trừơng thế giới , nhưng đây là sự báo
hiệu cho một lục địa mới với nhiều tập đoàn lớn
Với những con số nêu trên thì chúng ta có thể thấy rằng thị trường
mua bán DN trên thế giới đã và đang diễn ra hết sức sôi động với các thương
vụ lớn, qua đó hình thành lên các tập đoàn kinh tế khổng lồ và đa số các
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thương vụ lớn đều xuất phát từ các nước có nền kinh tế thị trường hoàn hảo
và là những nứơc có nền kinh tế phát triển.
Hoạt động M&A trên thế giới diễn ra thuận lợi vì có một hành lang
pháp lý đấy đủ và ổn định đây là một ngành kinh doanh siêu lợi nhuận, đặc
biệt là ở những nước có nền kinh tế phát triển .Vì vậy, cơ chế kiểm soát tập
trung kinh tế rất chật chẽ. Ở các nước phát triển thì tự do trong kinh doanh
điều được nhà nước đặc biệt tôn trọng và nó ngày càng được phát huy trong
môi trường tự do hoá thương mại toàn cầu hoạt động tập trung kinh tế chủ
yếu được qui định trong luật cạnh tranh và nó mang tính tập trung rất. Các
nhà đầu tư có thể tiến hành các vụ mua bán không hạn chế quy mô nên thông
thường đa số các vụ M&A thường hình thành nên các tập đoàn lớn và có
phạm vi là các vụ tập trung ở mức độ khu vực và thế giớ. Có nhiều dịch vụ
hỗ trợ cho M&A. Pháp luật cạnh tranh và luật thương mại là những văn bản
có giá trị pháp lí cao trong việc điều chỉnh hoạt động M&A, nó qui định cụ
thể trường hợp nào được tự do, bị cấm, hạn chế tập trung kinh tế , đồng thời
qui định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên trong vụ tập trung, trình tự thủ tục,
chế độ trách nhiệm pháp lý khi có tranh chấp xẩy ra cũng như cơ chế giải
quyết các tranh chấp đó, nhằm đảm bảo sự lành mạnh trong TTKT riêng và
mua bán DN nói chung. Cụ thể CANADA là một trong những nứơc có luật
cạnh tranh đầu tiên trên thế giới (1889) với hàng trăm năm phát triển như vậy
thì các qui chế của luật cạnh tranh đã gần như hoàn hảo để hướng dẫn thị
truờng TTKT và doanh nhân cũng áp dụng triệt để các qui định của pháp luật.
Hoạt động M&A trên thế giới diễn ra rất khốc liệt nhằm thôn tính lẫn

nhau để nâng cao sức cạnh tranh. Còn ở nước ta M&A diễn ra không mang
tính tiêu diệt lẫn nhau mà đa số là nhằm hỗ trợ cho nhau trong thời kỳ hội
nhập khi DN trong nước chưa có đủ sức cạnh tranh.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
III. MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG MUA BÁN DOANH
NGHIỆP TẠI VIỆT NAM
Quyền tự do kinh doanh là một quyên hiến định được qui định trong
Hiến pháp 1992 của nước ta, nhưng để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền
vững thì các chủ thể khi gia nhập thị trường đều phải tuân thủ qui định mà
pháp luật đề ra. Mua bán DN cũng là hình thức kinh doanh nên nó cũng phải
hoạt động dưới một qui chế pháp lý nhất định.
1. Nguồn luật
Tự do kinh doanh được hiến pháp thừa nhận nên hoạt đông M&A cũng
được tiến hành trên cơ sở đó .
M&A là một hoạt đông kinh tế đặc thù còn khá mới mẻ ở nước ta hiện
nay, nó là một hình thức TTKT nên trước hết nó chịu sự điều chỉnh của Luật
cạnh tranh 2004. Việc mua bán DN có thể được tiến hành dưới hình thức nhà
đầu tư mua lại cổ phần của DN bán để nắm quyền chi phối hoạt động của DN
đó, đây cũng là một dạng đầu tư nên nó chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư
2005. DN cũng được coi là một loại hàng hoá, nó là kết quả của quá trình đầu
tư và phát triển của chủ DN nên hoạt động mua bán chuyển nhượng phải tuân
theo qui định của Luật thương mại 2005. Trên thực tế, các DN có thể thực
hiện tập trung kinh tế bằng con đường thôn tính hay chi phối DN khác thông
qua hoạt động của thị trường chứng khoán, thị trường vốn. Vì vậy, Luật
chứng khoán quan tâm đến vấn đề tham gia góp vốn vào DN và tỷ lệ mà mỗi
nhà đầu tư mua trong mỗi đợt phát hành cổ phiếu vì vậy ngoài các Luật trên
hoạt động M&A chịu sự điều chỉnh của Luật chứng khoán 2006 .
Tập trung kinh tế thực chất là quá trình tái cơ cấu lại DN, sau khi tiến
hành mua bán thì DN có thể phải đăng kí kinh doanh laị hoặc bổ sung đăng kí

kinh doanh cho phù hợp với pháp luật kinh doanh.Nên Luật DN 2005 cũng
điều chỉnh hoạt động M&A. Ngoài ra còn có các văn bản dưới luật như: Nghị
định số 116/2005/NĐ-CP của chính phủ ngày 15/9/2005 qui định chi tiết một
số điều của luật cạnh tranh.Nghị định số 120/2005/NĐ-CP của chính phủ
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ngày 30/9/2005 qui định về sử lí vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh
tranh.Quyết định số 36 của TTCP ban hành ngày 11/3/2003 về quyền mua
bán cổ phần của DN nước ngoài. Nghị định số 80/2005/NĐ-CP về giao bán,
khoán kinh doanh, cho thuê công ty nhà nước ngày 22/6/2005
2. Qui chế pháp lí đối với hoạt động M&A trong các văn bản pháp luật
hiện hành.
Mua bán DN là một nghiêp vụ trong lĩnh vực kinh doanh nhưng chưa có
một văn bản cụ thể nào điều chỉnh, mà chỉ có một số điều nằm rải rác trong
nhiều văn bản pháp luật cụ thể là:
a. Hiến pháp 1992
Theo hiến pháp của Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tại
điều 57 qui định “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo qui định của pháp
luật. Như vậy, tự do kinh doanh là một quyền hiến định được pháp luât bảo
hộ.
Theo điều 22: “Các cơ sở kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế phải
thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với nhà nước, đều bình đẳng trước pháp
luật, vốn và tài sản hợp pháp được Nhà nước bảo hộ. DN thuộc mọi thành
phần kinh tế được liên doanh, liên kết với cá nhân, tổ chức kinh tế trong và
ngoài nước theo qui định của pháp luật”
Nhà nước tạo mọi điều kiện tốt nhất để phát huy năng lực sản xuất. Các
thành phần kinh tế đều là một bộ phận của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Tổ chức cá nhân thuộc các thành phần kinh tế được sản xuất kinh
doanh những nghành nghề mà pháp luật không cấm cùng phát triển lâu dài,
hợp tác bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Trong đó mua bán DN cũng

là một ngành nghề kinh doanh với loại hàng hoá đặc biệt là “Doanh Nghiệp”
nhà nước thừa nhận quyền tự do trao đổi mua bán doanh nghiệp giữa các nhà
đầu tư với nhau, bản thân DN không phải là hàng hoá bị cấm hay hạn chế
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kinh doanh (chỉ trừ một số trường hợp đăc biệt) nên khi có đủ khả năng mọi
cá nhân tổ chức đều có thể kinh doanh loại hàng hoá này
Hiến pháp là văn bản có giá trị pháp lí cao nhất của nước ta, nên tất cả
các qui định của nó chỉ mang tính định hướng điều này thể hiện bản chất của
nhà nước. Các qui định về chế độ kinh tế nó mang tầm vĩ mô và không nói rõ
về một nghành nghề kinh doanh cụ thể nào. Nếu chi căn cứ vào hiến pháp thì
ta chưa thể hiểu được bản chất của mua bán doanh nghiệp là gì, qua các qui
điịnh đó chủ thể trong nền kinh tế biết được rằng họ có quyền thực hiện
nghiệp vụ M&A, nhưng nếu chỉ dựa vào các qui địmh chung đó thì nhà đầu tư
không biết họ có những quyền và nghĩa vụ gì. Đây không phải là sự yếu kém
trong giai đoạn lập pháp, đó là chủ trương của nhà nước nhằm tạo ra sự
chuyêm môn hoá trong việc xây dựng qui chế pháp lý cho từng lĩnh vực
chuyên nghành.
b.Luật cạnh tranh 2004
Luật cạnh tranh là pháp luật điều tiết thị trường nên nó được xây dựng
hết sức mềm dẻo để thích ứng với các hành vi cạnh tranh đa dạng trên thị
trường. Đăc biệt trong lĩnh vực hạn chế cạnh tranh, pháp luật thường quy định
kết hợp yếu tố định lượng và định tính để có thể cấm hoặc miễn trừ tuy theo
tình hình cụ thể của DN và chính sách cạnh tranh của nhà nứơc ở mỗi thị
trường cụ thể. Đây là tiền đề để thiết lập cơ quan quản lý cạnh tranh là loại cơ
quan phán sử độc lập về những vấn đề liên quan để quản lí kinh tế vĩ mô và
không nằm trong hệ thống cơ quan tư pháp. Là loại pháp luật điều tiết thị
trường, pháp luật cạnh tranh có mối liên hệ chặt chẽ với kinh tế. Pháp luật
cạnh tranh là pháp luật lưỡng tính, bao gồm cả mảng luật công và luật tư. Vì
vậy khi áp dụng, các chế tài được áp dụng cũng đa dạng (dân sự ,hành

chính,kinh tế…)
Đây là văn bản hiện hành có qui định cụ thể nhất đối với các thương vụ
M&A thông qua hoạt động TTKT. M&A là một dạng của tập trung kinh tế
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nên qui chế áp dụng với tập trung kinh tế cũng sẽ được áp dụng cho các
thương vụ M&A. Sau đây là những qui định cụ thể:
.Hoàn toàn tự do trong TTKT
Điều 20.1 Luật cạnh tranh 2004: Các doanh nghiệp TTKT có thị phần
dưới 30% trên thị trường liên quan hoặc DN sau khi tập trung kinh tế vẫn
thuộc loại DN nhỏ và vừa theo qui định của pháp luật thì không bị cấm và
cũng không phải có nghĩa vụ thông báo. Theo nghị định 90/2001/NĐ-CP
ngày 23/11/2001 thì DN vừa và nhỏ là DN:
- Kinh doanh độc lập
- Có vốn đăng kí không quá 10 tỷ đống
- Có số người lao động trung bình không quá 300 người
Thị trường liên quan là khái niệm cơ bản nhất của pháp luật cạnh tranh.
Về nguyên tắc, những DN không nằm trong một thị trường liên quan sẽ
không phải là đối thủ cạnh tranh của nhau. Điều 3 của Luật cạnh tranh có qui
định: Thị trường liên quan bao gồm:Thị trường sản phẩm liên quan và thi
trường địa lý liên quan
 Thị trường sản phẩm liên quan: là thị trường của những hàng hoá dịch
vụ có thể thay thế cho nhau về đặc tính ,muc đích sử dụng và giá cả.

Thị trường địa lý liên quan: là một khu vực địa lý cụ thể trong đó có
những hàng hoá dịch vụ có thể thay thế cho nhau với các điều kiên cạnh tranh
tương tự và có sự khác biệt đáng kể với các khu vực lân cận.
Như vậy, DN không cùng nằm trong một thị trường liên quan sẽ không
thể trở thành đối thủ cạnh tranh của nhau, việc tập trung kinh tế sẽ không có
ảnh hưởng lớn tới nhau nên nó không phải là đối tượng điều chỉnh của Luật

cạnh tranh 2004. Việc xác định thi phần kết hợp là một trong những căn cứ để
xác định có được TTKT hay không. Điều 3.5 qui định “Thị phần của DN đối
với một loại hàng hoá dịch vụ nhất định là tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán
ra của DN này với tổng doanh thu với tất cả các DN kinh doanh loại hàng hóa
dịch vụ đó trên thị trường liên quan hoặc tỷ lệ phần trăm giữa doanh số mua
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vào của DN này với tổng doanh số mua vào của tất cả các DN kinh doanh loại
hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường liên quan theo tháng, quí, năm. “ Thị
phần kết hợp là tổng thị phần trên thị trường liên quan của các DN tham gia
vào thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc TTKT” (Điều 3.6).
Mặc dù pháp luật có quy định như vậy nhưng việc xác định DN nào nẳm
trong cùng một thị trường liên quan hay ngưỡng thị phần kết hợp là rất khó
khăn, vì đa phần các DN thường có thị trường hoạt động tương đối rộng,kinh
doanh nhiều loại hang hóa,dịch vụ nên việc kinh doanh gặp khó khăn.
 Thông báo việc TTKT
Tại điều 20 LCT có quy định :
Theo khoản 1. “Các DN TTKT có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên
thị trường liên quan thì đại diện hợp pháp của các DN đó phải thông báo cho
các cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành TTKT”. TTKT giữa các
DN mà thị phần kết hợp là không lớn thì ít gây ra sự biến động cho nền kinh
tế nhưng để kiểm soát hoạt động này nhà nước vẫn có quy định nhà đầu tư
vẫn phải thực hiện các biện pháp để thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh
tránh trường hợp DN cứ làm mà nhà nước không biết sẽ khó khăn cho việc
quản lý nến kinh tế. Khi thông báo với cục quản lý cạnh tranh thì rất có thể
phải tiến hành các thủ tục pháp lý để hợp pháp hóa hoạt động của mình và
nhờ đó nhà nước cũng sẽ có thêm các khoản thu ngân sách. Nếu không thực
hiện các biện pháp thông báo DN sẽ phải chịu các hình thức chế tài của pháp
luật cụ thể là:
Theo điều 29, Nghị định số 120 / 2005 / NĐ – CP ngày 30/9/2005 quy

định về việc sử phạt vi phạm pháp luât trong lĩnh vực cạnh tranh. Các DN
tham gia TTKT có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan
có thể bị phạt tiền từ 1% đến 3% tổng doanh thu trong năm tài chính trước
năm thực hiện hành vi vi phạm đối với hành vi TTKT mà không thực hiện
nghĩa vụ thông báo cho cục quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành TTKT.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tại điều 21 Luật cạnh tranh có quy định hồ sơ thông báo việc TTKT như
sau:
“Hồ sơ thông báo TTKT bao gồm:
- Văn bản thông báo việc TTKT theo mẫu do cơ quan quản lý cạnh tranh
quy định
- Bản sao hợp lệ giấy ĐKKD của từng DN tham gia TTKT .
- Báo cáo tài chính trong 2 năm liên tiếp gần nhất của từng DN tham gia
TTKT có xác nhận của tổ chức kiểm toán theo quy định pháp luật .
- Danh sách các đơn vị phụ thuộc của từng DN tham gia TTKT .
Danh sách các loại hàng hóa dịch vụ mà từng DN tham gia TTKT và các
đơn vi phụ thuộc của DN đó đang kinh doanh .
Báo cáo thị phần trong 2 năm liên tiếp gần nhất của từng DN tham gia
TTT trên thị trường liên quan” .
Điều 21 quy đinh về việc thụ lý hồ sơ thông báo TTKT : “Trong thời hạn
7 ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ thông báo TTKT, cơ quan quản lý
cạnh tranh có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho DN nộp hồ sơ về tính
hợp lệ, đầy đủ của hồ sơ, trường hợp chưa đầy đủ cơ quan quản lý cạnh tranh
có trách nhiệm chỉ rõ những nội dung cần bổ sung”. Đây là trách nhiệm thuộc
về cơ quan nhà nước, việc quy định thời hạn như vậy để đảm bảo tính minh
bạch trong kinh doanh tránh trường hợp cơ quan hữu quan kéo dài thời gian
một cách không hợp lý gây khó khăn cho DN. Nó cũng là một cơ chế giám sát
hành động thực thi pháp luật của cơ quan nhà nước .
Thời hạn trả thông báo TTKT được quy định tại điều 23 như sau:

- Trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ thông báo
TTKT, cơ quan quản lý cạnh tranh có trách nhiệm trả lời bằng văn bản cho
DN nộp hồ sơ. Văn bản trả lời của cơ quan quản lý cạnh tranh phải xác định
TTKT thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ TTKT không thuộc trường hợp bị cấm .
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

×