Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Người đại diện theo pháp luật của công ty dưới góc độ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA CƠNG TY
DƯỚI GĨC ĐỘ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP
PHÁP CỦA BÊN THỨ BA
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380107

Người hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ Trần Hoàng Nga
Học viên: Nguyễn Lê Dung Lớp: CHL-K25

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan: Luận văn Thạc sĩ này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Trần Hồng Nga, đảm bảo tính trung
thực và tn thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi xin chịu
hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày

tháng năm 2019

Tác giả luận văn

Nguyễn Lê Dung


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. BLDS: Bộ luật dân sự


2. CTCP: Công ty cổ phần
3. CTHD: Công ty hợp danh
4. CTTNHH: Công ty trách nhiệm hữu hạn
5. DNTN: Doanh nghiệp tư nhân
6. HĐQT: Hội đồng quản trị
7. HĐTV: Hội đồng thành viên
8. LDN: Luật Doanh nghiệp
9. NĐD: Người đại diện.


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN
THEO PHÁP LUẬT CỦA CƠNG TY VÀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI
ÍCH HỢP PHÁP CỦA BÊN THỨ BA ...................................................................... 6
1.1. Lý luận về đại diện .............................................................................................. 6
1.1.1. Nguồn gốc của quan hệ đại diện......................................................................... 6
1.1.2. Quan hệ pháp luật đại diện ................................................................................. 8
1.1.3. Phân loại đại diện ............................................................................................... 11
1.2. Khái quát về người đại diện theo pháp luật của công ty ............................... 13
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của người đại diện theo pháp luật của công ty ...... 14
1.2.2. Căn cứ xác lập quyền đại diện của người đại diện theo pháp luật của ty .. 19
1.2.3. Vai trò của người đại diện theo pháp luật của công ty .................................. 21
1.3. Khái quát về vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba ...... 23
1.3.1. Khái niệm “bên thứ ba” trong quan hệ đại diện theo pháp luật của công
ty ............................................................................................................................ 23
1.3.2. Căn cứ xác định “bên thứ ba” trong quan hệ đại diện theo pháp luật của
cơng ty .................................................................................................................. 26
1.3.3.


Khái niệm quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba .................................... 27

1.4. Khái quát quy định về người đại diện theo pháp luật của công ty theo Luật
Doanh nghiệp năm 2014 ........................................................................................... 29
1.4.1. Điều kiện trở thành người đại diện theo pháp luật của công ty ................... 30
1.4.2. Số lượng người đại diện theo pháp luật của công ty ...................................... 35
1.4.3. Chức danh quản lý của người đại diện theo pháp luật của công ty ............. 36
1.4.4. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của công ty ............. 37
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .......................................................................................... 39
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA CƠNG
TY DƯỚI GĨC ĐỘ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA BÊN THỨ
BA ............................................................................................................................... 40
2.1 Điều kiện trở thành người đại diện theo pháp luật của công ty ................... 40
2.1.1 Không thuộc các trường hợp bị pháp luật cấm làm người đại diện theo pháp
luật của công ty ............................................................................................ 40
2.1.2 Điều kiện về năng lực hành vi dân sự .............................................................. 41
2.1.3 Điều kiện về cư trú .............................................................................................. 43


2.1.4 Các điều kiện khác .............................................................................................. 45
2.2 Số lượng người đại diện theo pháp luật của công ty ..................................... 47
2.2.1 Ý nghĩa của quy định doanh nghiệp có thể có nhiều người đại diện theo pháp
luật đối với bên thứ ba ....................................................................................... 48
2.2.2 Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba khi giao dịch với doanh
nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật ............................................... 52
2.3 Chức danh quản lý của người đại diện theo pháp luật của công ty ............. 58
2.4 Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của công ty ............. 61
2.4.1. Quyền hạn của người đại diện theo pháp luật của công ty ........................... 61
2.4.2. Nghĩa vụ của NĐD theo pháp luật của công ty .............................................. 64

2.5 Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về người đại diện theo pháp luật của
công ty nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba ...................... 68
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .......................................................................................... 78
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 79


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Doanh nghiệp là một thực thể pháp lý, là chủ thể trong quan hệ pháp luật, có khả
năng phát sinh quyền và nghĩa vụ với Nhà nước, với đối tác, khách hàng và chủ nợ/con
nợ. Tuy nhiên, bản thân doanh nghiệp không thể tự mình xác lập và thực hiện giao dịch
mà chỉ hành động thông qua hành vi của con người cụ thể. Do đó, doanh nghiệp ln
cần có người đại diện nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp để xác lập, thực hiện
các giao dịch với các chủ thể trong doanh nghiệp (với chủ sở hữu doanh nghiệp, người
lao động,…) và với các chủ thể ngoài doanh nghiệp (khách hàng, đối tác, chủ nợ, con
nợ,…). Chính vì lẽ trên, doanh nghiệp trong suốt quá trình hoạt động, từ khi thành lập
đến khi giải thể, phá sản hoặc sáp nhập, chia, tách, cần có người đại diện theo pháp
luật.
Trong những năm gần đây, chế định về người đại diện theo pháp luật của công ty
đã được quan tâm, chú trọng, có những bước thay đổi lớn, phù hợp với thực tiễn. Luật
Doanh nghiệp 2014 và Bộ luật Dân sự 2015 đã có nhiều sửa đổi khá quan trọng về
người đại diện theo pháp luật. Có thể kể đến như: quy định về khái niệm người đại
diện theo pháp luật của công ty, số lượng người đại diện, căn cứ xác lập quyền đại
diện, trường hợp người đại diện vắng mặt tại Việt Nam,… Những quy định này được
coi là cách mạng, thể hiện quyền tự do kinh doanh, tác động lớn đến hoạt động của
doanh nghiệp. Bởi doanh nghiệp có thể tự do xác định số lượng, chức danh quản lý là
người đại diện theo pháp luật cũng như chủ động phân công quản lý, điều hành hoạt
động kinh doanh. Quan trọng không kém, những quy định về người đại diện theo pháp

luật của công ty theo Luật Doanh nghiệp 2014 và Bộ luật Dân sự 2015 cũng có ảnh
hưởng nhất định đến người thứ ba, giúp tránh tình trạng giao dịch được xác lập không
đúng thẩm quyền và có nguy cơ vơ hiệu, gây thiệt hại cho bên thứ ba. Tuy nhiên, quy
định về người đại diện theo pháp luật của công ty theo pháp luật hiện hành cịn chung
chung, dễ dẫn đến tình trạng xung đột thẩm quyền giữa những người đại diện theo
pháp luật, làm thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba.
Nhằm nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống về chế định người đại diện theo
pháp luật của cơng ty, từ đó đề ra một số giải pháp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người thứ ba trong quan hệ với những người đại diện theo pháp luật của công
ty; tác giả lựa chọn đề tài: “Người đại diện theo pháp luật của công ty dưới góc độ
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba” làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
luật học.


2

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mặc dù chế định người đại diện theo pháp luật của công ty theo Luật doanh nghiệp
2014 đã có hiệu lực và áp dụng trên thực tế gần 04 năm, nhưng cho đến nay ở Việt
Nam vẫn đang thiếu những cơng trình nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ về chế
định người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định của pháp luật hiện hành.
Phần lớn những cơng trình nghiên cứu hiện nay về người đại diện theo pháp luật của
công ty được thể hiện dưới dạng các bài báo khoa học. Đáng chú ý nhất có thể kể đến
như:
-

Bùi Xuân Hải (2007), “Học thuyết người đại diện và mấy vấn đề của pháp
luật công ty Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý số 4/2007.

-


Ngơ Huy Cương (2009) “Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt
Nam – Nhìn từ góc độ luật so sánh”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số
04/2009.

Đặc biệt, từ khi Luật Doanh nghiệp 2014 ra đời, có khơng ít những bài nghiên
cứu về điểm mới của chế định NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp như:
-

Bùi Đức Giang (2015), “Hành lang pháp lý mới về người đại diện theo pháp
luật của Luật Doanh nghiệp 2014”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số
06/2015;

-

Ngơ Gia Hồng, Nguyễn Thị Thương (2016), “Người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 2014 dưới góc độ quyền tự do
kinh doanh”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 07/2016;

-

Nguyễn Thị Thanh (2016), “Người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề tháng 8/2016;

Các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã khái qt được quy định về người đại diện
theo pháp luật của công ty theo pháp luật hiện hành, đặc biệt đã chỉ ra được những
điểm mới của Luật doanh nghiệp năm 2014 và đưa ra một số đề xuất, kiến nghị. Tuy
nhiên, các nghiên cứu khoa học này mới dừng lại ở mức độ một bài báo khoa học, do
đó chưa có bài nghiên cứu mang tính khái qt chung, chưa giàu tính lý luận, chưa đi
sâu phân tích các khía cạnh của chế định người đại diện theo pháp luật của cơng ty.

Bên cạnh đó, những nghiên cứu khoa học này tiếp cận quy định về người đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp dưới góc độ quyền tự do kinh doanh, do đó chưa khai thác
được khía cạnh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba khi áp dụng quy
định về người đại diện theo pháp luật của công ty trên thực tế.


3

Ngồi ra, tính đến thời điểm hiện tại, đã có một số luận văn nghiên cứu về chế
định người đại diện theo pháp luật của cơng ty. Có thể kể đến như:
-

Lê Việt Phương (2013), Người đại diện theo pháp luật của công ty theo
pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật TP.
Hồ Chí Minh.

-

Ngô Thị Huệ My (2017), Chế định người đại diện theo pháp luật trong Luật
Doanh nghiệp 2014, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường Đại học
Luật TP. Hồ Chí Minh.

-

Nguyễn Khánh Duy (2017), Quy chế pháp lý về người đại diện của công ty
theo pháp luật Úc và kinh nghiệm cho Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp cử
nhân Luật, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.

Tuy nhiên, cơng trình nghiên cứu nêu trên của tác giả Lê Việt Phương nghiên cứu
chế định người đại diện theo pháp luật của công ty theo Luật Doanh nghiệp 2005 đã

hết hiệu lực thi hành và có rất nhiều điểm khác biệt với Luật Doanh nghiệp 2014. Hai
cơng trình của tác giả Ngô Huệ My và Nguyễn Khánh Duy tuy nghiên cứu quy định
về người đại diện theo pháp luật của công ty theo Luật Doanh nghiệp hiện hành song
chỉ dừng lại ở mức độ khái quát và đang nghiên cứu ở trình độ cử nhân, do đó sẽ có
những hạn chế khách quan nhất định.
Đáng chú ý, Tiến sĩ Nguyễn Hợp Toàn khi nghiên cứu về chế định người đại diện
theo pháp luật của công ty đã đặt ra vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên
thứ ba trong công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có nhiều người đại diện
theo pháp luật (tại bài đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân số 09/2017). Tác giả Nguyễn
Hợp Tồn khơng chỉ làm rõ ý nghĩa của việc pháp luật cho phép cơng ty có nhiều hơn
một người đại diện theo pháp luật mà còn chỉ ra những bất cập của pháp luật doanh
nghiệp hiện hành trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba. Tuy
nhiên, dưới hình thức là một bài báo khoa học, cơng trình này chưa thể phân tích tổng
quát nhiều khía cạnh của chế định người đại diện theo pháp luật có khả năng tác động
đến quyền lợi của bên thứ ba (điều kiện trở thành người đại diện, chức danh quản lý
của người đại diện, quyền và nghĩa vụ của người đại diện,…) mà chỉ phân tích khía
cạnh quy định pháp luật về số lượng người đại diện theo pháp luật của công ty.
Từ những phân tích tình hình nghiên cứu nêu trên, có thể rút ra rằng: Chế định
người đại diện theo pháp luật của công ty không phải là một vấn đề mới đặt ra. Đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu về đề tài này; Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu nêu
trên mới chỉ dừng lại ở mức khái quát hoặc tiếp cận chế định này dưới góc độ quyền


4

tự do kinh doanh, cịn đang thiếu các cơng trình đi sâu nghiên cứu, phân tích và làm rõ
chế định người đại diện theo pháp luật của công ty theo Luật Doanh nghiệp 2014 dưới
góc độ bảo vệ quyền và lợi ích của người thứ ba.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Thứ nhất, nghiên cứu và làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về chế

định người đại diện theo pháp luật của công ty theo Luật Doanh nghiệp 2014 và các
văn bản quy phạm pháp luật có liên quan nhằm làm rõ bản chất pháp lý của người đại
diện theo pháp luật của công ty theo pháp luật hiện hành.
Thứ hai, phân tích làm rõ tác động của chế định người đại diện theo pháp luật của
công ty theo Luật Doanh nghiệp 2014 đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba,
bao gồm cả tác động tích cực lẫn tiêu cực.
Thứ ba, chỉ ra những hạn chế, bất cập, phân tích những vấn đề còn tồn tại trong
các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến chế định người đại diện theo pháp
luật của cơng ty dưới góc độ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba.
Thứ tư, dựa trên những nghiên cứu có được, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật về người đại diện theo pháp luật của công ty để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người thứ ba; đồng thời tạo hành lang pháp lý vững chắc để các nhà đầu
tư yên tâm khi thành lập doanh nghiệp và tiến hành kinh doanh.
4. Phạm vi nghiên cứu
Tác giả tập trung nghiên cứu về người đại diện theo pháp luật của Công ty hợp
danh, Công ty cổ phần và Công ty trách nhiệm hữu hạn theo quy định của Luật Doanh
nghiệp 2014. Tác giả không nghiên cứu về người đại diện theo pháp luật của Doanh
nghiệp tư nhân và Hợp tác xã.
Tác giả tiếp cận chế định người đại diện theo pháp luật của cơng ty dưới góc độ
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn, tác giả sẽ sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên
cứu xun suốt tồn bộ q trình như:
Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng để phân tích bản chất lý luận
của quan hệ đại diện nói chung và quan hệ đại diện theo pháp luật của công ty nói
riêng;


5


Phương pháp phân tích, chứng minh, tổng hợp, để nghiên cứu các quy định pháp
luật, tài liệu, hồ sơ liên quan đến đề tài nghiên cứu;
Phương pháp so sánh cũng được tác giả sử dụng xuyên suốt luận văn để tìm ra
điểm giống nhau, khác nhau, tiến bộ, hạn chế của các quy định pháp luật nước ngoài
tương tự liên quan đến chế định người đại diện theo pháp luật của cơng ty;
Ngồi ra, để bổ trợ cho các phương pháp nghiên cứu khác và hoàn thiện luận văn,
tác giả cũng như một số phương pháp nghiên cứu khác như: tra cứu, thu thập thông tin,
thống kê,…
6. Kết cấu luận văn:
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được
chia làm hai chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về người đại diện theo pháp luật của công
ty và vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba
Chương 2: Thực trạng và một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về người
đại diện theo pháp luật của cơng ty dưới góc độ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bên thứ ba


6

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP
LUẬT CỦA CÔNG TY VÀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP
PHÁP CỦA BÊN THỨ BA
1.1.

Lý luận về đại diện

1.1.1. Nguồn gốc của quan hệ đại diện
Hoạt động của con người dựa trên tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Trong đời

sống hàng ngày, để thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần con người cần giao
tiếp, trao đổi và tương tác với nhau. Khi xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự, hầu
hết các nhu cầu của con người được đáp ứng thơng qua hành động của chính bản thân
người có nhu cầu xác lập giao dịch. Tuy nhiên, thời gian có hạn nhưng nhu cầu thì
nhiều, quan hệ thì đa dạng nhưng năng lực con người thì có hạn (thậm chí bị mất hoặc
khơng có năng lực để tiến hành giao dịch), mỗi con người không thể thành thạo được
tất cả mọi thứ trong xã hội, do vậy để phục vụ nhu cầu cuộc sống, có đơi lúc người này
phải nhờ tới sự thành thạo của người kia và ngược lại 1. Nói cách khác, có những trường
hợp mà ở đó các chủ thể khơng thể tự mình tham gia các giao dịch hay khơng muốn tự
mình tham gia các giao dịch nên cần đến sự trợ giúp của các chủ thể khác. Như vậy,
quan hệ đại diện được hình thành.
Trước Cơng ngun, Luật La Mã khơng chấp nhận vấn đề đại diện do tính chất
trọng hình thức đối với hợp đồng 2. Đến thế kỷ XVIII, trong bối cảnh thương mại phát
triển với sự xuất hiện của việc giao một con tàu cho người thuyền trưởng điểu khiển
hay giao việc quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh cho một người nắm quyền điều
hành,… quan hệ đại diện đã dần được công nhận. Cùng với sự thay đổi của các hình
thái kinh tế - xã hội thì quan hệ đại diện ngày càng phát triển hơn. Từ giữa thế kỷ XIX,
các nhà làm luật đã cho rằng công ty khơng thể tự mình hành động mà phải thơng qua
con người cụ thể đại diện cho công ty xác lập và thực hiện các giao dịch.
BLDS Pháp ra đời năm 1804 đã quy định: “Đại diện là hợp đồng, theo đó, một
người trao cho người khác quyền thực hiện một cơng việc nhân danh và vì lợi ích của

Lê Việt Phương (2013), Người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định của pháp luật Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật TP.HCM, Tr. 5.
2
Ngô Huy Cương (2009), “Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam – Nhìn từ góc độ luật so
sánh”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số 4(252)/2009, Tr.26
1



7

người được đại diện” 3. Qua đó, đã đề cập tới việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân
sự của NĐD là “nhân danh” và “vì lợi ích” của người được đại diện. Định nghĩa này
gần giống với quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề đại diện.
Đến thế kỷ XX, đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề đại diện dưới góc độ luật, kinh
tế và quản trị. Các nhà làm luật đều thừa nhận rằng một người có thể biểu lộ ý chí
thơng qua hành động của chính bản thân mình hoặc thơng qua hành động của người
khác bằng cơ chế đại diện. Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan năm 1925 định
nghĩa: “Đại diện là một hợp đồng, trong đó một người gọi là NĐD được quyền hành
động cho một người gọi là người được đại diện và đồng ý hành động như vậy” 4. Như
vậy, các nhà làm luật Thái Lan đã nhấn mạnh bản chất hợp đồng của quan hệ đại diện
và thể hiện được mối quan hệ “nhân danh” giữa NĐD và người được đại diện.
Định nghĩa “đại diện” trong pháp luật Việt Nam có nguồn gốc từ trường phái luật
tự nhiên giống với Bộ luật dân sự Pháp. Cụ thể, BLDS năm 2015 của Việt Nam quy
định: “Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc
pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự” 5. Từ định nghĩa này có thể hiểu,
khi NĐD đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi được ủy quyền với bên
thứ ba nhưng không hành động bằng tên của người được đại diện thì khơng làm phát
sinh hậu quả pháp lý với người được đại diện.
Việc thừa nhận quan hệ đại diện xét về phương diện vi mô giúp các chủ thể thuận
tiện hơn trong việc giao kết và thực hiện các giao dịch dân sự, về phương diện vĩ mô
thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và giúp phát triển các quan hệ xã hội. “Nếu
khơng có luật đại diện, thì mọi người phải tự hành động cho mình và khơng thể sử
dụng đại diện, người bán hàng hoặc người đưa tin, còn các công ty không thể thực hiện
được các chức năng của mình và phải chấm dứt hoạt động” 6.
Theo học thuyết về đại diện, quan hệ giữa các cổ đông và người quản lý công ty
được hiểu là quan hệ đại diện – hay quan hệ ủy thác. Mối quan hệ này được coi là quan
hệ hợp đồng mà theo đó các cổ đơng bổ nhiệm, chỉ định người khác để thực hiện việc
quản lý công ty cho họ và trong đó bao gồm cả việc trao thẩm quyền để ra quyết định


Điều 1984 BLDS Pháp,
truy cập ngày
12/11/2018
4
Ngô Huy Cương, tlđd (3), Tr.29.
5
Khoản 1 Điều 134 BLDS năm 2015
6
Robert W. Emerson, John W.Hardwick (1997), Business Law, Barron’s Education series Inc, Page.247.
3


8

định đoạt tài sản của công ty 7. Và về sau, khi vấn đề tách bạch giữa quyền sở hữu và
quyền quản lý xuất hiện thì cơ chế quản trị công ty được dùng đề giải quyết các vấn đề
đại diện 8. Như vậy, mối quan hệ giữa chủ sở hữu với đội ngũ quản lý công ty cũng
xuất phát từ quan hệ đại diện.
Có thể thấy, quan hệ đại diện đã xuất hiện từ rất sớm, là một quan hệ xã hội được
thừa nhận rộng rãi và pháp luật ghi nhận. Nhờ có chế định đại diện, những người khơng
có, bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự có thể tham gia giao dịch dân sự
thơng qua hành vi của NĐD; hoặc một người có thể “sử dụng” tri thức, khả năng, kinh
nghiệm của người khác thay mình thực hiện những giao dịch dân sự. Hiểu được nguồn
gốc của quan hệ đại diện sẽ hiểu được những quy định pháp luật liên quan đến vấn đề
đại diện để từ đó, vận dụng và giải quyết trên thực tế.
1.1.2. Quan hệ pháp luật đại diện
Lấy nền tảng từ một câu châm ngôn pháp lý La-tinh: “Qui facit per alium, facit
per se”, tạm dịch là “hành động của một người thông qua chủ thể khác được pháp luật
coi là hành động của chính người đó”, pháp luật về đại diện được hình thành 9. Quan

hệ đại diện là một quan hệ pháp luật. Sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt quan hệ đại diện có thể là: (i) Sự biến: là những hiện tượng khách quan xảy
ra khơng phụ thuộc vào ý chí con người, chẳng hạn như sự kiện chủ thể không có, hạn
chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, quan hệ đại diện phát sinh không phải trên cơ
sở NĐD được ủy quyền mà phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước hoặc (ii) Hành vi: là
những xử sự chủ quan xảy ta phụ thuộc vào ý chí con người như hành vi ký hợp đồng
đại diện thông qua sự thỏa thuận của các bên.
Khi nghiên cứu một quan hệ pháp luật, cần phân tích các thành phần tạo nên quan
hệ pháp luật đó. Quan hệ pháp luật đại diện bao gồm các yếu tố cấu thành là: chủ thể,
khách thể và nội dung.
1.1.2.1. Chủ thể của quan hệ đại diện
Chủ thể của quan hệ pháp luật đại diện bao gồm: Người đại diện và Người được
đại diện. Người được đại diện là người có quyền lợi và nghĩa vụ đối với bên thứ ba

Bùi Xuân Hải (2007), “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật cơng ty Việt Nam”, Tạp chí Khoa
học và pháp lý, Số 4 (41)/2007, Tr. 22.
8
Hà Thị Thanh Bình (2005), “Sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quản lý, điều hành trong cơng ty”, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, Số 10 (330)/2015, Tr.46.
9
Hồ Ngọc Hiển (2007), “Nghĩa vụ của người đại diện và người ủy quyền theo pháp luật kinh doanh của Hoa
Kỳ trong sự so sánh với các quy định pháp luật tương ứng của Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số
03/2007, Tr.57.
7


9

(hay cịn gọi là người thứ ba) tuy nhiên khơng muốn hoặc khơng thể tự mình thực hiện
mà hành động thông qua NĐD. Người đại diện là người trực tiếp xác lập quan hệ với

bên thứ ba, nhân danh và hành động vì lợi ích của người được đại diện.
Người được đại diện có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc tổ chức khơng có tư cách
pháp nhân (hộ gia đình, tổ hợp tác,…). Cá nhân được đại diện có thể là người có năng
lực hành vi dân sự đầy đủ, người chưa có hành vi dân sự đầy đủ, người bị mất hoặc
hạn chế năng lực hành vi dân sự 10. Pháp nhân là tổ chức có năng lực pháp luật dân sự,
tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập và chịu trách nhiệm dân sự về việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Pháp nhân được đại diện là chủ thể tiếp nhận các
hậu quả pháp lý từ quan hệ do NĐD xác lập, thực hiện đúng thẩm quyền đại diện. Đối
với hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác khơng có tư cách pháp nhân, thì các thành
viên của hộ gia đình, tổ hợp tác có thể ủy quyền cho NĐD tham gia xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự. Việc ủy quyền đại diện phải được lập thành văn bản 11. Giao dịch dân
sự phát sinh do NĐD của hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập, thực hiện chung vì lợi ích
chung làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của tất cả các thành viên trong hộ gia đình và
tổ hợp tác.
Khác với BLDS năm 2005, theo quy định tại BLDS năm 2015, NĐD có thể là cá
nhân hoặc pháp nhân, trừ trường hợp NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp bắt buộc
phải là cá nhân 12. Tư cách NĐD có thể hình thành do được ủy quyền hoặc theo quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy
định của pháp luật. NĐD phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự
phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện. Trong một số trường hợp phải
đáp ứng thêm một số điều kiện khác tùy thuộc vào yêu cầu của công việc đại diện.
LDN năm 2014 quy định NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp phải có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ, khơng phải là đối tượng bị cấm thành lập, quản lý doanh nghiệp. Việc
quy định các điều kiện đối với NĐD nhằm đảm bảo việc đại diện diễn ra thuận lợi,
hiệu quả và không gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba.
1.1.2.2. Khách thể của quan hệ đại diện
Tương tự như những quan hệ pháp luật khác, khách thể của quan hệ đại diện là
những lợi ích và giá trị xã hội mà chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đại diện hướng
tới trong một động thái tích cực 13. Nói cách khác, vì các lợi ích vật chất, tinh thần hoặc
Điều 20, 21, 22 và 24 BLDS năm 2015.

Điều 101 BLDS năm 2015.
12
Khoản 1 Điều 13 LDN 2014
13
Lê Vương Long (2006), Những vấn đề lý luận về quan hệ pháp luật, NXB Tư pháp, Tr.92.
10
11


10

giá trị xã hội mà người được đại diện và người đại diện mới tham gia quan hệ đại diện
và xác lập quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ đại diện đó.
Bản chất của quan hệ đại diện là NĐD nhân danh và vì lợi ích của người được
đại diện. Khi tham gia quan hệ đại diện, NĐD mong muốn mang lại lợi ích cho cá nhân
hoặc pháp nhân được đại diện. Nói như vậy khơng có nghĩa là NĐD khơng mong muốn
lợi ích nào từ cơng việc đại diện. Mục đích của họ có thể chỉ là hồn thành nghĩa vụ
bắt buộc phải làm (bị Tịa án chỉ định), hay vì lợi ích vật chất (đại diện theo pháp luật
của cơng ty được thanh tốn thù lao, được trả tiền khi thực hiện công việc đại diện)
hoặc mang lại giá trị phi vật chất cho bản thân (có vị trí, địa vị trong xã hội).
Đối với người được đại diện, khi tham gia quan hệ pháp luật đại diện để NĐD
nhân danh và hành động vì lợi ích của mình, mục tiêu họ hướng đến là giá trị vật chất,
tinh thần hoặc giá trị xã hội. Ví dụ đối với doanh nghiệp, việc có NĐD theo pháp luật
là điều kiện thiết yếu để công ty vận hành bình thường, mang lại giá trị doanh thu, lợi
nhuận, uy tín, thương hiệu cho doanh nghiệp. Đối với người được đại diện là cá nhân,
khi không thể hoặc không muốn tự mình thực hiện giao dịch, họ tham gia quan hệ đại
diện với mong muốn thu được giá trị vật chất, tinh thần hoặc hoàn thành nghĩa vụ với
bên thứ ba bằng việc sử dụng khả năng, kinh nghiệm, uy tín của NĐD.
1.1.2.3. Nội dung quan hệ đại diện
Nội dung của quan hệ pháp luật đại diện là quyền và nghĩa vụ của các bên tham

gia trong những hành vi thực tế sử dụng các quyền và nghĩa vụ đó 14.
Quyền và nghĩa vụ của NĐD có thể phát sinh do thỏa thuận giữa các bên trong
quan hệ đại diện (trong trường hợp đại diện theo ủy quyền) hoặc theo quy định pháp
luật, quyết định của cơ quan có thẩm quyền hay điều lệ của pháp nhân (trong trường
hợp đại diện theo pháp luật). NĐD chỉ được thực hiện các giao dịch dân sự trong phạm
vi đại diện. Đối với những giao dịch dân sự do người khơng có quyền đại diện xác lập,
thực hiện hoặc xác lập, thực hiện vượt q phạm vi đại diện thì khơng làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ của người được đại diện 15. Do đó, NĐD sẽ chịu trách nhiệm về
phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện và chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại,
trách nhiệm hành chính, dân sự, hình sự khác đối với những hành vi vi phạm gây ra
thiệt hại cho người được đại diện và người thứ ba.

Trường Đại học Luật Hà Nội (1997), Giáo trình lý luận Nhà nước và Pháp luật, NXB Công an nhân dân,
Tr.437.
15
Khoản 1 Điều 142, Khoản 1 Điều 143 BLDS năm 2015.
14


11

Hiện nay, BLDS không quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của người được đại
diện. Dựa trên bản chất của quan hệ đại diện, người được đại diện có thể có các quyền
và nghĩa vụ sau: Quyền được hưởng các lợi ích do NĐD thực hiện nhân danh mình,
được giám sát và yêu cầu NĐD báo cáo kết quả thực hiện công việc đại diện (đối với
trường hợp đại diện theo ủy quyền), có quyền thay thế NĐD theo thỏa thuận hoặc theo
quy định pháp luật; đồng thời có nghĩa vụ cung cấp các điều kiện cần thiết để NĐD
thực hiện công việc đại diện, nghĩa vụ trả thù lao theo thỏa thuận hoặc theo quy định
pháp luật (đặc biệt là trong công ty, thù lao đại diện luôn phải được chi trả, cho dù sự
chi trả là quá mức hay vẫn chưa thỏa đáng 16).

1.1.3. Phân loại đại diện
Việc phân loại quan hệ đại diện được thực hiện không giống nhau ở các truyền
thống pháp luật khác nhau. Đối với các nước theo hệ thống thông luật, quan hệ đại diện
khơng chú trọng về vấn đề phân nhóm. Bởi lẽ, dù có chia thành những loại nào đi nữa
thì bản chất quan hệ đại diện vẫn khơng thay đổi. Đặc biệt, vấn đề đại diện theo pháp
luật không được thừa nhận ở hệ thống thông luật, ngay cả cha mẹ cũng không là đại
diện đương nhiên của người chưa thành niên 17. Theo đó, khơng có bất kỳ trường hợp
nào một người trở thành NĐD cho người khác một cách tự nhiên. Tại quốc gia theo
truyền thống pháp luật xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, quan hệ đại diện có thể phân
loại thành các nhóm lớn là quan hệ đại diện theo pháp luật đối với cá nhân, quan hệ
đại diện theo pháp luật đối với cơ quan tổ chức và quan hệ đại diện theo ủy quyền 18.
Căn cứ vào căn cứ xác lập, quan hệ đại diện được chia thành 2 loại: Đại diện theo
pháp luật và đại diện theo ủy quyền.
1.1.3.1. Đại diện theo pháp luật
Trong khi BLDS năm 2005 định nghĩa: “Đại diện theo pháp luật là đại diện do
pháp luật quy định hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định” 19, BLDS năm
2015 lại trình bày theo hướng liệt kê các trường hợp đại diện theo pháp luật của cá

Ian Ramsay, “Directors’ and Officers’ Remuneration: The Role of the Law” Pg. 351,
/>33068111121025116094111004086102027022096016013008018079086005074112089009032038080028021
10212000807100712601800906312501702311811509206908312007809511501411507200400406606907410
7003105110020115&EXT=pdf, Truy cập ngày 05/09/2018.
17
Lê Thị Bích Thọ (2001), “Một số ý kiến về vấn đề đại diện trong ký kết hợp đồng kinh tế”, Tạp chí Khoa
học pháp lý, Số 2/2001, Tr.27.
18
Tưởng Duy Lượng (2007), “Một vài suy nghĩ về đại diện trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Khoa học pháp lý,
số 1 (38)/2007, Tr.21.
19
Điều 140 BLDS năm 2005

16


12

nhân và pháp nhân 20. Tuy nhiên, dựa vào căn cứ xác lập quyền đại diện có thể hiểu
đại diện theo pháp luật là quan hệ đại diện được xác lập dựa trên quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền (Ví dụ: Tịa án chỉ định NĐD đối với người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự), theo Điều lệ của pháp nhân (Ví dụ: Điều lệ Công ty CP A
quy định NĐD theo pháp luật của Cơng ty là Ơng Nguyễn Văn B) hoặc thuộc các
trường hợp pháp luật u cầu phải có NĐD (Ví dụ: Cha, mẹ đối với con chưa thành
niên). Theo BLDS hiện hành, NĐD theo pháp luật cịn có thể là “người do Tịa án chỉ
định trong q trình tố tụng tại Tòa án”. Điều này cho thấy thẩm quyền của Tòa án
được tăng cường trong quá trình giải quyết các tranh chấp về đại diện nói chung và đại
diện theo pháp luật nói riêng 21.
Đối với NĐD theo pháp luật của pháp nhân, LDN năm 2014 ra đời trước BLDS
hiện hành đã quy định CTTNHH và CTCP có thể có một hoặc nhiều NĐD theo pháp
luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ
của NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp. Đây là một trong những quy định rất mới
và hết sức tiến bộ, xuất phát từ thực tiễn hoạt động của các pháp nhân, góp phần đảm
bảo quyền tự do kinh doanh cho các doanh nghiệp nhưng cũng dẫn đến nguy cơ làm
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba nếu khơng có cơ chế quản lý
hữu hiệu.
NĐD theo pháp luật chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi
đại diện căn cứ vào quy định pháp luật, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và Điều lệ của pháp nhân. Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại
diện thì NĐD theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi
ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác 22. BLDS năm
2015 cũng quy định một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc
pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập,

thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là NĐD
của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác 23. Điều này cho thấy, BLDS
năm 2015 đã có những quy định rõ ràng, chặt chẽ hơn nhằm đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp cho người được đại diện.
1.1.3.2. Đại diện theo ủy quyền

Điều 136 và 137 BLDS năm 2015
Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015, NXB Hồng Đức,
Tr.179.
22
Khoản 2 Điều 141 BLDS năm 2015
23
Khoản 3 Điều 141 BLDS năm 2015
20
21


13

BLDS năm 2015 cũng không đưa ra định nghĩa về đại diện theo ủy quyền. Tuy
nhiên, có thể hiểu đại diện theo ủy quyền là quan hệ đại diện được xác lập theo sự ủy
quyền giữa người đại điện và người được đại diện. Khác với đại diện theo pháp luật,
đại diện theo ủy quyền là trường hợp một người có năng lực pháp luật và năng lực
hành vi dân sự đầy đủ nhưng không trực tiếp thực hiện công việc đó mà ủy quyền cho
người khác nhân danh mình xác lập và thực hiện giao dịch dân sự. Việc ủy quyền đại
diện được thể hiện dưới nhiều hình thức: Ủy quyền bằng văn bản (Giấy ủy quyền, Hợp
đồng ủy quyền, …), Ủy quyền bằng miệng (đối với những trường hợp pháp luật không
bắt buộc phải lập thành văn bản).
Khi tiến hành xác lập và thực hiện một giao dịch dân sự, vì lý do khách quan hoặc
chủ quan (khơng đảm bảo sức khỏe, hạn chế về kiến thức, không đủ thời gian thực hiện

giao dịch, …) nên cá nhân hoặc pháp nhân không trực tiếp xác lập và thực hiện giao
dịch mà ủy quyền cho người khác thay mặt mình thực hiện các giao dịch trong phạm
vi ủy quyền. Quy định này của pháp luật không chỉ đảm bảo quyền tự do xác lập giao
dịch dân sự của các chủ thể mà còn đảm bảo việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của
người được đại diện với bên thứ ba. Trong một số trường hợp, pháp luật không cho
phép chủ thể xác lập và thực hiện giao dịch thông qua NĐD. Ví dụ như: kết hơn, ly
hơn, …
Trong quan hệ đại diện theo ủy quyền, phạm vi đại diện phụ thuộc vào sự thỏa
thuận của bên ủy quyền và bên được ủy quyền. NĐD chỉ được thực hiện các hành vi
trong khuôn khổ nội dung ủy quyền đã thỏa thuận với người được đại diện. Đối với
trường hợp đại diện theo pháp luật, NĐD theo pháp luật sẽ thực hiện tất cả các quyền
hạn, nghĩa vụ trong phạm vi quy định của pháp luật, điều lệ pháp nhân và quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền vì lợi ích của người được đại diện. Trong khi đó,
đại diện theo ủy quyền là hình thức đại diện phụ thuộc vào sự ủy quyền của người được
đại diện, và NĐD chỉ được thực hiện các quyền hạn và nghĩa vụ trong phạm vi được
ủy quyền. Đây chính là điểm khác biệt lớn giữa đại diện theo pháp luật và đại diện theo
ủy quyền.
NĐD theo ủy quyền phải trực tiếp thực hiện các giao dịch dân sự theo nội dung
đã thỏa thuận. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, NĐD theo ủy quyền có thể ủy
quyền lại cho người khác thực hiện thay thẩm quyền đại diện của mình 24.
1.2.

24

Khái quát về người đại diện theo pháp luật của công ty

Khoản 1 Điều 564 BLDS năm 2015


14


Theo quy định tại Khoản 7 Điều 4 LDN năm 2014, doanh nghiệp là tổ chức có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của
pháp luật nhằm mục đích kinh doanh. Doanh nghiệp có thể có tư cách pháp nhân
(CTCP, CTTNHH, CTHD) hoặc khơng có tư cách pháp nhân (DNTN). Trong phạm vi
nghiên cứu của đề tài, tác giả chỉ nghiên cứu về chế định NĐD của CTCP, CTTNHH
và CTHD – gọi chung là Công ty.
Công ty với tư cách là một tổ chức có tư cách pháp nhân - một thực thể pháp lý
độc lập, tự bản thân nó khơng thể hành động cho chính mình mà chỉ có thể hành động
thông qua con người cụ thể - những người quản lý cơng ty. Cũng vì thế, cơng ty ln
cần có NĐD trong giao dịch để xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình25.
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của người đại diện theo pháp luật của công ty
1.2.1.1. Khái niệm người đại diện theo pháp luật của Công ty
Theo từ điển pháp luật, đại diện theo pháp luật được hiểu là “đại diện do pháp
luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định” 26. Thuật ngữ “Người
đại diện theo pháp luật” – “Legal Representative” được định nghĩa không giống nhau
tại các hệ thống pháp luật trên thế giới. Luật Công ty năm 2006 của Anh định nghĩa
NĐD theo pháp luật của công ty là “một cá nhân được ủy quyền bởi cơng ty có quyền
thực hiện (thay mặt cơng ty) các quyền hạn tương tự như cơng ty có thể thực hiện” 27.
Có thể thấy, pháp luật Anh cho rằng quyền hạn của NĐD theo pháp luật công ty xuất
phát từ quan hệ ủy quyền mà bên ủy quyền là công ty. Luật Công ty Úc quy định: “Đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân do doanh nghiệp chỉ định để thực hiện
tất cả hoặc bất kỳ quyền hạn nào mà doanh nghiệp có thể thực hiện” 28. Điều 198A
Luật Công ty năm 2001 của Úc với nội dung “director” thay mặt công ty thực hiện
những quyền hạn của công ty, trừ những quyền hạn mà Luật này hoặc điều lệ (nếu có)
u cầu cơng ty phải thực hiện trong cuộc họp chung. Qua đó có thể thấy, NĐD của
công ty trong hoạt động kinh doanh và trong mối quan hệ với cơ quan hành chính theo
pháp luật Úc chính là các “directors”. Do đó, “director” khi sử dụng trong khoa học
pháp lý Úc không thể hiểu chỉ là một chức danh Giám đốc/Tổng giám đốc. Theo nhiều
nghiên cứu, “director” là thuật ngữ dùng để chỉ chức năng mà khơng nói đến chức vụ;


Bùi Xn Hải (2007), tlđd (7), Tr.21.
Nguyễn Ngọc Điệp (1999), 1200 thuật ngữ pháp lý Việt Nam, NXB Tp.HCM, Tr.13.
27
Khoản 2 Điều 323 Luật Công ty năm 2006 của Anh,
truy cập ngày 19/09/2018.
28
Điều 250D Luật Công ty Úc năm 2001,
truy cập ngày 22/12/2018.
25
26


15

họ có thể là Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Thư ký HĐQT hay Tổng giám đốc 29. Luật Công
ty của Nhật Bản tiếp cận NĐD theo pháp luật của công ty thông qua chức năng của
người quản lý “người quản lý có quyền thực hiện bất kỳ và tất cả các hành vi tư pháp
và phi tư pháp nhân danh công ty liên quan đến hoạt động kinh doanh của mình”

30

.

Nhìn chung, pháp luật các nước đều quy định NĐD theo pháp luật của công ty là người
được doanh nghiệp chỉ định để thực hiện các quyền hạn, nghĩa vụ nhân danh công ty.
Theo pháp luật Việt Nam, NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp là “cá nhân đại
diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của
doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác

theo quy định của pháp luật”

31

. LDN năm 2014 đã thể hiện sự tiến bộ so với LDN

2005. Trước đó, LDN 2005 khơng đưa ra khái niệm NĐD theo pháp luật của doanh
nghiệp mà chỉ quy định chức danh quản lý là NĐD theo pháp luật của từng loại hình
doanh nghiệp. NĐD theo pháp luật cũng không được quy định tại điều khoản riêng
trong LDN 2005 mà nằm rải rác tại các điều khoản về cơ cấu tổ chức, quản lý của từng
loại hình doanh nghiệp (CTTNHH: Khoản 5 Điều 67, Khoản 1 Điều 74; CTCP: Khoản
1 Điều 116; CTHD: Khoản 1 Điều 137).
Theo BLDS năm 2015 thì NĐD theo pháp luật đối với pháp nhân thuộc một trong
các trường hợp: i) Người được pháp luật chỉ định theo Điều lệ; ii) Người có thẩm quyền
đại diện theo quy định của pháp luật; hoặc iii) Người do Tịa án chỉ định trong q
trình tố tụng tại Tòa án 32 và chức năng cơ bản của họ là “nhân danh và vì lợi ích của
pháp nhân xác lập, thực hiện giao dịch dân sự” 33. Quy định như vậy đã khắc phục
nhược điểm của BLDS năm 2005. Bởi lẽ tại Khoản 4 Điều 141 BLDS năm 2005 quy
định NĐD theo pháp luật của pháp nhân phải là người đứng đầu của pháp nhân là
không hợp lý, vì khái niệm “người đứng đầu” là khơng rõ ràng và khó xác định 34.
NĐD theo pháp luật của cơng ty cịn được gọi là đại diện đương nhiên, tức là
pháp luật công nhận quyền đương nhiên nhân danh cơng ty trong các hoạt động của

Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2013), Cơng ty: vốn, quản lý và tranh chấp theo Luật Doanh
nghiệp 2005 (tái bản lần 1), NXB Tri Thức, Tr.275-276.
30
Khoản 1 Điều 11 Luật Công ty năm 2005 của Nhật Bản,
truy cập ngày 12/09/2018.
31
Khoản 1 Điều 13 LDN năm 2014.

32
Khoản 1 Điều 137 BLDS năm 2015.
33
Khoản 1 Điều 134 BLDS năm 2015.
34
Ngơ Gia Hồng, Nguyễn Thị Thương (2016), “Người đại diện theo pháp luật của Doanh nghiệp theo Luật
Doanh nghiệp năm 2014 dưới góc độ quyền tự do kinh doanh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số (7/2016),
Tr.48.
29


16

doanh nghiệp mà không cần phải chứng minh 35. Tuy nhiên, quyền đương nhiên nhân
danh của NĐD bị giới hạn bởi chính quy định của LDN năm 2014. Ví dụ, NĐD theo
pháp luật của CTCP không được đương nhiên quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có
giá trị bằng hoặc lớn hơn 35% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần
nhất của cơng ty (nếu Điều lệ công ty không quy định một tỷ lệ hoặc một giá trị khác)
mà thẩm quyền này thuộc về ĐHĐCĐ công ty.
LDN năm 2014 đã ghi nhận chức năng đại diện trong tố tụng của NĐD theo pháp
luật. Nội dung này một lần nữa được quy định tại Điều 85 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015: “NĐD trong tố tụng dân sự bao gồm NĐD theo pháp luật và NĐD theo ủy
quyền” (Khoản 1), “NĐD theo pháp luật theo quy định của BLDS là NĐD theo pháp
luật trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp bị hạn chế quyền đại diện theo quy định của
pháp luật” (Khoản 2). Định nghĩa NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp tại LDN năm
2014 chỉ nhắc đến chức năng đại diện thực hiện giao dịch nhân danh doanh nghiệp mà
chưa đề cập đến việc “xác lập” giao dịch – là một nội dung rất phổ biến và quan trọng
của chế định NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp. Mặc dù Khoản 1 Điều 13 LDN
năm 2014 quy định mở là NĐD theo pháp luật được thực hiện “các quyền và nghĩa vụ
khác theo quy định của pháp luật” – tức là được xác lập giao dịch dân sự, song việc

không nêu cụ thể quyền hạn này trong văn bản luật chuyên ngành cũng là một hạn
chế36.
1.2.1.2. Đặc điểm của người đại diện theo pháp luật của công ty
Tiếp cận chế định NĐD theo pháp luật từ định nghĩa quy định tại Điều 13 LDN
năm 2014, có thể nhận thấy một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, NĐD theo pháp luật của công ty là cá nhân. Tương tự như pháp luật
của hầu hết các nước trên thế giới, Khoản 1 Điều 13 LDN năm 2014 quy định NĐD
theo pháp luật của công ty phải là cá nhân cụ thể. Bởi công ty là một thực thể pháp lý
độc lập, trong q trình hoạt động của mình cơng ty phát sinh nhu cầu tham gia các
quan hệ pháp luật một cách độc lập; tuy nhiên, chủ thể này không thể tự mình thực
hiện các quyền và nghĩa vụ, khơng thể trực tiếp tham gia các quan hệ pháp luật mà
phải thông qua hành vi của con người cụ thể, được gọi là NĐD.
Cá nhân là NĐD theo pháp luật của cơng ty phải có năng lực hành vi dân sự. Điều
kiện này không được thể hiện minh thị tại LDN năm 2014 nhưng qua phân tích các
Vũ Thị Lan Anh (2016), “Quy định mới của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về NĐD theo pháp luật của
doanh nghiệp”, Tạp chí Luật học, Chuyên đề 04/2016, Tr.4.
36
Bùi Đức Giang (2015), “Hành lang pháp lý mới về người đại diện theo pháp luật của Luật Doanh nghiệp
2014”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 06/2015, Tr.18.
35


17

quy định liên quan về chế định NĐD theo pháp luật có thể thấy đây là một trong những
điều kiện bắt buộc của NĐD theo pháp luật của công ty. Cụ thể, tại Khoản 5 Điều 13
LDN 2014 quy định: Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một NĐD theo pháp luật và
người này bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì chủ sở hữu cơng ty, HĐTV,
HĐQT cử người khác làm NĐD theo pháp luật của công ty.
Xuất phát từ đặc trưng của hoạt động kinh doanh, người quản lý doanh nghiệp

(trong đó có NĐD theo pháp luật) phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ để
có thể thực hiện và chịu trách nhiệm cá nhân trước hành vi quản lý của mình. Hơn nữa,
bản thân những người quản lý khác của doanh nghiệp cũng phải đáp ứng điều kiện có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ như Giám đốc, Tổng giám đốc (Điều 81), Kiểm soát
viên (Điều 82, Điều 164), Thành viên HĐQT (Điều 151) 37. Vì thế, NĐD theo pháp
luật của doanh nghiệp cũng cần đáp ứng điều kiện năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Quy định này cần được thể hiện minh thị trong văn bản pháp luật, bởi LDN hiện hành
đã quy định cho phép CTTNHH và CTCP có thể có nhiều NĐD theo pháp luật; theo
đó sẽ phát sinh những trường hợp một trong số NĐD theo pháp luật của công ty sẽ giữ
những chức danh quản lý khác không phải là Giám đốc/Tổng giám đốc hay Chủ tịch
HĐQT/Chủ tịch HĐTV. Do đó, việc bổ sung quy định về năng lực hành vi dân sự đầy
đủ của NĐD theo pháp luật càng trở nên cần thiết.
Thứ hai, NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp là người quản lý doanh nghiệp.
Trong CTHD, thành viên hợp danh là NĐD theo pháp luật của công ty (Khoản 1 Điều
179 LDN năm 2014). Đối với DNTN, chủ DNTN là NĐD theo pháp luật (Khoản 3
điều 185 LDN năm 2014). Trong CTTNHH và CTCP, có thể có một hoặc nhiều NĐD
theo pháp luật và họ phải có những chức danh quản lý cụ thể được quy định trong Điều
lệ.
Những NĐD theo pháp luật kể trên là những người quản lý doanh nghiệp được
liệt kê tại Khoản 18 Điều 4 LDN năm 2014 bao gồm: chủ DNTN, thành viên hợp danh,
Chủ tịch HĐTV, thành viên HĐTV, Chủ tịch công ty, Chủ tịch HĐQT, thành viên
HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác. Họ có
thẩm quyền “nhân danh cơng ty ký kết giao dịch của công ty theo quy định tại Điều lệ
công ty”. Quy định này được hiểu là những người nắm giữ những chức danh quản lý
tại Khoản 18 Điều 4 và có thẩm quyền nhân danh cơng ty ký kết và thực hiện giao dịch
thì được coi là người quản lý cơng ty. Vơ hình chung, đã gián tiếp khẳng định NĐD
theo pháp luật của doanh nghiệp chính là người quản lý doanh nghiệp. So sánh với
37

Vũ Thị Lan Anh (2016), tlđd (35), Tr.4



18

Khoản 13 Điều 4 LDN năm 2005 có thể thấy các nhà làm luật khi xây dựng LDN năm
2014 đã nhấn mạnh đặc điểm NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp là người quản lý
doanh nghiệp khi không chỉ dừng lại ở việc liệt kê các chức danh quản lý mà cịn quy
định họ phải có thẩm quyền nhân danh công ty thực hiện giao dịch.
Thứ ba, NĐD theo pháp luật có quyền thay mặt cơng ty thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của cơng ty. Nội dung này chính là phạm vi đại diện trong quan hệ đại diện,
bao gồm quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các giao dịch của doanh nghiệp, trong thủ tục
tố tụng tòa án hoặc trọng tài và các quyền, nghĩa vụ khác. Theo Khoản 1 Điều 141
BLDS năm 2015 thì việc nhân danh công ty thực hiện các quyền và nghĩa vụ bị giới
hạn bởi chính điều lệ của cơng ty. Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi
đại diện theo điều lệ cơng ty thì NĐD theo pháp luật mới có quyền xác lập, thực hiện
mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện 38.
Khi nhân danh công ty thực hiện các quyền và nghĩa vụ, NĐD theo pháp luật phải
hành động vì lợi ích của cơng ty. Trong đó, việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát
sinh từ các giao dịch của công ty chiếm đa số. Đó có thể là việc ký kết và thực hiện
các hợp đồng phục vụ hoạt động kinh doanh hoặc các giao dịch giữa doanh nghiệp với
cơ quan nhà nước hoặc giữa doanh nghiệp với các tổ chức, cá nhân khác. Bên cạnh đó,
NĐD theo pháp luật cịn thực hiện các quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp trong thủ tục
tố tụng tòa án hoặc trọng tài. Điều này có nghĩa là nếu doanh nghiệp là nguyên đơn, bị
đơn trong các vụ kiện tại tịa án, trọng tài thì đại diện đương nhiên của doanh nghiệp
tham gia các thủ tục tố tụng phải là NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp đó. Nếu
người này khơng tham gia được thì có thể ủy quyền cho người khác tham gia và quyết
định các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp trong q trình tố
tụng. Ngồi ra, NĐD theo pháp luật có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác nhân
danh và vì lợi ích của doanh nghiệp.
NĐD theo pháp luật cũng là người lao động trong cơng ty. Tuy nhiên, chính đặc

trưng có thể thay mặt cơng ty thực hiện các cơng việc vì lợi ích của công ty đã phân
biệt NĐD theo pháp luật với người lao động thông thường khác. Họ phải đáp ứng các
điều kiện để trở thành NĐD theo pháp luật hợp pháp của doanh nghiệp (Ví dụ: Trường
hợp doanh nghiệp chỉ có một NĐD theo pháp luật thì người đó phải cư trú ở Việt Nam).
Họ được trao nhiều quyền hơn so với người lao động bình thường và phải chịu trách
nhiệm về hành vi nhân danh công ty khi giao kết và thực hiện các giao dịch.

38

Khoản 2 Điều 141 BLDS năm 2015.


19

1.2.2. Căn cứ xác lập quyền đại diện của người đại diện theo pháp luật của
công ty
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 137 BLDS năm 2015, căn cứ xác lập quyền đại
diện của NĐD theo pháp luật của công ty bao gồm: (i) Theo quy định tại Điều lệ công
ty; (ii) Theo quy định của pháp luật; (iii) Theo quyết định của Tịa án.
1.2.2.1. Theo Điều lệ cơng ty
Trước đây, tại Điều 140 BLDS năm 2005 quy định: Đại diện theo pháp luật là
đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định. Quy
định như vậy vơ hình chung chưa cơng nhận Điều lệ công ty là một căn cứ xác lập
quyền đại diện của NĐD theo pháp luật của công ty. Sau này, BLDS năm 2015 đã có
quy định thống nhất với LDN năm 2014 khi bổ sung căn cứ xác lập quyền đại diện
“theo Điều lệ của pháp nhân”. Khoản 2 Điều 13 LDN năm 2014 quy định: Điều lệ công
ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của NĐD theo pháp
luật của doanh nghiệp.
Đối với CTHD, quy định về NĐD theo pháp luật tại Điều lệ công ty không phải
là căn cứ xác lập quyền đại diện của NĐD theo pháp luật. Bởi mỗi thành viên hợp danh

trong CTHD đều là NĐD theo pháp luật của cơng ty. Họ đương nhiên có quyền nhân
danh công ty tiến hành hoạt động kinh doanh các ngành, nghề kinh doanh của công ty,
đàm phán và ký kết hợp đồng, thỏa thuận hoặc giao ước với những điều kiện mà thành
viên hợp danh đó cho là có lợi nhất cho cơng ty. Các thành viên hợp danh có quyền
đại diện theo pháp luật và tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh hằng ngày của công
ty. Mọi hạn chế đối với thành viên hợp danh trong thực hiện công việc kinh doanh
hằng ngày của công ty chỉ có hiệu lực đối với bên thứ ba khi người đó được biết về
hạn chế đó. Trong điều hành hoạt động kinh doanh của công ty, thành viên hợp danh
phân công nhau đảm nhiệm các chức danh quản lý và kiểm sốt cơng ty. Thơng thường,
Điều lệ CTHD khơng có điều khoản quy định về NĐD theo pháp luật mà chỉ có điều
khoản ghi nhận thơng tin cá nhân của thành viên hợp danh (Họ, tên, địa chỉ, quốc tịch
và các đặc điểm cơ bản khác) – đồng thời là NĐD theo pháp luật của công ty.
Đối với CTTNHH và CTCP, Điều lệ cơng ty bắt buộc phải có điều khoản quy
định về NĐD theo pháp luật của công ty 39. Một trong những điểm tiến bộ nhất của
LDN năm 2014 về chế định NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp so với trước đây là
quy định CTTNHH và CTCP có thể có một hoặc nhiều NĐD theo pháp luật. Chủ sở

39

Điểm g Khoản 1 Điều 25 LDN năm 2014.


20

hữu công ty quyết định về số lượng, quyền và nghĩa vụ của NĐD và ghi nhận tại điều
lệ công ty. Quy định mới này của LDN năm 2014 phù hợp với nguyên tắc tôn trọng
quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp cũng như quyền tự định đoạt của các chủ sở
hữu doanh nghiệp. Tuy nhiên, điều này cũng có thể gây khó khăn trong q trình vận
dụng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba, bởi “Điều lệ của
pháp nhân cho dù được công bố vẫn chỉ là quy định nội bộ để ràng buộc những người

của pháp nhân, không thể là cơ sở để ràng buộc người ngồi” 40. Do đó, rất khó để bên
thứ ba dùng điều lệ pháp nhân làm cơ sở xác định quyền hạn và nghĩa vụ của NĐD
theo pháp luật khi tham gia giao dịch.
Qua phân tích trên có thể thấy, điều lệ cơng ty là một trong những căn cứ xác lập
quyền đại diện của NĐD theo pháp luật của công ty, đặc biệt việc ghi nhận tại Điều lệ
là quy định bắt buộc đối với CTTNHH và CTCP.
1.2.2.2. Theo quy định của pháp luật
Pháp luật doanh nghiệp Việt Nam tôn trọng quyền tự do kinh doanh, quyền chủ
động, tự định đoạt của các chủ sở hữu doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối với các loại hình
doanh nghiệp đặc thù như CTHD hoặc DNTN, pháp luật quy định cụ thể vị trí, chức
danh nào trong doanh nghiệp là NĐD theo pháp luật. Đồng nghĩa với việc, các chủ thể
khác (kể cả chủ sở hữu doanh nghiệp) cũng không được quyền quy định chủ thể khác
là NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp. Cụ thể, đối với DNTN, NĐD theo pháp luật
là chủ DNTN. Chủ DNTN có thể thuê người khác quản lý doanh nghiệp những vẫn
phải tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, là nguyên
đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Tòa án
trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp 41. Đối với CTHD, như tác giả đã
phân tích tại tiểu mục 1.2.2.1, pháp luật quy định NĐD theo pháp luật của CTHD là
thành viên hợp danh. Các thành viên hợp danh là chủ sở hữu chung của công ty, chịu
trách nhiệm bằng tồn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của cơng ty. Do đó, trường
hợp một thành viên hợp danh bất kỳ muốn từ bỏ quyền làm NĐD theo pháp luật của
công ty sẽ không được pháp luật cho phép.
Đối với CTTNHH và CTCP, trong trường hợp Điều lệ cơng ty khơng quy định
thì áp dụng quy định của pháp luật. Cụ thể, LDN năm 2014 quy định một chức danh
cụ thể trong CTTNHH và CTCP sẽ là NĐD theo pháp luật của công ty. Trong

Đỗ Văn Đại, Lê Thị Hồng Vân (2015), “Hoàn thiện quy định về đại diện trong Dự thảo Bộ luạt dân sự sửa
đổi”, Tạp chí Kiểm sát, số 22/2015, Tr.43.
41
Điều 185 LDN năm 2014.

40


×