Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

pháp luật lao động campuchia với vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp của người sử dụng lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.04 KB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
KEO MENG HONG
PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG CAMPUCHIA VỚI
VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 603850
LUẬT VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
TIẾN SĨ TRẦN THỊ THÚY LÂM
HÀ NỘI – 2011
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới
cô giáo TS, Trần Thị Thùy Lâm về sự hướng dẫn tận tình và chủ đáo của cô
trong suốt quá trình hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn toàn thể các thầy cô giáo trường Đại
học Luật Hà Nội, Việt Nam đã tận tình giảng dậy, giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình tôi học tập và nghiên cứu tại trường.

 !" #$ %& '()**+
( ',-./
Hà Nội, ngày 15 tháng 02 năm 2011
TÁC GIẢ
KEO MENGHONG

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Tổ chức Lao động quốc tế : ILO
Người lao động : NLĐ
Người sử dụng lao động : NSDLĐ
Pháp luật lao động : PLLĐ


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1 5
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP
PHÁP CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG PHÁP LUẬT
LAO ĐỘNG 5
1.1. Khái niệm, vai trò của người sử dụng lao động và sự cần thiết phải
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NSDLĐ 5
0/0/0/12&3456(///////////////////////////////////////7
0/0/8/9:3456(/////////////////////////////////////////////;
0/0/</=>?@,&A .$,()B)2
3456(92( '(///////////////////////////////////C
1.2. Điều chỉnh pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
sử dụng lao động 11
0/8/0D5 @,&A .$,()B)234
56(//////////////////////////////////////////////////////////////////////////////////////////00
0/8/8/&2@,&A .$,()B)234
56(//////////////////////////////////////////////////////////////////////////////////////////0;
1.3. Sơ lược lịch sử pháp luật bảo vệ người sử dụng lao động ở
Campuchia 21
0/</0/E0F7<?-0FFG///////////////////////////////////////////////////////80
0/</8/E-0FFG?.//////////////////////////////////////////////////////////88
Chương 2 26
PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG HIỆN HÀNH CỦA VƯƠNG QUỐC
CAMPUCHIA VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA SỬ DỤNG LAO ĐỘNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 26
2.1. Quy định của pháp luật lao động Campuchia về bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người sử dụng lao động trong tuyển dụng lao động và
thực tiễn áp dụng 26
2.2. Quy định của pháp luật lao động Campuchia về bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của người sử dụng lao động trong quản lý lao động và
thực tiễn áp dụng 33
2.3. Quy định của pháp luật lao động Campuchia về bảo vệ tài sản cho
người sử dụng lao động và thực tiễn áp dụng 40
2.4. Quy định của pháp luật lao động Campuchia về các phương thức
bảo vệ NSDLĐ và thực tiễn áp dụng 46
Chương 3 52
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG CỦA VƯƠNG QUỐC
CAMPUCHIA VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG 52
3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật lao động Vương Quốc
Campuchia với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NSDLĐ 52
</0/0/HI9J,&@,&A .$,()B)2
D=KLM9!A ,N,&@,&A .$()DLM//////////78
</0/8/M@,&&2( '(,$@,&
A .$,()B)2D=KLM92O+,N,&
&2A .P2( %2///////////////////////////////////////////77
</0/</M@'%?A !?,Q),N$
%&?P93(" ///////////////////////////////////7G
3.2. Những giải pháp để hoàn thiện pháp luật lao động Campuchia với
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp của NSDLĐ 59
KẾT LUẬN 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 67
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hệ thống pháp luật của bất kỳ một nước nào cũng phản ánh những chuẩn
mực, thông lệ và giá trị về kinh tế, chính trị, xã hội của nước đó tại thời điểm
luật pháp được ban hành. Ở Campuchia, trong giai đoạn nền kinh tế tập trung
thì người sử dụng lao động chỉ là người nhân danh Nhà nước trong quản lý tài
sản mà không có quyền quyết định bất cứ một vấn đề gì về tổ chức quản lý

doanh nghiệp. Vì vậy, vai trò của người sử dụng lao động rất mờ nhạt. Chính
sự bao bọc một cách toàn diện tuyệt đối của Nhà nước đối với quyền lợi của
người sử dụng lao động đã tạo ra sự trì trệ, thói quen ỷ lại, không phát huy
được năng lực tự chủ, tính năng động sáng tạo của bản thân người lao động
cũng như người sử dụng lao động. Thực tế, người ta thường quan tâm và bảo
vệ “quyền và lợi ích người lao động” hơn bởi quan niệm người lao động là
đối tượng yếu thế, dễ bị bất lợi hơn trong tương quan với người sử dụng lao
động. Trong những năm gần đây, các tranh chấp lao động xảy ra nhiều hơn,
thường xuyên hơn, trong đó quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao
động bị xâm hại cũng chiếm một phần tương đối lớn trong tổng số các vụ án
lao động. Đã đến lúc phải nhận thấy việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người sử dụng lao động cũng cần được coi trọng trong mối tương quan
với việc bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động. Trên thực tế, có những
tranh chấp lao động xảy ra mà nguyên nhân chủ yếu là do trình độ chuyên
môn của người lao động kém, tính kỷ luật thấp và trình độ hiểu biết luật pháp
hạn hẹp dẫn đến việc gây thiệt hại không nhỏ cho người sử dụng lao động
trong việc ổn định và phát triển doanh nghiệp. Do đó việc nghiên cứu về vấn
đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động dưới góc độ
pháp luật lao động là hết sức cần thiết.
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong pháp luật lao động, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người sử dụng lao động được thể hiện ở nhiều nội dung và khía cạnh khác
nhau. Tuy nhiên luận văn này chỉ đề cập đến các quyền và lợi ích hợp pháp
chính của người sử dụng lao động trong quan hệ lao động như quyền về tuyển
dụng lao động, quyền tổ chức quản lý và quyền được bảo vệ về tài sản.
Luận văn chủ yếu đề cập Bộ luật lao động Campuchia và một số văn bản
dưới luật về lao động liên quan trực tiếp đến vấn đề này.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
a. Mục đích
Nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận cũng như các quy

định pháp lý về vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng
lao động. Đồng thời phân tích, đánh giá, nhìn nhận thực trạng và xu hướng
phát triển các quy định bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng
lao động trong Luật lao động của Campuchia. Trên cơ sở đó đưa ra các giải
pháp, kiến nghị góp phần hoàn thiện chính sách pháp luật của Nhà nước về
vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động nhằm
cải thiện môi trường lao động ở Campuchia.
b. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người sử dụng lao động.
- Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật của Vương quốc
Campuchia về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động
và thực tiễn áp dụng.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật lao động
Campuchia về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động.
4. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật lao động về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
sử dụng lao động là vấn đề nóng bỏng đối với tất cả các nước đặc biệt là các
nước đang phát triển như Việt Nam và Campuchia. Do vậy, trong thời qua ở
Việt Nam cũng đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này. Đã có một
số bài viết mang tính chất nghiên cứu một số nội dung của vấn đề bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động được đăng tải trên tạp
chí Luật học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật … kể cả một số luận văn thạc sĩ
và luận văn tiến sĩ luật học nghiên cứu liên quan đến vấn đề này. Các công
trình trên chỉ tập trung nghiên cứu trong phạm vi pháp luật lao động Việt Nam.
Tuy nhiên tại Vương quốc Campuchia, vấn đề này chưa được quan tâm
cũng như tập trung nghiên cứu một cách thích đáng. Ngoài dự án xây dựng và
sửa đổi bổ sung các văn bản pháp luật nói chung và các văn bản pháp luật lao
động nói riêng, hầu như chưa có bài viết hoặc công trình nghiên cứu nào đề
cập tới vấn đề này một cách đầy đủ, toàn diện, mặc dù Campuchia cũng đã là

thành viên của tổ chức lao động quốc tế International Labor Organization
(ILO) và cũng đã tham gia ký kết một số Công ước quốc tế.
Vì vậy, đây là Luận văn đầu tiên ở cấp Thạc sĩ nghiên cứu về pháp luật
lao động Campuchia với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử
dụng lao động.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp luận sử dụng chung cho mọi đề tài khoa học là phương
pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lê Nin và luận văn này cũng
không nằm ngoài thông lệ đó. Đồng thời, tác giả còn sử dụng các phương
pháp bổ trợ như phương pháp so sánh, tổng hợp, đối chiếu, lịch sử để nhằm
đánh giá vấn đề một cách khách quan, toàn diện nhất.
6. Cơ cấu luận văn
Luận văn gồm lời nói đầu, 3 chương và kết luận:
Chương I: Một số vấn đề chung về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người sử dụng lao động trong pháp luật lao động.
Chương II: Pháp luật lao động hiện hành của Vương quốc Campuchia
với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động và thực
tiễn áp dụng.
Chương III: Hoàn thiện pháp luật lao động của Vương quốc Campuchia
với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH
HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG PHÁP
LUẬT LAO ĐỘNG
1.1. Khái niệm, vai trò của người sử dụng lao động và sự cần thiết phải
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NSDLĐ
1.1.1. Khái niệm người sử dụng lao động.
Người sử dụng lao động là một khái niệm hết sức quan trọng, được đề
cập đến trong mọi Luật lao động tại bất kỳ quốc gia nào.Theo Luật Các tiêu
chuẩn lao động của Hàn Quốc thì:“NSDLĐ là người chủ sở hữu doanh

nghiệp, cơ sở sản xuất, có trách nhiệm quản lý doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
đó. Hay người thay mặt cho chủ sở hữu doanh nghiệp, cơ sở sản xuất quản lý
các vấn đề liên quan tới NLĐ”. Như vậy, theo khái niệm này thì NSDLĐ là
những người sở hữu đơn vị sản xuất, kinh doanh hoặc là người có đủ năng lực
hành vi dân sự, có đủ tư cách pháp lý để có thiết lập ra quan hệ lao động, tức
là có thể tạo việc làm cho người lao động khác.
Ở Việt Nam NSDLĐ là các cơ quan nhà nước, các tổ chức, các đơn vị
kinh tế thuộc mọi thành phần, các hợp tác xã, các cơ quan tổ chức nước
ngoài trên lãnh thổ Việt Nam, các cá nhân và hộ gia đình các cơ quan, tổ
chức có nhu cầu sử dụng lao động cũng đều có thể trở thành chủ sử dụng lao
động. Điều 57 và Điều 58 của Hiến pháp Việt Nam quy định: “Công dân có
quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật” và “Công dân có quyền
sở hữu tư liệu sản xuất, vốn và tài sản trong doanh nghiệp”. Pháp luật Lào
cùng có quy định về vấn đề này, theo khoản 5, điều 2 của Bộ luật lao động
nước Lào thì: “NSDLĐ có nghĩa là một cá nhân hoặc tổ chức sử dụng lao
động cho các hoạt động của mình bằng cách trả lương hoặc tiền lương, và
cung cấp các lợi ích và các chính sách khác cho nhân viên theo quy định của
pháp luật, quy định và hợp đồng việc làm”. Vì vậy, họ có quyền trở thành
NSDLD trong quá trình tự do kinh doanh của mình.
Điều 2 Luật Lao động Campuchia thì quy định: “NSDLĐ có nghĩa là
tất cả các cá nhân, pháp nhân, công cộng hay tư nhân được coi là sử dụng
lao động khi người đó tạo nên một doanh nghiệp và sử dụng một hoặc nhiều
công nhân, thậm chí không liên tục”.
Như vậy, dù theo khái niệm nào, đứng trên quan điểm nào thì NSDLĐ
được hiểu là tổ chức, đơn vị cá nhân có nhu cầu sử dụng lao động, có thể đảm
bảo các điều kiện lao động và điều kiện sử dụng lao động và thực hiện nhiệm
vụ đối với người lao động.
1.1.2. Vai trò người sử dụng lao động
Trong bất kỳ giai đoạn nào thì lao động vẫn luôn là một nhân tố quyết
định sự tồn tại và phát triển kinh tế - xã hội ở giai đoạn đó. Tuy nhiên, chỉ có

người lao động không thì không đủ, vì khi đó sẽ dẫn đến tình trạng hoạt động
sản xuất và kinh doanh diễn ra một cách tự phát, không có khoa học, không
được chuyên môn hóa và rất khó khăn trong việc tiêu thụ hàng hóa được sản
xuất ra do sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, khối lượng ít, không đủ để xuất khẩu
hay đáp ứng các đơn đặt hàng lớn.
Mặt khác, hầu hết NLĐ thường hạn chế về hiểu biết pháp luật trong việc
tổ chức sản xuất, kinh doanh, nên chưa biết tự tạo cho mình một việc làm,
chưa có sự “động não” một cách thực sự trong khi làm việc, điều đó dẫn đến
một nghịch lý rằng, nguồn lao động tuy nhiều nhưng không biết làm gì cho
hiệu quả và ổn định. Thêm vào đó sẽ tồn tại sự di chuyển lao động từ miền
này sang miền khác, từ nông thôn lên thành thị, từ miền núi xuống đồng bằng,
từ đó sẽ tạo ra làn sóng quá tải lao động ở một số nơi, nhưng lại thưa thớt lao
động ở một số nơi khác mà ở đó sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn.
Tuy nhiên, khi có NSDLĐ phân bố lao động sẽ hợp lý hơn bởi NSDLĐ tạo ra
việc làm cho người lao động. Thêm vào đó con người và xã hội được hình
thành, tồn tại và phát triển nhờ quá trình hoạt động sản xuất và nhất là sản
xuất vật chất {20, tr.36}. Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng
công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên, nhằm cải biến các dạng vật chất
trong giới tự nhiên để tạo ra các loại sản phẩm. Như vậy, xã hội tồn tại và
phát triển trước hết là nhờ sản xuất vật chất. C. Mác viết “Những thời đại kinh
tế - xã hội khác nhau không phải ở chỗ chúng ta sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ
chúng ta sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”, đó chính là
sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong đó, lực
lượng sản xuất cơ bản là toàn bộ nhân loại, là công nhân, là người lao động có
vai trò quyết định, còn quan hệ sản xuất là quan hệ lao động do NSDLĐ tạo
ra. Như vậy, nếu không có NSDLĐ thì sẽ không có quan hệ sản xuất hiện đại
và như vậy sẽ làm cho xã hội không phát triển được.
Trải qua các cuộc cách mạng khoa học, cùng với sự phát triển của sản xuất,
khoa học ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sản xuất kinh doanh. Sự phát
triển của khoa học công nghệ này thường được những NSDLĐ nắm bắt nhanh

và rất tốt, họ biết cách vận dụng một cách khéo léo vào thực tế hoạt động của
công ty mình và truyền tải tới người lao động. NSDLĐ là người quản lý và sử
dụng các máy móc, thiết bị và công nghệ hiện đại ấy để có thể đảm bảo hiệu quả
cao về kinh tế, kể cả việc sửa chữa, chăm sóc và bảo dưỡng chúng.
Cùng với điều kiện về tài chính và trách nhiệm với khối tài sản đầu tư
vào kinh doanh, NSDLĐ có sức mạnh, sự hiểu biết, kỹ năng lao động và ngày
càng trở nên có trí tuệ. Trí tuệ của NSDLĐ là sản phẩm tự nhiên của lao động
và ngày càng phát triển nhờ kinh nghiệm quản lý và điều hành lao động.
Trong điều kiện của khoa học công nghệ hiện đại đã làm cho NSDLĐ càng
trở thành một nguồn lực đặc biệt của sản xuất {12, tr.10}. Bởi để đáp ứng
được nhu cầu phong phú và vô tận của con người trong sự phát triển đời sống
kinh tế - xã hội, thì bản thân các nguyên vật liệu tự nhiên chưa thể đáp ứng
được mà cần có sự kết tinh của lao động. Với việc đầu tư tài chính máy móc,
công nghệ, thông qua sản xuất, với việc sử dụng sức lao động của NLĐ,
NSDLĐ và tạo ra sản phẩm có giá trị sử dụng tăng lên như: giá trị thẩm mỹ,
sử dụng, các tính năng…
Như vậy, NSDLĐ có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển
kinh tế - xã hội, họ là những người am hiểu luật pháp, luôn tìm ra các phương
hướng, lĩnh vực sản xuất kinh doanh mới nhằm tạo ra nhiều việc làm cho
người lao động, để từ đó tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội và nâng dần mức
sống của NLĐ góp phần vào sự tồn tại và phát triển, ổn định của một quốc gia
dân tộc {13, tr.31}. Ở đâu có lực lượng NSDLĐ hùng mạnh, thì ở đó NLĐ có
nhiều việc làm, có thu nhập cao và ở đó kinh tế và xã hội được đảm bảo phát
triển một cách ổn định và thịnh vượng.
1.1.3. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử
dụng lao động trong pháp luật lao động.
Quan hệ lao động được hình thành trên cơ sở sự thương lượng thỏa thuận
giữa hai bên, NLĐ và NSDLĐ. Trong quan hệ này, NSDLĐ thường ở vị thế
mạnh hơn so với NLĐ bởi họ là người có tài sản, có quyền sở hữu đối với tài
sản trong doanh nghiệp. Thêm vào đó họ lại là người có quyền tổ chức và

quản lý lao động, có quyền kiểm tra giám sát quá trình lao động của người lao
động. Vì thế, trong luật lao động, bảo vệ NLĐ là nguyên tắc được đặt lên
hàng đầu. Song bên cạnh đó, pháp luật lao động cũng phải bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của NSDLĐ. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
NSDLĐ xuất pháp từ một số lý do sau:
- Một là, trong quan hệ pháp luật, khi đứng trước pháp luật không có chủ
thể nào mạnh hơn hay yếu hơn mà họ đều phải chịu sự điều chỉnh đã được quy
định của pháp luật. Do vậy, với tư cách là một bên chủ thể trong quan hệ pháp
luật lao động, NSDLĐ cũng cần phải được bảo đảm những quyền và lợi ích
chính đáng. Theo điều 75 của bộ luật lao động nước Campuchia về các biện
pháp xử lý vi phạm: “Bất kỳ cá nhân, thể nhân hoặc pháp nhân vi phạm pháp
luật này sẽ được tái đào tạo, cảnh cáo, phạt tiền, phải tạm đình chỉ kinh doanh”.
Như vậy, có thể nói, khi có sự vi phạm trong quan hệ lao động, bất kỳ bên nào
khi có sự vi phạm cũng đều bị áp dụng những biện pháp xử lý thích đáng.
Ngược lại, quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi bên cũng sẽ luôn được bảo vệ.
- Hai là, việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của NSDLD là tiền đề,
điều kiện để đảm bảo quyền và lợi ích của NLD. Trong QHLD, quyền của
chủ thể bên này bao giờ cũng tương ứng với nghĩa vụ của chủ thể bên kia tạo
thành mối liên hệ pháp lý thống nhất {22, tr.41}. Chính vì vậy, không có chủ
thể nào chỉ có quyền hoặc chỉ có nghĩa vụ. Nhiều khi, chúng ta có quan niệm:
quyền của chủ thể bên này và nghĩa vụ của chủ thể bên kia là hai mặt đối lập,
mâu thuẫn. Sự suy nghĩ, nhận định như vậy là phiến diện, thiếu cái nhìn biện
chứng. Thực ra, quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ đó là quan hệ của một thể
thống nhất, quan hệ khép kín không thể chia tách của “một phương trình có
hai vế” mà nếu thiếu một vế thì không giải mã được bài toán đó.
Hơn nữa, quyền lợi của NLĐ là do NSDLĐ đảm bảo thực hiện vì vậy khi
người sử dụng lao động được đối xử công bằng, quyền và lợi ích trong doanh
nghiệp được bảo vệ thì họ mới có thể tạo ra môi trường lao động đảm bảo mọi
điều kiện tốt nhất cho người lao động.
- Ba là, khi quyền và lợi ích hợp pháp của NSDLĐ được bảo vệ thì sẽ tạo

điều kiện ổn định, hài hòa mối quan hệ lao động, thúc đẩy sản xuất, kinh
doanh, khi đó sẽ làm phát triển thị trường lao động. Một thị trường lao động
được coi là phát triển và ổn định khi có sự cân bằng giữa cung lao động và
cầu lao động. Nếu cung về lao động thừa sẽ gây ra tình trạng dư thừa lao
động, tăng tỷ lệ thất nghiệp của NLĐ, làm thị trường lao động bị mất sự ổn
định và cân đối. Nhưng nếu cầu lao động thừa sẽ gây ra tình trạng thiếu lao
động, làm giá lao động lên cao, có nhiều ngành nghề, lĩnh vực khan hiếm lao
động, không có lao động vào sản xuất, khi đó sẽ không tạo ra của cải cho xã
hội. Mặt khác, khi cầu lao động tăng nhanh mà thiếu lao động giỏi thì thị
trường lao động cũng không thể ổn định, phát triển được. Đó là điều chắc
chắn vì cung và cầu chỉ có thể nằm trong một thể thống nhất của thị trường
lao động.
Như vậy, trong mối quan hệ với NLĐ thì NSDLĐ có một vai trò hết sức
quan trọng. Nếu không có sự tổ chức, quản lý và điều hành tốt của NSDLĐ
thì NLĐ chỉ là những cá nhân riêng lẻ, không có môi trường làm việc trong
một tập thể có phân công lao động ở trình độ cao. Khi đó, hoạt động của mỗi
người mang tính tự phát, thiếu chuyên nghiệp, không thể tạo ra được những
dây chuyền sản xuất có hiệu quả. Thực tế đã chứng minh, nếu nơi nào mà có
một môi trường lao động được tổ chức tốt, quản lý của NSDLĐ tốt, tính kỷ
luật cao thì NLĐ sẽ làm việc hết năng suất, tạo ra nhiều sản phẩm, của cải.
Khi đó lợi ích của NSDLĐ cũng được tăng lên và họ sẽ có điều kiện trả công
cho NLĐ cao hơn, đảm bảo cho NLĐ làm việc trong điều kiện tốt hơn.
Lợi ích của NLĐ và NSDLĐ vừa mâu thuẫn nhau cũng vừa thống nhất
với nhau. Sự mâu thuẫn nhau thể hiện ở việc NLĐ bao giờ cũng muốn lương
cao, thời gian làm việc ít điều kiện lao động thuận lợi. Còn NSDLĐ, do muốn
có nhiều lợi nhuận nên tìm cách tiết kiệm chi phí trong đó có chi phí cho NLĐ
. Lợi ích của hai chủ thể này hướng tới là khác nhau, đối lập nhau, nhưng xét
về căn nguyên thì nó lại có quan hệ tương hỗ. Không có lợi ích của NSDLĐ
thì cũng không có lợi ích của NLĐ. Cụ thể là: Khi NLĐ không tăng năng
suất, tạo ra nhiều sản phẩm tốt trong quá trình sản xuất, khi đó NSDLĐ sẽ

không có thu nhập và lợi nhuận sẽ không có hoặc không cao. Trong trường
hợp đó, NSDLĐ cũng không có nguồn tài chính để có thể trả công cao cho
người lao động và tạo ra các điều kiện tốt cho người lao động. Như vậy, trong
trường hợp này thì tiền công của NLĐ và lợi nhuận của NSDLĐ đều giảm sút.
Từ những phân tích ở trên cho thấy: Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp của
NSDLĐ là hết sức cần thiết và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người sử
dụng lao động sẽ khuyến khích đầu tư, phát triển sản xuất, phát triển thị trường
lao động, tạo nhiều việc làm cho NLĐ và nguồn thu thuế cho Nhà nước, thông
qua đó, có thể đảm bảo lợi ích cho NLĐ và phát triển kinh tế xã hội.
1.2. Điều chỉnh pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
sử dụng lao động
1.2.1 Nội dung bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao
động.
Trên cơ sở phân tích sự cần thiết phải bảo đảm các quyền và lợi ích của
người sử dụng lao động, xuất phát từ nhu cầu của người sử dụng lao động,
theo thông lệ quốc tế (theo quan điểm của Tổ chức Lao động quốc tế và quan
điểm của một số nước), việc bảo vệ các quyền và lợi ích của người sử dụng
lao động thể hiện ở các nội dung sau:
 NSDLĐ được quyền tuyển dụng lao động, sử dụng lao động
theo nhu cầu SXKD
Đây là một trong những quyền phổ biến của NSDLĐ, vì khi NSDLĐ có
được quyền này, họ mới chủ động được trong việc tuyển dụng lao động nhằm
đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuyển dụng lao
động là một hiện tượng xã hội phát sinh từ sự mua bán một loại hàng hóa đặc
biệt trong xã hội, đó là hàng hóa sức lao động. NLĐ (người bán) sẽ bán sức lao
động mà họ có, còn NSDLĐ (người mua) sẽ mua sức lao động của NLĐ để tiến
hành SXKD. Sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt không thể mua ngay và
sử dụng ngay trong một lần mua, bán, mà nó đòi hỏi phải có một quá trình, một
thời gian nhất định. Chính vì vậy, quá trình sử dụng lao động được diễn ra, đây
là khâu quan trọng để tồn tại quan hệ lao động. Việc tuyển dụng rất có ý nghĩa

đối với NSDLĐ, vì NSDLĐ có được một số lượng và chất lượng NLĐ tốt thì sẽ
đảm bảo cho sự phát triển của doanh nghiệp, đồng thời nó cũng tạo cho NLĐ có
việc làm ổn định, góp phần giải quyết sự thất nghiệp trong xã hội, làm giảm bớt
sự nghèo đói và tệ nạn xã hội. Mặt khác, khi được quyền tuyển dụng lao động
vào hoạt động sản xuất, kinh doanh thì NSDLĐ cần phải có quyền được sử
dụng lao động sao cho hợp lý nhất để phù hợp với công việc hiện tại của đơn
vị, sắp xếp được đúng người, đúng việc nhằm phát huy cao nhất năng suất lao
động của mỗi người lao động. Khi doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh
thì sẽ cần sử dụng thêm lao động, ngược lại khi doanh nghiệp làm ăn kém
hiệu quả thì khi đó doanh nghiệp có thể phải giảm bớt lao động… Chính vì
vậy, NSDLĐ cần có quyền tuyển chọn, sử dụng lao động theo nhu cầu sản
xuất, kinh doanh. Bộ luật lao động của Việt Nam quy định: NSDLĐ có quyền
tuyển dụng lao động, bố trí điều hành lao động theo nhu cầu sản xuất kinh
doanh (khoản 1 Điều 8). Luật lao động của hầu hết các nước cũng đều có quy
định tương tự.
 NSDLĐ có quyền quản lý lao động
Quản lý và điều hành lao động là hình thức mà NSDLĐ có thể bố trí lao
động làm việc theo một mô hình mà NSDLĐ đã thiết lập, nhằm mục đích phù
hợp với sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Việc điều hành này có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong việc sử dụng lao động. Vì, NSDLĐ quản lý
và sử dụng sức lao động của con người, chứ không phải quản lý một vật dụng
nào khác. Mặt khác, trong một tổ chức phải có nội quy, quy định cụ thể, nó
được xem như là chuẩn mực trong hoạt động để NLĐ vào nề nếp. Trong một
đơn vị, nhiều người cùng thực hiện một kế hoạch sản xuất, kinh doanh thống
nhất, nên cần phải có người quản lý để hướng hoạt động của nhiều người vào
kế hoạch chung.
Vị trí quản lý phải là NSDLĐ vì họ là người sở hữu hoặc quản lý tài sản
của đơn vị (ở đây thể hiện quan hệ sở hữu chi phối quan hệ quản lý và quan
hệ phân phối), do đó họ có trách nhiệm sử dụng hiệu quả khối tài sản đó. Việc
thực hiện quyền quản lý phải tuân thủ pháp luật, các quy định, quy chế mới

đảm bảo tính công bằng và tinh thần trách nhiệm trong quan hệ lao động. Do
vậy, trong quản lý, điều hành NSDLĐ có quyền điều chuyển NLĐ, có quyền
đưa ra những chế độ khen, thưởng và kỷ luật một cách đúng mức nhằm khích
lệ người lao động làm việc. Khoản 1, Điều 8 bộ luật lao động nước Việt Nam
có quy định: “Người sử dụng lao động có quyền tuyển chọn lao động, bố trí,
điều hành lao động theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh; có quyền khen thưởng
và xử lý các vi phạm kỷ luật lao động theo quy định của pháp luật lao động”.
Pháp luật hầu hết các nước cũng đều quy định vấn đề này.
NSDLĐ có thể phối hợp với tổ chức công đoàn trong quản lý lao động
và kí kết thoả ước lao động tập thể phù hợp với điều kiện của đơn vị.
Tổ chức công đoàn là một tổ chức được thành lập khi có quan hệ lao
động được thiết lập, lãnh đạo của tổ chức công đoàn là do người lao động bầu ra,
hoạt động của tổ chức công đoàn là chăm lo đời sống của người lao động (tức
chia sẻ lúc hoạn nạn, ốm đau ), là cơ quan đại diện cho NLĐ để bảo vệ quyền
lợi cho NLĐ khi NSDLĐ xâm phạm quyền và lợi ích của NLĐ. Tuy nhiên,
không chỉ thế, tổ chức công đoàn còn tham gia hòa giải khi có tranh chấp lao
động xảy ra. Tổ chức công đoàn còn động viên, khích lệ NLĐ làm việc sao cho
có năng suất và hiệu quả. Do vậy, nếu cơ sở nào biết phát huy hết tác dụng của
tổ chức công đoàn thì sẽ góp phần giải quyết và làm hạn chế các tranh chấp lao
động có thể xảy ra. Vì vậy, pháp luật cần phải bảo đảm để NSDLĐ có thể phối
hợp với tổ chức công đoàn trong quản lý lao động và kí kết thoả ước lao động
tập thể phù hợp với điều kiện của đơn vị. Nhiều nước đã quy định về vấn đề này,
cụ thể tại khoản 1, Điều 52 của Bộ luật lao động Việt Nam có quy định: “Trong
trường hợp sát nhập, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp, chuyển quyền sở hữu,
quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp thì NSDLĐ và Ban chấp hành Công
đoàn cơ sở căn cứ vào phương án sử dụng lao động để xem xét việc tiếp tục
thực hiện, sửa đổi, bổ sung hoặc ký thỏa ước lao động mới”.
 NSDLĐ có quyền được bảo vệ về tài sản
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, NSDLD sở hữu rất nhiều loại tài
sản. Từ những tài ản vật chất ban đầu mà họ đầu tư như thiết bị, máy móc,

nhà xưởng đến những tài sản phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh,
và thậm chí là cả những loịa tài sản phi vật chất khác. Đối với những tài sản
mà NSDLD đã đầu tư, đương nhiên thuộc sở hữu của họ và được Hiến pháp
cũng như pháp luật dân sự ghi nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, do đặc thù của
quan hệ lao động, trong quá trình sản xuất kinh doanh sẽ phát sinh thêm một
loại tài sản thuộc sở hữu của NSDLD, đó chính là những lợi nhuận thu được
từ chính hoạt động sản xuất kinh doanh đó. Đây là một loại tài sản có thể nói
là quan trọng nhất của NSDLD cần được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong
Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam có quy định về quyền sở hữu tài sản của
công dân tại Điều 58 "Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của
cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác
trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đất được Nhà
nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 17 và Điều 18 ". Hay tại Bộ
luật dân sự 2005 của Việt Nam cũng quy định: "Điều 170. Quyền sở hữu
được xác lập đối với tài sản trong các trường hợp sau đây:
+ Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp;
+ Được chuyển quyền sở hữu theo thoả thuận hoặc theo quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
+ Thu hoa lợi, lợi tức;
+ Tạo thành vật mới do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến;
+ Được thừa kế tài sản;
+ Chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với vật vô
chủ, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật
nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên;
+ Chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục,
công khai phù hợp với thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều 247 của Bộ luật này;
Người sử dụng lao động còn được đảm bảo bồi thường thiệt hại nếu bị người
lao động hoặc các chủ thể khác xâm hại lợi ích hợp pháp
+ Các trường hợp khác do pháp luật quy định, Điều 169. Bảo vệ quyền
sở hữu

- Quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân và chủ thể khác được pháp luật
công nhận và bảo vệ.
- Không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái pháp luật quyền sở hữu đối
với tài sản của mình.
Chủ sở hữu có quyền tự bảo vệ, ngăn cản bất kỳ người nào có hành vi
xâm phạm quyền sở hữu của mình, truy tìm, đòi lại tài sản bị người khác
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt không có căn cứ pháp luật.
- Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi
ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của
cá nhân, pháp nhân hoặc của chủ thể khác theo quy định của pháp luật.".
Như vậy, có thể nói lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh
của NSDLD cũng là một loại tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của NSDLD,
được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong trường hợp, NSDLĐ là người nước
ngoài, những tài sản là lợi nhuận này không những chỉ được ghi nhận và bảo
vệ tại quốc gia sở tại mà còn được chuyển về quốc gia của họ.
Tài sản của doanh nghiệp chủ yếu là do NSDLĐ bỏ ra. Khi NLĐ đến làm
việc, người lao động chủ yếu là mang sức lao động đến làm việc để lấy thu
nhập. NSDLĐ chỉ thuê NLĐ làm việc khi mà NLĐ tạo ra lợi ích lớn hơn cho
NSDLĐ. Trong quá trình lao động, NLĐ sẽ phải tiếp xúc, sử dụng tài sản của
NSDLĐ. Vì vậy mà NLĐ phải có trách nhiệm sử dụng đúng mục đích, bảo
quản và quản lý tốt các trang thiết bị, máy móc mà NSDLĐ giao cho. Trong
quá trình sử dụng, sản xuất, kinh doanh, nếu NLĐ cố tình hay vô ý để xảy ra
thiệt hại lớn về tài sản của NSDLĐ thì NLĐ phải bồi thường cho NSDLĐ
theo khuôn khổ của pháp luật, có như vậy mới đảm bảo cho sự đầu tư thêm,
đầu tư lại của NSDLĐ. Điều này cũng đã được nhiều nước áp dụng, và theo
Điều 89 và điều 90 của Bộ luật lao động Việt Nam thì: Hành vi gây thiệt hại
phải chịu trách nhiệm vật chất là các trường hợp làm hư hỏng, làm mất dụng
cụ, thiết bị, làm mất các tài sản khác do doanh nghiệp giao hoặc tiêu hao vật
tư quá định mức cho phép hoặc có hành vi khác gây thiệt hại cho tài sản của
doanh nghiệp. Theo nghị định số 099/2004/BLĐĐTNN ngày 21 tháng 4 năm

2004 của Campuchia quy định: “Các hành vi vi phạm của NLĐ gây ra thiệt
hại cho NSDLĐ phải bồi thường toàn bộ bằng giá trị thị trường và khấu trừ
tiền lương từ ba tháng đến sáu tháng”.
Do vậy, việc bảo đảm bồi thường thiệt hại nếu bị người lao động hoặc
các chủ thể khác xâm hại lợi ích hợp pháp là hoàn toàn hợp pháp và hợp lệ.
1.2.2. Biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao
động.
Biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích của người sử dụng lao động chính
là cách thức và phương pháp tiến hành để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của NSDLĐ do pháp luật quy định, sao cho không bị các đối tượng khác xâm
phạm đến lợi ích của NSDLĐ. Tùy vào từng hoàn cảnh, điều kiện cụ thể mà
có các biện pháp bảo vệ khác nhau. Thông thường để bảo vệ các quyền và lợi
ích của mình một cách tốt nhất và có hiệu quả, NSDLĐ có thể áp dụng các
biện pháp sau:
 Tự bảo vệ: tham gia tổ chức của người sử dụng lao động
Trong nền kinh tế thị trường NLĐ thường liên kết lại để đấu tranh bảo
vệ quyền và lợi ích của mình trước NSDLĐ. Tuy nhiên, NLĐ không chỉ
chống lại NSDLĐ trong phạm vi doanh nghiệp mà họ mở rộng ra là phạm vi
toàn ngành hoặc toàn khu vực. Chính vì thế NSDLĐ khó có thể đơn phương,
tự mình bảo vệ quyền lợi, phải liên kết với những người SDLD khác để bảo
vệ mình trước sự đấu tranh của NLĐ. Đó chính là việc họ tham gia vào các tổ
chức của NSDLD. Khi trở thành thành viên của các tổ chức đó, NSDLD sẽ
được hưởng những quyền lợi mà tổ chức trao cho trong quá trình bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình nhất là khi có đình công xảy ra.
Tổ chức giới sử dụng lao động có thể đại diện cho NSDLĐ tham gia cơ
chế ba bên, bảo vệ và thay mặt cho NSDLĐ làm việc với các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền để ra các chính sách mới về lao động, sao cho hợp lý
nhất cho cả NLĐ và NSDLĐ. Mặt khác, giới sử dụng lao động cũng là tổ
chức đại diện cho NSDLĐ tham gia đòi quyền lợi cho NSDLĐ khi bị xâm
phạm. Vì vậy, cần phải đảm bảo cho NSDLĐ được quyền tham gia tổ chức

của giới sử dụng lao động theo quy định của pháp luật. Sao cho việc tham gia
được thuận tiện nhất để có thể đảm bảo việc hoạt động của các tổ chức giới sử
dụng lao động. Nếu không có sự tham gia của NSDLĐ thì giới sử dụng lao
động được thành lập cũng không giải quyết được vấn đề gì khi mà không có
người tham gia.
 Yêu cầu Nhà nước bảo vệ thông qua việc yêu cầu cơ quan tổ
chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động.
Khi xảy ra tranh chấp trong quan hệ lao động thì biện pháp ưu tiên đầu
tiên để giải quyết là thương lượng. Thương lượng là quá trình mà NSDLĐ và
NLĐ tự dàn xếp thỏa thuận với nhau và cùng nhau quyết định mọi vấn đề mà
không thông qua sự can thiệp của một thế lực bên ngoài nào hay một trung
gian nào (theo điều 158 Bộ luật lao động Việt Nam). Trong quan hệ lao động
thì nguyên tắc tự do thỏa thuận và bình đẳng rất được coi trọng và cần thiết,
nó có tác dụng nhanh và hiệu quả, giảm bớt được căng thẳng giữa các bên và
làm giảm chi phí về tài chính cũng như thời gian, qua đó nó giúp NSDLĐ và
NLĐ tránh được những va chạm không cần thiết, giảm bớt được nguyên nhân
dẫn đến mâu thuẫn lớn tiếp theo và không cần có sự can thiệp của các cơ quan
công quyền. Thông thường NSDLĐ rất thích và quan tâm đến phương pháp
này, vì họ không có nhiều thời gian để đi tranh chấp lao động ngoài tòa án mà
họ phải tập trung vào sản xuất, kinh doanh. Mặt khác, khi các tranh chấp
trong quan hệ lao động được hòa giải thì uy tín, danh dự và sự nghiệp của
NSDLĐ sẽ ít bị tổn hại. Do đó, thương lượng là phương pháp mà NSDLĐ
luôn hướng tới khi có tranh chấp lao động xảy ra. Do nó mang tính đơn giản,
gọn nhẹ, ít phức tạp và tốn ít chi phí cả về tài chính và thời gian nên nó được
NSDLĐ lựa chọn hàng đầu.
Một tranh chấp lao động xảy ra khi một trong các bên cảm thấy quyền
lợi của mình bị xâm phạm, do đó họ muốn bảo đảm và đòi quyền lợi cho
mình. Khi đó việc thương lượng sẽ không thành và sẽ không đạt được kết quả
như mong đợi. Vì vậy, việc hòa giải sẽ được sử dụng khi hai bên đã không thể
thương lượng được. Khi công tác hòa giải được tiến hành thì sẽ có thêm một

cấp trung gian đứng ra làm hòa giải và họ sẽ có những tiếng nói nhằm đảm
bảo lợi ích của cả hai bên.
Hòa giải là một biện pháp hòa bình, hữu nghị, bởi khi NSDLĐ lựa chọn
hình thức này chứng tỏ rằng NSDLĐ rất tôn trọng người hòa giải, họ cần sự
khách quan, công bằng khi nhìn nhận vấn đề. Khác với Trọng tài hay tòa án,
người hòa giải không có quyền đưa ra những phán quyết, nhưng lời thương
thuyết của họ lại có tính thuyết phục, có giá trị. Trong xã hội hiện nay thì
công tác hòa giải, cấp trung gian hòa giải là cực kỳ quan trọng và cần thiết
trong mối quan hệ lao động.
Trong công tác hòa giải, trình tự hòa giải cũng rất đơn giản, nhanh gọn,
do đó làm cho NSDLĐ rất đồng tình và ủng hộ, vì chính họ cũng không muốn
kéo dài thời gian tranh chấp lao động. Thông thường, trong vòng bảy ngày
làm việc kể từ khi nhận được đơn yêu cầu hòa giải của các bên tranh chấp lao
động thì Hội đồng hòa giải phải tiến hành hòa giải. Hiện nay, thời gian đó là
phù hợp cho cả các bên tranh chấp và Hội đồng hòa giải. Khi có tranh chấp
trong quan hệ lao động, NSDLĐ luôn mong muốn được hòa giải sớm, vì họ
rất tin tưởng vào Hội đồng hòa giải sẽ là đơn vị trung gian đảm bảo tính
nhanh, gọn và không mất nhiều chi phí mà vẫn đảm bảo được lợi ích của các
bên. Trong trường hợp hòa giải thành, hai bên nhất trí với phương án hòa giải
của Hội đồng hòa giải thì sẽ cùng ký vào biên bản hòa giải và các bên sẽ phải
có nghĩa vụ thực hiện những cam kết đã nghi trong biên bản. Từ đây những
mâu thuẫn về quyền lợi và lợi ích của các bên đã được giải quyết xong và các
bên có thể tiếp tục quan hệ lao động thì tiếp tục, còn nếu không thì hai bên sẽ
kết thúc quan hệ lao động. Như vậy, trong một chừng mực nào đó thì Hội
đồng hòa giải là cơ quan giải quyết tranh chấp lao động nhanh gọn, hiệu quả.
Khi tranh chấp lao động xảy ra mà hòa giải không thành thì hai bên sẽ
tiến hành nhờ đến vai trò của Hội đồng trọng tài lao động. Theo khoản 2 điều
169 của Bộ luật lao động Việt Nam quy định về trọng tài lao động là: “Hội
đồng trọng tài lao động cấp tỉnh gồm các thành viên chuyên trách và kiêm
chức là đại diện của cơ quan lao động, đại diện của công đoàn, đại diện của

NSDLĐ và một só luật gia, nhà quản lý, nhà hoạt động xã hội có uy tín ở địa
phương… Hội đồng trọng tài quyết định theo nguyên tắc đa số bằng cách bỏ
phiếu kín”. Tuy nhiên, việc sử dụng cơ chế này chỉ được áp dụng đối với các

×