Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

hành vi hiếp dâm người chuyển giới dưới góc độ pháp luật hình sự việt nam – lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (851.23 KB, 48 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
(Niên khóa 2011 – 2015)
TÊN ĐỀ TÀI

HÀNH VI HIẾP DÂM NGƯỜI CHUYỂN GIỚI
DƯỚI GÓC ĐỘ PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

TS. PHẠM VĂN BEO
BỘ MÔN TƯ PHÁP

LÊ THỊ ANH THƯ
MSSV: 5115938
Lớp: Tư pháp 2 – K37

Cần Thơ, tháng 12 - 2014


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên người viết xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến thầy cô
Khoa Luật trường Đại học Cần Thơ đã tận tụy truyền dạy cho người
viết những nguồn kiến thức chuyên ngành cũng như những kiến thức
thực tiễn để làm nên luận văn này.


Và hơn hết, người viết xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến
thầy Phạm Văn Beo đã không ngại bỏ ra thời gian quý báu để chỉ
dẫn, giúp đỡ và động viên người viết hoàn thành luận văn này.
Luận văn hoàn thành còn nhờ sự giúp đỡ tận tình của bạn đề về
những lỗ hỏng kiến thức của người viết; những lời động viên, cổ vũ
của gia đình và những người luôn sát cánh cùng người viết trong
thời gian vừa qua.
Với điều kiện thời gian cho phép, khả năng nghiên cứu và kinh
nghiệm thực tế còn hạn chế ắt hẳn Luận văn sẽ có không ít những
thiếu sót. Nhưng với sự nghiên cứu nghiêm túc, sự đam mê tìm tòi,
người viết hy vọng đóng góp ý kiến nhỏ bé của mình vào sự nghiệp
phát triển chung của nền khoa học pháp lý nước nhà. Rất mong được
sự lượng thứ, chỉ bảo tận tình của quý thầy cô, những người đi trước
và những anh chị, độc giả quan tâm đến đề tài này để bài viết được
hoàn thiện hơn.
Sinh viên thực hiện

Lê Thị Anh Thư


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................


Hành vi hiếp dâm người chuyển giới dưới góc độ pháp luật hình sự Việt Nam – lý luận và thực tiễn

MỤC LỤC


Lời mở đầu .................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HIẾP DÂM NGƯỜI CHUYỂN
GIỚI ........................................................................................................................ 4
1.1 Khái quát về hành vi hiếp dâm người chuyển giới ............................................. 4
1.1.1 Khái niệm về hành vi hiếp dâm ............................................................. 4
1.1.2 Người chuyển giới ................................................................................. 6
1.1.2.1 Khái niệm người chuyển giới ....................................................... 6
1.1.2.2 Các thông số nghiên cứu của thế giới liên quan về người chuyển
giới ............................................................................................................................ 9
1.1.2.3 Sự thừa nhận người chuyển giới trong cộng đồng pháp luật của

thế giới .................................................................................................................... 10
1.1.2.4 Sự thể hiện mong muốn sống đúng với giới tính của người chuyển
đổi giới tính ở Việt Nam ......................................................................................... 12
1.1.3 Khái niệm về hành vi hiếp dâm người chuyển giới ............................... 12
1.2 Sự ảnh hưởng quan điểm của tâm lý học hành vi và tâm lý học phân tâm đến
hành vi hiếp dâm người chuyển giới ....................................................................... 14
1.3 Hậu quả của hành vi hiếp dâm người chuyển giới ............................................ 16
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN CỦA HÀNH VI HIẾP DÂM NGƯỜI CHUYỂN GIỚI
VÀ PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ ............................................................................... 18
2.1 Thực tiễn của hành vi hiếp dâm người chuyển giới .......................................... 18
2.1.1 Thực tiễn của hành vi hiếp dâm người chuyển giới ở một số nước trên
thế giới .................................................................................................................... 18
2.1.2 Thực tiễn của hành vi hiếp dâm người chuyển giới ở Việt Nam ........... .20
2.2 Xử lý hành vi hiếp dâm người chuyển giới ở Việt Nam ................................... .24
2.3 Nguyên nhân không xác định tội hiếp dâm cho hành vi hiếp dâm người
chuyển giới ở Việt Nam .......................................................................................... .27
2.4 Sự cần thiết ghi nhận hành vi hiếp dâm người chuyển giới trong pháp luật
hình sự Việt Nam ..................................................................................................... 28
2.5 Nguyên nhân của hành vi hiếp dâm người chuyển giới .................................... 28
2.6 Sự phổ biến của hành vi hiếp dâm người chuyển giới ...................................... 29
2.7 Tính xử lý khả thi .............................................................................................. 30
CHƯƠNG 3: MÔ HÌNH TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI CHUYỂN GIỚI .............. .31
3.1 Định nghĩa ......................................................................................................... .31
3.2 Dấu hiệu pháp lý ................................................................................................ .31
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

SVTH: Lê Thị Anh Thư


Hành vi hiếp dâm người chuyển giới dưới góc độ pháp luật hình sự Việt Nam – lý luận và thực tiễn


3.3 Hình phạt ........................................................................................................... .36
3.3.1 Khung cơ bản ......................................................................................... .37
3.3.2 Khung tăng nặng thứ nhất ...................................................................... .37
3.3.3 Khung tăng nặng thứ hai ........................................................................ .39
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 42
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

SVTH: Lê Thị Anh Thư


Hành vi hiếp dâm người chuyển giới dưới góc độ pháp luật hình sự Việt Nam – lý luận và thực tiễn

LỜI NÓI ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng từ năm 1986 đến nay, qua hơn 20 năm
thực hiện công cuộc đổi mới đất nước. Chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và
quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cùng với sự phát triển không
ngừng về kinh tế, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đời sống nhân dân
không những ổn định mà ngày càng nâng cao do có sự tác động tích cực của công cuộc
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và chính sách mở cửa hội nhập quốc tế trong xu thế toàn
cầu hóa. Bên cạnh những thành tựu đạt được, nền kinh tế thị trường cũng có mặt trái
của nó, có ảnh hưởng tiêu cực làm nảy sinh nhiều vấn đề trong đó các vấn đề về dân số,
việc làm, tệ nạn xã hội, tình hình tội phạm nói chung và hành vi hiếp dâm người chuyển
giới nói riêng.
Có thể nói rằng, trong những năm gần đây tình hình phạm tội hiếp dâm người

chuyển giới do nhiều nguyên nhân có xu hướng gia tăng, có những vụ đặc biệt nghiêm
trọng do hành vi người phạm tội thực hiện vô cùng dã man, tàn ác. Hậu quả gây ra là
những tổn hại về tinh thần, sức khỏe không gì bù đắp; nghiêm trọng hơn nữa là dẫn đến
cái chết của nạn nhân chuyển giới, để lại gánh nặng cho xã hội, gia đình và gây bất bình
trong quần chúng, gây mất trật tự trị an và tại ra tâm lý hoang mang, lo lắng cho quần
chúng nhân dân tại địa phương.
Việc xem thường pháp luật, xem thường danh dự, nhân phẩm, tính mạng của
người khác trong một bộ phận người dân là nguyên nhân phạm tội. Có những vụ án
hiếp dâm người chuyển giới gây chấn động dư luận, gây ra những tranh cãi giữa các
luật gia. Hiếp dâm người chuyển giới là một trong những loại tội phạm đã và đang ngày
càng trở nên phổ biến không những ở nhiều nước trên thế giới mà còn có ở Việt Nam.
Đây là loại tội phạm xâm phạm đến quyền được tôn trọng về danh dự, nhân phẩm của
con người. Đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, khi mà cuộc sống ngày hiện đại, các
luồng tư tưởng, văn hóa mới du nhập ngày càng nhiều, cùng đó thì số lượng người
chuyển giới ở Việt Nam có xu hướng càng tăng, hiếp dâm người chuyển giới trở thành
một tệ nạn xã hội có tính chất phổ biến và hậu quả do nó để lại là vô cùng to lớn, không
chỉ cho lợi ích của cá nhân mà còn cho sự phát triển của xã hội. Đã đến lúc cần báo
động, đồng thời cần có biện pháp phòng chóng kịp thời hành vi nguy hiểm đó nhằm bảo
vệ danh dự, nhân phẩm và tính mạng con người.
Trước tình hình, diễn biến tội phạm xảy ra khá phức tạp như hiện nay thì việc
nghiên cứu về tội phạm nói chung và tội hiếp dâm nói riêng, cụ thể hơn là tội hiếp dâm
người chuyển giới đang là vấn đề hết sức cấp bách nhằm tìm ra những nguyên nhân,
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

1

SVTH: Lê Thị Anh Thư


Hành vi hiếp dâm người chuyển giới dưới góc độ pháp luật hình sự Việt Nam – lý luận và thực tiễn


điều kiện thực hiện hành vi phạm tội, đưa ra những giải pháp có cơ sở lý luận và thực
tiễn, góp phần vào việc nâng cao tính hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm nói chung và tội hiếp dâm người chuyển giới nói riêng và tiến tới đẩy lùi tội
phạm trong thời gian tới. Để góp phần đấu tranh và phòng chống tội phạm trong tình
hình hiện nay cũng như việc áp dụng pháp luật đối với hành vi hiếp dâm người chuyển
giới. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, cho nên người viết đã chọn luận
văn tốt nghiệp với đề tài: “Hành vi hiếp dâm người chuyển giới dưới góc độ pháp luật
hình sự Việt Nam – lý luận và thực tiễn”.
2. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người
thì tội xâm phạm tội xâm phạm tình dục, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người
là hành vi nguy hiểm không kém trong xã hội. Tuy nhiên, trong nội dung nghiên cứu
của đề tài này sẽ tập trung phân tích sâu các vấn đề liên quan đến hành vi hiếp dâm
người chuyển giới và người viết sẽ đưa ra mô hình tội hiếp dâm người chuyển giới với
các yếu tố cấu thành, phân tích dấu hiệu pháp lý, trách nhiệm hình sự, hành vi xâm hại
đến từng đối tượng cụ thể, khung hình phạt cho mỗi loại tội phạm và người viết cũng
đưa ra một số ý kiến cá nhân chủ quan nhằm góp phần chung trong đấu tranh phòng
ngừa tội phạm nguy hiểm này. Với sự hạn chế về thời gian, nên trong khuôn khổ của
luận văn này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu từ các tài liệu như: Hiến pháp năm 2013,
Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Hình sự năm 1985, Nghị
định số 88/2008/NĐ-CP, Bản tổng kết 329/HS2 năm 1967, giáo trình, tạp chí chuyên
ngành và một số trang thông tin điện tử có liên quan.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của việc nghiên cứu đề tài “Hành vi hiếp dâm người
chuyển giới dưới góc độ pháp luật hình sự Việt Nam – lý luận và thực tiễn” là nhằm
làm rõ tình hình hành vi hiếp dâm người chuyển giới, tìm ra nguyên nhân và điều kiện,
phân tích, đánh giá những yếu tố cấu thành nên tội hiếp dâm người chuyển giới từ đó
tìm ra những biện pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm góp phần ổn định tình hình an ninh trật tự xã hội.

4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được xây dựng trên cơ sơ vận dụng những kiến thức đã được tiếp thu và
sưu tầm, tổng hợp tài liệu có liên quan đến hành vi hiếp dâm người chuyển giới, kết hợp
với xem xét vụ án thực tế để chứng minh và làm rõ vấn đề nghiên cứu. Mặt khác người
viết cũng đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu như:
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp phân tích và tổng hợp.
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

2

SVTH: Lê Thị Anh Thư


Hành vi hiếp dâm người chuyển giới dưới góc độ pháp luật hình sự Việt Nam – lý luận và thực tiễn

5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề chung về hiếp dâm người chuyển giới.
- Chương 2: Thực tiễn của hành vi hiếp dâm người chuyển giới và phương
pháp xử lý.
- Chương 3: Mô hình tội hiếp dâm người chuyển giới.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

3

SVTH: Lê Thị Anh Thư



Hành vi hiếp dâm người chuyển giới dưới góc độ pháp luật hình sự Việt Nam – lý luận và thực tiễn

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HIẾP DÂM NGƯỜI CHUYỂN GIỚI
1.1 Khái quát về hiếp dâm người chuyển giới
1.1.1 Khái niệm về hành vi hiếp dâm
Trong những năm gần đây, chương trình phòng chống tội phạm có nhiều kết quả
tích cực, góp phần chủ động trong phòng ngừa và kiềm chế sự gia tăng tội phạm. Tuy
nhiên, tình hình tội phạm vẫn diễn ra hết sức phức tạp và nguy hiểm; trong đó, các tội
phạm xâm hại sức khỏe, nhân phẩm và danh dự con người gia tăng, nhất là hành vi
xâm phạm tình dục và số lượng các phiên tòa xử về tội hiếp dâm tăng lên đáng kể. Cụm
từ hành vi hiếp dâm cũng được xuất hiện nhiều hơn trên các tin tức của báo chí. Cụm từ
này đã có trong từ điển luật học và giáo trình chuyên ngành nhưng chỉ được người dân
biết đến rộng rãi trong những năm gần đây, thông qua các vụ án làm xôn xao dư luận và
gây nhiều tranh cãi.
Theo giáo trình Luật hình sự Việt Nam thì: “Hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực, đe
dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ
đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái ý muốn của họ1”.
- Dùng vũ lực là thủ đoạn dùng sức mạnh vật chất đè bẹp sự kháng cự của nạn
nhân chống lại sự giao cấu (như xô ngã, vật, giữ, đánh, bóp cổ nạn nhân...) nhằm vô
hiệu những chống cự của nạn nhân để dễ dàng thực hiện hành vi giao cấu. Trong thực
tiễn, nếu người phạm tội dùng vũ lực làm cho nạn nhân bất tỉnh và thực hiện hành vi
giao cấu cho đến khi nạn nhân chết thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình
sự thêm về tội giết người. Trong trường hợp đã giết chết nạn nhân nhưng vẫn thực hiện
hành vi giao cấu bằng mọi cách thì người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự
thêm tội giết người.
- De dọa dùng vũ lực là thủ đoạn mà người phạm tội chưa thực hiện hành vi dùng
vũ lực nào tác động đến nạn nhân mà thực hiện các hành vi de dọa dùng vũ lực nhằm
uy hiếp về mặt tinh thần làm cho nạn nhân bị tê liệt ý chí, không đám chống cự để cho

người phạm tội giao cấu với mình (như thủ đoạn dọa giết, dọa gây thương tích, dọa đốt
nhà...).
- Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân: tình trạng này có thể có
sẵn ở nạn nhân ( nạn nhân bị bệnh động kinh hay bệnh tâm thần) hoặc người thứ ba gây
ra , hoặc do người phạm tội tạo ra (người phạm tội cho nạn nhân uống thuốc mê, người
Tiến sĩ Phạm Văn Beo, Giáo trình luật Hình Sự Việt Nam, quyển 2, Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2009,
tr.148.
1

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

4

SVTH: Lê Thị Anh Thư


Hành vi hiếp dâm người chuyển giới dưới góc độ pháp luật hình sự Việt Nam – lý luận và thực tiễn

phạm tội làm cho nạn nhân bất tỉnh) hoặc do các nguyên nhân khách quan khác (nạn
nhân trong tình trạng ốm đau, đang trong tình trạng say rượu...) mà nạn nhân không thể
chống lại hành vi giao cấu trái ý muốn của mình.
- Thủ đoạn khác là những thủ đoạn giúp cho người phạm tội có thể thực hiện được
việc giao cấu với nạn nhân trừ những trường hợp đã phân tích ở trên (như cho nạn nhân
uống thuốc kích thích, lợi dụng sự kém hiểu biết của nạn nhân để dụ dỗ nạn nhân cho
giao cấu...). Đây là một quy định mở nhằm đáp ứng sự biến dạng của các tội phạm
trong công cuộc đổi mới của đất nước.
- Giao cấu trái ý muốn của nạn nhân là hành vi giao cấu mà người đó không chấp
nhận sự giao cấu, có sự phản kháng lại sự giao cấu (như đạp, xô đẩy, cào, cắn) ; hoặc
hành vi giao cấu xảy ra không có ý muốn của của nạn nhân, vì nạn nhân đang trong tình
trạng không thể biểu lộ ý chí được2. Để xác định việc giao cấu có trái ý muốn của nạn

nhân hay không, chúng ta cần phải xem xét nhiều yếu tố như: mối quan hệ giữa người
phạm tội với nạn nhân, thủ đoạn thực hiện tội phạm, hoàn cảnh thực hiện hành vi giao
cấu, nhân thân hai bên, ý kiến của những người chung quanh, hậu quả sau giao cấu để
lại...3.
Theo từ điển tiếng Việt năm 1992, khái niệm giao cấu được hiểu là “sự giao tiếp
của bộ phận sinh dục của giống đực với bộ phận sinh dục của giống cái, ở động vật4”.
Khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999, các nhà làm luật xây dựng điều luật hình sự
dựa trên cơ sở khái niệm này, vì vậy quan hệ cùng giới không được xem là giao cấu.
Nhưng hiểu như vậy là quá hẹp, và những quy định như vậy là không sát với thực tế khi
mà việc thực hiện với những bộ phận khác không phải bộ phận sinh dục (quan hệ bằng
đường miệng, đường hậu môn, hoặc dùng ngón tay) có hành vi tình dục thâm nhập (tình
dục đường hậu môn, đường âm đạo, đường miệng) và hành vi tình dục không thâm
nhập (thủ dâm). Giả thiết rằng loại trừ mục đích sinh sản thì giao cấu bằng bộ phận sinh
dục cũng đem lại khoái cảm tình dục hay nói cách khác là thỏa mãn dục vọng. Vậy
quan hệ tình dục bằng các con đường khác như đã nói ở trên hoàn toàn thỏa mãn điều
kiện mang lại khoái cảm một cách bình thường. Nếu xét về khía cạnh sinh học - sinh lý
thì quan hệ tình dục bằng đường miệng hay đường hậu môn cũng là hành vi tình dục
xâm nhập cùng nhóm với quan hệ tình dục bằng dương vật và âm vật.
Các ngành khoa học đã xác định quan hệ tình dục bằng đường khác cũng là một
hành vi giao cấu, nó gắn liền với lịch sử loài người và song hành với lịch sử chứ không
phải là hiện tượng đơn lẻ, nhất thời. Vậy quy định về chủ thể của tội hiếp dâm chỉ có
2

Luật gia Nguyễn Ngọc Diệp, 550 Thuật ngữ chủ yếu trong pháp luật Hình Sự Việt Nam, Nxb.
TPHCM, tr.149.
3
Tiến sĩ Phạm Văn Beo, Giáo trình Hình sự Việt Nam, quyển 2, Nxb. Chính Trị Quốc Gia , 2009,
tr.150.
4
Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển ngôn ngữ Việt Nam, 1992, tr.394.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

5

SVTH: Lê Thị Anh Thư


Hành vi hiếp dâm người chuyển giới dưới góc độ pháp luật hình sự Việt Nam – lý luận và thực tiễn

thể là nam giới liệu có đảm bảo điều chỉnh, bảo vệ các quan hệ nhân thân, nhân phẩm,
sức khỏe, quyền tự do tình dục.
1.1.2 Người chuyển giới
1.1.2.1 Khái niệm về người chuyển giới
Ở Việt Nam, khái niệm người chuyển giới chỉ mới biết đến trong những năm gần
đây. Trước kia, người chuyển giới được gộp chung vào nhóm đồng tính hay thế giới thứ
ba khi được nhắc đến. Nhưng mà, cùng với sự phát triển của internet và các diễn đàn xã
hội những người sống giữa hai thế giới không hoàn toàn hài lòng khi bị xem là người
đồng tính. Trên thực tế, người chuyển giới thường trải qua không ít lúng túng trong việc
nhận diện giới tính của chính mình cũng như phải đối mặt với những quyết định chuyển
đổi, khó khăn liên quan đến việc sử dụng hoocmon phẫu thuật và công khai thể hiện
giới tính với mọi người xung quanh.
Để tìm hiểu về người chuyển giới đầu tiên phải đề cập đến giới. Giới (gender):
được sử dụng không chỉ với con người mà còn sử dụng cho động thực vật khác, chỉ
giống đực (masculin) và giống cái (feminine). Ở con người, giới hàm nghĩa biểu hiện
về hình thức, thực tế xã hội của nam (male) và nữ (female).
Tiếp theo là tính hoặc giới tính (sex): ngoài sự bao hàm giới còn được bổ sung về
mặt tâm lý học, ý thức và ý chí tình dục (gọi chung là xu hướng tình dục). Thông
thường thì người ta chia giới ra làm hai đối tượng dị tính là nam/đàn ông và nữ/đàn bà.
Ngoài ra cần phải đề cập đến khái niệm bản dạng giới (gender identify). Khái
niệm bản dạng giới được hiểu là việc một người tự nhận mình mang một giới tính nào

(có thể giống hoặc khác giới tính sinh học khi được sinh ra)5. Có thể hiểu đơn giản là
nếu một người sinh ra và tự nhận mình mang giới tính giống giới tính sinh học khi được
sinh ra, có tình cảm, cảm xúc với người cùng giới tính với mình thì người đó là người
đồng tính. Nếu người này có tình cảm với người khác giới thì người đó là người dị tính.
Tuy nhiên nếu người nói trên tự nhận mình mang giới tính khác với giới tính sinh
học khi họ được sinh ra thì đó là người chuyển giới (transgender) 6. Một điều rất quan
trọng và thường được hiểu lầm về người chuyển giới là không nhất thiết phải trải qua
phẫu thuật chuyển giới thì mới được xem là người chuyển giới. Người chuyển giới có
hai dạng là: người chuyển giới nam sang nữ (male to female) và người chuyển giới nữ
sang nam (female to male). Ở góc độ xu hướng tình dục, có thể phân chia thành người
Gender identify refer to “one ‘s sense of oneself as male, female, or transgender” (American
Psychlogical Association, 2006). When one’s gender odentify and biological sex are not congruent,
the individual may identify as transsexual or as another transgender category (cf. Gainor, 2000). Xem:
The Guidelines for Psychological with Lesbian, Gay, and Bisexual Clients, adopted by the APA
Council of Representatives, February 18-20,2011. The Guidekines are available pn the APA website at
/>6
Trương Hồng Quang, Người chuyển giới tại Việt Nam dưới góc nhìn pháp lý, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, số 21, tháng 11-2013.
5

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

6

SVTH: Lê Thị Anh Thư


Hành vi hiếp dâm người chuyển giới dưới góc độ pháp luật hình sự Việt Nam – lý luận và thực tiễn

chuyển giới đồng tính (ví dụ người chuyển giới từ nam sang nữ và chỉ yêu nữ giới),

người chuyển giới song tính (ví dụ người chuyển giới từ nam sang nữ và có thể yêu cả
nam giới và nữ giới) và người chuyển giới dị tính (ví dụ người chuyển giới từ nữ sang
nam và chỉ yêu nữ giới).
Trong xã hội hiện nay, phần đông mọi người đều có nhận thức sai lầm và không
đầy đủ về bản chất của những người chuyển giới:
- Thứ nhất, người chuyển giới là những người có giới tính sinh học khác biệt so
với những người dị tính bình thường khác. Thực ra khi người chuyển giới được sinh ra
với một giới tính sinh học bình thường, hoàn chỉnh (phân biệt rõ rệt là nam giới hay nữ
giới) nhưng lại có cảm nhận và mong muốn giới tính của mình giống với giới tính sinh
học mà mình đang có. Song song đó, người chuyển giới cũng cần được phân biệt với
các trường hợp cần được phẫu thuật xác định giới tính. Những người cần phẫu thuật xác
định lại giới tính thường được gọi là người liên giới tính (intersex: ví dụ như vừa có dấu
hiệu cơ quan sinh dục của nam nhưng cũng có dấu hiệu của cơ quan sinh dục nữ giới
như có buồng trứng, dạ con hay có ngực giống nữ giới/cơ quan sinh dục không rõ là
nam hay nữ...). Như vậy, về bản chất, giới tính của những đối tượng này chưa được xác
định rõ ràng, cần được phẫu thuật để xác định. Việc xác định loại này phải thông qua
việc xét nghiệm nhiễm sắc thể giới tính tại các cơ quan y tế để xác định rõ giới tính,
quyền được xác định lại giới tính là một quyền nhân thân được quy định tại điều 36 Bộ
luật Dân sự năm 2005 “Việc xác định lại giới tính của một người được thực hiện trong
trường hợp giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính
xác mà cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ về giới tính” nhưng điều này
không quy định quyền chuyển đổi giới tính của cá nhân. Trường hợp xác định lại giới
tính này khác hoàn toàn so với người chuyển giới.
+ Để cụ thể hóa quy định tại Điều 36 Bộ luật Dân sự năm 2005, ngày 05-08-2008,
Chính phủ đã ban hành Nghị định 88/2008/ NĐ-CP về xác định lại giới tính, Nhà nước
chỉ cho phép những người có nhiễm sắc thể giới tính có thể giống như trường hợp nữ
lưỡng giới giả nam hoặc nam lưỡng giới giả nữ hoặc lưỡng giới thật nhưng bộ phận
sinh dục chưa được biệt hóa hoàn toàn và không thể xác định chính xác là nam hay nữ,
mới được phép xác định lại (Điều 5). Những người đã được y học can thiệp xác định lại
giới tính sẽ được cơ quan quản lý hộ tịch xác định lại giới tính cho họ, trong nghị định

có quy định những hành vi bị nghiêm cấm: “Thực hiện việc chuyển đổi giới tính đối với
những người đã hoàn thiện về giới tính, cấm tiết lộ thông tin về việc xác định lại giới
tính của người khác và cấm phân biệt đối xử với người đã xác định lại giới tính”. Nghị
định đã đề cập đến việc xác định lại giới tính đối với người có khuyết tật bẩm sinh về
giới tính hoặc giới tính chưa được định hình chính xác. Những người này khác hoàn
toàn so với người đồng tính. Hiện nay, phần đông người đồng tính rất không đồng tình
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

7

SVTH: Lê Thị Anh Thư


Hành vi hiếp dâm người chuyển giới dưới góc độ pháp luật hình sự Việt Nam – lý luận và thực tiễn

với những quy định trong Nghị định 88/2008 này, vì nó đã khép lại cánh cửa chuyển
đổi giới tính để trở về đúng với sự mong muốn giới tính của họ7. Trong Nghị định này
chỉ quy định là xác định lại giới tính cho những người khuyết tật về giới hay chưa phân
biệt được là nam giới hay nữ giới chứ không phải là chuyển đổi giới tính chỉ những
người đã hoàn thiện về giới bởi có thể đó là những trường hợp có sự lệch lạc về tâm lý.
+ Tuy nhiên, vấn đề mà Nghị định này đưa ra là nằm trong giới hạng quá hẹp, nó
mới chỉ dừng lại ở việc xác định lại giới tính chứ không phải thay đổi giới tính, cho
phép làm rõ giới tính chứ không phải là xác định lại giới tính vì nếu không mang gen
hoặc có cá tính nam giới thì những người nữ cũng không muốn chuyển đổi giới tính
làm gì, dù rằng có nhiều ý kiến cho rằng, việc hạn chế xác định lại giới tính xuất phát từ
những nguyên nhân tránh bị lạm dụng vì nhu cầu thương mại, hoặc trong thi đấu thể
thao, hoặc trốn tránh lệnh truy nã sau khi phạm tội...
- Thứ hai, phải phẫu thuật chuyển giới thì mới được xem là người chuyển giới.
Quan điểm này không đúng hoàn toàn. Thực ra, chỉ cần một người mong muốn, ý thức
được mình phải mang giới tính ngược lại so với giới tính sinh học của họ thì đã được

xem như họ là người chuyển giới. Nhưng mà, nếu như pháp luật cho phép phẫu thuật
chuyển đổi giới tính (đúng với mong muốn của họ) thì họ phải thực hiện việc phẫu
thuật chuyển đổi mới được làm lại giấy tờ tùy thân (ví dụ như chứng minh nhân dân, hộ
chiếu, khai sinh, đăng ký hộ tịch...). Như thế, họ mới được gọi với một khái niệm đầy
đủ hơn là “người chuyển đổi giới tính” (transsexual). Có thể nhận thấy mặc dù người
chuyển giới và chuyển đổi giới tính tồn tại ở mọi xã hội, mọi nơi trên thế giới 8 nhưng
những khái niệm này vẫn được hiểu một cách khá nhầm lẫn và bối rối ngay cả khi
những người trong cuộc không thể xác định bản dạng giới của bản thân họ. Nhìn tổng
quan, “transgender” là một thuật ngữ có nội hàm rất rộng9.
- Thứ ba, những trường hợp như nam giới thường hay giả trang hoặc cải trang làm
nữ giới hoặc ngược lại là người đồng tính. Quan điểm này cũng chưa hoàn toàn chính
xác. Trừ một số người cải trang thành người có giới tính khác để thỏa mãn nhu cầu giải
trí thì đa số những người này đều là người chuyển giới. Như đã nêu ở trên, vì họ mong

Theo BS Nguyên Thành Như-Trưởng đơn vị Nam khoa, Bệnh viện Bình Dân, TP HCM, Nghị định
này thật ra chỉ quy định lại những việc đã thực hiện từ lâu. Bệnh viện Bình Dân đã thực hiện rất nhiều
ca điều trị lại giới tính cho các bệnh nhân khuyết tật giới hay chưa xác định được là nam hay nữ, bởi
đó là bệnh lý nên không có quy định nào là không cho phép. Nhiều người khác tuy đã xác định rõ là
nam hay nữ nhưng họ lại mong muốn sống với giới tính khác và đó là điều hoàn toàn chính đáng, dù
hiện nay chưa có cơ sở khoa học chính xác và Nghị định này không cho phép.
8
Stuckey, J, Spirit possession and the golddes Ishtar in ancient Mesopotamia, Matri Focus, 2008,
8(1).
9
Chambers, L, Unprincipled exclusions: Feminist Theory, transgender jurisprufdence, and Kimberly
Nixon, Canadian Journal off Woman and the Law, 2007, 19, p.305-334.
7

GVHD: TS. Phạm Văn Beo


8

SVTH: Lê Thị Anh Thư


Hành vi hiếp dâm người chuyển giới dưới góc độ pháp luật hình sự Việt Nam – lý luận và thực tiễn

muốn thành người có giới tính ngược lại nên họ cải trang như vậy (họ không phẫu thuật
chuyển giới vì pháp luật chưa cho phép hoặc không có điều kiện về kinh tế).
Hiểu một cách tổng quát hơn về khái niệm người chuyển giới thì “Người chuyển
giới là người đồng tính, luôn ám ảnh về giới tính của mình trái với giới tính sinh học
khi được sinh ra nên họ đã tìm lại giới tính thật của mình hoặc nhờ sự can thiệp của y
học”.
1.1.2.2 Các thông số nghiên cứu của thế giới liên quan về người chuyển giới
Nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỷ lệ người chuyển giới chiếm từ 0.1% đến
0.5% dân số trên thế giới10. Một điều tra về giám sát hành vi thiểu số trong xã hội ở
Massachusetts (Mỹ) cho thấy có khoảng 0.5% người trong độ tuổi từ 18 đến 64 tuổi tự
nhận mình là người chuyển giới11. Trong những năm gần đây, các cuộc điều tra dân số
tại Mỹ và trên thế giới đã có câu hỏi nhằm xác định bản dạng và xu hướng tình dục. Số
liệu ước tính mới nhất cho thấy có khoảng 0.3% dân số Mỹ là người chuyển giới 12.
Việc thu thập số liệu gặp nhiều khó khăn do sự kỳ thị của xã hội khiến cho người
chuyển giới không thể hoặc công khai giới tính mong muốn của mình. Tại nhiều nước
châu Âu số liệu cho thấy tỷ lệ người phẫu thuật từ nam sang nữ cao gấp 2.5 lần đến 6
lần tỷ lệ người chuyển giới từ nữ sang nam13. Điều này có nguyên nhân là do những
người chuyển giới từ nữ sang nam ít tìm đến các cơ sở phẫu thuật chuyển đổi giới tính
hơn. Các yếu tố văn hóa, xã hội, quan niệm về vai trò giới và tình dục cũng như chi phí
tiến hành phẫu thuật chuyển giới tính khiến những số liệu tại các cơ sở y tế không phản
ánh đúng thực tế14. Hiện nay ở Việt Nam chưa có một thống kê cụ thể nào về tỷ lệ
người chuyển giới trong xã hội.
Tại châu Á, năm 2013, Viện quốc gia về hành chính và phát triển của Thái Lan đã

tổ chức một cuộc khảo sát của xã hội về sự chấp nhận người chuyển giới, hôn nhân
cùng giới15. Nghiên cứu được tiến hành với 1.252 người trên cả nước Thái với trình độ,
nghề nghiệp ở các cấp độ khác nhau. Kết quả khảo sát với câu hỏi liệu có nên hợp pháp
hóa hôn nhân cùng giới hay không, thống kê khảo sát cho thấy, có 52,96% người đồng
ý và cho rằng tất cả các quyền nên được ghi nhân cho tất cả mọi công dân, có 33,87%
người phản đối vì theo quan điểm của họ, việc đó sẽ gây ra những xung đột xã hội. Khi
Viện Nghiên cứu Xã Hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE), Phạm Quỳnh Phương, Lê Quang Bình,
Mai Thanh Tú, Người chuyển giới ở Việt Nam – Những vấn đề thực tiễn và pháp lý, Hà Nội, 2012,
tr.9.
11
Viện iSEE, Phạm Quỳnh Phương, Lê Quang Bình, Mai Thanh Tú, tài liệu đã dẫn, tr.9.
12
Viện iSEE, Phạm Quỳnh Phương, Lê Quang Bình, Mai Thanh Tú, tài liệu đã dẫn, tr.9.
13
Viện iSEE, Phạm Quỳnh Phương, Lê Quang Bình, Mai Thanh Tú, tài liệu đã dẫn, tr.9.
14
Viện iSEE, Phạm Quỳnh Phương, Lê Quang Bình, Mai Thanh Tú, tài liệu đã dẫn, tr.9.
15
Xem: Cuộc bầu chọn dành cho người chuyển giới, nguồn:
/>cập ngày 13-10-2014].
10

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

9

SVTH: Lê Thị Anh Thư


Hành vi hiếp dâm người chuyển giới dưới góc độ pháp luật hình sự Việt Nam – lý luận và thực tiễn


được hỏi về việc chấp nhận một người bạn đồng nghiệp là người chuyển giới thì có
88,49% người được hỏi chấp nhận, miễn đó là người tốt và không gây ra một thiệt hại
nào; có 8,79% người phản đối mạnh mẽ sự hiện diện của người chuyển giới trong môi
trường làm việc vì đó là điều bất thường. Khi được hỏi về việc có chấp nhận được một
thành viên của gia đình là người chuyển đổi giới tính hay không, có 77,56% người được
hỏi trả lời có vì mỗi người không thể chọn cách chúng ta được sinh ra; có 8,7% người
hỏi phản đối vì cho rằng nó không được tự nhiên.
1.1.2.3 Sự thừa nhận người chuyển giới trong cộng đồng pháp luật của thế giới
Vấn đề phẫu thuật chuyển giới không phải là chuyện xa lạ với nhiều quốc gia trên
thế giới, từ Mỹ, Canada, Serbia... ở các nước phương Tây cho đến Thái Lan, Singapore,
Philippines, Ấn Độ... ở phương Đông. Ngày 3-10-2012, Argentina vừa cho phép
chuyển giới và thay đổi giới tính trên các giấy tờ liên quan. Phần đông các nước cho
phép chuyển giới không giới hạn cá nhân chuyển giới bắt buộc phải có bộ phận sinh
dục của giới tính mình không mong muốn. Thái Lan được xem là trung tâm chuyển giới
số một trên thế giới, vị trí số hai thuộc về đất nước Hồi giáo Iran 16. Cách đây khoảng
hai mươi lăm năm về trước, lãnh đạo tối cao – Ayatollah Khomeini đã ban hành luật
cho phép chuyển giới và thay đổi giới tính trên các giấy tờ có liên quan. Hiện tại chính
phủ Iran chi trả 50% chi phí chuyển giới. Tháng 6-2012, chính quyền tỉnh Alberta
(Canada) đã khôi phục chi trả bảo hiểm y tế cho phẫu thuật chuyển giới đã bị ngưng ba
năm trước. Tháng 9-2012, một thẩm phán bang Massachusetts (Mỹ) đã phán quyết cho
một phạm nhân 63 tuổi phạm tội giết vợ được chuyển giới bằng tiền Chính phủ. Mặc dù
chính quyền bang đã kháng cáo nhưng chưa có kết quả. Trang web Cơ quan an ninh xã
hội của Mỹ đưa ra cụ thể thủ tục để người đã chuyển giới xin thay đổi giới tính trên hồ
sơ an ninh xã hội: ngoài các giấy tờ khai báo nhân thân phải có thư của bác sĩ xác nhận
là đã thực hiện phẫu thuật chuyển giới cho người này. Trang web Sở Giao thông tỉnh
Ontario (Canada) đăng cụ thể thủ tục để người chuyển giới xin thay đổi giới tính trong
giấy phép lái xe, và cũng yêu cầu có thư của bác sĩ để xác nhận là đã phẫu thuật chuyển
giới. Xu hướng trên thế giới cho thấy, việc phẫu thuật chuyển đổi giới tính cho người
chuyển giới sẽ được thực hiện miễn phí17. Trên thực tế, tại các nước trên thế giới,

không có sự phân biệt giữa người chuyển giới và người liên giới tính (người có khuyết

Xem:Thanh Mận, Bi kịch của người chuyển giới – Bài 3: Luật có nên xem xét?, nguồn:
[truy cập
ngày 19-9-2014].
17
Ví dụ tại Canada có 8/10 tỉnh miễn phí chi phí phẫu thuật chuyển đổi giới tính cho người chuyển
giới, nguồn:
[truy cập ngày 19-9-2014].
16

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

10

SVTH: Lê Thị Anh Thư


Hành vi hiếp dâm người chuyển giới dưới góc độ pháp luật hình sự Việt Nam – lý luận và thực tiễn

tật bẩm sinh về giới tính) trong việc phẫu thuật về giới tính18. Theo quy trình ở đa số
các quốc gia cho phép phẫu thuật chuyển đổi giới tính thì trước khi phẫu thuật phải trải
qua kiểm tra cuộc sống thực (Real Life Test) để xem có thực sự phù hợp để tiến hành
phẫu thuật chuyển đổi giới tính và có xác nhận của bác sĩ tâm lý. Một điều cần chú ý,
không phải là người chuyển giới được công nhận thì sẽ song song đó họ có quyền kết
hôn. Ở các quốc gia thừa nhận quyền phẫu thuật của người chuyển giới vẫn chưa cho
phép họ kết hôn như những người dị tính. Tuy nhiên, trong năm 2013, một người
chuyển đổi giới tính Hồng Kông (từ nam sang nữ) đã nộp đơn kiện lên Tòa án của nước
này và Tòa án đã quyết định cho phép người này kết hôn với bạn trai của mình. Trong
trường hợp này, mặc dù pháp luật Hồng Kông chưa cho phép người chuyển giới được

kết hôn nhưng Tòa án đã tạo ra một ngoại lệ lịch sử tại vùng lãnh thổ này19.
Tuy nhiên, ở nhiều quốc gia, người chuyển giới đã phẫu thuật chuyển đổi giới tính
những chưa được pháp luật và xã hội thừa nhận nên khó tiếp cận với các dịch vụ y tế,
khó kiếm việc làm, bị kỳ thị, phân biệt đối xử, hành hạ, miệt thị...Đôi khi một số người
chuyển đổi giới tính (đã phẫu thuật) vì chưa đổi lại giới tính được trong giấy tờ cá nhân
nên khó khăn trong các quan hệ dân sự, xã hội hoặc bị xâm hại (bị hiếp dâm hoặc
cưỡng dâm) nhưng không được bảo vệ thích đáng. Ở một số quốc gia đã thừa nhận về
mặt pháp lý cho những người chuyển giới nhưng cuộc sống của họ hết sức khó khăn.
Điều này xuất phát phần lớn từ những định kiến của xã hội. Ngược lại, nhiều người
chuyển giới đôi khi cũng hơi thái quá trong việc biểu hiện mong muốn của mình về bản
dạng giới của bản thân nên cũng làm xấu hình ảnh của mình trong cộng đồng xã hội.
Đến nay có thể thống kê sơ bộ tình hình các quốc gia và vùng lãnh thổ đã thừa
nhận và cho phép phẫu thuật chuyển giới đối với người chuyển đổi giới tính như sau:
Thụy Điển (1972), Panama (1975), Ý (1982), Hà Lan (1985), Thổ Nhỉ Kỳ (1988), New
Zealand (1995), Romania (1996),Trung Quốc (2003), Nam Phi (2003), Nhật (2004),
Vương quốc Anh (2004), Tây Ban Nha (2006), Urugoay (2009), Lithuana, Serbia, Bồ
Đào Nha (2011), Argentina (2012), Malaysia, Thái Lan, Singapore, Philippines, Ấn Độ,
Hồng Kông - Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc (2012) và một số bang, vùng của Úc,
Mỹ20...
18

Xem: Xem những việc
mà một người muốn đổi giới tính trên giấy tờ do Chính phủ cấp phải làm tại tỉnh Ontario (Canada) tại:
[truy cập ngày 19-9-2014].
19
Trương Hồng Quan, Người chuyển giới tại Việt Nam dưới góc nhìn pháp lý, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, số 21, tháng 11 năm 2013, tr.35.
20

Xem: ILGA, LGBT world legal wrap up survey, 2006, tr. 7, nguồn:


/>Human Rights Watch, Controlling Bodies, Denying Identities, Human Rights Violations againts Trans
People in the Netherlands, 2011, p. 59-60.
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

11

SVTH: Lê Thị Anh Thư


Hành vi hiếp dâm người chuyển giới dưới góc độ pháp luật hình sự Việt Nam – lý luận và thực tiễn

1.1.2.4 Sự thể hiện mong muốn sống đúng với giới tính của người chuyển đổi giới
tính ở Việt Nam
Hiện tại, mong muốn sống đúng với giới tính của người chuyển giới Việt Nam
đang ngày càng rõ rệt trong xã hội. Trước đây, cộng đồng LGBT (viết tắt của đồng tính,
song tính và chuyển giới) thường sống khép kín, giấu diếm thân phận của mình vì sợ bị
kỳ thị hoặc là họ tự kỳ thị bản thân mình thì hiện nay đã có những chuyển biến nhất
định. Trong khoảng thời gian từ năm 2011-2013, xã hội đã dần tiếp cận với người
chuyển giới một cách rõ ràng hơn vì người chuyển giới đã mạnh dạn hơn. Nhưng pháp
luật Việt Nam chưa cho phép phẫu thuật chuyển đổi giới tính (trừ trường hợp người có
khuyết tật bẩm sinh về giới) cũng như chưa thừa nhận người chuyển giới nên những
người không có khuyết tật về giới tính nhưng đã chuyển giới ở nước ngoài sẽ không
được công nhận hoặc người dù đã chuyển đổi giới tính nhưng kiểm tra vẫn không có
khiếm khuyết nhiễm sắc thể mà tự ý chuyển đổi giới tính thì những hệ lụy pháp lý liên
quan đến chính họ rất phức tạp, nhất là các quy định về hình sự và tố tụng hình sự. Bên
cạnh đó, đối với người chuyển giới, họ mong muốn được có một hành phúc, một mái
ấm đúng nghĩa cũng là nhu cầu thực tế. Tuy nhiên, người chuyển giới Việt Nam còn
đang gặp rào cản chưa được pháp luật công nhận. Chính vì vậy, nhu cầu kết hôn của
người chuyển giới mặc dù là chắc chắn ai cũng mong muốn nhưng vẫn chưa được thể

hiện rõ, chưa được thống kê định lượng trong các nghiên cứu như những người đồng
tính. Ngay cả khi họ đã phẫu thuật chuyển đổi giới tính thì cũng sẽ không được nhận
con nuôi vì bản thân hình thể và giấy tờ hộ tịch khác nhau. Nhìn chung, cho đến thời
điểm hiện tại, Bộ luật Dân sự năm 2005 và Nghị định số 88/2008/NĐ-CP đã cho thấy
những bất cập nhất định trong việc áp dụng đối với người chuyển giới Việt Nam, chưa
đáp ứng được nhu cầu đa dạng của bản dạng giới trong xã hội hiện nay.
Như vậy, pháp luật Việt Nam hiện hành không thừa nhận sự tồn tại của những
người có giới tính thiểu số, người chuyển giới (trừ trường hợp người xác định lại giới
tính) cũng như mối quan hệ hôn nhân của họ, vì vậy những vấn đề pháp lý phát sinh
đang bị bỏ ngỏ do những người chuyển đổi giới tính không thể thay đổi các thông tin cá
nhân.
1.1.3 Khái niệm về hành vi hiếp dâm người chuyển giới
Trong pháp luật hình sự, người chuyển giới hay người đồng tính nam không được
bảo vệ trong tội phạm hiếp dâm do có giới tính là nam trên giấy tờ của họ. Cũng như,
khi tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự hay trong quá trình thi hành án hình sự, có một số biện pháp cưỡng chế mà khi
thực hiện cần căn cứ vào giới tính của đối tượng để áp dụng khám người, tạm giữ, tạm

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

12

SVTH: Lê Thị Anh Thư


Hành vi hiếp dâm người chuyển giới dưới góc độ pháp luật hình sự Việt Nam – lý luận và thực tiễn

giam, thi hành án phạt tù có thời hạn, tù chung thân, cũng không phù hợp nếu áp dụng
cứng nhắc theo đúng giới tính trên giấy tờ của họ, dễ dẫn đến nguy hiểm cho người
chuyển giới khi họ bị tạm giam hoặc giam giữ hoặc có thể xâm phạm nghiêm trọng

danh dự, nhân phẩm và quyền tự do của những người này.
Theo người viết thì con người là vốn quý hàng đầu của xã hội, là đối tượng rất
quan trọng được Luật hình sự nói riêng cũng như pháp luật nói chung bảo vệ. Những
người chuyển giới khi sinh ra là công dân Việt Nam thì đương nhiên họ phải có quyền
của một công dân được ghi nhận tại Khoản 1 Điều 20 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định rằng: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm
về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra
tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phậm thân
thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm21. Song trong một số vấn đề quy định của
pháp luật hình sự lại chưa rõ ràng, đôi khi lại chưa quy định đối với trường hợp tội hiếp
dâm mà nạn nhân là người chuyển giới.
Từ trước tới nay, việc trừng trị tội hiếp dâm luôn được nhà nước chú trọng, nhưng
cho đến nay vẫn chưa có một văn bản nào đưa ra khái niệm về hành vi hiếp dâm người
chuyển giới. Để xác định chính sách hình sự và yêu cầu công cuộc đấu tranh phòng,
chống các tội phạm; việc đưa ra khái niệm hiếp dâm người chuyển giới là rất cần thiết.
Từ những gì đã phân tích ở trên, theo quan điểm của người viết, có thể đưa ra khái
niệm về hành vi hiếp dâm người chuyển giới một cách khái quát như sau: Hành vi hiếp
dâm người chuyển giới là hành vi dùng vũ lực, de dọa dùng vũ lực đối với nạn nhân
hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc dùng thủ đoạn khác
giao cấu với nạn nhân trái ý muốn của họ mà nạn nhân ở đây được hiểu đến là người
chuyển giới.
1.2 Sự ảnh hưởng quan điểm của tâm lý học hành vi và tâm lý học phân tâm đến
hành vi hiếp dâm người chuyển giới
Thuyết của S.Phơrơt (học thuyết S.Phơrơt – cha đẻ của tâm lý học phân tâm và
học thuyết của Watson – đại diện cho tâm lý học hành vi có sự chi phối mạnh mẽ) cho
rằng cấu trúc hành vi của con người được thúc đẩy bởi các thành tố cơ bản là ý thức –
tìm thức – vô thức, dựa trên cơ chế “thỏa mãn và dồn nén”.
- Khối vô thức là khối bản năng, trong đó bản năng tình dục giữ vị trí trung tâm.
Khối vô thức là thùng năng lượng tâm thần chứa những khát vọng bản năng sôi sục,
hoạt động theo nguyên tắc khoái cảm đòi hỏi sự thỏa mãn ngay lập tức những khát

vọng bản năng. Vô thức là cái ngấm ngầm điều khiển, điều chỉnh hành vi của con
người.
21

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

13

SVTH: Lê Thị Anh Thư


Hành vi hiếp dâm người chuyển giới dưới góc độ pháp luật hình sự Việt Nam – lý luận và thực tiễn

- Khối ý thức tương đương với cái tôi. Cái tôi được hình thành do áp lực thực tại ở
bên ngoài đến toàn bộ khối bản năng. Nó đảm bảo các chức năng tâm lý như chú ý, trí
nhớ... Hoạt động của cái tôi theo nguyên tắc thực tại. Nhiệm vụ của cái tôi là làm cho
bản năng thỏa mãn mà không làm tổn hại đến cơ thể, làm giảm sự căng thẳng một cách
tốt nhất.
- Siêu tôi là tổ chức bên trong bao gồm tất cả phạm trù xã hội, đạo đức, nghệ thuật
giáo dục. Siêu tôi hoạt động theo nguyên tắc kiểm duyệt.
Cả ba khối này theo nguyên tắc chung là ở trạng thái thăng bằng tương đối (con
người lúc ấy ở trạng thái bình thường). Nhưng cả ba khối này luôn luôn xung đột với
nhau, sự xung đột này là cơ chế của hoạt động tâm thần.
Từ quan niệm được nêu ở trên S.Phơrơt nêu ra cơ chế hoạt động tâm lý của con
người. Đó là cơ chế kiểm duyệt, chèn ép, cơ chế biến dạng, cơ chế siêu thăng, cơ chế
suy thoái.
Con người sống gồm các bản năng. Xu hướng của các bản năng này là luôn vươn
lên chiếm đoạt những cái khác (cái tôi và siêu tôi). Nhưng cái bản năng luôn bị sự chèn

ép, kiểm duyệt của cái tôi. Vì thế, nó phải biến dạng bằng một hình thức nào đó như
bệnh tâm thần, hoặc tìm cách giải tỏa như hành vi phạm tội.
Học thuyết phân tâm của S.Phơrơt đã đưa ra giả thuyết về vô thức tiềm thức là
những mặt quan trọng trong đời sống tâm lý của con người. Mặt khác, S. Phơrơt còn
đưa ra một số cơ chế tâm lý như cơ chế tự vệ, dồn nén, mặc cảm, đồng nhất hóa, các
giai đoạn phát triển nhân cách. Từ những quan điểm trên, có thể đánh giá một người có
phạm tội hay không, động cơ mục đích phạm tội...
Nếu tâm lý học phân tâm lấy điều kiện bên trong làm nguyên tắc quyết định thì
tâm lý học hành vi lại lấy điều kiện bên ngoài quyết định cho tâm lý con người. Cương
lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa hành vi do Watson xây dựng nên đã thể hiện rõ ràng điều
kiện trên thông qua các nội dung sau:
- Tâm lý học hành vi tuyên bố không quan tâm đến việc mô tả, giảng giải các
trạng thái tâm lý của ý thức mà chỉ quan tâm đến hành vi của tồn tại người, đối tượng
của tâm lý học hành vi là hành vi con người. Hành vi được xem là tổ hợp các phản ứng
của cơ thể trước các kích thích của môi trường bên ngoài.
- Theo quan điểm của Watson có bốn loại hành vi: hành vi bên ngoài, hành vi bên
trong, hành vi tự động minh nhiên và hành vi tự động mặc nhiên. Theo Watson thì mọi
việc con người làm kể cả suy nghĩ đều thuộc một trong bốn hành vi này. Nghiên cứu
dùng các phương pháp khoa học khách quan, sử dụng phương pháp ghi chép các sự
kiện kiểm soát được về quá trình cơ thể, thích nghi với môi trường.
- Trong tâm lý học hành vi cổ điển, hành vi của động vật và người bị giản đơn hóa
thành những cử động cơ thể. Nhờ những cử động đó với tính cách là nột cơ quan biết
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

14

SVTH: Lê Thị Anh Thư


Hành vi hiếp dâm người chuyển giới dưới góc độ pháp luật hình sự Việt Nam – lý luận và thực tiễn


phản ứng hay một hệ thống vật lý thích nghi với mội trường để đảm bảo sự sống còn.
Quan sát cũng như giảng giải hành vi đều phải tuân theo công thức S – R. Trong đó S là
kích thích, R là phản ứng. Kích thích có thể là một tình huống tổng quát của môi trường
hay một điều kiện bên trong nào đó của sinh vật, phản ứng là bất cứ cái gì mà sinh vật
làm và nó bao gồm rất nhiều thứ.
Từ quan điểm của tâm lý học phân tâm là hành vi phạm tội của một người do
những ức chế bên trong cần giải tỏa và quan điểm của tâm lý học hành vi là hành vi
phạm tội do sự tác động của yếu tố môi trường.
Dựa vào những gì đã phân tích, đứng ở góc độ tâm lý học, hành vi hiếp dâm người
chuyển giới cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều bởi trạng thái tâm lý, nhìn chung thì trạng
thái tâm lý của người thực hiện hành vi này giống với trạng thái tâm lý của người phạm
tội hiếp dâm nhưng có một khác biệt cơ bản đó là đối tượng của hành vi này là người
chuyển giới, bởi bản năng tình dục đòi hỏi sự thỏa mãn ngay lập tức những khát vọng
của bản năng, đến mức độ mà bản thân người thực hiện hành vi có thể không kiểm soát
được hành vi, cần phải giải tỏa.
Ví dụ: Một người thực hiện hành vi hiếp dâm, đặc biệt đối tượng ở đây lại là
người chuyển giới (chuyển giới từ nam sang nữ, đã chuyển đổi luôn cả bộ phận sinh
dục), theo quan điểm phân tâm học cổ điển thì đó là do tình dục trong con người rất
mạnh mà không được đáp ứng nên dần tích tụ, dồn nén khiến người này luôn mong
muốn được thỏa mãn dục vọng. Và hành vi hiếp dâm đã xảy ra khi kẻ đó tình cờ gặp
một cô gái tại một quãng đường vắng, tức là theo tâm lý học hành vi, lúc này yếu tố
môi trường (dễ dàng thực hiện hành vi) đã thúc đẩy hành vi phạm tội.
1.3 Hậu quả của hành vi hiếp dâm người chuyển giới
Hành vi hiếp dâm người chuyển giới bao gồm mọi hình thái ép buộc tình dục bằng
những tác động tâm lý (đe dọa, dùng quyền uy), thể chất (dùng sức mạnh với nạn nhân)
hay kinh tế (cho tiền hay hứa hẹn, lừa gạt) để thỏa mãn ý muốn tình dục. Đây là hành vi
mang tính nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó xâm phạm quyền được tôn trọng về tình
dục, nhân phẩm, danh dự của người khác và đôi khi nó còn mang lại những hậu quả
nghiêm trọng. Hậu quả do hành vi này để lại rất nặng nề với sức khỏe và đời sống của

người chuyển giới, gây ra những khủng hoảng trong tâm trí, đau đớn cả thể xác lẫn tâm
hồn, nhiều khi nó còn là nỗi ám ảnh trong suốt cuộc đời của người chuyển giới, về phía
gia đình có con em là nạn nhân sẽ rất đau đớn và vô cùng căm phẫn. Nó để lại những
ảnh hưởng xấu đến tâm, sinh lý của người chuyển giới về lâu dài, làm tổn thương tinh
thần của nạn nhân cũng như gia đình của họ, nó còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự
phát triển nhân cách của nạn nhân. Ở khía cạnh xã hội, hành vi này còn tác động xấu
đến môi trường xung quanh, nhiều vụ án gây phẫn nộ, gây bức xúc, nhức nhối trong dư
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

15

SVTH: Lê Thị Anh Thư


Hành vi hiếp dâm người chuyển giới dưới góc độ pháp luật hình sự Việt Nam – lý luận và thực tiễn

luận. Sau đây là một số hậu quả của hành vi hiếp dâm người chuyển giới gây ra cho nạn
nhân:
- Hậu quả của hành vi ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất của nạn nhân: có thể tức
thì và không nghiêm trọng (bầm tím trên da, chảy máu, gây tổn hại sức khỏe cho nạn
nhân...) hoặc tiềm ẩn và phát sinh muộn (nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình
dục, HIV) hoặc hành vi để lại hậu quả rất nghiêm trọng thậm chí tử vong (tự sát, bị
giết).
- Hậu quả của hành vi ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần của nạn nhân: nạn nhân
rất dễ mất lòng tin vào người khác và cuộc sống; coi mình không còn giá trị, giảm súc
lòng tự trọng, sống bừa bãi buông thả, dễ quan hệ tình dục với người khác (hay còn gọi
là chứng nghiện tình dục; là tình trạng luôn bị thôi thúc, ám ảnh bởi chuyện tình dục)
hoặc ngược lại là chán tình dục (những người này bị một rối nhiễu gọi là chứng chán
hay ghê sợ tình dục, những người bị chứng ghê sợ tình dục nặng nhất đều tỏ ra rất xấu
hổ và căm ghét bản thân tránh quan hệ tình dục với người khác để không có quan hệ

tình dục) hoặc họ luôn bị ám ảnh bởi hành vi hiếp dâm đó trong một thời gian dài (luôn
tỏ ra sợ hãi mỗi khi có ai đó chạm vào cơ thể của họ, luôn lo lắng đề phòng những
người xung quanh) hoặc thậm chí dẫn đến nạn nhân bị tâm thần.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

16

SVTH: Lê Thị Anh Thư


Hành vi hiếp dâm người chuyển giới dưới góc độ pháp luật hình sự Việt Nam – lý luận và thực tiễn

CHƯƠNG 2
THỰC TIỄN CỦA HÀNH VI HIẾP DÂM NGƯỜI CHUYỂN GIỚI VÀ
PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ
2.1 Thực tiễn của hành vi hiếp dâm người chuyển giới
2.1.1 Thực tiễn của hành vi hiếp dâm người chuyển giới ở một số nước trên thế
giới
Các quốc gia Bỉ, Canada, Hà Lan, Nam Phi, Na Uy, Thụy Điển, Tây Ban Nha và
năm bang ở Hòa Kỳ đã công nhận hôn nhân đồng giới. Có khoảng 16 quốc gia công
nhận những người cùng giới có thể kết hợp dân sự (kết hợp hợp pháp tương tự như hôn
nhân để những cặp đồng giới có quyền và nghĩa vụ giống như những cặp khác giới).
Các quốc gia này thừa nhận quyền sử dụng giới tính mới của những người đã qua giải
phẫu chuyển đổi giới tính. Việc này, đồng nghĩa là những người chuyển đổi giới tính sẽ
được pháp luật quốc gia bảo vệ. Theo tìm hiểu của người viết thì trong trường hợp
phạm tội hiếp dâm hay tội cưỡng dâm mà nạn nhân là người chuyển đổi giới tính, và
người chuyển đổi giới tính đó phải phẫu thuật chuyển đổi hoàn toàn (giới tính và bộ
phận sinh dục) thì mới được pháp luật bảo vệ. Ở các quốc gia này, khi đủ yếu tố cấu
thành hành vi hiếp dâm thì người phạm tội sẽ bị định danh với tội hiếp dâm.

Chẳng hạn như quốc gia Hàn Quốc xử vụ cưỡng bức người chuyển giới đầu tiên.
Vào tháng 2-2009, Tòa án Hình sự Hàn Quốc đã xét xử một vụ án cưỡng bức, trong đó
nạn nhân của vụ án là một người chuyển giới 58 tuổi. Đây là vụ án cưỡng bức người
chuyển giới đầu tiên tại Hàn Quốc được thụ lý và giải quyết. Trước đó, năm 1996, Tòa
án Tối cao của nước này đã từng từ chối thụ lý một vụ án tương tự. Nhưng từ năm
2006, Hàn Quốc đã công nhân quyền sử dụng giới tính mới của những người đã trải qua
phẫu thuật. Tháng 8-2009, lợi dụng lúc nạn nhân ở nhà một mình, một thanh niên đã
đột nhập vào nhà và cưỡng bức nạn nhân để thực hiện hành vi giao cấu. Sau đó, nạn
nhân đã nộp đơn khởi kiện. Theo những điều tra của công an và xác nhận của nạn nhân,
có thể xem nạn nhân là phụ nữ do sau khi chuyển đổi giới tính từ năm 1974, nạn nhân
có quan hệ tình dục bình thường với người yêu. Từ đó, tòa án tuyên phạt bị cáo ba năm
tù nhưng được hoãn thi hành án trong bốn năm và phải lao động công ích 120 giờ22.
Một vụ án khác, người phạm tội thoát tội nhờ hiếp dâm nhằm người chuyển đổi
giới tính nhưng chưa chuyển đổi bộ phận sinh dục. Ngày 1-7-2012, Tòa án Thành phố
Orebro của Thụy Điển đã bác bỏ cáo buộc người phạm tội với tội hiếp dâm sau khi phát
hiện ra nạn nhân là một người chuyển đổi giới tính, nhưng chưa chuyển đổi bộ phận
sinh dục. Bị cáo là một người đàn ông 61 tuổi. Hôm đó, người phạm tội đã theo dõi và
22

Xem: Anh chàng chuyển giới bị hiếp dâm, tòa án đau đầu, nguồn: [truy cập ngày 9-10-2014].
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

17

SVTH: Lê Thị Anh Thư


Hành vi hiếp dâm người chuyển giới dưới góc độ pháp luật hình sự Việt Nam – lý luận và thực tiễn

tấn công nạn nhân khi nạn nhân vừa ra khỏi nhà bạn trai. Hắn vật ngã nạn nhân xuống

đất và xé nát quần áo của nạn nhân để thực hiện hành vi giao cấu. Bạn trai của nạn nhân
khi thấy vụ tấn công thông qua cửa sổ của căn nhà thì đã vội vàng chạy xuống giải cứu
cho nạn nhân và bắt giữ người phạm tội, khi hắn chưa kịp thực hiện hành vi giao cấu
với nạn nhân. Theo pháp luật của Thụy Điển thì người này sẽ bị cáo buộc tội hiếp dâm.
Tuy nhiên, theo điều tra thì nạn nhân là người chuyển giới, nạn nhân đã sử dụng các
loại thuốc chuyển đổi hoomon giới tính nhiều năm để trở thành phụ nữ. Mặc dù vậy,
việc nạn nhân còn cơ quan sinh dục chưa chuyển đổi nên cáo buộc người phạm tội với
tội danh hiếp dâm đã không thành lập, Tòa án thành phố cho rằng “bị cáo sẽ không bao
giờ thực hiện được hành vi hiếp dâm của mình bởi mục đích của hắn là hãm hiếp một
phụ nữ”23.Theo Thẩm phán Sjostedt, điều luật hiện hành này đang gây nhiều tranh cãi
gay gắt, có những người quan điểm rằng có thể định tội hiếp dâm cho bị cáo, có quan
điểm lại đồng tình với phán quyết của tòa án.
Ngoài ra, người viết còn tham khảo Bộ luật Hình sự năm 1997 của Liên Bang Úc
và một số Bộ luật Hình sự của các bang thuộc Úc, người viết thấy quy định về tội hiếp
dâm của Bộ luật này có sự khác biệt rõ so với Điều 111 của Bộ luật Hình sự năm 1999
của nước ta. Cụ thể là:
- Điều 268.14 Bộ luật Hình sự năm 1995 của Liên Bang Úc quy định:
1. Một người phạm tội hiếp dâm nếu quan hệ tình dục với người khác mà không
có sự đồng ý của nạn nhân; và người đó biết hoặc không cần biết việc không có sự
đồng ý của nạn nhân; hành động của người đó là có ý định trước hoặc cố ý.
2. Một người phạm tội hiếp dâm nếu buộc người khác quan hệ tình dục với mình
mà không có sự đồng ý của nạn nhân; người đó biết hay không cần biết việc không có
sự đồng ý của nạn nhân; và hành động đó là có ý định trước hoặc cố ý.
Khoản 3 của điều luật này nêu các trường hợp cụ thể thể hiện sự không đồng ý
của nạn nhân.
Khoản 4 của điều luật này quy định cụ thể các hình thức quan hệ tình dục (không
chỉ đơn giản là hình thức giao cấu mà còn các hình thức quan hệ tình dục khác, kể cả
những trường hợp dùng một vật nào đó hoặc một bộ phận cơ thể để quan hệ tình dục
với người khác)24.
- Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 1958 của bang Victoria- Liên Bang Úc quy định:

...
23

Xem: Thoát tội hiếp dâm nhờ “hiếp nhầm” đàn ông, Afamily, nguồn: ,
[truy cập ngày 9-10-2014].
24
Xem: Criminal Code Act 1995 (Australia), bản đã được sữa đổi, bổ sung ngày 1/07/2013, nguồn:
[truy cập ngày 11-10-2014].
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

18

SVTH: Lê Thị Anh Thư


Hành vi hiếp dâm người chuyển giới dưới góc độ pháp luật hình sự Việt Nam – lý luận và thực tiễn

2. Một người phạm tội hiếp dâm nếu:
a. Người đó (đàn ông hoặc phụ nữ) đã quan hệ tình dục một cách cố ý với người
khác mà không có sự đồng ý của nạn nhân
b. Đang quan hệ tình dục, nhưng không chấm dứt hành động đó khi nạn nhân
không đồng ý nữa và người đó nhận thức được nạn nhân không đồng ý hoặc có thể
không đồng ý.
3. Một người cũng phạm tội hiếp dâm nếu ông ta (hoặc bà ta) buộc người khác:
a. Quan hệ tình dục với mình hoặc người thứ ba, bất chấp nạn nhân đồng ý hay
không;
b. Đang quan hệ tình dục với mình hoặc người thứ ba, phải tiếp tục quan hệ tình
dục, bất chấp nạn nhân không đồng ý nữa25.
Các điều luật trên của một số Bộ luật Hình sự tại Úc có một số đặc điểm khá nổi
bật:

- Về chủ thể của tội hiếp dâm: người thực hiện hành vi phạm tội có thể bất kỳ ai,
không phân biệt giới tính là nam giới hay nữ giới.
- Về hành vi khách quan: ngoài hành vi giao cấu (sexual intercourse) thì các hành
vi quan hệ tình dục (sexual penetration) khác cũng cấu thành tội hiếp dâm.
- Về nạn nhân: có thể là bất kỳ ai. Như vậy, có thể hiều mở rộng thêm, nạn nhân
có thể là người chuyển giới.
Từ những gì đã phân tích, người viết thấy để phù hợp với thực tiễn xã hội hiện
nay, thì tội hiếp dâm của Bộ luật Hình sự nước ta nên được sữa đổi, bổ sung theo hướng
ghi rõ ràng hơn trong điều luật. Chủ thể thực hiện tội phạm của tội này có thể là người
có giới tính nam hoặc giới tính nữ; trong hành vi khách quan của tội phạm, không chỉ
xác định mà còn có thể là một số hành vi quan hệ tình dục khác cũng là yếu tố cấu
thành tội phạm, và cần mở rộng thêm đối tượng của tội hiếp dâm ( nam giới hoặc người
đã chuyển đổi giới tính).
2.1.2 Thực tiễn của hành vi hiếp dâm người chuyển giới ở Việt Nam
Trong những năm qua, ở Việt Nam, số người chuyển giới công khai xu hướng tình
dục của mình ngày càng gia tăng. Đến nay chưa có nghiên cứu nào về số lượng người
chuyển giới ở Việt Nam nhưng theo khảo sát của Isee 26 qua các câu lạc bộ hoặc website
Xem: Crimes Act 1958 (bang Vitoria, Australia), bản đã được sữa đổi bổ sung ngày 10/02/2013,
nguồn: [truy cập ngày
11/10/2014].
26
Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (Isee) là một tổ chức nghiên cứu độc lập, hoạt động
vì lợi ích của các cộng đồng người thiểu số tại Việt Nam. Các nhóm thiểu số mà Viện chú trọng
nghiên cứu:
- Người dân tộc thiểu số.
- Người thiểu số tình dục: bao gồm cả người đồng tính nam, đồng tính nữ, người lưỡng tính và
người chuyển giới.
25

GVHD: TS. Phạm Văn Beo


19

SVTH: Lê Thị Anh Thư


Hành vi hiếp dâm người chuyển giới dưới góc độ pháp luật hình sự Việt Nam – lý luận và thực tiễn

về giới tính cho thấy có khoảng trên 110.000 người. Tình trạng này đã kéo theo vấn đề
xâm phạm tình dục người chuyển giới gia tăng, có tính nguy hiểm cho xã hội cao. Tuy
nhiên, Nhà nước chưa chính thức thừa nhận người chuyển giới đã gây ra những khó
khăn nhất định trong việc xử lý các hành vi vi phạm phạm luật. Trong Bộ luật Hình sự,
không có quy định nào liên quan đến người chuyển giới với tư cách là chủ thể hay nạn
nhân của hành vi phạm tội, nhất là các tội xâm phạm tình dục hoặc có liên quan đến
hành vi giao cấu như chứa mại dâm, môi giới mại dâm, mua dâm người chưa thành
niên...Điều đó đã gây ra những trở ngại trong việc xử lý những hành vi nguy hiểm cho
xã hội có liên quan đến người chuyển giới.
Như đã nêu ở trên, theo quy định hiện hành của Bộ luật Dân sự năm 2005, người
chuyển giới Việt Nam không được phép phẫu thuật chuyển đổi giới tính. Tuy nhiên,
trên thực tế, có nhiều người Việt Nam đã phát triển hoàn thiện về giới tính (là nam giới
hay nữ giới) đã ra nước ngoài để phẫu thuật chuyển từ nam thành nữ hoặc từ nữ thành
nam. Những người này, khi về Việt Nam, theo những quy định của pháp luật hiện nay,
họ không được phép làm lại các loại giấy tờ cá nhân nên có trường hợp một số người đã
được phẫu thuật chuyển giới, mặc dù có hình dạng bên ngoài và cơ quan sinh dục là nữ
nhưng nhưng trên giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu, hộ khẩu và giấy khai sinh của
họ vẫn ghi là nam và trường hợp ngược lại. Vì vậy, trên thực tế đã xảy ra việc một
người phẫu thuật chuyển đổi giới tính từ nam thành nữ bị một người nam giới khác thực
hiện hành vi hiếp dâm gây nên những khó khăn trong việc xử lý hình sự.
Quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành không khẳng định chỉ có nữ giới mới có
thể là nạn nhân của tội hiếp dâm hoặc cưỡng dâm. Như vậy, đối với trường hợp được

nêu trên có quan điểm cho rằng, hành vi đó, xâm phạm tình dục phụ nữ nên cấu thành
tội hiếp dâm hoặc cưỡng dâm; có quan điểm cho rằng về mặt giấy tờ cá nhân của nạn
nhân tại thời điểm bị xâm hại, nạn nhân đang chính thức là nam giới nên hành vi này
không thể cấu thành tội hiếp dâm hoặc cưỡng dâm vì hai tội phạm này đối tượng phải là
phụ nữ. Người viết ủng hộ quan điểm cho rằng, hành vi giao cấu trái phép với người
chuyển đổi giới tính từ nam giới thành nữ giới xét về bản chất giống như hành vi giao
cấu trái phép với người phụ nữ; hành vi đó đều xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con
người, xâm phạm quyền tự do và bất khả xâm phạm về tình dục của con người nên tùy
thuộc vào cách thức thực hiện hành vi phạm tội mà có thể cấu thành tội hiếp dâm hoặc
cưỡng dâm.
Ngược lại, một số quan điểm khác cho rằng do Bộ luật Hình sự không khẳng định
rõ nên nạn nhân hoàn toàn có thể là nam giới. Tuy nhiên, vấn đề gặp phải vướng mắc ở
đây là hình thể và giấy tờ của nạn nhân không thống nhất về mặt giới tính. Có thể xem
-

Người sống với HIV.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

20

SVTH: Lê Thị Anh Thư


×