Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Người bị hại trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
---oOo---

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

NGƯỜI BỊ HẠI TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ

SV THỰC HIỆN : CAO THỊ HIỀN
MSSV

: 0955030030

GV HƯỚNG DẪN: TS. LÊ NGUYÊN THANH

TP. HCM - 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tơi, có sự hỗ trợ từ Giáo viên
hƣớng dẫn là TS.Lê Nguyên Thanh. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này
là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất cứ cơng trình nghiên cứu nào trƣớc
đây. Những bản án, quyết định phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá đƣợc
chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi trong phần tài liệu tham khảo.
Ngồi ra, đề tài còn sử dụng một số ý kiến, nhận xét, đánh giá của các tác giả khác cũng
đƣợc thể hiện trong phần tài liệu tham khảo.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nàotơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm
trƣớcHộiđồng, cũng nhƣ kết quả luận văn của mình.



TP.HCM, ngày 16 tháng 7năm 2013
Tácgiả

Cao ThịHiền


DANH MỤC TÀI LIỆU VIẾT TẮT

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

TTHS

Tố tụng hình sự

THTT

Tiến hành tố tụng

TAND

Tịa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân Tối cao

HĐXX


Hội đồng xét xử

TPHCM

Thành phố Hồ Chí Minh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ NGƢỜI BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH
SỰ ................................................................................................................................. 7
1.1.

Khái niệm pháp lý về ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự ............................. 7

1.2.

Vị trí, vai trị của ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự .................................. 16
1.2.1. Vị trí của ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự ......................................... 16
1.2.2. Vai trị của ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự ....................................... 17

1.3.

Phân biệt ngƣời bị hại với những ngƣời bị thiệt hại khác
trong tố tụng hình sự .................................................................................... 22
1.3.1. Phân biệt ngƣời bị hại với nguyên đơn dân sự ..................................... 23
1.3.2. Phân biệt ngƣời bị hại với ngƣời có quyền lợi
liên quan trong vụ án ............................................................................ 24
1.3.3. Phân biệt ngƣời bị hại với ngƣời bị oan sai .......................................... 26

1.3.4. Phân biệt ngƣời bị hại với ngƣời bị thiệt hại do cơ quan tiến hành
tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng gây ra trong khi thi hành công vụ ..... 27

CHƢƠNG 2. CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2003
VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI BỊ HẠI .......................... 28
2.1. Quyền của ngƣời bị hại ........................................................................................ 28
2.1.1. Quyền đƣa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu .............................................................. 28
2.1.2. Quyền đƣợc thông báo về kết quả điều tra ....................................................... 29


2.1.3. Quyền đề nghị thay đổi ngƣời THTT, ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch ..... 31
2.1.4. Quyền đề nghị mức bồi thƣờng và các biện pháp bảo đảm bồi thƣờng ........... 34
2.1.5. Quyền tham gia phiên tồ; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình ........................................................................... 35
2.1.6. Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, ngƣời có thẩm quyền
tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi thƣờng cũng nhƣ
về hình phạt đối với bị cáo; thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo .................................... 36
2.1.7. Quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và quyền rút yêu cầu khởi tố trong trƣờng
hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của ngƣời bị hại ........................................... 38
2.1.8.Quyền trình bày lời buộc tội tại phiên tịa trong trƣờng hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của ngƣời bị hại ..................................................................................... 44
2.1.9. Quyền có ngƣời đại diện hợp pháp tham gia tố tụng và quyền có ngƣời bảo vệ
quyền lợi ..................................................................................................................... 46
2.2. Nghĩa vụ của ngƣời bị hại .................................................................................... 49
2.2.1. Có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án ......... 49
2.2.2. Nghĩa vụ khai báo trung thực ........................................................................... 51
CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI BỊ HẠI VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ ................................................................................................... 55
3.1. Thực trạng áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình năm 2003 về

ngƣời bị hại ................................................................................................................. 55
3.2. Một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ................ 65


3.2.1. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung khái niệm về ngƣời bị hại ..................................... 65
3.2.2. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định về quyền và nghĩa vụ của
ngƣời bị hại ................................................................................................................ 67
3.3.

Kiến nghị nâng cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của ngƣời bị hại........................................... 74

KẾT LUẬN................................................................................................................. 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................... 81


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ðể thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân; đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhiệm vụ hết sức quan trọng, cấp
bách mà Ðảng ta đặt ra hiện nay là cải cách tƣ pháp với mục tiêu xây dựnghệ thống tƣ
pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con ngƣời.Trong
đó,bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những ngƣời tham gia tố tụng nói chung và
ngƣời bị hại nói riêng trong tố tụng hình sự là nội dung quan trọng đƣợc nhấn mạnh tại
Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tƣ
pháp trong thời gian tới và Nghị quyết 49/NQ-TW năm 2005 “Về chiến lƣợc cải cách tƣ
pháp đến 2020”.
Ngƣời bị hại là ngƣời mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại nặng nề nhất, là
ngƣời chịu thiệt thòi nhiều nhất trong số những ngƣời tham gia tố tụng.Vì vậy, ngƣời bị

hại cần phải đƣợc bảo vệ kịp thời, thậm chí ngay cả khi họ mới bị đe dọa gây thiệt
hại.Một trong những công cụ pháp lý quan trọng để bảo vệ ngƣời bị hại đó là pháp luật
tố tụng hình sự. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự gặp rất nhiều khó
khăn do nhiều vấn đề luật cịn đang bỏ ngỏ hoặc chƣa có cơ chế đảm bảo thực hiện; cơ
quan tiến hành tố tụng sai lầm khi xác định tƣ cách tố tụng của ngƣời bị hại; vẫn cịn xảy
ra tình trạng ngƣời bị hại khơng đƣợc triệu tập tham gia tố tụng, triệu tập không đúng
hoặc triệu tập quá trễ; không đƣợc thông báo về ngƣời tiến hành tố tụng, kết quả điều
tra; khơng có ngƣời đại diện hợp pháp, ngƣời bảo vệ quyền lợi; khơng có cơ hội phát
biểu, tranh luận dân chủ, cơng khai tại phiên tòa; giải quyết yêu cầu bồi thƣờng chƣa
đƣợc chú trọng; ngƣời bị hại vắng mặt tại phiên tịa; chƣa có cơ chế bảo vệ ngƣời bị hại


cũng nhƣ hỗ trợ chi phí đi lại và các chi phí phát sinh khác khi họ tham gia tố tụng theo
triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng; thái độ làm việc thiếu thiện chí của ngƣời tiến
hành tố tụng cũng làm ảnh hƣởng tới việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của ngƣời bị hại.
Thực trạng này gây cho ngƣời bị hại rất nhiều khó khăn khi tham gia tố tụng, quyền và
lợi ích hợp pháp của họ chƣa thực sự đƣợc đảm bảo, ngƣời bị hại chƣa tích cực tham gia
tố tụng, điều này đã phần nào làm giảm hiệu quả giải quyết vụ án hình sự.
Trong khi đó, các cơng trình nghiên cứu về ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự cịn hạn
chế, dẫn đến công tác lập pháp và áp dụng pháp luật chƣa có cơ cở lý luận vững chắc
nhằm định hƣớng, hỗ trợ về mặt khoa học. Do vậy, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận
về ngƣời bị hại, đề xuất kiến nghịsửa đổi, bổ sungcác quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự liên quan đến ngƣời bị hại cũng nhƣ nâng cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố
tụng trong việc đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của ngƣời bị hại nhằm nâng cao vị
trí, vai trò tố tụng của chủ thể này trong tố tụng hình sự là rất cần thiết, đảm bảo cho quá
trình giải quyết vụ án hình sự diễn ra một cách nhanh chóng, chính xác, góp phần nâng
cao hiệu quả đấu tranh phịng, chống tội phạm.
Vì những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Người bị hại trong tố tụng hình sự” để thực
hiện khóa luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu

Tính tới thì điểm này, cũng có khá nhiều bài viết, cơng trình nghiên cứu liên quan đến
ngƣời bị hại đƣợc nhìn nhận dƣới những khía cạnh, góc độ khác nhau nhƣ:
-

Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Ngô Thị Phúc Hảo - Địa vị pháp lý của ngƣời
bị hại trong tố tụng hình sự (2005).

-

Lê Tiến Châu - Ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự - Tạp chí khoa học pháp lý
số 1(38)/2007.

-

Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Bạch Ngọc Chí Thanh - Ngƣời bị hạichủ thể thực hiện chức năng buộc tội và lời khai của ngƣời bị hại- nguồn
chứng cứ (2009).


-

Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Nguyễn Thị Út - Sự có mặt của ngƣời
bị hại tại phiên tịa hình sự sơ thẩm (2009).

-

Luận văn Tiến sỹ của tác giả Lê Nguyên Thanh - Ngƣời bị thiệt hại trong tố
tụng hình sự (2012)

-


…..

Và nhiều bài viết khác trên các tạp chí và các trang thơng tin điện tử về pháp lý khác.
Tuy nhiên, hầu hết các bài viết chỉ dừng lại ở việc phân tích các quyền và nghĩa vụ của
ngƣời bị hại mà không lý giải cơ sở của các quyền và nghĩa vụ đó; chƣa có sự phân biệt
ngƣời bị hại với các chủ thể bị thiệt hại khác trong tố tụng hình sự; chƣa đƣa ra các biện
pháp nhằm nâng cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng
trong việc đảm bảo thực hiện quyền, nghĩa vụ của ngƣời bị hại; việc nghiên cứu các
quyền và nghĩa vụ của ngƣời bị hại chỉ ở những khía cạnh nhỏ, chƣa có hệ thống nên
khơng thể đƣa ra các giải pháp đồng bộ nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về
ngƣời bị hại.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về ngƣời bị hại
trong tố tụng hình sự cùng với những bất cập của pháp luật và thực tiễn giải quyết vụ án
hình sự, từ đó đƣa ra kiến nghị đối với hoạt động lập pháp, hoạt động áp dụng pháp luật
tố tụng hình sự trong thực tiễn.
Để thực hiện đƣợc mục tiêu nêu trên, nhiệm vụ của đề tài là tập trung nghiên cứu làm rõ
những vấn đề cơ bản sau:
-

Phân tích và làm rõ những vấn đề nhận thức chung về ngƣời bị hại.

-

Phân tích các quyền và nghĩa vụ của ngƣời bị hại theo quy định của BLTTHS
năm 2003.

-

Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về ngƣời bị hại.


-

Đƣa ra những kiến nghị sửa đổi, bổ sung những quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 về ngƣời bị hại và nâng cao trách nhiệm của cơ quan tiến


hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo thực hiện quyền và
nghĩa vụ của ngƣời bị hại.

4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận là phép biện chứng duy vật của
chủ nghĩa Mác- Lênin; dựa trên tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đƣờng lối, chính
sách của Đảng và Nhà nƣớc. Ngồi ra, tác giả cịn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu
cụ thể nhƣ phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp tổng hợp,
phƣơng pháp nghiên cứu vụ án điển hình, phƣơng pháp tham khảo các tƣ liệu trong các
cơng trình đã cơng bố.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: khái niệm pháp lý về ngƣời bị hại, quyền và nghĩa vụ của
ngƣời bị hại theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và giải pháp đảm bảo thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự.
-

Phạm vi nghiên cứu: bài khóa luận đề cập đến những vấn đề lý luận; những quy

định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của ngƣời bị hại; phản ánh một phần thực trạng
của hoạt động áp dụng pháp luật tố tụng hình sự trong việc đảm bảo thực hiện quyền và
nghĩa vụ của ngƣời bị hại trên thực tế; kiến nghị giải pháp mang tính đóng góp nhằm
hồn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về ngƣời bị hại và nâng cao
trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng nhằm đảm bảo thực

hiện quyền và nghĩa vụ của ngƣời bị hại.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Thứ nhất, đề tài khơng chỉ phân tích khái niệm pháp lý về ngƣời bị hại mà còn phân biệt
các dấu hiệu pháp lý giữa ngƣời bị hại với các chủ thể bị gây thiệt hại khác trong tố tụng


hình sự nhƣ: ngun đơn dân sự; ngƣời có quyền lợi liên quan trong vụ án; ngƣời bị oan,
sai; ngƣời bị thiệt hại do cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng gây ra trong
khi thi hành công vụ.
Thứ hai, nghiên cứu hệ thống các quyền và nghĩa vụ của ngƣời bị hại không chỉ trong
phạm vi Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự mà cịn liên quan tới các điều luật khác. Đồng
thời, liên hệ với thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về ngƣời bị
hại, làm rõ nguyên nhân của thực trạng ấy.
Thứ ba, kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật tố tụng hình sựnhằm nâng
cao vai trị của ngƣời bị hại, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đáp ứng yêu
cầu cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta hiện nay.Đồng thời, kiến nghị các giải pháp nâng cao
trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo
thực hiện quyền và nghĩa vụ của ngƣời bị hại.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Những kiến nghị trong khóa luận có thể có ích cho hoạt động lập pháp ở nƣớc ta
hiện nay, là tài liệu tin cậy đối với những ngƣời tiến hành tố tụngtrong quá trình giải
quyết vụ án hình sự.
- Khóa luận sẽ là nguồn tài liệu có ích cho hoạt động học tập, nghiên cứu, giảng
dạy của sinh viên, giảng viên trong các trƣờng đào tạo luật học và bạn đọc quan tâm.
8. Kết cấu của đề tài
Khóa luận có kết cấu gồm các phần: Lời mở đầu, nội dung có 3 chƣơng, kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo.
Chƣơng 1: Nhận thức chung về ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự.
Chƣơng 2: Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về quyền và nghĩa vụ của
ngƣời bị hại.



Chƣơng 3: Thực trạng áp dụng pháp luật và kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về ngƣời bị hại và nâng cao trách nhiệm của cơ quan
tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng.


CHƯƠNG 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ NGƯỜI BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.4.

Khái niệm pháp lý về người bị hại trong tố tụng hình sự

Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ “ngƣời bị hại” bắt nguồn từ thuật ngữ “victima”
trong tiếng Latinh có nghĩa là ngƣời bị giết hại hoặc bị thƣơng tích [9]. Ở Việt Nam,
khái niệm ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự(TTHS) lần đầu tiên xuất hiện trong thơng
tƣ số 16/TATC ngày 27/9/1974 của Tịa án nhân dân Tối cao (TANDTC). Theo đó,
ngƣời bị hại đƣợc định nghĩa là “công dân đã bị kẻ phạm pháp trực tiếp xâm phạm đến
thể chất, tài sản, hoặc xâm phạm về tinh thần (như bị lăng nhục, đánh, giết, trộm cắp,
lừa đảo…)”. Trong các ngành khoa học khác ngƣời bị hại còn đƣợc gọi là “nạn nhân”
hay “ngƣời bị thiệt hại”.Để có sự nhận thức đầy đủ và thống nhất về ngƣời bị hại nên
tiếp cận khái niệm này dƣới những góc độ khác nhau.
Theo cách hiểu thơng thƣờng, ngƣời bị hại có thể hiểu là con ngƣời cụ thể trong xã hội,
chịu sự tác động tiêu cực của sự việc, hành vi hoặc bất kỳ sự tác động nào khác dẫn đến
những thiệt thòi, mất mát hay tổn thƣơng cho chính họ. Tất nhiên sự tác động đó là trái
với ý muốn của ngƣời bị hại và họ tiếp nhận một cách thụ động.Thiệt hại gây ra cho
ngƣời bị hại có thể là thiệt hại về vật chất hoặc phi vật chất.
Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học thì ngƣời bị hại là “ngƣời bị thiệt hại về thể
chất, về tinh thần hoặc về tài sản do tội phạm gây ra.Ngƣời bị hại chỉ có thể là thể nhân

bị ngƣời phạm tội làm thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản chứ không thể là
pháp nhân” [7- tr.198].
Theo pháp luật thực định: Khoản 1 Điều 51 Bộ luật TTHS Việt Nam năm 2003 quy
định: “Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây
ra”.

1


Qua khái niệm nêu trên có thể rút ra các đặc điểm của ngƣời bị hại nhƣ sau:
-

Về chủ thể, ngƣời bị hại chỉ có thể là cá nhân.

-

Thiệt hại do tội phạm gây ra có thể là thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản.

-

Thiệt hại của ngƣời bị hại phải là thiệt hại từ tác động trực tiếp của hành vi phạm
tội, tức là phải có mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa hành vi phạm tội với hậu
quả gây ra cho ngƣời bị hại.

Cũng cần phải lƣu ý rằng, khái niệm ngƣời bị hại khác với khái niệm “nạn nhân” trong
tội phạm học.Đây là hai khái niệm gần nhau nhƣng không đồng nhất với nhau.Theo đó,
“nạn nhân của tội phạm là những cá nhân, tổ chức bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm
hại, gây thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc các quyền, lợi ích hợp pháp khác”
[5- tr.8].
Nhƣ vậy, có thể khẳng định rằng khái niệm ngƣời bị hại có phạm vi hẹp hơn khái niệm

nạn nhân vì nạn nhân của tội phạm ngồi cá nhân cịn có thể là tổ chức, pháp nhân; thiệt
hại của nạn nhân không chỉ về thể chất, về tinh thần, về tài sản mà cịn có thể bao hàm
những thiệt hại về các quyền và các lợi ích hợp pháp khác; thiệt hại đó có thể bao gồm
cả những thiệt hại gián tiếp. Mặt khác, ngƣời bị hại là một chủ thể tham gia tố tụng, có
địa vị pháp lý trong TTHS cịn nạn nhân là khái niệm mang nghĩa thơng thƣờng đƣợc
nhìn nhận dƣới góc độ tội phạm học hoặc mang nghĩa pháp lý trong khoa học luật hình
sự.
Thực tiễn cũng nhƣ lý luận hiện nay cịn có nhiều tranh cãi đối với nội hàm của khái
niệm ngƣời bị hại.
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, ngƣời bị hại chỉ có thể là thể nhân, một con ngƣời cụ thể;
tổ chức hoặc pháp nhân không thể là ngƣời bị hại.Bởi lẽ, khái niệm “ngƣời” ở đây là đề
cập đến con ngƣời cụ thể. Ngƣời bị hại là ngƣời bị thiệt hại về thể chất, tinh thần... do
hành vi phạm tội gây ra, mà thể chất và tinh thần thì chỉ có và gắn liền với con ngƣời,
một thể nhân cụ thể, thiệt hại này không thể xảy ra đối với pháp nhân hay tổ chức.

2


Loại ý kiến thứ hai cho rằng, ngoài cá nhân là ngƣời bị hại, trong trƣờng hợp tổ chức bị
tội phạm trực tiếp gây thiệt hại thì phải xem tổ chức đó là ngƣời bị hại. Lập luận cho
luận điểm của mình, những ngƣời theo quan điểm này cho rằng trong thực tế hành vi
phạm tội không chỉ gây ra thiệt hại cho cá nhân mà còn nhắm đến gây thiệt hại cho tổ
chức. Thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho tổ chức rất đa dạng, không chỉ thuần
túy là thiệt hại về tài sản. Trong thực tế, tổ chức có thể bị thiệt hại cả về vật chất lẫn thiệt
hại về tinh thần (bị giả mạo về thƣơng hiệu, bị vu khống làm mất uy tín trong kinh
doanh...).
Nếu cho rằng ngƣời bị hại chỉ có thể là thể nhân, vậy tổ chức bị tội phạm trực tiếp gây
thiệt hại sẽ tham gia tố tụng với tƣ cách gì?Ví dụ nhƣ trƣờng hợp cơng ty bị trộm cắp tài
sản hoặc bị lừa đảo…thì cơng ty đó sẽ tham gia tố tụng với tƣ cách là ngƣời bị hại hay
nguyên đơn dân sƣ? Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS), tổ

chức đó sẽ tham gia tố tụng với tƣ cách là nguyên đơn dân sự nếu có đơn yêu cầu. Quy
định nhƣ vậy là còn hạn chế so với sự phát triển của lý luận và thực tiễn, bởi lẽ:
Thứ nhất, với khái niệm “ngƣời bị hại” quy định trong BLTTHS năm 2003 thì chỉ có
“con người” cụ thể bị tội phạm gây thiệt hại mới đƣợc coi là ngƣời bị hại. Tuy nhiên,
trong thực tế tội phạm không phải lúc nào cũng gây thiệt hại cho cá nhân mà có trƣờng
hợp tội phạm gây thiệt hại cho tổ chức. Thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho tổ chức
có thể là thiệt hại về tài sản, thƣơng hiệu, uy tín trong kinh doanh... Ngƣời bị hại và
nguyên đơn dân sự trong tố tụng hình sự có địa vị pháp lý khác nhau cho nên quyền và
nghĩa vụ của hai chủ thể này cũng khác nhau (ngƣời bị hại có nhiều quyền hơn nguyên
đơn dân sự). Nhƣ vậy, thật không cơng bằng, vì cùng là chủ thể bị thiệt hại trực tiếp do
tội phạm gây ra nhƣng khi tham gia tố tụng lại có tƣ cách khác nhau.
Thứ hai, tổ chức cũng đƣợc hình thành từ những con ngƣời cụ thể.Tài sản của tổ chức
cũng là tài sản của các thành viên.Khi tổ chức bị tội phạm gây thiệt hại về tài sản thì suy
cho cùng cũng đã gây thiệt hại về tài sản cho các thành viên. Sẽ không bình đẳng khi các
thành viên của tổ chức đó chỉ đƣợc tham gia tố tụng với tƣ cách là nguyên đơn dân sự
3


trong khi về thực chất tài sản đó đều là của cá nhân. Hơn nữa, đối với các tổ chức mà tài
sản thuộc sở hữu Nhà nƣớc khi bị tội phạm gây thiệt hại, tổ chức đó khơng có đơn yêu
cầu thì sẽ tham gia tố tụng với tƣ cách gì?Tài sản của Nhà nƣớc liệu có đƣợc bảo vệ.
Do đó, về mặt khách quan thì nội hàm của khái niệm “ngƣời bị hại” cần đƣợc hiểu theo
nghĩa rộng hơn. Theo đó, “ngƣời bị hại” phải bao gồm cá nhân hoặc tổ chức bị tội phạm
gây thiệt hại.
Khoản 1 Điều 51 BLTTHS năm 2003 quy định “người bị hại là người bị thiệt hại về thể
chất, tinh thần, tài sản…”.Tuy nhiên, thiệt hại này có nhất thiết phải tồn tại trên thực tế?
Trƣờng hợp hành vi phạm tội nhƣng chƣa gây thiệt hại trên thực tế (phạm tội chƣa đạt)
thì ngƣời đó có đƣợc xem là ngƣời bị hại hay khơng? Có quan điểm cho rằng trong
trƣờng hợp phạm tội chƣa đạt, tức là chƣa gây thiệt hại gì thì không thể công nhận một
cá nhân, tổ chức là ngƣời bị hại [1- tr.19].

Quan điểm này là khơng chính xác bởi vì xuất phát từ vai trị quan trọng của ngƣời bị
hại, họ tham gia tố tụng không chỉ nhằm mục đích để đƣợc bồi thƣờng những thiệt hại
do tội phạm gây ra mà còn giúp cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) xác định nhanh
chóng, chính xác hành vi phạm tội, ngƣời phạm tội, xét xử đúng ngƣời, đúng tội thông
qua việc cung cấp lời khai, tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án; tham gia các hoạt
động điều tra nhƣ đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra, trình bày những tình tiết có
liên quan đến vụ án và trả lời những câu hỏi do những ngƣời tham gia xét hỏi đặt ra;
tham gia xem xét vật chứng... Do đó, nếu khơng cơng nhận họ là ngƣời bị hại trong
trƣờng hợp phạm tội chƣa đạt, tức họ khơng tham gia vào q trình giải quyết vụ án, lúc
này sẽ gây khó khăn cho cơ quan THTT trong việc thu thập chứng cứ, xác minh các tình
tiết liên quan. Hơn nữa, việc thừa nhận ngƣời bị hại trong trƣờng hợp này cũng khơng
ảnh hƣởng gì đến quyền lợi của những ngƣời tham gia tố tụng khác mà cịn có lợi cho
việc giải quyết vụ án hình sự.

4


Từ phân tích ở trên lại đặt ra câu hỏi có phải bất kỳ tội phạm nào gây thiệt hại về thể
chất, tinh thần hoặc tài sản thì ngƣời bị thiệt hại đều đƣợc coi là ngƣời bị hại hay khơng?
Thực tế có những tội phạm khơng có ngƣời bị hại nhƣ phần lớn các tội phạm an ninh
quốc gia, tội phạm kinh tế (trốn thuế, kinh doanh trái phép, buôn lậu…), tội phạm tham
nhũng (đƣa, nhận hối lộ…), tội phạm ma túy … Trong những trƣờng hợp này, dù có
thiệt hại xảy ra thì ngƣời bị thiệt hại cũng khơng đƣợc coi là ngƣời bị hại. Ngồi ra, thực
tiễn cũng nhƣ lý luận hiện nay có nhiều tranh cãi đối với các tội xâm phạm trật tự công
cộng, xâm phạm an tồn cơng cộng nhƣ tội vi phạm các quy định về điều khiển phƣơng
tiện giao thông, tội chống ngƣời thi hành công vụ, tội gây rối trật tự cơng cộng… Nếu có
thiệt hại về thể chất, tinh thần hay tài sản nhƣng không đủ yếu tố cấu thành tội độc lập
với tội đã bị truy cứu thì ngƣời bị thiệt hại trong những vụ án này có đƣợc tham gia tố
tụng với tƣ cách là ngƣời bị hại? Có ý kiến cho rằng họ là ngƣời bị hại vì thiệt hại của họ
do hành vi của ngƣời phạm tội gây ra, nếu không xác định họ là ngƣời bị hại sẽ ảnh

hƣởng tới quyền lợi của họ. Ý kiến khác lại cho rằng, họ không phải là ngƣời bị hại vì
thiệt hại của họ khơng phải là đối tƣợng tác động của tội phạm nên có thể đƣợc xác định
là ngun đơn dân sự [2]. Ngồi ra, cịn có ý kiến khác cho rằng ngƣời bị hại và nguyên
đơn dân sự là ngƣời có thiệt hại do tội phạm gây ra trong khi thiệt hại này không phải do
tội phạm gây ra mà là do hành vi của ngƣời phạm tội gây ra nên ngƣời này phải đƣợc
xác định là ngƣời có quyền lợi liên quan.
Để xác định ngƣời bị thiệt hại trong các tội phạm nói trên tham gia tố tụng với tƣ cách gì
thì cần làm rõ khách thể của tội phạm đó.Ví dụ nhƣ khi thực hiện hành vi chống ngƣời
thi hành công vụ, ngƣời phạm tội đã gây thiệt hại về sức khỏe cho ngƣời thi hành công
vụ. Hành vi của ngƣời phạm tội đã đủ dấu hiệu cấu thành tội chống ngƣời thi hành công
vụ (Điều 257 BLHS) nhƣng không đủ dấu hiệu cấu thành tội cố ý gây thƣơng tích (Điều
104 BLHS). Trong trƣờng hợp này, xét thấy khách thể mà hành vi phạm tội hƣớng đến
xâm hại trực tiếp là trật tự quản lý hành chính chứ khơng phải sức khỏe con ngƣời, để
tác động đến trật tự quản lý hành chính ngƣời phạm tội phải tác động đến quyền bất khả
5


xâm phạm về thân thể của ngƣời thi hành công vụ. Thiệt hại của ngƣời thi hành công vụ
trong trƣờng hợp này cũng đƣợc xác định do tội phạm gây ra nhƣng họ khơng phải là
ngƣời bị hại vì họ không phải là đối tƣợng tác động của tội phạm. Ý kiến cho rằng phải
xác định họ là ngƣời có quyền lợi liên quan đến vụ án cũng khơng chính xác vì thiệt hại
ở đây rõ ràng là do tội phạm gây ra trong khi thiệt hại của ngƣời có quyền lợi liên quan
đến vụ án không phải do tội phạm gây ra mà chỉ là có liên quan đến vụ án. Vì vậy, việc
xác định ngƣời bị thiệt hại trong vụ án này là nguyên đơn dân sự là phù hợp với lý luận
và quy định của BLTTHS.
Ngƣời bị thiệt hại trực tiếp do tội phạm gây ra tham gia tố tụng với tƣ cách ngƣời bị hại.
Vậy tƣ cách tố tụng của họ xuất hiện khi nào?Việc họ tham gia tố tụng có cần sự cơng
nhận từ phía cơ quan THTT hay không? Việc xác định thời điểm tham gia tố tụng của
ngƣời bị hại có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ đối với vụ án khởi tố theo yêu cầu của
ngƣời bị hại mà trong tất cả các vụ án khác, bởi lẽ chỉ khi tƣ cách tố tụng đƣợc xác định

thì ngƣời bị hại mới đƣợc thực hiện các quyền và nghĩa vụ luật định để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình. Vấn đề này điều luật không quy định rõ, do đó trong khoa
học pháp lý hiện đang tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, kể từ khi hành vi phạm tội xảy ra và gây thiệt hại
thì ngƣời bị thiệt hại bắt đầu tham gia tố tụng với tƣ cách là ngƣời bị hại, tức có hành vi
phạm tội và có thiệt hại xảy ra là đã xuất hiện tƣ cách ngƣời bị hại. Quan điểm này suy
luận từ quy định ngƣời bị hại là ngƣời bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội
phạm gây ra.
Quan điểm thứ hai cho rằng, chỉ khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án
hình sự mới xác định tƣ cách tố tụng của ngƣời bị hại. Bởi lẽ, vào thời điểm tội phạm
xảy ra, mặc dù có thiệt hại nhƣng nếu cơ quan có thẩm quyền chƣa hoặc khơng khởi tố
vụ án hình sự thì sẽ chƣa hoặc khơng có bất cứ ngƣời nào tham gia tố tụng kể cả ngƣời
bị hại.

6


Quan điểm thứ ba cho rằng, một ngƣời chỉ tham gia tố tụng với tƣ cách là ngƣời bị hại
khi đƣợc cơ quan THTT xác định họ là ngƣời bị thiệt hại do tội phạm gây ra và triệu tập
họ tham gia vào quá trình giải quyết vụ án [3- tr.127]. Theo quan điểm này thì một
ngƣời chỉ đƣợc coi là ngƣời bị hại khi đáp ứng đủ các điều kiện nhƣ bị tội phạm gây
thiệt hại, vụ án đƣợc khởi tố, đƣợc triệu tập tham gia vào quá trình giải quyết vụ án. Tức
là phải đến khi cơ quan THTT triệu tập họ tham gia vào giải quyết vụ án thì tƣ cách tố
tụng của ngƣời bị hại mới đƣợc xác định.
Với quan điểm thứ hai cho rằng tƣ cách ngƣời bị hại xuất hiện khi cơ quan có thẩm
quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Theo tác giả, quan điểm này chƣa hợp lý bởi
lẽ, thực tế giải quyết vụ án hình sự cho thấy, ngay sau khi tội phạm xảy ra, ngƣời bị thiệt
hại đã đến cơ quan có thẩm quyền để trình báo, cung cấp các thông tin ban đầu về tội
phạm cũng nhƣ ngƣời phạm tội, các công cụ, phƣơng tiện phạm tội, đƣa ra yêu cầu khởi
tố vụ án hình sự (nếu thuộc trƣờng hợp khởi tố theo yêu cầu của ngƣời bị hại)… Nếu

phải đợi đến lúc vụ án đƣợc khởi tố tƣ cách tố tụng của họ mới đƣợc xác định thì trƣớc
đó họ tham gia vụ án nhƣ thế nào? Hơn nữa, đối với vụ án cho dù đã đƣợc khởi tố nhƣng
cơ quan THTT khơng tìm ra ngƣời bị hại hoặc do cơ quan THTT đánh giá sai nên khơng
cơng nhận, cơng nhận muộn thì lúc này làm sao xác định đƣợc tƣ cách ngƣời bị hại?
Quan điểm thứ ba cho rằng chỉ khi nào ngƣời bị thiệt hại đƣợc cơ quan THTT triệu tập
tham gia tố tụng thì tƣ cách ngƣời bị hại mới đƣợc xác định. Quan điểm này vơ hình
chung đã đẩy ngƣời bị hại vào thế bị động vì thời điểm họ tham gia tố tụng phụ thuộc
vào ý chí của cơ quan THTT, ngƣời THTT. Thực tiễn giải quyết vụ án hình sự cho thấy,
ngƣời bị hại thƣờng đƣợc triệu tập khi cơ quan THTT muốn lấy lời khai của họ, xa hơn
có thể là để phục vụ các hoạt động điều tra nhƣ đối chất, nhận dạng… Tuy nhiên, ngay
sau khi hành vi phạm tội xảy ra ngƣời bị hại đã có thể chủ động đến cơ quan có thẩm
quyền để cung cấp các công cụ, phƣơng tiện phạm tội, đƣa ra yêu cầu… Nhƣ vậy, nếu
phải chờ tới khi cơ quan THTT triệu tập họ mới đƣợc tham gia tố tụng thì quyền lợi của

7


họ rất khó đƣợc đảm bảo nếu cơ quan THTT triệu tập chậm trễ hoặc cố tình khơng triệu
tập họ tham gia giải quyết vụ án.
Quan điểm thứ nhất cho rằng kể từ khi có hành vi phạm tội xảy ra và gây thiệt hại thì
ngƣời bị thiệt hại bắt đầu tham gia tố tụng với tƣ cách ngƣời bị hại. Theo tác giả, quan
điểm này là hợp lý hơn cả bởi lẽ, một khi hành vi phạm tội đã gây thiệt hại hoặc đe dọa
gây thiệt hại cho quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ thì ngƣời bị thiệt hại có quyền
thực hiện các hoạt động cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích của mình (trình báo với cơ
quan có thẩm quyền, cung cấp công cụ, phƣơng tiện phạm tội, đƣa ra yêu cầu khởi tố vụ
án…). Điều này hoàn toàn phù hợp với nội dung của ngun tắc cơng dân có quyền
đƣợc bảo hộ về sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, tài sản đƣợc quy định tại
Điều 7 BLTTHS năm 2003. Hơn nữa, sự tham gia của ngƣời bị hại ngay từ giai đoạn
này cũng giúp họ chủ động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, để việc
áp dụng đƣợc thống nhất, pháp luật TTHS nên quy định rõ thời điểm xác định tƣ cách tố

tụng của ngƣời bị hại là khi xác định có dấu hiệu thiệt hại do tội phạm gây ra.
Để đảm bảo cho ngƣời bị hại có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình thì pháp
luật tố tụng hình sự nên quy định cơ quan THTT, cụ thể là cơ quan điều tra và một số cơ
quan có thẩm quyền điều tra khác có nghĩa vụ cơng nhận tƣ cách ngƣời bị hại khi xác
định có dấu hiệu thiệt hại do tội phạm gây ra. Ngay sau khi vụ án đƣợc khởi tố, ngƣời bị
hại cần đƣợc công nhận chính thức bằng văn bản về tƣ cách tham gia tố tụng để họ chủ
động thực hiện các quyền tố tụng đồng thời cũng phải thực hiện nghĩa vụ theo quy định
của pháp luật TTHS.
Ngoài ra, điều luật quy định về khái niệm ngƣời bị hại chƣa nêu rõ thiệt hại do tội phạm
gây ra ở đây là thiệt hại trực tiếp hay gián tiếp. Điều này rất dễ gây nhầm lẫn với khái
niệm nguyên đơn dân sự nếu cả hai cùng là cá nhân bị thiệt hại. Ví dụ, A có hiềm khích
với B nên đã rủ đồng bọn đến quán rƣợu của anh C nơi B hay tụ tập cùng bạn bè để “nói
chuyện”. B bị A đâm một nhát vào bụng gây tổn hại sức khỏe 30% và trong khi hai bên
xô xát, A đã đập phá một số đồ đạc trong quán . Trong trƣờng hợp này có hai ngƣời bị
8


tội phạm gây thiệt hại là A và C. Vậy làm sao phân biệt đƣợc ai là ngƣời bị hại, ai là
nguyên đơn dân sự khi không quy định thiệt hại do tội phạm gây ra cho ngƣời bị hại là
thiệt hại trực tiếp hay gián tiếp. Nếu quy đinh rõ thiệt hại do tội phạm gây ra cho ngƣời
bị hại là thiệt hại trực tiếp thì có thể xác định đƣợc ngay A là ngƣời bị hại còn B là
nguyên đơn dân sự. Thực tế quan điểm này cũng đã đƣợc thừa nhận rộng rãi trong khoa
học pháp lý hình sự hiện nay. Do đó, để tránh nhầm lẫn điều luật nên quy định rõ vấn đề
này.
Từ những lập luận trên, trong khái niệm ngƣời bị hại cần có các dấu hiệu sau:
-

Về chủ thể, ngƣời bị hại có thể là cá nhân hoặc tổ chức.

-


Thiệt hại do tội phạm gây ra có thể là thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản. Tuy
nhiên, sự thiệt hại có tồn tại trên thực tế hay không không phải là điều kiện bắt
buộc trong tất cả các trƣờng hợp.

-

Thiệt hại của ngƣời bị hại phải là thiệt hại từ tác động trực tiếp của hành vi phạm
tội, tức là phải có mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa hành vi phạm tội với hậu
quả gây ra cho ngƣời bị hại. Đây là điều kiện quan trọng để phân biệt giữa ngƣời
bị hại và nguyên đơn dân sự hay các đƣơng sự khác trong vụ án hình sự.

Do đó, khái niệm ngƣời bị hại tại khoản 1 Điều 51 BLTTHS năm 2003 nên đƣợc quy
định lại nhƣ sau: “Người bị hại là cá nhân hoặc tổ chức bị tội phạm trực tiếp gây thiệt
hại hoặc đe dọa gây thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản; được cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng cơng nhận khi có dấu hiệu thiệt hại”.
1.5. Vị trí, vai trị của người bị hại trong tố tụng hình sự
1.5.1. Vị trí của người bị hại trong tố tụng hình sự
Quan hệ pháp luật TTHS là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự đƣợc các quy phạm pháp luật TTHS điều chỉnh. Thành phần của quan hệ pháp
luật hình sự bao gồm chủ thể, khách thể và nội dung của quan hệ pháp luật hình
sự.Trong bộ phận chủ thể của quan hệ pháp luật TTHS có rất nhiều chủ thể tham gia với
các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau. Đó là cơ quan THTT, ngƣời THTT,
9


ngƣời tham gia tố tụng và các cơ quan tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định của
pháp luật nhằm giải quyết vụ án đƣợc khách quan, toàn diện và đúng đắn.
Căn cứ vào quy định của BLTTHS thì ngƣời bị hại ở vị trí của ngƣời tham gia tố tụng,
họ tham gia tố tụng vì có quyền và lợi ích trong vụ án. Với vị trí ngƣời tham gia tố tụng,

ngƣời bị hại có vai trị thứ yếu và thụ động trong quá trình tố tụng.Tuy nhiên, vì mỗi chủ
thể tham gia tố tụng có quyền và nghĩa vụ cũng nhƣ vai trò, chức năng khác nhau. Vì
vậy nhận thức vị trí của ngƣời bị hại theo cách phân chia này có phần hạn chế vì khó có
điều kiện phát huy vai trị của ngƣời bị hại nhƣ một bên tranh tụng trong TTHS.
Căn cứ vào chức năng tố tụng mà chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự thực
hiện, có thể phân chia thành: nhóm chủ thể thực hiện chức năng buộc tội; nhóm chủ thể
thực hiện chức năng bào chữa; nhóm chủ thể thực hiện chức năng xét xử và nhóm chủ
thể thực hiện chức năng hỗ trợ tố tụng. Trong đó, ngƣời bị hại thuộc nhóm chủ thể thực
hiện chức năng buộc tội, có vị trí đối lập với nhóm chủ thể thực hiện chức năng bào
chữa (ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ngƣời bào chữa).Ngƣời bị hại bị tội phạm gây
thiệt hại, họ tham gia tố tụng với động cơ, mục đích buộc tội ngƣời phạm tội và yêu cầu
bồi thƣờng thiệt hại.
Ngƣời bị hại có thể đƣợc coi là cùng bên với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát (bên buộc
tội) bởi lẽ tội phạm gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân cũng có nghĩa lợi ích chung bị
xâm phạm. Trong khi ngƣời bị hại muốn bảo vệ lợi ích của mình cịn Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát thì bảo vệ lợi ích chung của xã hội, do đó ngƣời bị hại và Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát có cùng định hƣớng tham gia tố tụng. Tuy nhiên, giữa ngƣời bị hại và
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có sự độc lập với nhau trong quá trình tham gia tố tụng,
thể hiện ở việc nhóm chủ thể này khơng thay thế cho nhóm chủ thể kia trong quá trình
giải quyết vụ án, độc lập trong việc đƣa ra quan điểm về tội phạm, hình phạt, vấn đề bồi
thƣờng thiệt hại…

10


Trƣớc Tòa án, ngƣời bị hại là một bên tranh tụng thực hiện quyền buộc tội, quyền yêu
cầu bồi thƣờng thiệt hại, mặc dù không cùng định hƣớng hoạt động tố tụng nhƣng ngƣời
bị hại và Tịa án cũng khơng có sự mâu thuẫn, xung đột với nhau về lợi ích.
Với vị trí của một chủ thể thực hiện chức năng tội, vai trò của ngƣời bị hại đƣợc thể hiện
xuyên suốt trong cả quá trình giải quyết vụ án, đặc biệt là với những vụ án khởi tố theo

yêu cầu của ngƣời bị hại.Vấn đề này sẽ đƣợc tác giả trình bày trong mục 1.2.2.
1.5.2. Vai trị của người bị hại trong tố tụng hình sự
Có thể nói việc xác định sự thật khách quan của vụ án vừa là nội dung vừa là bản chất
của hoạt động tố tụng, đồng thời là cái đích mà hoạt động tố tụng hƣớng đến. Pháp luật
TTHS quy định trách nhiệm xác định sự thật vụ án trƣớc hết thuộc về cơ quan THTT
(Điều 10 BLTTHS). Tuy nhiên, trong thực tế không phải mọi hành vi phạm tội đều đƣợc
phát hiện và xử lý trƣớc pháp luật vì xu hƣớng tâm lý chung của ngƣời phạm tội sau khi
thực hiện tội phạm là che giấu tội phạm nhằm trốn tránh sự truy cứu trách nhiệm hình sự
từ phía cơ quan THTT. Thực tiễn tố tụng cho thấy, việc xác định sự thật vụ án sẽ khách
quan, tồn diện, nhanh chóng và dễ dàng hơn khi có sự hợp tác của những ngƣời biết
những tình tiết liên quan đến vụ án. Bất kì tội phạm nào xảy ra, nó đều gây ra những hậu
quả nguy hiểm nhất định cho xã hội, đƣợc thể hiện ở các dạng thiệt hại về vật chất, thể
chất hoặc tinh thần đối với cá nhân hoặc tổ chức. Các chủ thể bị thiệt hại thƣờng biết
nhiều thông tin chính xác về tội phạm, thậm chí biết chính xác về hành vi phạm tội và
ngƣời phạm tội đã gây ra thiệt hại cho bản thân mình, cho cơ quan hoặc tổ chức của
mình. Đặc biệt là trƣờng hợp tội phạm xảy ra mà chỉ có ngƣời bị hại và ngƣời phạm tội
biết nhƣ các tội xâm phạm về tình dục (hiếp dâm, cƣỡng dâm…), lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản… thì sự tham gia tố tụng của ngƣời bị hại
nhằm cung cấp những thơng tin liên quan càng có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải
quyết vụ án.
 Trước khởi tố vụ án hình sự:

11


Nhằm góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc; quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ
chức, pháp luật TTHS quy định trách nhiệm tố giác tội phạm thuộc về mọi cá nhân, tổ
chức (Điều 25 BLTTHS) trong đó có ngƣời bị hại.Việc ngƣời bị hại tố giác tội phạm có
ảnh hƣởng rất lớn tới việc tìm ra sự thật của vụ án, đến hiệu quả đấu tranh và phòng
ngừa tội phạm. Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm cho thấy, thông tin tố giác tội

phạm đa số là do ngƣời bị hại cung cấp bởi lẽ ngƣời bị hại thƣờng là ngƣời đầu tiên biết
đƣợc các thông tin về tội phạm và ngƣời phạm tội, đặc biệt là trong các tội xâm phạm về
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm… Hơn nữa, họ là ngƣời bị thiệt hại nặng nề
nhất do tội phạm gây ra, vì vậy họ mong muốn tố giác tội phạm với cơ quan Nhà nƣớc
có thẩm quyền. Đó khơng chỉ là nghĩa vụ của họ mà điều quan trọng và thiết thực hơn là
ngƣời bị hại mong muốn ngƣời phạm tội bị xử lý trƣớc pháp luật, qua đó bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của mình đã bị tội phạm xâm hại. Vì thế, nếu đứng trên nhiều
phƣơng diện mà nhìn nhận thì ngƣời bị hại rất tích cực hợp tác với cơ quan THTT,
ngƣời THTT trong quá trình giải quyết vụ án ngay từ giai đoạn tố giác tội phạm. Tuy
nhiên, trong thực tế cũng có khơng ít trƣờng hợp hành vi phạm tội xảy ra nhƣng cơ quan
THTT không thể phát hiện, xử lý kịp thời hoặc có phát hiện nhƣng khơng làm sáng tỏ
đƣợc nội dung vụ án vì có lý do ẩn từ phía ngƣời bị hại - tức họ không muốn tố giác tội
phạm hoặc không hợp tác với cơ quan THTT trong việc giải quyết vụ án. Điều này làm
cho quá trình chứng minh vụ án gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí vụ án có thể khơng đạt
đƣợc mục tiêu cuối cùng làm ảnh hƣởng đến cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm.
Ngồi ra, vai trị của ngƣời bị hại trong giai đoạn này còn đƣợc thể hiện ở việc đƣa ra
yêu cầu khởi tố đối với những vụ án thuộc trƣờng hợp khởi tố theo yêu cầu của ngƣời bị
hại. Đây là một trong những căn cứ để cơ quan có thẩm quyền xem xét quyết định việc
khởi tố vụ án hình sự.
 Tại giai đoạn điều tra:
Sau khi tiến hành khởi tố vụ án hình sự, cơ quan THTT áp dụng các biện pháp điều tra
cần thiết để thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ để xác định diễn biến tội phạm và
12


ngƣời phạm tội. Trong giai đoạn này, vai trò của ngƣời bị hại thể hiện thông qua việc
cung cấp lời khai theo yêu cầu của cơ quan THTT và ngƣời THTT, đây là một trong
những nguồn chứng cứ quan trọng giúp cơ quan THTT vạch ra hƣớng điều tra, xác định
những tình tiết khách quan của vụ án, tiến hành xem xét, đối chiếu với các vật chứng,
tình tiết có liên quan. Ngồi ra, ngƣời bị hại cịn tham gia vào các hoạt động điều tra nhƣ

đối chất, nhận dạng, hoạt động thực nghiệm điều tra, hoạt động giám định, xem xét dấu
vết trên thân thể... Các hoạt động này giúp cơ quan điều tra thu thập, kiểm tra, đánh giá
chứng cứ đầy đủ, toàn diện để xác định tội phạm và ngƣời phạm tội.
Cũng trong giai đoạn này, ngƣời bị hại còn thực hiện quyền yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại.
Họ có quyền đề nghị mức bồi thƣờng và các biện pháp đảm bảo bồi thƣờng bằng việc
cung cấp chứng cứ chứng minh cho sự thiệt hại của mình, từ đó giúp cơ quan THTT xác
định chính xác tính chất, mức độ thiệt hại cũng nhƣ trách nhiệm hình sự đối với ngƣời
phạm tội. Ngồi ra, trong q trình điều tra, ngƣời bị hại có thể đƣa ra các yêu cầu nhƣ
mời thêm ngƣời làm chứng, bổ sung việc lấy lời khai ngƣời làm chứng; yêu cầu giám
định mức độ thƣơng tật, tái giám định, giám định bổ sung; yêu cầu kê biên tài sản của bị
can để đảm bảo bồi thƣờng; yêu cầu thay đổi Điều tra viên, khiếu nại các quyết định của
cơ quan điều tra… Những yêu cầu này đảm bảo cho việc giải quyết vụ ánđƣợc khách
quan, qua đó ngƣời bị hại có thể bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của mình.
Có thể nói rằng, ngƣời bị hại có vai trị rất quan trọng trong q trình điều tra, thơng qua
việc cung cấp lời khai, tham gia các hoạt động điều tra, ngƣời bị hại giúp cơ quan THTT
nhanh chóng vạch ra hƣớng điều tra, kịp thời thu thập các chứng cứ, tài liệu liên quan
đến vụ án. Từ đó khám phá nhanh chóng, chính xác vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp không chỉ cho ngƣời bị hại riêng mà còn cho cả những ngƣời tham gia tố tụng
khác.
 Tại giai đoạn truy tố:

13


×