Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Người nộp thuế dưới góc độ pháp luật quản lý thuế những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 60 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
---oOo---

NGƠ GIA HỒNG

NGƯỜI NỘP THUẾ
DƯỚI GÓC ĐỘ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương mại

TP. HCM – 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
---oOo---

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

NGƯỜI NỘP THUẾ
DƯỚI GÓC ĐỘ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGƠ GIA HỒNG
KHĨA: K34 – MSSV: 0955010089
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: GV. NGUYỄN THỊ THU HIỀN



TP. HỒ CHÍ MINH – 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tơi tên là Ngơ Gia Hồng – sinh viên Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh,
Khoa Luật Thương mại, Khóa 34 (2009 – 2013), là tác giả của Khóa luận tốt nghiệp
Cử nhân Luật – Chuyên ngành Luật Thương Mại – Đề tài: “Người nộp thuế dưới
góc độ pháp luật quản lý thuế - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” được trình bày
trong tài liệu này (sau đây gọi là “Khóa luận”).
Tơi xin cam đoan tất cả nội dung trong Khóa luận này hồn tồn được hình
thành và phát triển từ những quan điểm cá nhân của tôi, dưới sự hướng dẫn khoa
học của Giảng viên Nguyễn Thị Thu Hiền – Giảng viên Khoa Luật Thương Mại,
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Trong Khóa luận có trích dẫn, sử dụng một số ý kiến, quan điểm khoa học của
một số tác giả. Sự trích dẫn này được thể hiện cụ thể trong Danh mục tài liệu tham
khảo và tuân thủ các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Các số liệu và kết quả
có được trong Khóa luận này là hồn tồn trung thực.
Sinh viên thực hiện

Ngơ Gia Hồng


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
BLHS
ĐTNT
GTGT
NSNN
TNCN

TNDN
TNHC
TNHS
TTĐB
XK,NK
XHCN

Viết đầy đủ
Bộ luật Hình sự
Đối tượng nộp thuế
Giá trị gia tăng
Ngân sách nhà nước
Thu nhập cá nhân
Thu nhập doanh nghiệp
Trách nhiệm hành chính
Trách nhiệm hình sự
Tiêu thụ đặc biệt
Xuất khẩu, nhập khẩu
Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài. ............................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài. ...................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu. ................................................................................................. 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................................. 3
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................................ 3
6. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài. ............................................................... 4
7. Bố cục của khóa luận. ................................................................................................. 4

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI NỘP THUẾ
............................................................................................................................................. 6
1.1. Khát quát về quan hệ pháp luật thuế. ............................................................... 6

1.1.1. Khái niệm quan hệ pháp luật thuế. .............................................................6
1.1.2. Các bộ phận cấu thành của quan hệ pháp luật thuế. ...................................7
1.1.2.1. Chủ thể của quan hệ pháp luật thuế. ........................................................7
1.1.2.2. Khách thể của quan hệ pháp luật thuế. ....................................................9
1.1.2.3. Nội dung của quan hệ pháp luật thuế. .....................................................9
1.2. Khái quát về người nộp thuế. ............................................................................ 10
1.2.1. Khái niệm người nộp thuế. .......................................................................10
1.2.2. Phân loại người nộp thuế. .........................................................................12
1.2.2.1. Đối tượng nộp thuế. ...............................................................................12
1.2.2.2. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp các khoản thu khác thuộc NSNN do
cơ quan quản lý thuế quản lý thu theo quy định của pháp luật. ........................13
1.2.2.3. Tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế, tổ chức, cá nhân làm thủ tục về thuế
thay người nộp thuế. ..........................................................................................15
1.2.3. Trách nhiệm pháp lý của người nộp thuế. ................................................17
1.2.3.1. Các hành vi vi phạm pháp luật thuế. .....................................................18
1.2.3.2. Xử lý hành chính đối với hành vi vi phạm pháp luật thuế. ...................20
1.2.3.3. Xử lý hình sự đối với hành vi vi phạm pháp luật thuế. .........................22
1.3. Sự cần thiết phải phân định rõ người nộp thuế là ĐTNT và những người
nộp thuế khác. .............................................................................................................. 24
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................................... 27
CHƯƠNG 2: NGƯỜI NỘP THUẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
QUẢN LÝ THUẾ - NHỮNG VẤN ĐỀ BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN. .............................................................................................................................. 28
2.1. Về tư cách pháp lý của người nộp thuế. ......................................................... 28
2.1.1. Những bất cập, hạn chế của pháp luật liên quan đến tư cách pháp lý của
người nộp thuế. ..................................................................................................28

2.1.2. Giải pháp...................................................................................................33
2.2. Về quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế. .................................................... 35


2.2.1. Những bất cập, hạn chế của pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ
của người nộp thuế.............................................................................................35
2.2.2. Giải pháp...................................................................................................39
2.3. Về trách nhiệm pháp lý của người nộp thuế. ................................................ 42
2.3.1. Những bất cập, hạn chế của pháp luật liên quan đến trách nhiệm pháp lý
của người nộp thuế.............................................................................................42
2.3.2. Giải pháp...................................................................................................46
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................................... 50
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 51


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của thuế gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát
triển của Nhà nước. Khi Nhà nước phát triển, chức năng của Nhà nước mở rộng thì
nhu cầu chi tiêu của Nhà nước cũng tăng lên, đòi hỏi hệ thống pháp luật thuế phải
hồn thiện hơn. Đồng thời, để các chính sách thuế đi vào thực tiễn đời sống xã hội
cần phải có một cơ chế quản lý thuế hồn thiện.
Khi nói đến quản lý thuế thì phải nói đến đối tượng quản lý, trong đó có người
nộp thuế, chủ thể khơng thể thiếu trong quan hệ pháp luật thuế. Trong hoạt động lập
pháp, việc xác định rõ người nộp thuế có ý nghĩa rất lớn. Bởi lẽ xuất phát từ vai trò
của thuế là nguồn thu chủ yếu và thường xuyên cho NSNN, việc các chủ thể nộp
thuế thực hiện nghĩa vụ thuế đầy đủ theo quy định sẽ đảm bảo nguồn thu, đáp ứng
nhu cầu chi tiêu của bộ máy nhà nước. Mặt khác, thuế là công cụ điều tiết vĩ mô nền
kinh tế. Thông qua công cụ thuế, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế đầu tư,
định hướng tiêu dùng, đồng thời thực hiện phân phối thu nhập, đảm bảo sự cơng

bằng xã hội. Do đó, nếu xác định sai người nộp thuế, ĐTNT thì khơng những ảnh
hưởng đến việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế của nhà nước mà cịn tạo ra sự khơng
cơng bằng giữa các chủ thể trong xã hội. Tóm lại, xác định rõ ràng, chính xác người
nộp thuế, ĐTNT sẽ đảm bảo cho công tác hành thu đạt hiệu quả, thực hiện được
mục tiêu cơ bản của công tác quản lý thuế là thu đúng, thu đủ và thu kịp thời. Khi
có vi phạm trong lĩnh vực thuế xảy ra, xác định được người nộp thuế sẽ xác định
được trách nhiệm pháp lý thuộc về chủ thể nào, từ đó có cơ sở để xử lý, đảm bảo
việc chấp hành pháp luật thuế một cách nghiêm minh.
Trong một Nhà nước, pháp luật là cơng cụ quản lý hiệu quả nhất. Vì thế, muốn
quản lý thuế hiệu quả thì pháp luật về quản lý thuế phải hoàn thiện. Luật Quản lý
thuế 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế được ban
hành năm 2012 là bộ phận quan trọng nhất của pháp luật về quản lý thuế. Tuy
nhiên, trong Luật Quản lý thuế 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung vẫn còn tồn tại nhiều
vướng mắc chưa được giải quyết, gây khó khăn trong q trình thực thi, làm giảm
hiệu quả của công tác quản lý thuế. Một trong những vấn đề bất cập đó là Luật
Quản lý thuế chưa xác định rõ ràng nội hàm khái niệm “người nộp thuế”. Cụ thể,
Luật đã đồng nhất mọi chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của các đạo luật
thuế với các chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế phát sinh từ các thỏa thuận dân sự như
được ủy quyền nộp thuế, nộp thuế thay… Theo đó, tất cả các chủ thể này đều có
quyền và nghĩa vụ như nhau trong lĩnh vực thuế1. Sự không rõ ràng này đã gây
nhiều khó khăn trong việc thực thi pháp luật thuế trên thực tế, khó xác định được
trách nhiệm pháp lý khi có vi phạm xảy ra, từ đó gây thất thu thuế và tạo ra thái độ
coi thường pháp luật từ phía các chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế.
1

Xem Điều 6, Điều 7 Luật Quản lý thuế 2006.

Trang 1/51



Xuất phát từ thực tế trên, tác giả quyết định chọn đề tài: “Người nộp thuế dưới
góc độ pháp luật quản lý thuế - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” để nghiên cứu
và hồn thành khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật. Trong phạm vi khóa luận, tác giả
sẽ phân tích các quy định của pháp luật về “người nộp thuế”, từ đó phân định rõ nội
hàm hai khái niệm người nộp thuế là ĐTNT, và người nộp thuế là các chủ thể khác.
Trên cơ sở lý luận đó, tác giả sẽ kiến nghị những giải pháp góp phần hồn thiện
Luật Quản lý thuế nói riêng và pháp luật về quản lý thuế nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Ở cấp cử nhân, từ khi Luật Quản lý thuế 2006 ra đời đến nay, số lượng các
khóa luận nghiên cứu về các nội dung của Luật Quản lý thuế nói chung và các quy
định về người nộp thuế nói riêng cịn chưa nhiều. Liên quan đến lĩnh vực thuế, các
khóa luận đa phần tập trung vào các đạo luật thuế cụ thể ví dụ như khóa luận “Thuế
tiêu thụ đặc biệt, công cụ pháp lý hữu hiệu trong việc hạn chế tiêu thụ thuốc lá tại
Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Hằng2, “Pháp luật về phương pháp khấu
trừ thuế giá trị gia tăng – Thực trạng áp dụng và hướng hoàn thiện” của tác giả
Đào Hồng Diễm3,“Chế độ pháp lý về đăng ký, kê khai và nộp thuế thu nhập cá
nhân” của tác giả Nguyễn Thành Luân4,…
Ở cấp thạc sĩ và tiến sĩ, trong lĩnh vực quản lý thuế, các luận văn, luận án cũng
chỉ dừng lại ở mức độ nghiên cứu tổng quát về các quy định của pháp luật quản lý
thuế, từ đó xác định phương hướng và giải pháp hoàn thiện, nhằm nâng cao hiệu
quả pháp luật quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Ví dụ như luận
án “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật thuế ở
Việt Nam” của tác giả Trần Trung Nhân5, “Pháp luật quản lý thuế trong nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Vũ Văn
Cương6... Một số luận văn có nghiên cứu các quy định về người nộp thuế nhưng lại
tập trung phân tích từng loại người nộp thuế như “Pháp luật về tổ chức kinh doanh
dịch vụ làm thủ tục về thuế và hướng hoàn thiện” của tác giả Trần Minh Hiệp7,…
Ngoài ra, các đề tài nghiên cứu khoa học, các bài viết trên các tạp chí, báo
chuyên ngành, hội thảo,… khi đề cập đến lĩnh vực quản lý thuế thường tập trung
vào vấn đề đơn giản hóa thủ tục hành chính thuế, cải cách, hiện đại hóa ngành thuế

và nâng cao hiệu quả quản lý thuế thông qua việc phân tích, đánh giá các điều luật
cụ thể. Ví dụ như đề tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng và hoàn
thiện pháp luật thuế của Việt Nam trong tiến trình Hội nhập Kinh tế Quốc tế” của
TS. Nguyễn Thị Ánh Vân8, bài viết “5 năm thực hiện Luật Quản lý thuế - Một số
2

Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, 2008.
Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, 2009.
4
Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, 2011.
5
Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2006.
6
Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2012.
7
Luận văn cao học, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, 2010.
8
Đề tài khoa học - Trường ĐH Luật Hà Nội, 2007.
3

Trang 2/51


vướng mắc phát sinh cần điều chỉnh” của tác giả Việt Tuấn9, “Một số vấn đề về áp
dụng chế tài đối với các hành vi gian lận thuế và nộp chậm tiền thuế” của tác giả
Trần Trung Nhân10, “Doanh nghiệp FDI: Giải pháp nào cho tình trạng xù nợ thuế,
bỏ trốn?” của tác giả Hoài Linh11,… Một số bài viết có bàn về ĐTNT nhưng theo
hướng phân tích các quyền và nghĩa vụ của họ như bài viết “Một số vấn đề pháp lý
về quyền của đối tượng nộp thuế” của tác giả Phan Thị Thành Dương12,…
Nhìn chung, các nghiên cứu từ trước đến nay chưa có sự phân tích, đánh giá

một cách tổng hợp về người nộp thuế, chưa đi sâu làm rõ sự khác biệt giữa ĐTNT
với những người nộp thuế khác.
3. Mục đích nghiên cứu.
Thơng qua việc phân tích các quy định của pháp luật về người nộp thuế, tác
giả mong muốn làm rõ các vấn đề sau:
Một là, tìm hiểu các quy định của pháp luật có liên quan đến người nộp thuế,
xác định những bất cập, thiếu sót của pháp luật khi quy định về chủ thể này. Qua
đó, phân tích ngun nhân, đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về người
nộp thuế.
Hai là, phân định, so sánh địa vị pháp lý của người nộp thuế là ĐTNT và
những người nộp thuế khác, qua đó xác định rõ ràng trách nhiệm pháp lý của họ khi
có vi phạm xảy ra.
Ba là, đóng góp một số giải pháp làm cơ sở cho các nhà lập pháp xem xét, sử
dụng nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật quản lý thuế về người nộp thuế,
tạo cơ sở pháp lý cho việc thực thi các chính sách thuế đạt hiệu quả trong thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả sẽ tập trung phân tích, đánh giá
các quy định của Luật Quản lý thuế 2006, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn về người nộp thuế liên quan đến khái
niệm “người nộp thuế”, quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý của người nộp
thuế…; Quy định pháp luật về ĐTNT, người nộp thuế trong các đạo luật thuế cụ thể
như Luật Thuế GTGT, Luật Thuế TTĐB, Luật Thuế XK, NK, Luật Thuế TNDN,
Luật Thuế TNCN,… và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Ngoài ra, khóa luận sẽ tham khảo kinh nghiệm của một số nước cũng như
thông lệ quốc tế về quản lý thuế và pháp luật điều chỉnh quan hệ quản lý thuế để rút
ra những bài học kinh nghiệm cho việc hoàn thiện pháp luật quản lý thuế ở Việt
Nam. Đồng thời, liên hệ một số quan điểm khoa học, các số liệu thực tiễn có liên
quan đến điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ quản lý thuế.
5. Phương pháp nghiên cứu.
9


Tạp chí Thuế Nhà nước số 19 (377) tháng 5/2012, tr. 6-7.
Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 09/2006, tr. 63-66.
11
Tạp chí Thanh tra tài chính số 120, tháng 6/2012, tr. 27-28.
12
Tạp chí Khoa học pháp lý số 01 năm 2005, tr. 32.
10

Trang 3/51


Khóa luận được hình thành trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng và Nhà nước về thuế
nói chung và cơng tác quản lý thuế nói riêng. Để thực hiện khóa luận, tác giả sử
dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh pháp luật, phương pháp lịch sử,
phương pháp thống kê, phương pháp tổng kết thực tiễn.
Trong Chương 1, tác giả chủ yếu sử dụng các phương pháp phân tích, so sánh
pháp luật để làm rõ các khái niệm, quy định của pháp luật có liên quan về quan hệ
pháp luật thuế và người nộp thuế, từ đó xác định sự cần thiết phải phân định rõ
người nộp thuế là ĐTNT và những người nộp thuế khác, làm cơ sở cho việc đánh
giá thực tiễn áp dụng pháp luật quản lý thuế và đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp
luật quản lý thuế trong Chương 2.
Các phương pháp như phương pháp thống kê, phương pháp tổng kết thực tiễn,
phương pháp lịch sử sẽ được dùng nhiều trong Chương 2 để xem xét, đánh giá thực
tiễn áp dụng pháp luật quản lý thuế nói chung và các quy định liên quan đến người
nộp thuế nói riêng, qua đó phân tích ngun nhân của các khó khăn, vướng mắc
trong thực tế. Phương pháp so sánh pháp luật sẽ được dùng để so sánh các quy định
của pháp luật thuế Việt Nam với thông lệ quốc tế nhằm tham khảo một số kinh

nghiệm và đề ra giải pháp hoàn thiện. Ngoài ra, cuối mỗi chương, tác giả còn sử
dụng phương pháp tổng hợp để tóm tắt nội dung và đưa ra kết luận cho từng chương
và cho cả khóa luận.
6. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài.
Trong những năm đầu gia nhập WTO, trước những biến động của thị trường
thế giới, nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách. Bằng
các cơng cụ kinh tế nói chung và các cơng cụ thuế nói riêng, Nhà nước ta đang đẩy
mạnh khuyến khích đầu tư, hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước trong môi
trường cạnh tranh khốc liệt. Việc sử dụng chính sách thuế sao cho hiệu quả ln là
một bài tốn khó và tốn khơng biết bao nhiêu giấy mực của các nhà nghiên cứu. Với
mục đích nghiên cứu là làm rõ sự khác biệt giữa người nộp thuế và ĐTNT, đề tài sẽ
là một nguồn thơng tin, giải pháp để hồn thiện cơng tác quản lý thuế một cách
khoa học và hiệu quả.
Hiện nay, thực tiễn áp dụng các đạo luật thuế vào trong cuộc sống cịn gặp
nhiều khó khăn, vướng mắc xuất phát từ sự không rõ ràng của hành lang pháp lý.
Việc nghiên cứu đề tài hứa hẹn sẽ có tính ứng dụng trong công tác quản lý thuế như
giúp ban hành các quy phạm pháp luật nhằm xác định trách nhiệm của người nộp
thuế khi xảy ra vi phạm pháp luật thuế, hoàn thiện hệ thống chế tài xử lý vi phạm,
phục vụ công tác hành thu đạt hiệu quả.
7. Bố cục của khóa luận.

Trang 4/51


Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Khóa
luận được chia thành hai chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về người nộp thuế.
Chương 2. Người nộp thuế theo quy định của pháp luật quản lý thuế - Những
vấn đề bất cập và giải pháp hoàn thiện.


Trang 5/51


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI NỘP THUẾ
1.1. Khát quát về quan hệ pháp luật thuế.
1.1.1. Khái niệm quan hệ pháp luật thuế.
Theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin, con người là tổng hòa của các mối
quan hệ xã hội13. Bản chất của con người được hình thành thơng qua các mối quan
hệ xã hội mà họ tham gia. Do đó, trước khi tìm hiểu về người nộp thuế cần có cái
nhìn tổng qt về quan hệ pháp luật thuế, trong đó người nộp thuế luôn luôn là một
bên chủ thể.
Quan hệ pháp luật là những quan hệ nảy sinh trong xã hội được các quy phạm
pháp luật điều chỉnh14. Nói cách khác, bản chất của quan hệ pháp luật chính là các
quan hệ xã hội, xuất hiện trên cơ sở điều chỉnh của quy phạm pháp luật. Các bên
tham gia quan hệ pháp luật có những quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định, do quy
phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ đó quy định hoặc thừa nhận.
Trong khi đó, thuế là khoản thu mà các tổ chức, cá nhân bắt buộc phải nộp vào
NSNN; các khoản thu này khơng mang tính đối giá và hoàn trả trực tiếp cho người
nộp thuế. Như vậy, quan hệ pháp luật thuế là các quan hệ xã hội phát sinh trong
hoạt động thu, nộp thuế giữa các cá nhân, tổ chức (chủ thể nộp thuế) và Nhà nước
(chủ thể thu thuế) được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật thuế15. Theo đó,
quan hệ pháp luật thuế là toàn bộ quan hệ phát sinh giữa các cơ quan thu thuế với
người nộp thuế trong suốt quá trình thu và nộp thuế, từ khâu đăng ký, kê khai, nộp
thuế, quyết toán thuế, kiểm tra, thanh tra và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực thuế.
Trên cơ sở khái niệm quan hệ pháp luật thuế, có thể rút ra một số đặc điểm của
quan hệ pháp luật thuế như sau:
Thứ nhất, xét về mặt chủ thể, quan hệ pháp luật thuế là quan hệ giữa một bên
là cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền (chủ thể quản lý) và bên kia là các tổ
chức, cá nhân chịu sự quản lý (bao gồm các chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế và các chủ

thể khác có liên quan). Vì vậy, tham gia quan hệ pháp luật thuế có thể có hai hay
nhiều chủ thể. Tuy nhiên, một bên tham gia quan hệ pháp luật thuế bao giờ cũng là
Nhà nước mà đại diện là cơ quan quản lý thuế. Các cơ quan này được sử dụng
quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo rằng các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế
phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, mục đích mà các chủ thể hướng đến khi tham gia vào quan hệ pháp
luật thuế hoàn toàn khác nhau, và đôi khi là mâu thuẫn với nhau. Nhà nước mong
muốn thu đủ thuế, hạn chế thất thu, trốn thuế. Cịn các chủ thể khác thì mong muốn
giảm số thuế phải nộp càng nhiều càng tốt. Vì vậy, làm thế nào để vừa thực hiện
13

C.Mác, Luận cương về Phoi-ơ-bắc.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội, tr. 437.
15
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật thuế, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt
Nam, Tp. Hồ Chí Minh, tr. 62.
14

Trang 6/51


được mục tiêu thu thuế của Nhà nước, vừa đảm bảo lợi ích của các chủ thể cịn lại
là bài toán mà pháp luật quản lý thuế phải giải quyết.
Thứ ba, phương pháp điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ pháp luật
thuế là phương pháp mệnh lệnh phục tùng. Trong đó, địa vị pháp lý giữa hai bên
chủ thể là khơng bình đẳng. ĐTNT và Nhà nước khơng có sự thỏa thuận về số thuế
phải nộp và lợi ích mà mỗi ĐTNT được thụ hưởng. Nhà nước sử dụng quyền lực
đặc biệt của mình để quy định số thuế mà ĐTNT phải nộp và cưỡng chế việc thực
thi nghĩa vụ nộp thuế của ĐTNT.

Từ những đặc điểm trên, có thể thấy quan hệ pháp luật thuế có một số nét
tương đồng với quan hệ pháp luật hành chính. Trong cả hai loại quan hệ này, Nhà
nước ln luôn là một bên chủ thể. Phương pháp điều chỉnh là phương pháp mệnh
lệnh phục tùng, khơng có sự thương lượng, thỏa thuận giữa các bên chủ thể. Tuy
nhiên, quan hệ pháp luật thuế không phải là quan hệ pháp luật hành chính. Quan hệ
hành chính là những quan hệ xã hội phát sinh chủ yếu trong lĩnh vực chấp hành,
điều hành giữa một bên mang quyền lực nhà nước, có chức năng quản lý hành chính
Nhà nước và một bên là đối tượng quản lý. Các quan hệ này được điều chỉnh bởi
những quy phạm pháp luật hành chính. Khách thể của quan hệ pháp luật hành chính
là trật tự quản lý hành chính nhà nước trong từng lĩnh vực cụ thể, ví dụ như các
quan hệ hành chính về giải quyết khiếu nại, tố cáo có khách thể là trật tự quản lý
nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo. Trong khi đó, bản chất của quan hệ thuế là
quan hệ tài chính, trong đó có sự vận động, luân chuyển của các dòng tiền từ chủ
thể này sang chủ thể khác của nền kinh tế. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong
quan hệ pháp luật thuế do quy phạm pháp luật thuế quy định hoặc thừa nhận và
nhằm hướng đến việc thực hiện chính sách thuế hiệu quả. Vì vậy, quan hệ pháp luật
thuế khơng phải là quan hệ pháp luật hành chính.
Như vậy, thơng qua việc phân tích khái niệm, đặc điểm của quan hệ pháp luật
thuế, chúng ta có thể hiểu được bản chất cũng như phân biệt được sự khác nhau
giữa quan hệ pháp luật thuế với các quan hệ pháp luật khác, đặc biệt là quan hệ
pháp luật hành chính. Để hiểu rõ hơn về quan hệ pháp luật thuế, tác giả sẽ phân tích
sâu hơn các bộ phận cấu thành của quan hệ này, trong đó đặc biệt làm rõ các vấn đề
có liên quan đến người nộp thuế - một bên chủ thể của quan hệ pháp luật thuế.
1.1.2. Các bộ phận cấu thành của quan hệ pháp luật thuế.
Cũng giống như các quan hệ pháp luật khác, quan hệ pháp luật thuế cũng được
tạo thành từ 3 bộ phận cơ bản, bao gồm: chủ thể, nội dung và khách thể. Tuy nhiên,
các bộ phận cấu thành nên quan hệ pháp luật thuế có những những điểm đặc thù,
xuất phát từ bản chất của thuế, một khoản thu mang tính bắt buộc của NSNN.
1.1.2.1. Chủ thể của quan hệ pháp luật thuế.
Chủ thể là yếu tố đầu tiên để cấu thành nên một quan hệ xã hội nói chung và

một quan hệ pháp luật nói riêng. Để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội cũng
Trang 7/51


như của mỗi người dân, Nhà nước quy định rõ bằng quy phạm pháp luật những tổ
chức, cá nhân nào được phép tham gia vào các quan hệ pháp luật và những điều
kiện để tham gia với tư cách là chủ thể quan hệ pháp luật. Theo đó, tổ chức, cá nhân
nào thỏa mãn được những điều kiện do Nhà nước quy định cho mỗi loại quan hệ
pháp luật thì có thể trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật đó16. Tương tự, chủ thể
của quan hệ pháp luật thuế là các tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện theo quy định
của pháp luật. Trong quan hệ pháp luật thuế có hai loại chủ thể cơ bản là Nhà nước
và người nộp thuế.
Nhà nước, đóng vai trị là chủ thể quản lý, tiến hành thu thuế thông qua các cơ
quan được Nhà nước trao chức năng, quyền hạn thu thuế. Theo quy định của pháp
luật, các cơ quan thu thuế ở Việt Nam hiện nay bao gồm: hệ thống Cơ quan Thuế,
Cơ quan Hải quan17 và Uỷ ban nhân dân cấp xã18. Ngồi ra, cơ quan thuế có thể ủy
nhiệm cho cơ quan, tổ chức, cá nhân thu một số loại thuế vào NSNN theo quy định
của Chính phủ19. Mặc dù có nhiều cơ quan có thẩm quyền thu thuế nhưng thẩm
quyền của mỗi cơ quan được pháp luật quy định rất rõ ràng, khơng có sự chồng
chéo. Mỗi cơ quan có thẩm quyền thu các loại thuế tương ứng khác nhau. Ví dụ: Cơ
quan Hải quan có nhiệm vụ quản lý và thu các loại thuế thuế gắn với hàng hóa XK,
NK20, Cơ quan thuế có nhiệm vụ thu các khoản thuế phát sinh trên cơ sở các hoạt
động sản xuất, kinh doanh ở trong nước,…
Đối với người nộp thuế, xét về mặt lý luận, công dân có nghĩa vụ thuế với Nhà
nước, tức là tồn dân phải nộp thuế. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1992 đã ghi nhận một trong những nghĩa vụ cơ bản của công dân là
nộp thuế cho nhà nước21. Nghĩa vụ cơ bản là nghĩa vụ có từ khi một người được
sinh ra, vì vậy nghĩa vụ nộp thuế không bị giới hạn bởi độ tuổi hay năng lực hành
vi. Nhưng dưới góc độ quan hệ pháp luật thuế, không phải ai cũng là chủ thể của
quan hệ pháp luật thuế. Để trở thành chủ thể, cá nhân, tổ chức cần phải thỏa mãn

hai điều kiện:
(i) Có năng lực chủ thể: tổ chức, cá nhân phải đảm bảo năng lực chủ thể là
“điều kiện cần” để trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật thuế. Tương ứng với mỗi
sắc thuế, pháp luật quy định các điều kiện đối với chủ thể mà chỉ khi thỏa mãn các
điều kiện đó, tổ chức, cá nhân mới trở thành chủ thể. Ví dụ: cá nhân muốn trở thành
chủ thể của quan hệ pháp luật thuế TNCN phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.
Việc hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế của người mất năng lực hành vi dân sự do người
16

Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội, tr. 444.
17
Khoản 2 Điều 2 Luật Quản lý thuế 2006.
18
Trường hợp ở vùng sâu, vùng xa, điều kiện đi lại khó khăn, người nộp thuế có thể thực hiện việc đăng ký,
khai, tính và nộp thuế sử dụng đất phi nông nghiệp tại Ủy ban nhân dân xã (Khoản 2 Điều 8 Luật Thuế sử
dụng đất phi nông nghiệp 2010).
19
Khoản 8 Điều 9 Luật Quản lý thuế 2006.
20
Điều 27 Luật Thuế XK, NK năm 2005; Điều 11 Luật Hải quan 2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2005).
21
Điều 80 Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.

Trang 8/51


quản lý tài sản của người mất năng lực hành vi dân sự thực hiện trong phần tài sản
của người đó.
(ii) Tham gia vào quan hệ pháp luật thuế: khơng phải chủ thể nào trong xã

hội cũng phải nộp thuế dù họ có đầy đủ năng lực chủ thể. Họ chỉ phải nộp khi quan
hệ xã hội mà họ tham gia chịu sự điều chỉnh của một sắc thuế nhất định. Đây là
“điều kiện đủ” để trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật thuế.
Quan hệ giữa Nhà nước và người nộp thuế là quan hệ giữa chủ thể quản lý và
chủ thể bị quản lý. Các chủ thể này có những đặc trưng khác nhau và khi tham gia
vào quan hệ pháp luật thuế, họ hướng đến những lợi ích khác nhau. Do đó, pháp
luật thuế sẽ có những quy định riêng biệt khi điều chỉnh từng loại chủ thể nhất định.
1.1.2.2. Khách thể của quan hệ pháp luật thuế.
Khách thể quan hệ pháp luật là những lợi ích vật chất, tinh thần và những lợi
ích xã hội khác có thể thỏa mãn những nhu cầu, địi hỏi của các tổ chức hoặc cá
nhân mà vì chúng các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật, nghĩa là, vì chúng
mà họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ chủ thể của mình22. Nói cách khác, khách
thể là cái thúc đẩy các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật. Khách thể quan hệ
pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng, bởi nó được xem là động lực thúc đẩy sự phát
sinh, tồn tại hay chấm dứt một quan hệ pháp luật nhất định.
Trong quan hệ pháp luật thuế, mỗi chủ thể đều hướng đến một lợi ích nhất
định. Các cơ quan quản lý thuế, đại diện cho quyền lợi của Nhà nước luôn mong
muốn thu đúng, thu đủ và thu kịp thời số tiền thuế theo quy định của pháp luật để
đưa vào NSNN, hạn chế thấp nhất việc trốn thuế, nộp thiếu thuế của cá nhân, tổ
chức. Trong khi đó, người nộp thuế tham gia vào quan hệ pháp luật thuế lại mong
muốn việc nộp thuế được tiến hành nhanh chóng, thuận lợi, chính xác và giảm thiểu
số tiền thuế phải đóng càng nhiều càng tốt.
Do đó, lợi ích giữa hai nhóm chủ thể này thường có sự mâu thuẫn, đối lập với
nhau. Vì vậy, pháp luật thuế cần đảm bảo hài hịa lợi ích của hai nhóm chủ thể trên.
Muốn đạt được mục tiêu đó, khơng những pháp luật về quản lý thuế cần phải quy
định một cách rõ ràng, dễ hiểu về quyền và nghĩa vụ tương ứng với mỗi chủ thể, mà
còn cần phải có cơ chế giám sát chặt chẽ hoạt động của những chủ thể này.
1.1.2.3. Nội dung của quan hệ pháp luật thuế.
Nội dung của quan hệ pháp luật bao gồm quyền và nghĩa vụ chủ thể23, do các
quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ pháp luật đó quy định hoặc thừa nhận.

Trong đó, quyền chủ thể là cách xử sự mà pháp luật cho phép chủ thể được tiến
hành. Các chủ thể có thể lựa chọn cách thức xử sự cho phù hợp, thực hiện hoặc
không thực hiện các quyền của mình. Trái lại, nghĩa vụ chủ thể là cách xử sự mà
22

Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội, tr. 457.
23
Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội, tr. 453.

Trang 9/51


Nhà nước bắt buộc chủ thể phải tiến hành nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền của
chủ thể khác. Nếu chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ
của mình thì phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi từ phía Nhà nước.
Về mặt lý luận, khi một chủ thể tham gia vào bất kỳ quan hệ pháp luật nào đều
có các quyền và nghĩa vụ tương ứng. Nội dung, số lượng và các biện pháp bảo đảm
thực hiện chúng đều do Nhà nước quy định hoặc do các bên xác lập trên cơ sở các
quy định đó24. Trong quan hệ pháp luật thuế, các bên tham gia đều được xác định
trước về quyền và nghĩa vụ pháp lí. Do phương pháp điều chỉnh trong lĩnh vực thuế
là phương pháp mệnh lệnh, quyền uy nên giữa chủ thể quản lý và chủ thể chịu sự
quản lý khơng có sự thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của mình. Quyền và nghĩa vụ
pháp lý của các bên chủ thể được quy định cụ thể trong luật và được xem xét ở các
giai đoạn cụ thể khác nhau của quá trình thu, nộp thuế.
Trong chừng mực nhất định, người ta có thể xem quan hệ pháp luật thuế là
một quan hệ hợp đồng mà thanh toán tiền thuế là kết quả của việc thực hiện một bản
hợp đồng giữa Nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội 25. Theo đó, người dân
nộp thuế cho nhà nước và Nhà nước phải đảm bảo cho họ được hưởng các tiện ích

như phúc lợi xã hội, đảm bảo an ninh trật tự, đảm bảo điều kiện thuận lợi để kinh
doanh, tìm kiếm thu nhập… Đối với người nộp thuế, đây là những quyền gián tiếp
vì nó khơng phải là hệ quả trực tiếp phát sinh từ việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Trong
khi đó, quyền trực tiếp là quyền mà ĐTNT có được trong q trình thực hiện nghĩa
vụ thuế. Chúng được thừa nhận và bảo đảm thực hiện theo những quy định của
pháp luật26. Ví dụ: quyền được hoàn thuế, quyền được hưởng các ưu đãi về thuế…
Muốn thụ hưởng những quyền này thì người nộp thuế phải thực hiện một hoặc một
số nghĩa vụ thuế và có thể phải tiến hành các thủ tục cần thiết để đề nghị cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền xem xét cho hưởng quyền.
Tóm lại, khi phân tích về các yếu tố cấu thành của quan hệ pháp luật thuế,
chúng ta thấy rõ quan hệ pháp luật thuế có những điểm đặc thù so với các quan hệ
pháp luật khác. Trong đó, chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thuế bao gồm hai
nhóm chủ thể cơ bản là các cơ quan quản lý, thu thuế và người nộp thuế. Nhóm
người nộp thuế là nhóm chủ thể khơng thể thiếu trong quan hệ pháp luật thuế, sẽ là
đối tượng được nghiên cứu trong đề tài này.
1.2. Khái quát về người nộp thuế.
1.2.1. Khái niệm người nộp thuế.
Khi đưa ra khái niệm về người nộp thuế, Luật Quản lý thuế 2006 không nêu rõ
các dấu hiệu, đặc trưng của người nộp thuế mà chỉ liệt kê người nộp thuế bao gồm
24

Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội, tr. 457.
25
Ts. Phan Thị Thành Dương (2005), “Một số vấn đề pháp lý về quyền của ĐTNT”, Tạp chí Khoa học pháp
lý số 01, tr. 33.
26
Ts. Phan Thị Thành Dương (2005), “Một số vấn đề pháp lý về quyền của ĐTNT”, Tạp chí Khoa học pháp
lý số 01, tr. 35.


Trang 10/51


những đối tượng nào. Vì vậy, hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm
người nộp thuế.
Theo PGS.TS. Phan Thị Cúc, TS. Phan Hiển Minh, ThS. Nguyễn Thị Mỹ
Linh, ThS. Đồn Văn Đính, ThS. Võ Văn Hợp: “Người nộp thuế là người đem tiền
thuế nộp cho nhà nước”27.
Theo nhóm tác giả Võ Thế Hào, Phan Mỹ Hạnh, Lê Quang Cường: “Tùy thuộc
vào tính chất trực thu hay gián thu của thuế, người nộp thuế có thể là người chịu
thuế hay chỉ là người nộp thay khoản thuế”28.
Theo PGS.TS Nguyễn Thị Liên, TS. Nguyễn Văn Hiệu: “ĐTNT có thể là thể
nhân hoặc pháp nhân được luật pháp xác định có trách nhiệm phải nộp thuế cho
nhà nước và gọi là người nộp thuế”29. Quan điểm này cho rằng người nộp thuế và
ĐTNT là hai khái niệm đồng nhất với nhau.
Theo quan điểm của Trường Đại học Luật Tp. HCM thì người nộp thuế là
“chủ thể thực hiện hành vi nộp tiền thuế vào NSNN…”30
Như vậy, hiện nay chưa có một khái niệm thống nhất về người nộp thuế, một
số quan điểm cịn đồng nhất người nộp thuế chính là ĐTNT. Tuy nhiên, thông qua
các quy định của Luật Quản lý thuế 2006, tác giả suy ra khái niệm người nộp thuế
dưới góc độ pháp luật quản lý thuế như sau: người nộp thuế là đ i tư ng thực hiện
hành vi nộp thuế cho Nhà nước có thể là cá nh n t chức hộ gia đ nh
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Quản lý thuế 2006, người nộp thuế
bao gồm 3 nhóm chủ thể:
Một là, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp thuế theo quy định của pháp luật về
thuế (còn gọi là ĐTNT);
Hai là, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp các khoản thu khác thuộc NSNN (sau
đây gọi chung là thuế) do cơ quan quản lý thuế quản lý thu theo quy định của pháp
luật;
Ba là, tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế, tổ chức, cá nhân làm thủ tục về thuế

thay ĐTNT.
Tính đến ngày 31/10/2011, tổng số người nộp thuế được cấp mã số thuế trên
cả nước đang hoạt động là 14.678.067 người nộp thuế, trong đó doanh nghiệp và tổ
chức là 560.243 người nộp thuế, hộ cá thể là 1.665.540 người nộp thuế, cá nhân nộp
thuế TNCN là 12.452.284 người nộp thuế31. Như vậy, số lượng người nộp thuế hiện
nay là rất lớn và ngày càng tăng theo sự phát triển của xã hội. Trong đó, đại đa số
người nộp thuế là cá nhân và hộ gia đình. So với các doanh nghiệp, phần lớn cá
27

PGS.TS. Phan Thị Cúc, TS. Phan Hiển Minh, ThS. Nguyễn Thị Mỹ Linh, ThS. Đồn Văn Đính, ThS. Võ
văn Hợp (2009), Thuế, Nxb Tài chính, tr. 13.
28
Võ Thế Hào, Phan Mỹ Hạnh, Lê Quang Cường (2008), Giáo trình Thuế, Nxb Lao động, tr. 19.
29
Học viện tài chính, PGS.TS Nguyễn Thị Liên, TS. Nguyễn Văn Hiệu (2007), Giáo trình Thuế, Nxb Tài
chính, Hà Nội.
30
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật thuế, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt
Nam, Tp. Hồ Chí Minh, tr. 52.
31
Chính phủ, Báo cáo Tổng kết đánh giá tình hình thực hiện Luật quản lý thuế (2012).

Trang 11/51


nhân và hộ gia đình thường có quy mơ nhỏ, chưa được đào tạo bài bản về kinh tế tài
chính, ý thức chấp hành pháp luật thuế cũng chưa cao, nên việc quản lý của cơ quan
thuế đối với đối tượng này thường gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, để thực hiện hiệu
công tác thu nộp thuế, tránh thất thu NSNN, địi hỏi cơng tác quản lý thuế phải thật
sự hồn thiện và ngày càng được hiện đại hóa cả về chính sách lẫn bộ máy tổ chức.

1.2.2. Phân loại người nộp thuế.
Như đã trình bày ở trên, nội hàm khái niệm người nộp thuế được hiểu khá
rộng, bao gồm nhiều nhóm chủ thể khác nhau. Mỗi nhóm người nộp thuế sẽ có
những đặc trưng riêng và pháp luật thuế điều chỉnh đối với mỗi nhóm cũng sẽ khác
nhau. Do đó, việc phân loại các nhóm người nộp thuế là cần thiết, làm cơ sở để
pháp luật điều chỉnh một cách phù hợp. Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật
Quản lý thuế 2006, người nộp thuế được chia thành 3 nhóm: (1) ĐNNT, (2) Tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân nộp các khoản thu khác thuộc NSNN do cơ quan quản lý thuế
quản lý thu theo quy định của pháp luật và (3) Tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế, tổ chức, cá
nhân làm thủ tục về thuế thay người nộp thuế.

1.2.2.1. Đối tượng nộp thuế.
ĐTNT là những tổ chức, cá nhân tác động vào đối tượng chịu thuế của một
sắc thuế, chịu sự điều chỉnh của sắc thuế đó và phải thực hiện 4 nghĩa vụ cụ thể
trong tổng thể nghĩa vụ thuế là đăng ký, kê khai, nộp và quyết toán thuế32. Một chủ
thể chỉ trở thành ĐTNT khi họ thỏa mãn 2 điều kiện: (1) có hành vi tác động lên đối
tượng chịu thuế và (2) hành vi đó phải được sắc thuế quy định là làm phát sinh
nghĩa vụ thuế.
Điều đó có nghĩa là để trở thành ĐTNT của một loại thuế, điều kiện trước hết
là cá nhân, tổ chức phải có hành vi tác động lên đối tượng chịu thuế của loại thuế
đó. Ví dụ: đối tượng chịu thuế của thuế nhập khẩu là hàng hóa nhập khẩu, doanh
nghiệp có hành vi nhập khẩu hàng hóa tức là doanh nghiệp thỏa mãn điều kiện tác
động lên đối tượng chịu thuế của thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, không phải mọi tổ
chức, cá nhân có hành vi tác động lên đối tượng chịu thuế đều là ĐTNT. Hành vi
của họ phải được pháp luật thuế quy định làm phát sinh nghĩa vụ thuế, hay nói cách
khác, khơng thuộc các trường hợp khơng chịu thuế. Ví dụ: mặc dù doanh nghiệp
trong khu phi thuế quan có hành vi nhập khẩu hàng hóa từ nước ngồi vào khu phi
thuế quan nhưng họ không phải là ĐTNT nhập khẩu33; hoặc người nhận hàng viện
trợ nhân đạo mặc dù có hành vi NK hàng hóa thuộc diện chịu thuế TTĐB nhưng họ
không phải là ĐTNT của thuế TTĐB34,…

Bên cạnh các điều kiện chung nêu trên, tổ chức, cá nhân còn phải thỏa mãn
thêm các điều kiện đặc thù theo yêu cầu của từng loại thuế để trở thành ĐTNT của
32

Ts. Phan Thị Thành Dương (2005), “Một số vấn đề pháp lý về quyền của ĐTNT”, Tạp chí Khoa học pháp
lý số 01, tr.32.
33
Điều 3 Luật Thuế XK, NK 2005.
34
Điều 3 Luật Thuế TTĐB 2008.

Trang 12/51


loại thuế đó. Ví dụ: muốn trở thành ĐTNT của thuế TNDN phải thỏa mãn 3 điều
kiện: (1) phải là tổ chức; (2) thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ; (3) có thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh đó 35. Nghĩa là cá nhân
không thể là ĐTNT của thuế TNDN. Ngược lại, ĐTNT của thuế TNCN phải là cá
nhân cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá
nhân khơng cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam36. Tổ
chức không thể là ĐTNT của thuế TNCN.
Như vậy, cơ sở làm phát sinh tư cách chủ thể và nghĩa vụ nộp thuế của
ĐTNT là hành vi tác động lên đối tượng chịu thuế của sắc thuế đó và pháp luật thuế
quy định chủ thể thực hiện hành vi đó phải nộp thuế cho nhà nước. Nói cách khác,
nghĩa vụ nộp thuế của ĐTNT là nghĩa vụ luật định. Khi Nhà nước thu thuế đối với
một hành vi thì điều đó cũng có nghĩa rằng Nhà nước thừa nhận hành vi đó là hợp
pháp37.
So với các chủ thể nộp thuế khác thì ĐTNT có những nét đặc thù. ĐTNT là
một trong các yếu tố cấu thành một đạo luật thuế, hoạt động của ĐTNT được pháp
luật thuế quy định rất cụ thể. Trong khi đó, các chủ thể nộp thuế khác như tổ chức

kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế, đại lý hải quan, tổ chức, cá nhân khấu trừ
thuế,… khơng phải là yếu tố bắt buộc phải có trong một đạo luật thuế. Nghĩa vụ nộp
thuế của họ không phát sinh trên cơ sở luật định mà phát sinh trên cơ sở hợp đồng
dân sự, quan hệ ủy quyền,… Họ không tác động lên đối tượng chịu thuế của sắc
thuế mà đơn thuần chỉ làm thủ tục về thuế thay cho ĐTNT. Những người nộp thuế
thay không bắt buộc phải đáp ứng các điều kiện như ĐTNT. Ví dụ: người nộp thuế
thay ĐTNT của thuế TNDN có thể là cá nhân mà không nhất thiết phải là tổ chức.
Ngược lại, người nộp thuế thay trong thuế TNCN có thể là tổ chức mà không bắt
buộc phải là cá nhân.
Nhìn chung, trong số các nhóm người nộp thuế thì ĐTNT đóng vai trị rất quan
trọng, là chủ thể chịu trách nhiệm trước Nhà nước về nghĩa vụ nộp thuế. Do đó, các
đạo luật quy định rất chi tiết về đối tượng này.
1.2.2.2. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp các khoản thu khác thuộc
NSNN do cơ quan quản lý thuế quản lý thu theo quy định của pháp luật.
Theo quy định của Luật NSNN 2002, các khoản thu NSNN ngồi thuế bao
gồm các khoản thu từ phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước;
các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản viện trợ; các khoản thu
khác theo quy định của pháp luật38. Về bản chất, các khoản thu NSNN khơng phải
là thuế có bản chất hồn tồn khác với thuế. Có thể thấy rõ điều này thơng qua việc
35

Điều 2 Luật Thuế TNDN 2008.
Điều 2 Luật Thuế TNCN 2007.
37
Tuy nhiên có một ngoại lệ trong thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, hành vi sử dụng đất phi nơng nghiệp thì
phải chịu thuế và việc Nhà nước thu thuế khơng có nghĩa là Nhà nước thừa nhận hành vi này là hợp pháp, dù
là hành vi bất hợp pháp hay hợp pháp đều phải nộp thuế.
38
Khoản 1 Điều 2 Luật NSNN 2002.
36


Trang 13/51


phân tích hai khoản thu NSNN điển hình và phổ biến, khơng phải là thuế, đó là phí
và lệ phí.
Lệ phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải nộp khi được cơ quan Nhà nước
hoặc tổ chức được uỷ quyền phục vụ công việc quản lý nhà nước được quy định39.
Bản chất của lệ phí hồn tồn khác với thuế. Lệ phí chỉ phát sinh trong một số tình
huống nhất định, đó là cơng tác quản lý nhà nước trong từng lĩnh vực cụ thể. Việc
nộp lệ phí xuất phát từ chính lợi ích của người nộp lệ phí và đó là lợi ích trực tiếp,
hay nói cách khác, lệ phí là những khoản thu mang tính “đối giá một phần”. Tính
đối giá được hiểu là tính chất hồn trả sịng phẳng, tương xứng với những lợi ích
nhất định, tính tốn được về mặt giá trị. Lệ phí mang tính đối giá một phần vì ngồi
việc phục vụ cho cơng tác quản lý của Nhà nước, lệ phí cịn phục vụ một cách trực
tiếp cho lợi ích của cá nhân, tổ chức. Ví dụ: trong lĩnh vực quản lý hộ khẩu, hộ tịch,
khi đăng ký khai sinh, kết hôn, làm CMND, hộ chiếu… người dân phải nộp lệ phí.
Số tiền này được dùng để phục vụ cho cơng việc quản lý hành chính về hộ khẩu, hộ
tịch của các cơ quan nhà nước, đồng thời cá nhân, tổ chức phải trả lệ phí để được
thụ hưởng những quyền lợi nhất định như được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết
hôn xác nhận hôn nhân, được cấp hộ chiếu để ra nước ngồi,…
Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân
khác cung cấp dịch vụ40. Như vậy, những hoạt động nào của Nhà nước mà mục tiêu
của hoạt động ấy là cung cấp dịch vụ và ta phải trả tiền để được hưởng dịch vụ thì
khoản tiền phải trả đó gọi là phí. Phí là khoản thu của Nhà nước mang tính chất bù
đắp chi phí thường xun hay khơng thường xuyên (bất thường) về xây dựng, sửa
chữa, bảo dưỡng tổ chức quản lý hành chính của Nhà nước đối với hoạt động phục
vụ người nộp phí. Có loại phí phổ biến chung như phí giao thơng, học phí, viện
phí,… Có loại phí chỉ mang tính chất địa phương như: phí qua cầu, đường,… ở
thơn, xã41. Phí đơn thuần là khoản tiền mà người nộp phải trả cho dịch vụ đã sử

dụng, mang tính “đối giá hồn tồn” và khơng gắn với quyền lực nên các khoản tiền
phí khơng mang tính chất bắt buộc.
Khác với phí và lệ phí, thuế thì hồn tồn khơng mang tính đối giá. Thuế là
nghĩa vụ bắt buộc của công dân với Nhà nước. Khi thu thuế, Nhà nước khơng bị
ràng buộc phải hồn trả trực tiếp cho người nộp thuế một khoản lợi ích tương xứng
với số tiền thuế mà người nộp thuế đã nộp vào NSNN. Lợi ích mà người nộp thuế
nhận được từ việc nộp thuế khơng phải là lợi ích mang tính trực tiếp mà là lợi ích
mang tính gián tiếp, thông qua các yếu tố như cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội, an
ninh trật tự… Do đó, bản chất của thuế và phí, lệ phí là khác nhau. Tương tự, các
khoản thu NSNN khác cũng hoàn khác với thuế.

39

Điều 3 Pháp lệnh của UBTVQH số 38/2001/PL-UBTVQH10 ngày 28/8/2011 về phí và lệ phí.
Điều 2 Pháp lệnh của UBTVQH số 38/2001/PL-UBTVQH10 ngày 28/8/2011 về phí và lệ phí.
41
Nguyễn Ngọc Điệp, (1999), 1200 thuật ngữ pháp lý Việt Nam, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.
40

Trang 14/51


Thơng qua việc phân tích các đặc điểm, tính chất của phí và lệ phí, có thể thấy
các chủ thể được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 2 Luật quản lý thuế 2006 có
nghĩa vụ nộp tiền vào NSNN, nhưng những khoản tiền này không phải là thuế. Vì
thế việc gọi chung những chủ thể này là người nộp thuế là không phù hợp. Bản chất
của các khoản thu này hồn tồn khơng liên quan đến thuế cho nên tác giả sẽ không
đề cập và nghiên cứu về các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp các khoản thu khác
thuộc NSNN ở các nội dung tiếp theo của khóa luận.
1.2.2.3. Tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế, tổ chức, cá nhân làm thủ tục về

thuế thay người nộp thuế.
Theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều 2 Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày
25/5/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý
thuế 2006, tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế, tổ chức, cá nhân làm thủ tục về thuế thay
ĐTNT bao gồm:
Thứ nhất, tổ chức, cá nhân là bên Việt Nam ký hợp đồng với tổ chức, cá nhân
nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam không theo quy định của pháp luật về đầu tư
và khơng thực hiện chế độ kế tốn Việt Nam; Ví dụ: A mua hàng của cơng ty B qua
mạng. Cơng ty B là doanh nghiệp nước ngồi, khơng có cơ sở thường trú tại Việt
Nam, nhưng có kinh doanh và phát sinh thu nhập tại Việt Nam, do đó là ĐTNT thu
nhập doanh nghiệp. Cơ quan thuế không thể quản lý được đối tượng này, nên A là
người mua hàng có trách nhiệm nộp thuế thay cho cơng ty B. Khi đó A là cá nhân
làm thủ tục thuế thay.
Thứ hai, tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế khi chi trả thu nhập cho người có thu
nhập thuộc diện chịu thuế TNCN. Thuế TNCN là thuế trực thu, ĐTNT là cá nhân
có thu nhập chịu thuế. Tuy nhiên, số lượng cá nhân có thu nhập chịu thuế TNCN rất
lớn và các loại thu nhập chịu thuế rất đa dạng. Do đó, Nhà nước quy định các tổ
chức, cá nhân chi trả thu nhập có trách nhiệm tạm tính thuế và khấu trừ, tạm nộp
thuế vào NSNN để thuận lợi cho Cơ quan thuế. Và họ đóng vai trò là người nộp
thuế theo Luật Quản lý thuế.
Thứ ba, tổ chức làm đại lý tàu biển, đại lý cho các hãng vận tải nước ngồi có
trách nhiệm khấu trừ thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động kinh doanh vận
chuyển hàng hóa bằng tàu biển từ các cảng biển Việt Nam ra nước ngoài hoặc giữa
các cảng biển Việt Nam.
Thứ tư, tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế. Tổ chức kinh doanh
dịch vụ làm thủ tục về thuế là doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ có điều kiện, được
thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp, thực hiện các thủ tục
về thuế theo thoả thuận với người nộp thuế42.
Từ khi phương pháp quản lý và hành thu thuế chuyển sang cơ chế tự khai thuế
(ĐTNT tự kê khai, tự tính và nộp thuế, đồng thời tự chịu trách nhiệm về hành vi đó),

42

Khoản 1 Điều 20 Luật Quản lý thuế 2006.

Trang 15/51


nhằm tăng tính chun mơn hóa và tạo điều kiện thuận lợi cho ĐTNT thực hiện đúng
nghĩa vụ thuế của mình, Luật Quản lý thuế 2006 ghi nhận sự tồn tại của tổ chức kinh
doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế với tư cách là một chủ thể thực hiện nghĩa vụ về thuế
thay ĐTNT. Quan hệ giữa ĐTNT và tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế
phát sinh trên cơ sở hợp đồng dịch vụ thuế. Như vậy, nghĩa vụ nộp thuế của nhóm
chủ thể này không phát sinh trên cơ sở quy định của các đạo luật thuế như ĐTNT,
mà phát sinh từ các thỏa thuận dân sự, thông qua hợp đồng dịch vụ làm thay thủ tục
về thuế.
Thứ năm, đại lý làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá XK, NK. Đại lý làm
thủ tục hải quan (gọi tắt là đại lý hải quan) là người khai hải quan theo uỷ quyền của
người có quyền và nghĩa vụ trong việc làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá XK,
NK. Đại lý hải quan phải hiểu biết pháp luật hải quan, nghiệp vụ khai hải quan và
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật trong phạm vi được uỷ quyền43. Theo quy
định của Luật Quản lý thuế 2006 thì đại lý hải quan thực hiện quyền và nghĩa vụ
của tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế khi làm thủ tục về thuế đối với
hàng hoá XK, NK44. Về bản chất, đại lý hải quan cũng giống như tổ chức kinh
doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế, đều là các chủ thể chuyên nghiệp, thực hiện thủ
tục thuế thay cho ĐTNT để hưởng thù lao. Điểm khác nhau cơ bản là đại lý hải
quan chỉ thay mặt người có hàng hoá XK, NK thực hiện trách nhiệm của người khai
hải quan còn đại lý thuế cung ứng tất cả các dịch vụ về thuế và đối với mọi loại
thuế45.
Thứ sáu, tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ bưu chính, dịch vụ chuyển phát
nhanh quốc tế trong trường hợp nộp thay thuế cho tổ chức, cá nhân nộp thuế. Ví dụ:

Bà A gửi một gói bưu phẩm trị giá trên 2 triệu đồng từ Hà Lan về Tp. Hồ Chí Minh
làm q biếu cho gia đình. Theo Nghị định số 66/2002/NĐ-CP ngày 01/7/2002 quy
định về định mức hành lý của người xuất cảnh, nhập cảnh và quà biếu, tặng NK
được miễn thuế, quà biếu, tặng có tổng trị giá quá 1 triệu đồng thì phải nộp thuế
XK, NK46. Nhân viên bưu điện Tp. Hồ Chí Minh đã thay mặt khách hàng khai báo,
tính thuế kiện hàng trên và làm thủ tục hải quan thay cho bà A. Khi đó, bưu điện
Tp. Hồ Chí Minh là tổ chức nộp thuế NK thay cho ĐTNT là bà A.
Thứ bảy, tổ chức tín dụng hoạt động theo quy định của Luật các Tổ chức tín
dụng trong trường hợp bảo lãnh nộp thuế cho tổ chức, cá nhân nộp thuế. Bảo lãnh là
việc người thứ ba (say đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây
gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây
gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực
43

Điều 21 Luật Hải quan 2001.
Khoản 5 Điều 20 Luật Quản lý thuế 2006.
45
Trần Minh Hiệp, Pháp luật về tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế và hướng hoàn thiện (Luận
văn cao học, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, 2010), tr. 10.
46
Khoản 1 Điều 10 Nghị định số 66/2002/NĐ-CP ngày 01/7/2002 quy định về định mức hành lý của người
xuất cảnh, nhập cảnh và quà biếu, tặng nhập khẩu được miễn thuế.
44

Trang 16/51


hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ47. Như vậy bảo lãnh nộp thuế được hiểu là
cam kết của tổ chức tín dụng đối với cơ quan quản lý thuế về việc nộp thay cho
người nộp thuế các khoản thuế nếu hết thời gian bảo lãnh mà người nộp thuế không

thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Cơ sở pháp lý của quan hệ bảo lãnh nghĩa vụ thuế là
giấy cam kết bảo lãnh của bên bảo lãnh và thỏa thuận bảo lãnh giữa bên bảo lãnh và
người nộp thuế. Xét dưới góc độ pháp lý, nghĩa vụ của tổ chức bảo lãnh và nghĩa vụ
của người nộp thuế là nghĩa vụ liên đới48.
Như vậy, với việc phân tích một số tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế, tổ chức, cá
nhân làm thủ tục thuế thay có thể thấy rằng nhóm đối tượng này hoàn toàn khác với
ĐTNT. Nghĩa vụ nộp thuế của tổ chức, cá nhân làm thủ tục thuế thay phát sinh từ
các thỏa thuận dân sự giữa họ với ĐTNT. Còn đối với tổ chức, cá nhân khấu trừ
thuế có thể xem là một trường hợp đặc biệt, nghĩa vụ nộp thuế của họ không phát
sinh trực tiếp từ quan hệ pháp luật thuế và cũng không phát sinh từ thỏa thuận dân
sự với ĐTNT. Nhà nước quy định họ phải nộp thuế thay cho ĐTNT để tạo điều kiện
thuận lợi cho công tác hành thu và hạn chế hành vi trốn thuế của người phải đóng
thuế thu nhập. Tuy nhiên, Luật Quản lý thuế 2006 lại đồng nhất các chủ thể này với
các quyền và nghĩa vụ như nhau, dẫn đến sự rối rắm về mặt lý luận và thực tiễn khi
xác định trách nhiệm pháp lý. Vấn đề này sẽ được tác giả phân tích sâu hơn trong
các phần sau.
Tóm lại, thơng qua việc phân loại người nộp thuế như trên chúng ta thấy, theo
Luật Quản lý thuế năm 2006, người nộp thuế sẽ được chia thành 3 nhóm: (1)
ĐTNT, (2) tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp các khoản thu khác thuộc NSNN và
(3) tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế, tổ chức, cá nhân làm thủ tục thuế thay. Tuy
nhiên trong 3 nhóm chủ thể này, như đã nói ở phần trên thì nhóm tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân nộp các khoản thu khác thuộc NSNN là nhóm đối tượng hồn tồn
khơng liên quan đến nghĩa vụ thuế, nên tác giả sẽ khơng đề cập nữa. Mặt khác, mục
đích của tác giả khi tiến hành phân loại người nộp thuế là để làm cơ sở cho việc
triển khai các nội dung nghiên cứu ở những phần tiếp theo, đặc biệt là Chương 2,
trong đó có mục đích phân biệt rõ ràng sự khác biệt giữa hai nhóm chủ thể nộp thuế:
nhóm ĐTNT và nhóm tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế, tổ chức, cá nhân làm thủ tục
thuế thay.
1.2.3. Trách nhiệm pháp lý của người nộp thuế.
Trách nhiệm được hiểu là “phần việc được giao cho hoặc coi như được giao

cho, phải bảo đảm làm trịn, nếu kết quả khơng tốt thì phải gánh chịu phần hậu
quả”49. Như vậy, khi một tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ phải thực hiện một công việc

47

Điều 361 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật thuế, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt
Nam, Tp. Hồ Chí Minh, tr. 66.
49
Viện ngơn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr. 1020.
48

Trang 17/51


nhất định nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, khơng đủ thì họ phải
chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi (sự trừng phạt) đối với chủ thể vi phạm
pháp luật, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa Nhà nước với chủ thể vi phạm pháp
luật, được các quy phạm pháp luật xác lập và điều chỉnh, trong đó chủ thể vi phạm
pháp luật phải chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế được quy
định ở chế tài các quy phạm pháp luật50.
Cơ sở của trách nhiệm pháp lý là hành vi vi phạm pháp luật. Trách nhiệm pháp
lý chỉ xuất hiện khi có vi phạm pháp luật xảy ra trong thực tế. Khi nói đến trách
nhiệm pháp lý thì phải kể đến những biện pháp cưỡng chế được quy định trong
phần chế tài của quy phạm pháp luật. Những biện pháp này có tác dụng răn đe, giáo
dục người vi phạm và góp phần phòng ngừa các hành vi vi phạm.
Trong lĩnh vực thuế, nếu người nộp thuế vi phạm các thủ tục thuế, chậm nộp
tiền thuế hay cố tình trốn thuế, gian lận thuế,… thì sẽ bị xử lý. Tuy nhiên, pháp luật
hiện hành chưa làm rõ nội hàm khái niệm người nộp thuế, đồng nhất ĐTNT và tổ

chức, cá nhân khấu trừ thuế, tổ chức, cá nhân làm thủ tục thuế thay, dẫn đến hệ quả
là chưa phân định rõ đâu là trách nhiệm của tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế, tổ chức,
cá nhân làm thủ tục về thuế thay ĐTNT, đâu là trách nhiệm của ĐTNT, khi nào thì
phát sinh trách nhiệm liên đới, khi nào thì gánh chịu trách nhiệm pháp lý độc lập.
Do đó, tác giả sẽ phân tích các hành vi vi phạm chủ yếu trong lĩnh vực thuế theo
pháp luật hiện hành cũng như chế tài đối với các hành vi này, làm cơ sở để phân
tích các bất cập trong quy định pháp luật về người nộp thuế.
1.2.3.1. Các hành vi vi phạm pháp luật thuế.
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có năng lực
trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo
vệ51. Như vậy, vi phạm pháp luật về thuế là hành vi làm trái các quy định pháp luật
về thuế, do tổ chức, cá nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến các
quan hệ pháp luật thuế và phải gánh chịu hậu quả pháp lý về hành vi đó của mình.
Thực tiễn cho thấy, hành vi vi phạm pháp luật về thuế của người nộp thuế
đa dạng và trong nhiều trường hợp, các hành vi đó được thực hiện một cách tinh vi.
Chính vì lẽ đó, việc điều tra, xác định các hành vi vi phạm thường gặp rất nhiều khó
khăn, địi hỏi phải tốn nhiều thời gian và chi phí. Theo Điều 103 Luật Quản lý thuế
2006, hành vi vi phạm pháp luật về thuế của người nộp thuế bao gồm các dạng chủ
yếu sau:
Thứ nhất, vi phạm các thủ tục thuế. Thủ tục về thuế là những quy định về
giấy tờ và trình tự nộp mang tính hành chính để thi hành luật thuế (như thủ tục đăng
50

Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội, tr. 508-509.
51
Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội, tr. 500.

Trang 18/51



ký, kê khai, nộp thuế và quyết toán thuế)52. Vi phạm các thủ tục thuế là việc người
nộp thuế thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ các quy định về trình tự, thủ tục
mà người nộp thuế có nghĩa vụ phải thực hiện theo quy định của pháp luật. Theo
khoản 1 Điều 105 Luật Quản lý thuế 2006, các dạng hành vi vi phạm các thủ tục
thuế bao gồm:
a) Nộp hồ sơ đăng ký thuế sau ngày hết hạn nộp hồ sơ đăng ký thuế;
b) Nộp hồ sơ khai thuế trong khoảng thời gian chín mươi ngày, kể từ ngày hết
thời hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc ngày hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế;
c) Nộp hồ sơ khai thuế trong khoảng thời gian từ ngày hết hạn phải nộp tờ khai
hải quan đến trước ngày xử lý hàng hố khơng có người nhận theo quy định của
Luật Hải quan đối với trường hợp theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 32 của
Luật này;
d) Khai không đầy đủ các nội dung trong hồ sơ thuế, trừ trường hợp người nộp
thuế khai bổ sung trong thời hạn quy định;
đ) Vi phạm các quy định về cung cấp thông tin liên quan đến xác định nghĩa
vụ thuế;
e) Vi phạm các quy định về chấp hành quyết định kiểm tra thuế, thanh tra thuế,
cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
Thứ hai, chậm nộp tiền thuế. Hành vi chậm nộp thuế được hiểu là việc người
nộp thuế có hành vi chậm nộp tiền thuế so với thời hạn quy định, thời hạn gia hạn
nộp thuế, thời hạn ghi trong thông báo của cơ quan quản lý thuế, thời hạn trong
quyết định xử lý của cơ quan quản lý thuế hoặc người nộp thuế khai sai dẫn đến làm
thiếu số tiền phải nộp hoặc không khai thuế nếu tự giác khắc phục hậu quả bằng
cách nộp đủ số tiền thuế phải nộp trước khi cơ quan có thẩm quyền phát hiện. Đối
với hàng hố XK, NK thì trong thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai
hải quan nhưng trước khi cơ quan hải quan kiểm tra, thanh tra mà ĐTNT tự phát
hiện ra những sai sót ảnh hưởng đến số tiền thuế phải nộp và chủ động nộp số tiền
thuế còn thiếu vào NSNN53.

Thứ ba, khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế
được hoàn. Theo Điều 107 Luật Quản lý thuế 2006, đối với hành vi này, người nộp
thuế đã phản ánh đầy đủ, trung thực các nghiệp vụ kinh tế làm phát sinh nghĩa vụ
thuế trên sổ kế toán, hoá đơn, chứng từ nhưng khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế
phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn hoặc khai sai nhưng không thuộc các
trường hợp quy định tại khoản 6 và khoản 7 Điều 108 của Luật Quản lý thuế 54 dẫn
đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn. Người nộp thuế do

52

Sở GD&ĐT Hà Nội (2006), Giáo tình Thuế và hệ thống thuế Việt Nam, Nxb Hà Nội, tr. 14.
Khoản 1, khoản 2 Điều 106 Luật Quản lý thuế 2006.
54
Khoản 6 Điều 108: Khai sai với thực tế hàng hóa XK, NK mà khơng khai bổ sung hồ sơ khai thuế sau khi
hàng hóa đã được thông quan trong thời gian sáu mươi ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan. Khoản 7
Điều 108: Cố ý không kê khai hoặc khai sai về thuế đối với hàng hóa XK, NK.
53

Trang 19/51


×