Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

đề tài người bị hại trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (547.23 KB, 63 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
...



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 37 (2011 - 2015)

ĐỀ TÀI

NGƯỜI BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn:
Ths. Trần Hồng Ca
Bộ môn: Luật Tư Pháp

Sinh viên thực hiện:
Phan Thị Kiều Oanh
Mã số sinh viên: 5115920
Lớp: Luật Tư Pháp 2 – K37

Cần Thơ, tháng 11/2014


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
…..o0o…..

Cần Thơ, ngày tháng năm 2014



NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN
..…o0o…..

Cần Thơ, ngày tháng năm 2014


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài………………………………………………………..1
2. Mục tiêu nghiên cứu…………………………………………………………...1
3. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………………….....2
4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………... 2
5. Bố cục đề tài………………………………………………………………........ 3

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI BỊ HẠI
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái quát chung về người bị hại trong tố tụng hình sự………………………4
1.1.1. Khái niệm người bị hại trong tố tụng hình sự……………………………...4
1.1.2. Đặc điểm tố tụng của người bị hại…………………………….....................9
1.1.3. Thời điểm xuất hiện tư cách người bị hại trong tố tụng hình sự…………...10
1.2. Vai trò và tầm quan trọng của người bị hại trong tố tụng hình sự…...……..11
1.2.1. Vai trò của người bị hại trong tố tụng hình sự……………………………...11
1.2.2. Tầm quan trọng của việc bảo vệ người bị hại trong tố tụng hình sự………13
1.3. Ý nghĩa của chế định người bị hại trong tố tụng hình sự…………………….14

CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI BỊ HẠI
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

2.1. Quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người bị hại………...………..15
2.1.1. Quy định về quyền của người bị hại………………………………………...15
2.1.1.1. Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu và thông báo kết quả điều tra…...16
2.1.1.2. Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch…………………………………………………………………………….18
2.1.1.3. Quyền đề nghị mức bồi thường và biện pháp bảo đảm bồi thường...…….20
2.1.1.4. Quyền được tham gia phiên toà và tranh luận tại phiên toà……………...22
2.1.1.5. Quyền kháng cáo của bản án, quyết định của Toà án và khiếu nại các quy
định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng…………...………..24
2.1.1.6. Quyền được yêu cầu khởi tố vụ án hình sự……………………………….27
2.1.1.7. Quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác bảo vệ quyền lợi
của người bị h……………………………………………………………….…….29
2.1.2. Nghĩa vụ của người bị hại………………………………………………….29
2.1.2.1. Có mặt khi được triệu tập………………………………………………...30
2.1.2.2. Không được từ chối khai báo………………………………………….....31
2.1.2.3. Tuân thủ nội quy phiên toà……………………………...………………...32


2.2. Vấn đề liên quan đến đại diện hợp pháp của người bị hại...............................33
2.2.1. Đại diện hợp pháp trong trường hợp người bị hại chết………………...….33
2.2.2. Đại diện hợp pháp trong trường hợp người bị hại là người chưa thành niên,
người có nhược điểm về thể chất và tinh thần……………………………...……….34

CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI BỊ HẠI
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN
3.1. Bất cập và giải pháp hoàn thiện về quy định pháp luật của người bị hại trong
tố tụng hình sự……………………...………………………………………………..36
3.1.1. Tư cách chủ thể của người bị hại trong tố tụng hình sự…...…………...…37
3.1.2. Đối với quyền của người bị hại thông qua người đại diện hợp pháp của họ

trong tố tụng hình sự…………………………………………………………..……..39
3.1.2.1. Đối với quyền của người bị hại trong trường hợp người bị hại
chết……………………………………………………………………………….…...39
3.1.2.2. Đối với trường hợp người bị hại mất tích thì pháp luật tố tụng hình sự cần
đảm bảo sự có mặt của người đại diện hợp pháp của họ tham gia tố tụng hình
sự……..…………………………………………………………………………….…41
3.1.3. Đối với quyền được kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi
thường cũng như hình phạt đối với bị cáo…………..…………………..…………..42
3.1.4. Đối với quyền được yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại thì người
bị hại được trình bày lời buộc tội tại phiên toà……………………...………………44
3.2. Bất cập và giải pháp hoàn thiện về thực tiễn áp dụng các quy định của người
bị hại trong tố tụng hình sự………….......................................................................46
3.2.1. Đảm bảo quyền tham gia phiên toà, trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà
của người bị hại trong tố tụng hình sự……………………………………….....46
3.2.2. Một số tồn tại khách quan tác động đến việc bảo vệ quyền lợi của người bị
hại…………………………………………………………………………………….48
3.2.3. Một số tồn tại xuất pháp từ nhận thức của người bị hại trong thực tiễn giải
quyết vụ án hình sự…………………………………………………………………52
Kết luận………………………………………………………………………………55
Danh mục tài liệu tham khảo


LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Trong thời kỳ phát triển kinh tế, gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
là một bộ phận quan trọng trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta nhằm
mở rộng hợp tác quốc tế, tận dụng thời cơ, thúc đẩy phát triển kinh tế về mọi mặt. Bên
cạnh, những thuận lợi còn đặt ra cho nước ta nhiều thách thức và khó khăn cho nền
kinh tế nước ta đó chính là tình hình phạm tội của nước ta trong thời gian gần đây
ngày càng tăng về số lượng cùng với thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi hơn trước.

Do đó, nước ta phải đối mặt với những khó khăn đòi hỏi pháp luật nước ta phải hoàn
thiện hơn để phù hợp với tình hình thực tế, đặc biệt là tìm ra những cơ sở để xác định
thiệt hại trực tiếp do tội phạm gây ra cho người bị hại, nhằm buộc tội phạm phải bồi
thường thiệt hại và phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.
Người bị hại là người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại bởi hành
vi những kẻ phạm tội gây ra. Người bị hại chiếm một vị trí quan trọng trong việc đóng
góp tích cực vào công việc đấu tranh phòng chống tội phạm với mục đích góp phần
làm sáng tỏ sự thật của vụ án, truy đúng người đúng tội, đúng pháp luật.
Thực tế, vì nhiều lý do khác nhau mà quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
hại chưa được bảo vệ tốt. Họ cần được bảo vệ như thế nào, quy định của pháp luật về
quyền và nghĩa vụ của họ tới đâu, cũng như thực tiễn áp dụng đối với các quy định về
người bị hại ra sao vẫn chưa có sự nhận thức và hành động thống nhất, dẫn đến nhiều
quy định của pháp luật đặc biệt là pháp luật tố tụng hình sự đang còn bỏ ngõ hoặc có
những quy định chưa đủ mức răn đe để bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại.
Xuất phát từ những lý do trên người viết chọn đề tài “Người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp. Đây là một trong những vấn đề cấp
thiết đang được xã hội quan tâm và có ý nghĩa trong việc xây dựng pháp luật phù hợp
với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Người bị hại là một trong những vấn đề quan trọng trong Bộ Luật tố tụng hình
sự. Với mục tiêu khái quát nghiên cứu của đề tài người viết tập trung nghiên cứu
quyền và nghĩa vụ của người bị hại được quy định trong luật tố tụng hình sự. Để từ đó
người bị hại hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của mình, giảm bớt những trường hợp
người bị hại không biết rõ quyền và nghĩa vụ của mình và hậu quả là quyền và nghĩa
vụ không được đảm bảo. Ngoài ra người viết còn chỉ ra một số vướng mắc trong quy
định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người bị hại cũng như thực tiễn áp dụng
những quy định đó. Hiện nay do chưa được quy định cụ thể chi tiết về quyền và nghĩa
vụ của người bị hại, những hiểu biết hạn chế của người bị hại khi tham gia tố tụng nên
khi áp dụng vào trong thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn. Từ đó, người viết cũng đưa ra



một số đề xuất góp phần hoàn thiện hơn trong việc bảo vệ công dân nói chung và
người bị hại nói riêng.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài này, người viết tập trung nghiên cứu một số vấn đề về liên
quan đến người bị hại như khái niệm, đặc điểm, vai trò và ý nghĩa của chế định người
bị hại, quyền và nghĩa vụ của người bị hại được quy định trong tố tụng hình sự hiện
hành. Qua quá trình nghiên cứu người viết đưa ra một số thực trạng và hướng đề xuất
để góp phần hoàn thiện hơn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
hại. Đối với vấn đề người bị hại trong pháp luật hình sự cũng còn một số chế định
quan trọng là khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại nhưng do thời gian nghiên
cứu có giới hạn nên người viết không nghiên cứu sâu về vấn đề này. Nội dung nghiên
cứu của đề tài chỉ giới hạn ở quyền và nghĩa vụ cơ bản của người bị hại và vấn đề liên
quan đến đại diện hợp pháp của người bị hại trong tố tụng hình sự.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thuận tiện tiếp cận, làm sáng tỏ những nội dung nghiên cứu trong đề tài
người viết đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp nghiên cứu
sưu tầm tài liệu, sách vở phương pháp phân tích luật viết, phương pháp tổng hợp, so
sánh, các tạp chí chuyên ngành và các văn bản có liên quan. Ngoài ra tác giả nghiên
cứu dựa trên các quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng pháp luật.
5. Bố cục đề tài
Trong nội dung nghiên cứu đề tài thì ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục,
danh mục tài liệu tham khảo thì để thuận tiện cho việc nghiên cứu, phân tích người
viết trình bày nội dung chính đề tài gồm ba chương cụ thể như sau:
Chương 1. Một số vấn đề chung về người bị hại trong tố tụng hình sự
Xác định người bị hại, thời điểm xuất hiện tư cách của người bị hại là hết sức
quan trọng vì quyền và lợi ích của người bị hại bị xâm phạm nặng nề nhất và thiệt thòi
nhất trong vụ án hình sự. Qua đó, góp phần làm rõ vai trò, ý nghĩa của người bị hại từ
đó thấy rõ được tầm quan trọng của việc bảo vệ người bị hại cũng như đảm bảo việc
thực hiện hiệu quả các quyền của người bị hại.

Chương 2. Quy định pháp luật về người bị hại trong tố tụng hình sự
Người bị hại là người bị thiệt thòi nhất đồng thời người bị hại tham gia với tư
cách là người tham gia tố tụng nhằm bảo vệ một số quyền và lợi ích của mình.Vì vậy
mà pháp luật quy định cho người bị hại một số quyền và nghĩa vụ. Người bị hại có
quyền được thông báo kết quả điều tra, được nhờ luật sư hoặc người khác bảo vệ,
quyền kháng cáo, quyền được yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và một số quyền khác.
Với những quyền đó có ý nghĩa giúp cho người bị hại biết được quyền của mình tới
đâu để từ đó có thể bảo vệ quyền và lợi ích của mình có được khi tham gia vụ án dễ


dàng hơn. Bên cạnh các quyền mà pháp luật quy định để bảo vệ lợi ích của người bị
hại thì pháp luật nước ta còn quy định người bị hại phải thực hiện như phải có mặt khi
được triệu tập, không được từ chối khai báo và tuân thủ nội quy phiên toà. Người bị
hại phải thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ của mình để vụ án được đảm bảo khách quan,
xét xử đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội.
Chương 3. Thực trạng quy định pháp luật về người bị hại và hướng hoàn
thiện
Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền của người bị hại qua quá trình
tồn tại và pháp triển ngày càng được sửa đổi, bổ sung đầy đủ và hoàn thiện hơn. Tuy
nhiên, qua quá trình áp dụng pháp luật cũng bộc lộ một số bất cập trong các quy định
cũng như trong thực tiễn giải quyết vụ án. Ở chương này, người viết đã đưa ra một số
vướng mắc và giải pháp cả về pháp lý lẫn thực tiễn nhằm khắc phục những hạn chế
góp phần nâng cao hiệu quả của việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
hại trong tố tụng hình sự.
Đề tài nghiên cứu “Người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam” đây là một
vấn đề quan trọng trong tố tụng hình sự, để nội dung nghiên cứu được hoàn thiện đòi
hỏi cần một thời gian nghiên cứu tìm hiểu pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật. Do
thời gian có hạn và sự hiểu biết còn hạn chế nên đề tài không tránh khỏi những thiếu
sót, người viết rất mong nhận được sự góp ý của quý Thầy Cô và các bạn để luận văn
được hoàn thiện hơn. Qua đề tài này xin gửi lời cám ơn đến cô Trần Hồng Ca đã giúp

đỡ cho người viết hoàn thành tốt luận văn của mình.


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI BỊ HẠI
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái quát chung về người bị hại trong tố tụng hình sự
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng nói chung và
người bị hại nói riêng là một trong những mục tiêu quan trọng trong chính sách của
Đảng và Nhà nước. Vì vậy, để xác định người bị hại, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng
của những cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý là hết sức quan trọng vì quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị hại bị xâm phạm nặng nề nhất, thiệt thòi nhất và một trong những
công cụ pháp lý quan trọng để bảo vệ người bị hại là pháp luật tố tụng hình sự.
1.1.1. Khái niệm người bị hại trong tố tụng hình sự
Người bị hại là một thuật ngữ quen thuộc trong khoa học pháp lý về tố tụng
hình sự. Theo pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới như tại Bộ luật
Tố tụng hình sự Liên Bang Nga quy định “Người bị hại là người bị tội phạm gây thiệt
hại về tinh thần, thể chất hoặc tài sản. Người tiến hành điều tra, dự thẩm viên, Thẩm
phán, Toà án ra quyết định công nhận là người bị hại”1. Theo Bộ luật Tố tụng hình sự
của Tiệp Khắc quy định “Người bị hại là người bị thiệt hại về sức khoẻ hoặc tài sản,
tinh thần hoặc những thiệt hại khác”2. Điều đó cho thấy pháp luật của đa số các nước
có sự thống nhất trong định nghĩa người bị hại. Tuy nhiên, thực tế một số quốc gia
cũng quy định về khái niệm người bị hại là pháp nhân như Bộ luật Tố tụng hình sự của
Ba Lan quy định “Người bị hại là người hoặc pháp nhân mà lợi ích hợp pháp của họ
bị hậu quả của tội phạm trực tiếp xâm hại hoặc đe doạ”3; hoặc tại Điều 53 Bộ luật Tố
tụng hình sự Hungary cũng có quan niệm tương tự4. Qua đó, cho thấy được sự thống
nhất trong các định nghĩa cũng như áp dụng. Một số nước đang áp dụng người bị hại
chỉ có thể là cá nhân trong khi đó một số nước lại áp dụng người bị hại là pháp nhân
mỗi nước có những quan điểm khác nhau về vấn đề này. Còn theo pháp luật Việt Nam
hiện hành thì luật đã xác định người bị hại chỉ có thể là cá nhân không thể là cơ quan,

tổ chức. Do đó, tùy vào quy định của pháp luật của mỗi quốc gia mà chế định này có
nhiều cách áp dụng và định nghĩa khác nhau nhưng nhìn chung là quyền và lợi ích hợp
pháp của họ đã bị hành vi vi phạm pháp luật của tội phạm xâm hại và cần được pháp
luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Ở nước ta, khái niệm người bị hại lần đầu tiên được quy định trong Thông tư số
16/TATC ngày 27/09/1974 của Toà án Nhân dân tối cao5. Theo đó, người bị hại được
1

Điều 53, Bộ luật Tố tụng hình sự Liên Bang Nga.
Khoản 1, Điều 43, Bộ luật Tố tụng hình sự của Tiệp Khắc.
3
Khoản 1, Điều 40, Bộ luật Tố tụng hình sự của Ba Lan.
4
Lê Tiến Châu (2007), “Người bị hại trong tố tụng hình sự”, Tạp chí khoa học pháp lý, (01).
5
Lê Tiến Châu (2007), “Người bị hại trong tố tụng hình sự”, Tạp chí khoa học pháp lý, (01).
2


định nghĩa “Là công dân đã bị kẻ phạm pháp trực tiếp xâm hại đến thể chất, tài sản,
hoặc xâm phạm về tinh thần ( như bị lăng nhục, đánh, giết, trộm cắp, lừa đảo…)”.
Định nghĩa đã chỉ ra người bị hại là cá nhân, không thể là cơ quan, tổ chức, đồng thời
đối tượng tác động của tội phạm là thể chất, tinh thần hoặc tài sản của cá nhân đó.
Người bị hại là một trong những người tham gia tố tụng với tư cách chủ thể là
người có quyền và lợi ích pháp lý bản thân cần được bảo vệ trước pháp luật, là một
trong những người tham gia tố tụng có mặt trong hầu hết các vụ án hình sự. Người bị
hại là chủ thể được nhắc đến nhiều trong những vụ án hình sự, nhưng tại sao pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam lại xác định họ là người bị hại, khái niệm về người bị hại
được định nghĩa ra sao cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất. Do đó, dẫn đến khái
niệm người bị hại được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau:

Thứ nhất, dưới góc độ ngôn ngữ thì người bị hại được hiểu là một con người cụ
thể trong xã hội chịu sự tác động tiêu cực của sự việc, hành vi hay bất kỳ tác động nào
khác dẫn đến sự thiệt hại. Thiệt hại gây ra cho người bị hại có thể là vật chất, phi vật
chất và không giới hạn mức độ thiệt hại.
Thứ hai, dưới góc độ pháp lý người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, về
tinh thần hoặc về tài sản do tội phạm gây ra. Người bị hại có thể là thể nhân bị người
phạm tội làm thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản chứ không thể là pháp
nhân6.
Thứ ba, dưới góc độ pháp luật thực định thì theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự nước ta, người bị hại được khái niệm là người bị thiệt hại về thể chất, tinh
thần, tài sản do tội phạm gây ra ( Khoản 1 Điều 51 Bộ Luật tố tụng hình sự). Luật tố
tụng hình sự của nước ta chỉ coi người bị hại là công dân, pháp nhân hay tổ chức xã
hội không được coi là người bị hại. Người bị hại là con người cụ thể bị hành vi phạm
tội trực tiếp xâm hại. Thể chất, tinh thần, tài sản của họ phải là đối tượng của tội phạm.
Thiệt hại của người bị hại phải là thiệt hại thực tế trực tiếp xâm hại đến thể chất, tinh
thần và tài sản của họ do hành vi phạm tội gây ra, nếu không có thiệt hại thực tế thì
người đó không được coi là người bị hại. Ngoài ra có thể thấy thiệt hại về thể chất đó
là những thiệt hại như tội phạm xâm hại đến làm người bị hại chết, bị thương tích…
hoặc những thiệt hại về tinh thần như bị vu khống, xúc phạm nhân phẩm, danh dự, uy
tín của một con người và những thiệt hại về tài sản đó là những thiệt hại như tài sản bị
hư hỏng, bị mất và đặc biệt hơn cả những thiệt hại trên là những thiệt hại do tội phạm
gây ra. Người bị hại tham gia tố tụng với tư cách là người tham gia tố tụng và họ
không mang quyền lực Nhà nước, việc thừa nhận người nào đó là người bị hại phải
theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án đã được quy định
tại khoản 4 Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
6

Trường Đại học luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, NXB Công an nhân dân, tr.198.



Sự tương đồng giữa khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 và
khoản 1 Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 tạo nên sự dễ hiểu hơn về khái
niệm người bị hại. Theo khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 “Người bị
hại là người bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản do tội phạm gây ra”.
Theo khoản 1 Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 “Người bị hại là người bị
thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”. Từ hai khái niệm trên cho
thấy nội hàm của hai quy định trên không có gì thay đổi nhưng khái niệm người bị hại
tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 tương đối ngắn gọn hơn khái
niệm người bị hại theo khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 về mặt câu
chữ.
Về lý luận cũng như thực tiễn, không phải tội phạm nào, không phải vụ án nào
cũng có người bị hại. Ví dụ như tội gây rối trật tự công cộng, thì hành vi xâm hại
hướng tới là trật tự công cộng, hay nói cách khác, thì đối tượng tác động của tội phạm
này là trật tự công cộng. Do vậy, vụ án có tội danh này, không có người bị hại. Nếu
hành vi gây gối trật tự công cộng, gây thiệt hại nghiêm trọng cho tính mạng, sức khoẻ,
tài sản của người nào đó, thì tuỳ vào trường hợp cụ thể, mà người phạm tội có thể bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh tương ứng. Đối với tội chống người thi hành
công vụ, gây ra thương tích hoặc làm chết người hoặc làm hư hỏng tài sản của người
thi hành công vụ, thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội danh được
quy định trong Bộ luật hình sự.
Để giải thích khái niệm người bị hại theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự
cần xem xét ba vần đề sau:
Về chủ thể, có hai quan điểm về người bị hại. Quan điểm thứ nhất cho rằng
người bị hại chỉ có thể là thể nhân, một con người cụ thể, tổ chức hoặc pháp nhân
không thể là người bị hại7. Quan điểm thứ hai thì cho rằng, ngoài cá nhân là người bị
hại, trong trường hợp tổ chức, pháp nhân bị tội phạm trực tiếp gây thiệt hại thì phải
xem tổ chức hoặc pháp nhân đó là người bị hại8. Theo Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003, chỉ coi người bị hại là công dân, pháp nhân hay tổ chức không được coi là người
bị hại. Tuy nhiên, về vấn đề kiểm tra căn cước của những người được triệu tập và có
mặt tại phiên toà. Nghị quyết số 04/2004/NQ - HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng

thẩm phán Toà án nhân dân tối cao lại hướng dẫn như sau “Trong trường hợp người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án là cơ quan, tổ chức thì khai về: tên và địa chỉ trụ sở chính của cơ quan, tổ chức; họ
tên; tuổi; nghề nghiệp; nơi cư trú của người đại diện hợp pháp cho cơ quan, tổ chức”.
Do đó, nếu hiểu theo hướng dẫn này thì người bị hại cũng có thể là cơ quan, tổ chức.
7

Lê Tiến Châu (2007), “Người bị hại trong tố tụng hình sự”, Tạp chí khoa học pháp lý, (01).
Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân,
tr.103.

8


Tuy nhiên, có thể thấy theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành thì tổ chức
không thể là người bị hại. Người bị hại trong tố tụng hình sự chỉ có thể là một người
cụ thể, bị hành vi phạm tội gây ra về thiệt hại thể chất (tính mạng, sức khoẻ), tinh thần
(danh dự, nhân phẩm) hoặc tài sản. Cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do hành vi phạm tội
gây ra không thể trở thành người bị hại trong tố tụng hình sự, nếu họ bị thiệt hại về thể
chất và có đơn yêu cầu bồi thương thiệt hại, họ sẽ được xác định là nguyên đơn trong
vụ án hình sự. Thân nhân của người bị hại (trong trường hợp người bị hại đã chết)
cũng không được xác định là người bị hại mà chỉ được xác định là người đại diện hợp
pháp của người bị hại, có các quyền của người bị hại theo quy định của pháp luật9.
Về thiệt hại, thiệt hại được đề cập đến gồm có những thiệt hại về tinh thần, thể
chất, tài sản. Khái quát các loại thiệt hại về tinh thần, thể chất, tài sản như sau: thiệt hại
về tinh thần là loại thiệt hại không thể tính toán được một cách chính xác bằng các
phương tiện đo lường, thiệt hại này chỉ được đánh giá thông qua hoạt động tư duy của
con người như danh dự, nhân phẩm10. Ví dụ trong trường hợp một người bị vu khống,
bị làm nhục. Thiệt hại về thể chất là loại thiệt hại biểu hiện qua sự biến đổi tình trạng
bình thường của thực thể tự nhiên con người như tính mạng, sức khoẻ11. Ví dụ trong

trường hợp bị ngược đãi, hành hạ, bị giết chết, bị thương tích. Đối với thiệt hại về tài
sản đã được hiểu là những tài sản của người bị hại12. Ví dụ như tài sản bị mất, bị chiếm
đoạt, huỷ hoại hoặc hư hỏng.
Về căn cứ phát sinh, một người được xác định là người bị hại khi bị hành vi
nguy hiểm của tội phạm gây ra trực tiếp và hành vi đó xâm hại đến tinh thần, thể chất
hoặc tài sản đã được quan hệ pháp luật hình sự bảo vệ, người bị thiệt hại về tinh thần,
thể chất, tài sản do tội phạm gây ra chỉ trở thành người bị hại trong tố tụng hình sự khi
họ được cơ quan thẩm quyền công nhận là người bị hại thông qua hành vi triệu tập đến
khai báo với tư cách người bị hại13. Cơ bản thì một khi tội phạm gây ra thiệt hại cho ai
đó, thì người bị họ gây thiệt hại chưa tham gia tố tụng ngay với tư cách người bị hại,
mà cho đến khi cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền xác định họ là người bị hại
trong vụ án hình sự.
Để hiểu rõ hơn về khái niệm người bị hại cần phải nghiên cứu qua một số khái
niệm liên quan nhằm làm rõ, xác định đúng tư cách người bị hại trong tố tụng hình sự
như là cá nhân, tổ chức, người tham gia tố tụng cũng như nạn nhân của tội phạm. Theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 người bị hại là “người bị thiệt hại” phải là
9

Nguyễn Ngọc Anh (Chủ biên), (2009), Bình luận khoa học, Bộ Luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003, NXB
Chính trị Quốc gia – Hà Nội, tr.109.
10
Phạm Văn Beo (2004), Giáo trình Luật hình sự phần chung, khoa Luật – Trường Đại học Cần Thơ, tr.183.
11
Phạm Văn Beo (2004), Giáo trình Luật hình sự phần chung, khoa Luật – Trường Đại học Cần Thơ, tr.183.
Phạm Văn Beo (2004), Giáo trình Luật hình sự phần chung, khoa Luật – Trường Đại học Cần Thơ, tr.183.
13
Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân,
tr.104.



con người cụ thể. Do vậy, khi cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác tham gia vào quá
trình tố tụng sẽ tham gia với tư cách nào thì cần phải căn cứ vào một số vấn đề sau:
Nạn nhân của tội phạm, khái niệm nạn nhân có nhiều cách hiểu khác nhau theo
nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Ở nghĩa rộng nạn nhân được hiểu là người bị thiệt hại về thể
chất và tinh thần, tài sản do tội phạm hoặc do các rủi ro, tai biến khác gây ra chẳng hạn
như vụ động đất, vụ cháy, vụ tai nạn giao thông. Ở nghĩa hẹp danh từ nạn nhân chỉ
người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra như trường hợp
người bị giết, bị hiếp dâm, trộm cắp tài sản các tội phạm xảy ra trong thực tế bao gồm
tội phạm có nạn nhân và tội phạm không có nạn nhân14. Tội phạm có nạn nhân bao
gồm các tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 như tội xâm hại sức
khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người… mỗi tội phạm quy định trên đây được thực
hiện trong xã hội thường có một hay nhiều nạn nhân và ngược lại không có nạn nhân
của tội phạm thì sẽ không có tội phạm xảy ra, giữa người phạm tội và nạn nhân có mối
quan hê biện chứng với nhau trong mối quan hệ này nạn nhân được coi là nhân tố là
nguyên cớ phát sinh hoặc điều kiện thúc đẩy thực hiện tội phạm. Tuy nhiên không phải
nạn nhân nào cũng là người bị hại, nạn nhân là người bị hại chỉ khi tham gia quan hệ
pháp luật tố tụng hình sự thì mới xem họ là người bị hại. Như đã biết hành vi phạm tội
luôn gây ra hoặc đe doạ gây ra những thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được
Luật hình sự bảo vệ do đó ta có thể thấy người bị hại có nội hàm hẹp hơn so với khái
niệm nạn nhân của tội phạm. Như vậy, người bị hại trong vụ án hình sự theo pháp luật
Việt Nam là cá nhân, là một con người cụ thể không phải là tổ chức hay pháp nhân.
Người bị hại sẽ tham gia tố tụng với tư cách người tham gia tố tụng thông qua theo
giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án. Do đó, không phải
trong mọi trường hợp khái niệm nạn nhân của tội phạm đều đồng nghĩa với khái niệm
người bị hại do khái niệm nạn nhân của tội phạm rộng hơn so với khái niệm người bị
hại. Đồng thời khi tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hình sự thì người bị hại còn
được bảo vệ theo quy định của của pháp luật hiện hành.
Tóm lại, dù cho giải thích theo cách nào thì người bị hại trong vụ án hình sự
cũng được hiểu là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần và tài sản do tội phạm gây
ra.


1.1.2. Đặc điểm tố tụng của người bị hại
Để bảo đảm quá trình giải quyết vụ án hình sự, khách quan, toàn diện chính
xác, triệt để các vụ án hình sự thì việc xác định người bị hại, thiệt hại họ đã bị tội
phạm xâm hại đến là có cần hậu quả xảy ra không, cũng như những thiệt hại đó là trực
14

Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Tội phạm học, NXB Công an nhân dân, tr.176.


tiếp hay gián tiếp bị xâm hại thì mới được xem là người bị hại và có cần phải do tội
phạm gây ra hay không. Đó là những đặc điểm quan trọng trong việc xác định người bị
hại trong vụ án hình sự. Vì vậy để hiểu rõ hơn về những vấn đề đó cũng như những
khó khăn, vướng mắc khi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng áp dụng,
thực hiện khi xác định người bị hại.
Từ những lý do trên và từ khái niệm chung về người bị hại đã được quy định
trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, có thể khái quát chung về đặc điểm tố tụng
của người bị hại như sau:
Một là, người bị hại tham gia tố tụng để bảo vệ bảo vệ quyền và lợi ích pháp lý
của bản thân liên quan đến vụ án15. Đặc điểm này được hiểu một khi người bị hại
tham gia vào quan hệ tố tụng hình sự họ chỉ xem trọng và đặt vấn đề bảo vệ quyền và
lợi ích của bản thân. Bởi vì, người bị hại là người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ
bị xâm hại nặng nề nhất so với những người tham gia tố tụng khác và cũng vì quyền và
lợi ích của bản thân bị thiệt hại nên có thể ảnh hưởng nhiều đến việc cung cấp lời khai
của họ, việc đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu có liên quan đến vụ án trong đó làm sao
trong quá trình giải quyết vụ án phải đảm bảo được quyền, lợi ích của bản thân họ như
họ muốn. Trong những trường hợp vì quyền và lợi ích bị tội phạm xâm hại nên người
bị hại tham gia tố tụng với mong muốn vụ án được giải quyết kịp thời nhằm bù đắp lại
những thiệt hại mà họ đã và đang phải gánh chịu.
Hai là, đặc điểm đặc trưng cho người bị hại là được kháng cáo bản án quyết

định của Toà án về mức bồi thường cũng như về hình phạt đối với bị cáo. Đặc điểm
này đặc trưng chỉ có ở người bị hại. Theo đặc điểm này thì cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng cho phép người bị hại được bày tỏ ý chí chấp nhận hoặc không
chấp nhận bản án, quyết định của Toà án về mức bồi thường cũng như về hình phạt
đối với bị cáo trong giai đoạn cuối cùng của quá trình tham gia tố tụng. Vì những thiệt
hại mà người bị hại phải gánh chịu do hành vi phạm tội gây ra không chỉ là những
thiệt hại về vật chất mà còn nhưng tổn thất khác về mặt tinh thần cho nên không chỉ
bồi thường thiệt hại về vật chất mà có thể giải quyết được. Do vậy, ngoài việc được
quyền kháng cáo bản bán, quyết định về mức bồi thường họ còn được kháng cáo về
hình phạt đối với bị cáo. Đặc điểm này cũng lý giải phần nào nguyện vọng của người
bị hại với mong muốn xử lý tội phạm nghiêm minh, bồi thường thiệt hại xứng đáng và
thoả đáng hơn.
Ba là, việc khai báo vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của người bị hại. Đây cũng
là điểm khác biệt so với những chủ thể tham gia tố tụng khác để nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích pháp lý của bản thân liên quan đến vụ án người bị hại có quyền khai báo vào
15

Mạc Giáng Châu - Nguyễn Chí Hiếu (2006), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam- Học phần 1 “Những
vấn đề chung của Luật tố tụng hình sự Việt Nam”, khoa Luật - Trường Đại học Cần Thơ, tr.50.


bất kỳ thời điểm nào và ở bất cứ nơi đâu trong suốt quá trình tiến hành tố tụng, nhưng
họ phải chịu trách nhiệm về lời khai của mình. Quyền khai báo ở đây là cho phép
người bị hại được lựa chọn cách bảo vệ quyền và lợi ích của mình trong điều kiện tốt
nhất trước những thiệt hại, còn nghĩa vụ chịu trách nhiệm trong công việc khai báo đòi
hỏi người bị hại phải khai báo trung thực, đúng đắn trước những thiệt hại đã xảy ra
trong vụ án. Như vậy ở đây có thể xem người bị hại đồng thời là người làm chứng
trong trách nhiệm khai báo.
Bốn là, một điểm riêng nữa chỉ có ở người bị hại , đó là quyền yêu cầu khởi tố
vụ án hình sự và trình bày lời buộc tội tại phiên toà (Theo khoản 3 Điều 51 Bộ luật Tố

tụng hình sự năm 2003). Thông thường việc chứng minh tội phạm sẽ thuộc về cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền, trong đó việc khởi tố vụ án hình sự là thuộc trách nhiệm của
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thụ lý vụ án và giải quyết theo trình
tự thủ tục quy định của pháp luật. Theo quy định tại khoản 1 Điều 105 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003 thì có một số trường hợp liên quan trực tiếp đến hành vi xâm hại sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm như cố ý gây thương tích, vu khống, hiếp dâm….thì cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chỉ khởi tố vụ án theo yêu cầu của
người bị hại. Người bị hại có quyền thể hiện ý chí của mình với mong muốn vụ án
được khởi tố hoặc không khởi tố và người bị hại tự tính toán những lợi ích sẽ đạt được
hoặc những tổn thất phải gánh chịu. Đặc điểm này là thể hiện tính dân chủ của pháp
luật xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đến quyền và lợi ích của
người bị hại. Đây là quy định mà pháp luật ghi nhận cho người bị hại còn những người
tham gia tố tụng khác không được thể hiện quyền này.
1.1.3. Thời điểm xuất hiện tư cách người bị hại trong tố tụng hình sự
Đề cập đến người bị hại thì có không ít những quan điểm của những người
nghiên cứu luật giải thích nào là khái niệm, quyền và nghĩa vụ của người bị hại. Trong
đó kể cả những quy định của pháp luật tố tụng hình sự cũng vậy, vẫn chưa đề cập đến
thời điểm xuất hiện tư cách người bị hại. Việc xác định thời điểm xuất hiện tư cách
người bị hại phải chăng là không cần thiết. Tuy nhiên để có thể hiểu rõ ràng về người
bị hại cần phải làm rõ thời điểm xuất hiện tư cách chủ thể bị hại. Việc thừa nhận người
nào đó là người bị hại phải theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
hoặc Toà án đã được quy định tại khoản 4 Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam
2003.Thường thì khi một vụ án hình sự xảy ra có một người cụ thể nào đó trong xã hội
bị thiệt hại và họ tố giác về hành vi mà tội phạm gây ra thiệt hại cho họ với Cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc khi một người đại diện cho một người
đã và đang bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra thông báo về thiệt hại, thì khi đó tư
cách chủ thể của họ xuất hiện. Tuy nhiên, việc xác định thời điểm xuất hiện tư cách
người bị hại vẫn chưa rõ ràng. Bởi vì, có những trường hợp vụ án xảy ra rất lâu có



người bị thiệt hại trong thực tế bởi những hành vi nguy hiểm của tội phạm gây ra
nhưng họ không thông báo với Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng,
hoặc không có điều kiện để thông báo và mãi cho đến khi Cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng biết đến vụ án và khởi tố thì khi đó pháp luật tố tụng hình sự
mới xem xét họ như một người bị hại, khi đó mới xuất hiện tư cách chủ thể. Vậy, để
xác định thời điểm tư cách người bị hại cần đến những điều kiện cần thiết và đầy đủ
mới xác định một người là người bị hại.
Điều kiện cần thiết để xem xét một người là người bị hại kể từ khi vụ án hình
sự xảy ra cá nhân bị thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản do hành vi nguy hiểm
của tội phạm gây ra. Hành vi nguy hiểm này xảy ra không phải mang đến những thiệt
hại trực tiếp cho người bị hại. Tuy nhiên, phải hiểu không phải khi có một hành vi
nguy hiểm nào đó của tội phạm xảy ra cũng xuất hiện người bị hại. Nhưng điều kiện
đủ để xem xét một người là người bị hại trong quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Khi
cá nhân là chủ thể được đặt trong mối quan hệ với pháp luật tố tụng hình sự với tư
cách người tham gia tố tụng là người bị thiệt hại và cần được bảo vệ trước pháp luật.
1.2. Vai trò và tầm quan trọng của người bị hại trong tố tụng hình sự
1.2.1. Vai trò của người bị hại trong tố tụng hình sự
Việc xác định người bị hại có thể xem là hoạt động rất quan trọng trong tố tụng
hình sự. Bởi vì trong quá trình giải quyết vụ án hình sự có rất nhiều người tham gia tố
tụng với nhiều tư cách khác nhau và trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các cơ
quan tiến hành tố tụng thu rất nhiều chứng cứ, tài liệu khác nhau thông qua những lời
khai của người bị hại để tìm ra sự thật khách quan của vụ án góp phần giải quyết các
vụ án một cách nhanh chóng và kịp thời. Ngoài việc xác định thì việc bảo hộ được tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân. Đây là một trong những
vai trò quan trọng trong tố tụng hình sự. Từ những lý do trên thì việc xác định vai trò
của người bị hại có thể xem là trọng tâm trong giai đoạn hiện nay. Vai trò của người bị
hại được thể hiện như sau:
Thứ nhất, sự tham gia của người bị hại nhằm xác định thiệt hại do tội phạm gây
ra là điều kiện cần thiết cho việc giải quyết vụ án hình sự, một vụ án thì việc xác định
được thiệt hại đó là thiệt hại nào, mức thiệt hại ra sao là cần thiết. Nếu như một cơ

quan chức năng có thẩm quyền xem xét một thiệt hại nào đó là chưa chính xác thì có
thể dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng có thể làm thay đổi quyền và nghĩa vụ của các
bên cũng như tư cách tố tụng mà các bên tham gia.
Thứ hai, sự tham gia của người bị hại nhằm cung cấp chứng cứ để làm rõ thực
tế khách quan vụ án hình sự. Trong vụ án sẽ có nhiều lời khai, nhiều chứng cứ mà các
cơ quan chức năng có thẩm quyền tìm ra từ hoạt động thực tế điều tra cũng như lấy lời
khai của các người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Vì vậy, nếu như những


tài liệu chứng cứ đó không phản ánh được sự thật khách quan của vụ án thì có thể dẫn
đến nhiều khó khăn đối với cơ quan điều tra. Do người bị hại là người chịu thiệt hại
trực tiếp từ tội phạm, họ biết rõ về tình tiết của vụ án họ có thể cung cấp những tài
liệu, chứng cứ mà cơ quan chức năng không thể tìm thấy được. Từ những tài liệu,
chứng cứ đó mà các cơ quan chức năng có thể so sánh đối chiếu thực hiện một số hoạt
động nghiệp vụ để tìm ra sự thật vụ án đồng thời giải quyết vụ án một cách chính xác,
đúng đắn và thuyết phục hơn. Ngoài ra những tài liệu, chứng cứ do người bị hại cung
cấp có thể giúp cho việc phát hiện những tội phạm nguy hiểm lợi dụng thiếu sót của cơ
quan chức năng mà thực hiện hành vi phạm tội từ đó có những biện pháp hiệu quả hơn
để phòng ngừa tội phạm.
Thứ ba, sự tham gia của người bị hại nhằm xác định ra sự thật của vụ án. Trong
quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì việc xác định sự thật khách quan của vụ án không
chỉ là mục đích của hoạt động tố tụng mà còn thể hiện toàn bộ nội dung bản chất của
quá trình chứng minh tội phạm đồng thời bảo đảm việc truy cứu trách nhiệm hình sự
đúng đối tượng, đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội, không lọt tội
phạm. Qua các tài liệu mà người bị hại cung cấp cho các cơ quan đòi hỏi cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải xác định chứng cứ đó có đúng với thực tế
khách quan hay không, có đúng sự việc phạm tội không sau khi đã điều tra, đánh giá
và công nhận thì việc tiếp theo của cơ quan là xác định tội phạm và xử lý như thế nào
để bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, đưa ra phán quyết đúng người, đúng tội.
Ngoài ra việc xác định đúng người, đúng tội còn thể hiện được sự uy nghiêm của pháp

luật và đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích cá nhân khác cần được pháp luật bảo vệ điển
hình là người bị hại trong vụ án hình sự.

1.2.2. Tầm quan trọng của việc bảo vệ người bị hại trong tố tụng hình sự
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về đảm bảo quyền con người, quyền tự do,
dân chủ của công dân là một trong những định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống
pháp luật được ghi nhận trong Nghị quyết của Bộ chính trị số 48-NQ/TW ngày
2/1/2002 và Nghị quyết của Bộ chính trị số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020. Trong tố tụng hình sự, vấn đề bảo đảm quyền con
người ngày càng được chú trọng hơn nữa, bởi vì các hoạt động tố tụng ảnh hưởng trực
tiếp tới các quyền tự do của công dân. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
những người tham gia tố tụng đồng thời để việc tham gia tố tụng của họ vào quá trình
giải quyết vụ án đạt hiệu quả, Bộ luật Tố tụng hình đã có những quy định cụ thể về các
quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng


và những người tham gia tố tụng phải tôn trọng và thực hiện. Việc tôn trọng và thực
hiện một cách đúng đắn những quy định cụ thể đó không chỉ vì quyền lợi của một số
người tham gia tố tụng, vì nghĩa vụ pháp lý hoặc vì để hỗ trợ pháp lý việc tôn trọng và
thực hiện đúng đắn những quy định trên còn góp phần vào quá trình chứng minh tội
phạm giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời.
Trong xã hội mỗi công dân đương nhiên có quyền được Nhà nước bảo vệ trước
các nguy cơ xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Người bị hại cũng vậy,
người bị hại trước hết được xem là công dân trong xã hội, do đó họ có quyền bất khả
xâm phạm về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Đây là những quyền cơ bản
của công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp và được cụ thể hoá trong các văn bản
pháp luật khác. Như đã biết, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó xâm
hại đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và tài sản của người bị hại, đó có thể
là những thiệt hại vô cùng lớn mà người bị hại phải gánh chịu.
Thực tế vì nhiều lý do khác nhau mà quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại

chưa được bảo vệ tốt và kịp thời. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sựu dường như
cơ quan có thẩm quyền chưa xem người bị hại như một bên trong quá trình tố tụng để
có sự quan tâm cần thiết. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những người
tham gia tố tụng đó có người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ đồng thời để
việc tham gia tố tụng của họ vào quá trình giải quyết vụ án đạt hiệu quả đòi hỏi Cơ
quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải tôn trọng và thực hiện. Người bị
hại là chủ thể xuất hiện hầu hết các vụ án hình sự và tham gia vào quá trình tố tụng
hình sự cho nên một trong những công cụ pháp lý quan trọng để bảo vệ người bị hại
đó là pháp luật tố tụng hình sự.
Bên cạnh đó để bảo vệ người bị hại, đầu tiên cần bảo vệ những thông tin mà
người bị hại cung cấp bởi những thông tin đó có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần
giúp các cơ quan chức năng phát hiện tội phạm và giải quyết đúng đắn, triệt để vụ án
hình sự. Từ những lý do đó, việc bảo vệ quyền lợi của người bị hại là việc làm cần
thiết. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng nói chung
và người bị hại nói riêng là một trong những nội dung quan trọng trong định hướng cải
cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụn hình sự nước ta hiện nay. Vì vậy,
Nhà nước cần phải có biện pháp cụ thể để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp người bị
hại.
1.3. Ý nghĩa của chế định người bị hại trong tố tụng hình sự
Từ những vai trò trong việc xác định người bị hại nêu trên có thể thấy được sự
quan trọng của người bị hại trong vụ án hình sự, từ đó có thể khái quát được ý nghĩa
xác định người bị hại trong vụ án hình sự như sau:


Thứ nhất, việc xác định người bị hại thể hiện rõ sức mạnh của Nhà nước trong
việc quản lý xã hội bằng pháp luật. Thông qua Luật tố tụng hình sự, Nhà nước thực
hiện quyền lực của mình trong lĩnh vực đấu tranh phòng và chống tội phậm góp phần
giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, ngăn ngừa và khắc phục những hậu
quả do hành vi phạm tội gây ra. Do người bị hại là người trực tiếp thiệt hại về thể chất,
tinh thần, sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân phẩm tài sản do hành vi phạm tội gây ra

nên Nhà nước luôn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại và xử lý nghiêm
minh đối với những hành vi phạm tội gây nguy hiểm cho xã hội của tội phạm gây ra.
Thứ hai, việc xác định người bị hại trong đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội
chủ nghĩa trong tố tụng hình sự, vì mọi hành vi vi phạm pháp luật hoặc việc áp dụng
không đầy đủ có thể dẫn tới oan sai, xâm phạm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, gây tổn hại đến tính nghiêm minh của pháp luật, uy tín của các cơ quan
bảo vệ pháp luật và làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự công minh của pháp luật
trong việc xét xử tội phạm.
Thứ ba, quy định pháp luật về người bị hại là căn cứ pháp lý cho các cơ quan
tiến hành tố tụng thực hiện nhanh và chính xác quyền hạn, chức năng của mình đồng
thời đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân là xử lý kịp thời, chính xác các hành vi
phạm tội và người phạm tội. Qua đó phát huy tác dụng góp phần rất quan trọng vào
việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật và phòng ngừa tội phạm.
Thứ tư, việc xác định đúng người bị hại và thực hiện tốt của các cơ quan có
thẩm quyền góp phần khôi phục các thiệt hại do tội phạm gây ra cho các quan hệ xã
hội được Luật hình sự bảo vệ đồng thời bảo vệ một cách có hiệu quả nhất các quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân khỏi sự xâm hại, trả thù của người phạm tôi và những
người khác.


CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI BỊ HẠI
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Theo pháp luật Việt Nam nói chung và Bộ luật Tố tụng hình sự nói riêng thì
việc xác định người bị hại, các thiệt hại, những chứng cứ để chứng minh cho sự thiệt
hại để làm căn cứ bồi thường thiệt hại, các quyền và nghĩa vụ của người bị hại cũng
như vấn đề đại diện hợp pháp của người bị hại trong trường hợp người bị hại chết hoặc
người bị hại có nhược điểm về thể chất và tinh thần là phải tuân thủ theo quy định của
pháp luật. Có nghĩa là các quyền và nghĩa vụ của người bị hại được pháp luật bảo vệ
phải là các quyền và nghĩa vụ hợp pháp đã được quy định trong pháp luật tố tụng hình

sự. Do đó để xác định đúng tội phạm để đưa ra các phán quyết đúng người, đúng tội
tránh oan sai thì việc xác định người bị hại, các thiệt hại cũng như những chứng cứ
trong vụ án là rất quan trọng, đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng cần thận trọng.
2.1. Quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người bị hại
Do tính chất, đặc điểm của người bị hại là người chịu thiệt thòi nhiều nhất trong
vụ án hình sự các thiệt hại đó là về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra. Đồng
thời người bị hại tham gia tố tụng với tư cách là người tham gia tố tụng nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích của mình. Vì vậy, mà pháp luật quy định cho người bị hại một số
quyền và nghĩa vụ. Với quyền này người bị hại có thể yêu cầu để bảo vệ được quyền
và lợi ích chính đáng của mình trong việc giải quyết vụ án, còn riêng đối với nghĩa vụ
thì người bị hại phải thực hiện để vụ án được giải quyết một cách khách quan và chính
xác.
2.1.1. Quy định về quyền của người bị hại
Người bị hại là đối tượng tác động trực tiếp của tội phạm, vì vậy mà việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại là cần thiết. Do là người cần bảo vệ do đó
pháp luật đã quy định một số quyền cụ thể đó là quyền đưa ra các chứng cứ và yêu cầu
để chứng minh sự thiệt hại; quyền được thông báo về kết quả điều tra; quyền đề nghị
thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch; quyền đề nghị
mức bồi thường và biện pháp bảo đảm bồi thường; quyền được tham gia phiên toà và
tranh luận tại phiên toà; quyền kháng cáo của bản án, quyết định của Toà án và khiếu
nại các quy định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng; quyền
nhờ người khác bảo vệ. Từ đây, giúp cho người bị hại biết được quyền của mình đến
đâu để từ đó có thể bảo vệ quyền và lợi ích mà mình có được khi tham gia vụ án dễ
dàng hơn.


2.1.1.1. Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu và thông báo kết quả điều tra
Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật của người bị hại là quyền mà người bị hại hoặc
người đại diện hợp pháp của họ được cung cấp tài liệu, đồ vật có thể là vật chứng, kết

luận giám định có trong vụ án có khả năng là chứng cứ của vụ án ngoài những chứng
cứ mà cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thu thập được. Quyền đưa ra
tài liệu, đồ vật thường đi cùng với quyền được yêu cầu của người bị hại chính là sự thể
hiện ý chí, nguyện vọng với mong muốn làm sáng tỏ những tình tiết nào đó liên quan
đến vụ án hoặc tiến hành thêm những biện pháp tố tụng nào đó để hỗ trợ quá trình
chứng minh tội phạm.
Người bị hại là người phải chịu những thiệt hại nặng nề do hành vi phạm tội
gây ra và họ xuất hiện trong vụ án hình sự không phải với ý chí mong muốn chủ quan
của mình. Là chủ thể bị thiệt hại và vì những thiệt hại xảy ra người bị hại có quyền
chứng mình tội phạm để bảo vệ quyền, lợi ích của mình cơ bản của việc làm đó chính
là đưa ra tài liệu, đồ vật hay yêu cầu. Do đó, tại điểm a khoản 2 Điều 51 Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003 cho phép “Người bị hại được quyền đưa ra tài liệu, yêu cầu”.
Các tài liệu đồ vật mà người bị hại cung cấp cho các cơ quan có thẩm quyền là các
chứng cứ phù hợp có liên quan đến vụ án để từ đó các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng tiến hành kiểm tra, đánh giá một cách khách quan để xác định tài
liệu, đồ vật đó có phải là chứng cứ mà vụ án cần đến hay không, có giá trị hay không
trong việc giải quyết vụ án.
Ngoài những tài liệu, đồ vật được xem xét có thể là chứng cứ như vật chứng có
trong vụ án (có thể là những vật làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu vết
tội phạm…theo ghi nhận tại Điều 74 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về vật chứng),
kết luận giám định, các tài liệu đồ vật khác. Bên cạnh, người bị hại hoặc người đại
diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, yêu cầu giám
định và một số yêu cầu khác có liên quan đến vụ án.
Tại khoản 2 Điều 65 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 cũng có một quy định tương
tự liên quan đến quyền trên của người bị hại “Những người tham gia tố tụng, cơ quan,
tổ chức hoặc bất kỳ cá nhân nào đều có thể đưa ra tài liệu, đồ vật và trình bày những
vấn đề có liên quan đến vụ án”. Theo đó, thì người bị hại cũng được thừa nhận quyền
được đưa ra tài liệu đồ vật, yêu cầu khi tham gia vào quá trình tố tụng. Dù hai quy định
không có quy định nào trực tiếp liệt kê những tài liệu, đồ vật, yêu cầu mà người bị hại
có quyền đưa ra trong vụ án, nhưng qua hai quy định trên có thể hiểu rằng vì quyền và

lợi ích hợp pháp của mình người bị hại được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu có liên
quan đến vụ án.


Như vậy, để có thể bảo vệ quyền được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người
bị hại thì điều đầu tiên là cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải giải
thích cho họ biết họ có quyền được đưa ra những tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Khi đưa ra
tài liệu, đồ vật, yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải kiểm
tra, xem xét và xác minh thật cẩn thận để tránh trường hợp bỏ sót những tài liệu, đồ vật
có ý nghĩa làm sáng tỏ sự thật của vụ án. Tạo điều kiện cho người bị hại có thể đưa ra
tài liệu, đồ vật, yêu cầu ở những giai đoạn khác nhau của quá trình tố tụng như giai
đoạn điều tra hoặc trong giai đoạn xét xử tại phiên toà. Khi cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng có thể làm tốt việc bảo vệ quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu
của người bị hại; Trước tiên là có thể bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Bên cạnh đó, đảm bảo vụ án có thể giải quyết đúng đắn, khách quan giữa
các bên chủ thể (người tiến hành tố tụng - người tham gia tố tụng và những người
tham gia tố tụng với nhau). Để quá trình chứng minh tội phạm của cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng diễn ra nhanh chóng, kịp thời. Nếu làm không tốt việc
bảo vệ quyền này của người bị hại có thể không bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân; Làm cho quá trình giải quyết vụ án không được đúng đắn, khách
quan; Quá trình chứng minh tội phạm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng diễn ra không đầy đủ, kịp thời.
Trong vụ án người bị hại là người có quyền và nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến
vụ án. Các thông tin về vụ án mà các cơ quan có thẩm quyền thu được ảnh hưởng đến
quyền lợi của họ. Vì vậy mà pháp luật nước ta đã quy định ở điểm b khoản 2 Điều 51
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 “Người bị hại có quyền được thông báo về kết quả
điều tra”. Từ thông báo kết quả điều tra người bị hại có thể biết được những vấn đề
thuộc về nội dung của vụ án, trên cơ sở đó người bị hại có thể chuẩn bị tài liệu, chứng
cứ, lý lẽ để chứng minh cho thiệt hại mà người phạm tội đã gây ra cho mình.
Quyền được thông báo về kết quả điều tra của người bị hại đó là quyền được

thông tin về kết quả của vụ án và quyền này có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa
vụ của người bị hại. Quyền này thể hiện đó là khi đã có kết quả điều tra của cơ quan có
thẩm quyền thì các cơ quan này sẽ thông báo kết quả cho người bị hại biết về kết quả
điều tra đó, để người bị hại có thể biết được cụ thể hơn về nội dung của vụ án, quyền
và nghĩa vụ của mình thông qua đó người bị hại sẽ chuẩn bị tốt các vấn đề liên quan
đến vụ án để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của mình khi tham gia xét xử. Nếu
cơ quan có thẩm quyền không thông báo về nội dung của vụ án mà cơ quan tiến hành
tố tụng đã tiến hành điều tra. Do đó, sẽ rất khó khăn cho họ khi tham gia tố tụng và
dẫn đến vụ án sẽ không được xét xử khách quan, công bằng.
Bên cạnh, quyền được thông tin về kết quả điều tra này còn có giá trị đối với
người bị hại và đối với vụ án là thể hiện được tính dân chủ, công bằng, chính xác,


khách quan trong vụ án. Bởi lẽ với quyền này người bị hại sẽ biết được thông tin vụ án
và có thể cung cấp thêm các chứng cứ khác. Các chứng cứ đó có thể giúp cho các cơ
quan tiến hành tố tụng có thể biết được thêm các tình tiết của vụ án và đảm bảo vụ án
được xét xử khách quan, đúng người, đúng tội. Đồng thời nếu quyền này không được
đảm bảo thì có thể quyền và nghĩa vụ của người bị hại có thể bị ảnh hưởng do không
biết được kết quả điều tra. Do vậy, mà người bị hại sẽ không biết quyền và nghĩa vụ
của mình đến đâu, vụ án được điều tra như thế nào, có đúng tội phạm đã gây ra thiệt
hại đối với người bị hại không, người bị hại cũng không biết mình sẽ chuẩn bị các tài
liệu, chứng cứ nào chính xác để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi xét xử
dẫn đến vụ án có thể xét xử không khách quan, chính xác. Tuy nhiên, pháp luật chưa
quy định rõ là cơ quan điều tra bắt buộc phải thông báo kết quả giám định cho người
bị hại hay chỉ khi người bị hại yều cầu thì mới phải thông báo kết quả điều tra cho họ.
Để đảm bảo thực hiện quyền này của người bị hại, Cơ quan tiến hành tố tụng sẽ
thông báo về kết quả điều tra cho người bị hại. Để đảm bảo tôn trọng thực hiện quyền
được thông báo về kết quả điều tra của người bị hại được thực hiện tốt hơn thì các cơ
quan tiến hành tố tụng nên có trách nhiệm cử cán bộ đến gặp trực tiếp người bị hại để
chuyển thông báo bằng văn bản và thu thập chữ ký của họ. Trường hợp người bị hại ở

xa thì có thể chuyển thông báo về kết quả điều tra cho Uỷ ban nhân dân xã, phường,
thị trấn nơi người bị hại cư trú để chính quyền địa phương chuyển và thu nhận chữ ký
của họ và gửi lại cho cơ quan tiến hành tố tụng.
2.1.1.2. Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người
phiên dịch
Người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch là các chủ thể góp
phần quan trọng trong hoạt động tố tụng. Với vai trò của mình người tiến hành tố tụng
tiến hành hoạt động chứng minh vụ án hình sư, để sự thật vụ án được xác định khách
quan, chính xác. Riêng đối với người giám định, người phiên dịch là người góp phần
vào việc xác định sự thật của vụ án tạo điều kiện thuận lợi vụ án xét xử nhanh, đúng sự
thật. Do đó, để vụ án được giải quyết công bằng, chính xác, khách quan không bỏ lọt
tội phạm, không làm oan người vô tội đòi hỏi người tiến hành tố tụng, người phiên
dịch, người giám định phải đảm bảo sự vô tư trong khi làm nhiệm vụ của mình. Đó là
phải tôn trọng sự thật, tôn trọng pháp luật, tiến hành công việc của mình với thái độ
công tâm, khách quan, trong hoạt động tố tụng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
giải quyết vụ án.
Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch được hiểu là quyền được bày tỏ ý chí, nguyện vọng không chấp nhận một hoặc
một số chủ thể như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư
ký toà án hoặc người giám định, người phiên dịch tham gia vào quá trình tố tụng giải


quyết vụ án. Sự không chấp nhận những chủ thể trên có thể được thể hiện trong giai
đoạn tiến hành tố tụng khác nhau nếu người bị hại xét thấy việc tham gia giải quyết vụ
án của những chủ thể đó không có thể làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của họ.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại tham gia vào quá trình tố
tụng giải quyết vụ án, nên một khi người bị hại thấy trong quá trình giải quyết vụ án có
sự không đúng đắn, khách quan thì pháp luật tố tụng hình sự cho phép họ được quyền
đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch. Quy định
được ghi nhận tại điểm c khoản 2 Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003“Người

bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành
tố tụng, người giám định, người phiên dịch”. Việc thay đổi người tiến hành tố tụng có
ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết vụ án đó là đảm bảo sự vô tư, khách quan của
những người tiến hành tố tụng khi giải quyết. Ngoài ra quy định về việc thay đổi người
tiến hành tố tụng của Bộ luật Tố tụng hình sự còn có tác dụng loại trừ ra khỏi quá trình
giải quyết vụ án những người có mục tiêu cá nhân, lạm dụng chức vụ, quyền hạn gây
ra hậu quả tiêu cực đến quá trình giải quyết vụ án. Quy định này được đảm bảo thực
hiện sẽ góp phần tạo nên sự công bằng trong quá trình tố tụng và phát huy được hiệu
quả của nó.
Xác định sự thật khách quan và giải quyết vụ án khách quan, đảm bảo công
bằng là đòi hỏi tất yếu của tố tụng hình sự trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Do đó khi có những lý do xác đáng cho rằng người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch không vô tư khi làm nhiệm vụ thì người bị thiệt hại có
quyền thay đổi. Tại Điều 42 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 đã quy định các trường hợp
phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng đó là: họ đồng thời là người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án;
là người đại diện hợp pháp, người thân thích của những người đó hoặc của bị can, bị
cáo; họ đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định,
người phiên dịch trong vụ án đó; có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không
vô tư trong khi làm nhiệm vụ.
Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch được hiểu là trong quá trình giải quyết vụ án người tiến hành tố tụng phải vô tư
khi làm nhiệm vụ của mình, nếu người tiến hành tố tụng không khách quan thì phải từ
chối vụ án, nếu không từ chối vụ án thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ thay đổi. Do đây
là những chủ thể thay mặt cho Nhà nước tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét
xử, thi hành án và có vai trò quan trọng trong giải quyết vụ án và nghiêm trị các hành
vi phạm tội do vậy họ cần phải từ chối hoặc bị thay đổi để đảm bảo sự vô tư.
Ngoài ra nếu người tiến hành tố tụng không vô tư, khách quan trong quá trình
giải quyết vụ án mà họ không từ chối và cũng không bị thay đổi thì người bị hại có



quyền đề nghị thay đổi để đảm bảo vụ án được xét xử khách quan, đảm bảo quyền lợi
của người bị hại. Vì rất có thể sự không vô tư, thiên về tình cảm, tư thù cá nhân mà
người tiến hành tố tụng gây khó khăn cho người bị hại. Bên cạnh, đó người giám định,
người phiên dịch cũng phải có thái độ công tâm khi thu thập, đánh giá chứng cứ và kết
luận các vấn đề của vụ án, phải dựa vào các quy định làm căn cứ, hướng tới công lý,
bình đẵng làm mục tiêu của toàn bộ tố tụng không vì tình riêng mà thiên vị đưa ra các
quyết định không phù hợp với thực tế khách quan và trái pháp luật.16 Quyền này có giá
trị cho vụ án được giải quyết khách quan, thể hiện sự công bằng trong pháp luật. Nếu
quyền đề nghị thay đổi này không được đảm bảo thì quyền và nghĩa vụ của người bị
hại nói riêng và các bên tham gia tố tụng nói chung sẽ không được đảm bảo vì có thể
do tình cảm, thân thích, các cơ quan tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch sẽ không vô tư khi làm nhiệm vụ của mình dẫn đến có thể vụ án sẽ xét xử không
đúng như các tình tiết của nó.
Do người bị hại là người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, vì vậy
người tiến hành tố tụng không thể đồng thời là người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp, người thân thích vì không thể vô tư
trong khi tiến hành tố tụng, xem xét giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền lợi của
chính ngay bản thân mình, người mà mình đại diện, hoặc người thân thích. Còn riêng
đối với việc người giám định, người phiên dịch thì người giám định là người cung cấp
những chứng cứ cần thiết cho vụ án vì lẽ đó họ không thể đồng thời là người tiến hành
tố tụng cùng một vụ án. Vì lúc đó thì người giám định vừa là người cung cấp chứng
cứ, vừa thu thập kiểm tra, đánh giá các chứng cứ đó. Vì vậy không đảm bảo khách
quan trong quá trình giải quyết vụ án. Người phiên dịch tham gia vào việc giải quyết
vụ án khi có người tham gia tố tụng không biết tiếng Việt, sự giao tiếp trong quá trình
giải quyết vụ án và việc xác định sự thật của vụ án phụ thuộc một phần vào người
phiên dịch. Do vậy để đảm bảo sự khách quan trong khi làm nhiệm vụ thì người phiên
dịch cũng không đồng thời là người tiến hành tố tụng.17
Tóm lại, khi người bị hại thấy có những căn cứ trên từ người tiến hành tố tụng,
người giám định, người phiên dịch để đảm bảo quyền lợi của mình thì người bị hại có

quyền yêu cầu thay đổi. Đây là nguyên tắc quan trọng trong tố tụng hình sự thể hiện sự
khách quan, công bằng của Nhà nước ta trong việc giải quyết vụ án hình sự nói riêng
và pháp luật tố tụng hình sự nói chung.
2.1.1.3. Quyền đề nghị mức bồi thường và biện pháp bảo đảm bồi thường

16

Nguyễn Ngọc Chí (2008), “Đảm bảo sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người phiên dịch, người giám định
trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (08), tr.53.
17
Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân,
tr.111.


×