Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 77 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***------------

LÊ MINH CHÍ
MSSV: 1055040026

PHÂN CƠNG, PHỐI HỢP VÀ KIỂM SỐT GIỮA CÁC CƠ
QUAN TRONG VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN LẬP PHÁP

Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2010 – 2014

Người hướng dẫn:
Gv. Lưu Đức Quang

TP.HCM – NĂM 2014


MỤC LỤC

Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN CƠNG, PHỐI HỢP VÀ KIỂM
SỐT GIỮA CÁC CƠ QUAN TRONG VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN LẬP
PHÁP ........................................................................................................................ 01
1.1 Quyền lập pháp ................................................................................................. 01
1.1.1 Khái niệm quyền lập pháp ......................................................................... 01
1.1.2 Quy trình lập pháp ..................................................................................... 04
1.1.3 Yêu cầu đối với quyền lập pháp trong Nhà nước pháp quyền ................. 07
1.2 Khái niệm, nội dung, vai trị của sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa


các cơ quan trong thực hiện quyền lập pháp........................................................ 10
1.2.1 Phân công giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp ............ 11
1.2.2 Phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp .............. 13
1.2.3 Kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp ............ 15
1.2.4 Ý nghĩa của sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong
thực hiện quyền lập pháp .................................................................................... 18
1.3 Kinh nghiệm quốc tế về phân công, phối hợp, kiểm soát thực hiện quyền
lập pháp .................................................................................................................... 20
1.3.1 Trong chính thể đại nghị............................................................................ 20
1.3.2 Trong chính thể cộng hịa tổng thống ........................................................ 22
1.3.3 Trong chính thể cộng hịa hỗn hợp ............................................................ 24
1.3.4 Kinh nghiệm cho phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lập pháp ở Việt
Nam .................................................................................................................... 27
Kết luận chƣơng1 .............................................................................................. 29


CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN PHÂN CƠNG, PHỐI HỢP, KIỂM SỐT GIỮA
CÁC CƠ QUAN TRONG VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN LẬP PHÁP Ở VIỆT
NAM ......................................................................................................................... 30
2.1 Phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan trong thực hiện quyền lập
pháp theo lịch sử lập hiến Việt Nam..................................................................... 30
2.1.1 Theo Hiến pháp năm 1946 ........................................................................ 30
2.1.2 Theo Hiến pháp năm 1959 ........................................................................ 33
2.1.3 Theo Hiến pháp năm 1980 ........................................................................ 35
2.1.4 Theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) .......................... 38
2.1.5 Theo Hiến pháp năm 2013......................................................................... 41
2.2 Thực tiễn phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan trong thực hiện
quyền lập pháp từ cơ chế pháp lý hiện hành ........................................................ 44
2.2.1 Trong hoạt động lập chương trình xây dựng luật ...................................... 45
2.2.2 Trong hoạt động soạn thảo dự án luật ....................................................... 48

2.2.3 Trong hoạt động thẩm tra, chỉnh lý dự án luật .......................................... 49
2.2.4 Trong hoạt động cho ý kiến về dự án luật của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
............................................................................................................................ 52
2.2.5 Trong hoạt động thảo luận, thông qua dự án luật ...................................... 53
2.2.6 Trong hoạt động công bố luật .................................................................... 55
2.3 Một số kiến nghị liên quan về phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ
quan trong thực hiện quyền lập pháp ở Việt Nam............................................... 57
Kết luận chƣơng 2 ............................................................................................. 63
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhu cầu hồn thiện cơ chế thực hiện quyền lập pháp ln là mơt tất yếu khách
quan của bất kì một thời kì nào, quốc gia nào. Trải qua lịch sử lập hiến Việt Nam,
việc tổ chức thực hiện quyền lập pháp đã có sự kế thừa,đổi mới căn bản. Đảng, Nhà
nước đã có nhiều phấn đấu, nỗ lực của trong việc hoàn thiện cơ chế tổ chức thực
hiện quyền lập pháp.
Với yêu cầu của thực tiễn hiện nay, chủ trương của Đảng và Nhà nước trong
việc tổ chức thực hiện quyền lập pháp đã được cụ thể hóa tại Đại hội Đảng lần thứ
XI với luận điểm: “nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thiết chế và cơ chế vận hành
cụ thể, đảm bảo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; có sự
phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Thể chế chủ trương của Đảng, Hiến pháp năm
2013 đã ghi nhận cách thức tổ chức thực hiện quyền lập pháp theo ngun tắc “có
sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền
lập pháp”.
Đặt trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi
việc thực hiện quyền lập pháp cần đổi mới hơn nữa theo hướng tập trung nâng cao

chất lượng lập pháp thông qua việc thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả sự phân cơng,
phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan trong q trình thực hiện quyền lập pháp.
Với nhận thức đó, tác giả chọn đề tài “phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa
các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Khoa học pháp lý Việt Nam trong thời gian qua, nhất là khi chủ trương sửa đổi
Hiến pháp năm 1992 được bắt đầu và với sự ra đời của Hiến pháp năm 2013 thì đã
có nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến cơ chế phân công, phối hợp
và kiểm soát thực hiện quyền lực nhà nước, quyền lập pháp. Có thể nêu ra những
cơng trình nghiên cứu như: Phân cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền lực trong xây
dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Gs.Ts Trần Ngọc
Đường,Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2011; Phân cơng, phối hợp và kiểm
sốt giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, Gs.Ts Trần Ngọc


Đường, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2012;Phân cơng, phối hợp giữa các cơ quan
trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, Ts Cao Anh Đơ, Nxb Chính trị quốc gia,
năm 2013; Nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp 2013,Ts. Đinh
Xuân Thảo, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 10 năm 2014; Kiểm soát lập pháp với
việc bảo đảm quyền con người, Nguyễn Mạnh Hùng, tạp chí khoa học pháp lý số 4
năm 2011…
Tuy nhiên, các cơng trình, bài viết trên mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu cơ
chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước chứ chưa đi sâu phân tích
trên lĩnh vực lập pháp; hoặc chỉ nghiên cứu một mặt của vấn đề phân cơng, phối
hợp hay kiểm sốt trong việc thực hiện quyền lập pháp. Do đó, đây là cơng trình đi
sâu nghiên cứu về vấn đề thực hiện quyền lập pháp trong cơ chế phân công, phối
hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài: Việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về sự
phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập

pháp nhằm góp phần hồn thiện cơ chế thực hiện quyền lập pháp ở nước ta, hướng
tới ngày càng nâng cao hơn nữa chất lượng cũng như số lượng đạo luật được ban
hành, tạo tiền đề cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài: Đề tài nghiên cứu về những vấn đề lý luận
liên quan đến quyền lập pháp, quy trình lập pháp, phân cơng, phối hợp và kiểm soát
giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp.Từ mặt lý luận của vấn đề, đề
tài nghiên cứu thực tiễn cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan
trong việc thực hiện quyền lập pháp ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đề tài chỉ dừng lại nghiên cứu những vấn đề
mang tính lý luận và thực tiễn về cơ chế phân cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền
lập pháp bên trong tổ chức và hoạt động và của bộ máy nhà nước.Tức là sự phân
cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước trong việc
thực hiện quyền lập pháp.


4. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Đề tài tiếp nối các cơng trình nghiên cứu về thực hiện quyền lực nhà nước.Đề
tài nghiên cứu chuyên sâu về việc phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ
quan trong việc thực hiện quyền lập pháp.Đề tài góp phần về mặt khoa học pháp lý,
cũng như thực tiễn trong việc hoàn thiện cơ chế phân cơng, phối hợp và kiểm sốt
giữa các cơ quan trọng việc thực hiện quyền lập pháp.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mac – Lênin kết hợp với Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước và pháp luật.
Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu như: phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, đối chiếu, thống
kê…
6. Bố cục đề tài

Đề tài gồm lời mở đầu, hai chương và phần kết luận:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ
quan trong việc thực hiện quyền lập pháp
Chương 2: Thực tiễn phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan trong
việc thực hiện quyền lập pháp ở Việt Nam
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc làm khóa luận này nhưng do những
hạn chế về mặt kiến thức nên chắc chắn khóa luận sẽ khơng tránh khỏi những thiếu
sót. Kính mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô và những người quan
tâm đến đề tài.
Xin chân thành cảm ơn!


1

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN CÔNG, PHỐI HỢP VÀ KIỂM
SOÁT GIỮA CÁC CƠ QUAN TRONG THỰC HIỆN QUYỀN LẬP PHÁP
1.1 Quyền lập pháp
1.1.1 Khái niệm quyền lập pháp
Quyền lập pháp khơng cịn là khái niệm mới mẻ trong lý luận Nhà nước và
pháp luật, nhưng để hiểu nội hàm quyền lập pháp như thế nào thì vẫn khơng có sự
thống nhất. Trong điều kiện hiện nay, với yêu cầuxây dựng Nhà nước pháp quyền,
quyền lập pháp cần được nhận thức một cách rõ ràng, cụ thể, tạo tiền đề cho việc
phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập
pháp.
Theo cuốn từ điển Black’s Law của tác giả Henry Campbell Black giải thích
thì quyền lập pháp là:
Quyền làm luật của cơ quan lập pháp mà chức năng của nó bao gồm quyền
làm, thay đổi, bổ sung và hủy bỏ luật. Liên quan đến đặc điểm quan trọng nhất, cơ
quan lập pháp có quyền làm luật và quyền lực như vậy được trao độc quyền cho
những cơ quan như vậy dù cho nó có thể ủy quyền xây dựng các quy tắc và quyền

kiểm soát cho những bộ phận trong nhánh hành pháp.Tuy nhiên, trong trường hợp
có thể khơng, việc ủy thác quyền làm luật cho nhánh tư pháp cũng không được chấp
nhận áp đặt vào quyền lập pháp1.Theo cách giải thích này, quyền lập pháp là độc
quyền của cơ quan lập pháp.Mọi ủy thác quyền làm luật cho các cơ quan hành pháp,
tư pháp đều khơng được xem đó là hoạt động thể hiện quyền lập pháp. Quyền lập
pháp là độc quyền của cơ quan lập pháp được ban hành các quy phạm pháp luật để
điều chỉnh xã hội.
Theo từ điển Luật học, quyền lập pháp được hiểu là: “Quyền ban hành và sửa
đổi luật, quyền lập pháp là một trong những quyền lực quan trọng nhất của nhà
nước. Quyền lập pháp được giao cho cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân là
Quốc hội”2.Như vậy, từ điển Luật học nhấn mạnh chủ thể của quyền lập pháp là
Quốc hội, cơ quan đại diện cao nhất cho ý chí của tồn thể nhân dân.Theo đó, chỉ có
Quốc hội mới có quyền định ra các quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất
là luật để điều chỉnh các quan hệ cơ bản của xã hội. Quyền ban hành luật của Quốc
hội phải được hiểu là quyền đưa ra các quy phạm pháp luật có hiệu lực bắt buộc
mọi người thực hiện, chứ không chỉ hiểu theo nghĩa bao gồm quyền làm luật và sửa
1

Henry Campbell Black (1990), Black’s Law Dictionary (Sixth edition), West Publishing Co, USA, p.900.
Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.651.

2


2

đổi luật.Bản chất của quyền làm luật là một hoạt động lập pháp chứ không phải
quyền lập pháp, và nhiều cơ quan có thể làm luật để trình Quốc hội thơng qua như:
Chính phủ, đại biểu Quốc hội…
Theo các chun gia Hiến pháp Việt Nam, quyền lập pháp là khái niệm cũng

có nhiều nhận định, cụ thể:
Gs.Ts Nguyễn Đăng Dung nhận định: “Quyền lập pháp không chỉ bao gồm
việc thảo luận và ban hành các văn bản chứa đựng quy phạm pháp luật, mà còn cả
những hoạt động khác tạo nền tảng hợp pháp của các cơ quan cấu thành của một
nhà nước dân chủ”3. Theo nhận định này, quyền lập pháp của Quốc hội được thể
hiện ở mọi hoạt động của Quốc hội chứ không chỉ dừng lại ở thẩm quyền ban hành
luật, sửa đổi luật. Đặc biệt, kể cả các hoạt động về việc thành lập ra Chính phủ,
giám sát hoạt động của Chính phủ đều do quyền lập pháp của Quốc hội mà ra4.
Gs.Ts Phạm Hồng Thái cho rằng: “Quyền lập pháp là quyền đặt ra Hiến pháp,
sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật”5. Ở một số nước, có sự phân biệt giữa
quyền lập hiến và quyền lập pháp, Quốc hội lập hiến được bầu ra để làm Hiến pháp,
sau khi Hiến pháp được ban hành thì Quốc hội lập hiến tự giải thể. Quốc hội lập
pháp khơng có quyền làm ra Hiến pháp mà chỉ có quyền ra các đạo luật trên cơ sở
căn cứ vào các quy định của Hiến pháp. Ở nước ta, quyền lập hiến và quyền lập
pháp đều thuộc về Quốc hội.Thế nhưng, mặc dù Quốc hội là cơ quan thực hiện cả
hai quyền lập hiến và lập pháp, nhưng hai quyền lực này không đồng nhất với nhau.
Quốc hội thực hiện quyền lập hiến theo một quy trình đặc biệt, chặt chẽ được quy
định trong Hiến pháp – đạo luật cao nhất của hệ thống pháp luật, trong khi đó việc
ban hành các đạo luật được thực hiện theo một quy trình đơn giản hơn và được cụ
thể hóa trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản quy phạm
pháp luật khác có liên quan. Sự khác biệt về quyền lập hiến và quyền lập pháp còn
thể hiện ở thủ tục đặc biệt khi tiến hành thông qua Hiến pháp, luật.Việc thông qua
Hiến pháp đòi hỏi sự biểu quyết tán thành của đại biểu Quốc hội với tỷ lệ bao giờ
cũng cao hơn so với tỷ lệ đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua luật.Tách bạch
quyền lập hiến và quyền lập pháp là điều cần thiết để khẳng định vị trí tối cao của
Hiến pháp trong hệ thống pháp luật.

3

NguyễnĐăngDung (2012), Quốc hội trong nền kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền, trích trong sách

Những vấn đề về Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, Nguyên Đăng Dung (chủ biên), Nxb Dân trí, Hà Nội,
tr.197.
4
NguyễnĐăngDung, Quốc hội trong nền kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền, sđd.
5
PhạmHồngThái (2012), Quyền lực nhà nước và quyền lực nhân dân qua các Hiến pháp Việt Nam, trích
trong sách Hiến pháp những vấn đề lý luận và thực tiễn, , Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.334.


3

Cũng có quan điểm hiểu quyền lập pháp ở nghĩa hẹp hơn, theo đó: quyền lập
pháp là quyền thơng qua luật bởi “nội dung cốt lõi của quyền lập pháp chính là
quyền đồng ý hoặc khơng đồng ý thơng qua một chính sách hay một dự thảo luật”6.
Chỉ có Quốc hội mới có quyền đặt ra các quy phạm pháp luật có hiện lực pháp lý
cao nhất, điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản. Và cũng chỉ có văn bản quy phạm
pháp luật do Quốc hội ban hành mới thể hiện đầy đủ nhất ý chí, nguyện vọng của
nhân dân.
Khi nghiên cứu về quyền lập pháp thì cũng cần xem xét đến việc ủy quyền lập
pháp của Quốc hội. Uỷ quyền lập pháp của Quốc hội là hành vi Quốc hội ủy quyền
từng lần cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua một văn bản quy phạm pháp
luật. Việc Quốc hội giao cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra pháp lệnh quy định vấn
đề gì sẽ do Quốc hội quyết định trên cơ sở chương trình xây dựng luật, pháp
lệnh.Hành vi này khác với hoạt động phân công lập pháp ở chỗ: cơ quan được ủy
quyền chỉ được ban hành pháp lệnh trong phạm vi ủy quyền từng lần. Quốc hội ủy
quyền cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh có thể hiện quyền lập
pháp của Quốc hội? Ta cần khẳng định, Quốc hội ủy quyền cho Ủy ban thường vụ
Quốc hội ban hành pháp lệnh trong những trường hợp được Quốc hội giao là cần
thiết khi năng lực lập pháp của Quốc hội chưa cao, lại hoạt động theo kì họp nên
khơng thể bắt kịp “nhịp thở” của các quan hệ xã hội. Một cơ quan thường trực ban

hành pháp lệnh để điều chỉnh những quan hệ xã hội mới phát sinh sẽ đáp ứng được
nhu cầu của xã hội. Nhưng xét về bản chất, quyền ban hành pháp lệnh của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội trong những trường hợp được Quốc hội giao không phải là
quyền lập pháp mà chỉ là quyền “lập pháp ủy quyền” do cơ quan thường trực của
Quốc hội - Uỷ ban thường vụ Quốc hội thực hiện, bởi những lý do sau:
Thứ nhất, pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ là văn bản quy phạm
pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội nhất thời khi mà chưa có luật điều
chỉnh kịp thời. Quyền ban hành pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ được
thực hiện khi có sự ủy quyền từ Quốc hội.
Thứ hai, cơ quan ban hành pháp lệnh là cơ quan thường trực của Quốc hội,
chứ không phải là Quốc hội – cơ quan đại diện cao nhất do nhân dân bầu ra.Quyền
lập pháp chỉ được nhân dân trao cho cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, đó là
Quốc hội (Nghị viện).

6

CaoAnhĐơ (2013), phân cơng phối giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, tr.21.


4

Thứ ba, quyền ban hành pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khơng thể
hiện được ý chí của tồn thể nhân dân.Pháp lệnh khơng được biểu quyết thơng qua
bởi toàn thể đại biểu Quốc hội – người được nhân dân bầu ra.Quyền lập pháp phải
là quyền của tất cả các đại biểu Quốc hội được nhân dân bầu ra, đại diện cho ý chí
của nhân dân để thực hiện quyền lập pháp.
Từ những phân tích trên có thể khẳng định: dù hiểu quyền lập pháp ở phương
diện nào thì quyền lập pháp cũng được trao cho Quốc hội - cơ quan đại diện cao
nhất của nhân dân. Quyền lập pháp của Quốc hội dưới tư cách là một nhánh quyền

trong tổng thể quyền lực nhà nước được hiểu là quyền ngồi việc ban hành luật cịn
thể hiện ở việc ban hành, sửa đổi Hiến pháp, quyết định thành lập, giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước khác, quyết định các công việc của Quốc hội.
Quyền lập pháp dưới hình thức là một chức năng của Quốc hội được hiểu là quyền
quyết định những vấn đề chung, quan trọng của đất nước bằng hình thức luật (đạo
luật, bộ luật).Trong khóa luận này, tác giả đề cập đến quyền lập pháp theo việc hiểu
quyền lập pháp là chức năngcủa Quốc hội thể hiện qua việc ban hành luật.Theo đó,
quyền lập pháp là quyền của Quốc hội, thể hiện qua việc Quốc hội xem xét, ban
hành luật để quyết định các vấn đề chung, quan trọng của đất nước, điều chỉnh
những quan hệ cơ bản của xã hội.
1.1.2 Quy trình lập pháp
Theo Đại từ điển tiếng Việt: “Quy trình là các bước phải tuân thủ khi tiến hành
công việc nào đó”7. Từ điển tiếng Việt cũng ghi nhận: “Quy trình là trình tự phải
tuân theo khi tiến hành một cơng việc nào đó”8. Như vậy, quy trình là trình tự, thủ
tục, cách thức được xác định trước để tiến hành công việc xem xét, quyết định một
vấn đề nào đó.
Với Quốc hội, cơ quan đảm nhiệm quyền lập pháp, thành phần gồm số lượng
lớn các đại biểu, việc xây dựng quy trình là rất cần thiết cần thiết. “Bởi chỉ có quy
trình mới tạo lập ra một cách thức, trật tự mà nhờ đó, biến sức mạnh của từng cá
nhân thành tiếng nói chung thống nhất đầy sức mạnh”9.Hơn nữa, quyền lập pháp
của Quốc hội mang tính chất đặc biệt, có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến tồn
xã hội và từng người dân. Do đó, cần phải có một quy trình lập pháp đảm bảo tính
hợp hiến, hợp pháp để thực hiện quyền lập pháp một cách hiệu quả, khoa học.

7

NguyễnNhưÝ (chủ biên) (1999), Đại từ điển Tiếng việt, Nxb Văn hóa thơng tin, Hà Nội, tr.1381.
Viện ngôn ngữ học (1988), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.841.
9
TrầnQuốcBình (2013), Vai trị của Chính phủ trong quy trình lập pháp ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà Nội, tr.11.
8


5

Quốc hội là cơ quan có quyền lập pháp, điều này khơng có nghĩa là Quốc hội
thay mọi cơ quan nhà nước khác trong hoạt động lập pháp. Theo Gs.Ts Đào Trí Úc:
“Hoạt động lập pháp được khởi đầu bằng sáng kiến lập pháp. Và vì vậy chủ thể
sáng kiến lập pháp phải được coi là chủ thể của hoạt động lập pháp theo nghĩa rộng
của nó”10. Do đó, quy trình lập pháp bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau từ việcthực
hiện sáng kiến lập pháp, soạn thảo, thẩm tra, cho ý kiến, thảo luận, thông qua dự án
luật đến cơng bố luật, trong đó, Quốc hội là cơ quan trung tâm, giữ vai trò chủ đạo,
quyết định.Mặc dù gồm nhiều giai đoạn khác nhau nhưng quy trình lập pháp luôn
xác định một trật tự nghiêm ngặt, chặt chẽ, mỗi giai đoạn đều là một thành tố quan
trọng trong toàn bộ quy trình.Những cơng đoạn trong giai đoạn lập pháp trước sẽ là
tiền đề, nền tảng cho công đoạn sau. Ví dụ như giai đoạn sáng kiến lập pháp là giai
đoạn đưa ra các giải pháp chính sách thì giai đoạn soạn thảo luật là giai đoạn cụ thể
hình thức và nội dung của chính sách ấy bằng các chương, điều cụ thể. Hiệu quả của
giai đoạn trước là điều kiện đảm bảo cho công đoạn sau được thực hiện, đảm bảo
tính thống nhất, hiệu quả trong tồn bộ quy trình lập pháp.Mặt khác, quy trình lập
pháp ln phản ánh sự tương tác giữa các nhánh quyền lực trong bộ máy nhà nước,
đặc biệt là giữa quyền lập pháp và hành pháp.Quy trình lập pháp thường gắn liền
với hai cơng đoạn độc lập, cơng đoạn của Chính phủ và cơng đoạn của Quốc hội.
Chính phủ với vai trị là cơ quan thiết kế, đề ra chính sách lập pháp thì Quốc hội là
cơ quan dựa trên nguyện vọng, ý chí của nhân dân để phản biện lại các chính sách
mà hành pháp đưa ra.
Như vậy, mặc dù trong các văn bản pháp luật vẫn chưa xác định rõ khái niệm
quy trình lập pháp của Quốc hội, nhưng dựa trên những phân tích trên ta có thể định
nghĩa:

Quy trình lập pháp là trình tự các bước được tiến hành theo một trật tự
nghiêm ngặt, chặt chẽ trong quá trình làm luật, bao gồm các giai đoạn từ sáng kiến
lập pháp, soạn thảo, thẩm tra dự án luật, thảo luận, cho ý kiến, thông qua dự án
luật, công bố luật.Mỗi công đoạn của quy trình lập pháp đều phải đảm bảo tuân thủ
Hiến pháp, pháp luật.
Quy trình lập pháp khơng những làm cơ sở để đảm bảo tính hợp hiến, hợp
pháp của các cơ quan trong hoạt động lập pháp mà còn tạo ra sự liên kết giữa các
hoạt động riêng lẻ trong những giai đoạn đó, tạo thành một quy trình liên tục, thống
nhất. Đặc biệt, quy trình lập pháp có vai trị rất quan trọng trong việc tổ chức phân
10

ĐàoTríÚc (2003), “Vai trò của xã hội học lập pháp trong giai đoạn hiện nay ở nước ta”, tạp chí Nhà nước
và pháp luật, (1), tr.4.


6

cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan trong quá trình thực hiện quyền lập
pháp, thể hiện qua những khía cạnh sau:
Thứ nhất, quy trình lập pháp là cơ sở pháp lý cho việc phân công nhiệm vụ,
quyền hạn của mỗi cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp.Quy trình
lập pháp trải qua một chuỗi hoạt động, rất nhiều cơ quan được phân công nhiệm vụ,
quyền hạn để tham gia vào hoạt động lập pháp. Chỉ có một quy trình lập pháp khoa
học, hiểu quả mới đảm bảo cho sự phân công nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan
với nhau được thống nhất, tránh tình trạng hoạt động của các cơ quan dẫm chân lên
nhau, hoặc có cơng việc trong quy trình lập pháp bị bỏ qua hay xem nhẹ.
Thứ hai, quy trình lập pháp là cơ sở cho sự phối hợp hoạt động nhịp nhàng
giữa các cơ quan. Thực hiện quyền lập pháp là hoạt động phức hợp bao gồm nhiều
hình thức hoạt động khác nhau, có mối liên hệ chặt chẽ và tuân theo một trình tự
nhất định. Thành quả của việc thực hiện quyền lập pháp đến từ sự phối hợp hoạt

động của nhiều người, nhiều cơ quan. Quy trình lập pháp là cơ sở để các chủ thể, cơ
quan biết nhiệm vụ, quyền hạn của mình, biết khi nào, ở cơng việc gì thì cần phải
phối hợp, và nếu phải phối hợp thì phối hợp như thế nào. Vậy nên, quy trình lập
pháp hiệu quả ln là tiền đề để cho việc phối hợp ăn ý giữa các cơ quan trong quá
trình thực hiện quyền lập pháp.
Thứ ba, quy trình lập pháp là cơ sở để xác định trách nhiệm của mỗi cơ quan
trong hoạt động lập pháp.Khi các giai đoạn của quy trình lập pháp được quy định
một cách chặt chẽ trong văn bản quy phạm pháp luật, các chủ thể tham gia buộc
phải tuân thủ nghiêm ngặt. Trong trường hợp các chủ thể khơng tn thủ quy trình
làm cho chất lượng các đạo luật được ban hành không cao, thì cơ quan nào, cá nhân
nào khơng đảm bảo chất lượng hoạt động của mình phải bị xử lý khách quan, đúng
mức.
Thứ tư,quy trình lập pháp là cơ sở để đánh giá hiệu quả thực hiện phân công,
phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp.Hiệu
quả của hoạt động phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc
thực hiện quyền lập pháp ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng lập pháp của Quốc
hội.Một khuôn khổ pháp lý để đối chiếu, xem xét, đánh giá hoạt động của các cơ
quan là vơ cùng cần thiết. Quy trình lập pháp với những trình tự, thủ tục, yêu cầu cụ
thể sẽ là tiêu chí, cơ sở để đánh giá hiệu quả việc phân cơng, phối hợp và kiểm sốt
giữa các cơ quan trong q trình thực hiện lập pháp. Từ đó, Nhà nước có thể tìm ra
các giải pháp nhằm hồn thiện cơ chế phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ
quan trong việc thực hiện quyền lập pháp


7

1.1.3 Yêu cầu đối với quyền lập pháp trong Nhà nƣớc pháp quyền
Cốt lõi của một Nhà nước pháp quyền là đề cao quyền lực nhân dân, tôn trọng
và bảo đảm quyền con người, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, đặt các thiết chế
quyền lực trong sự ràng buộc của Hiến pháp và pháp luật, đảm bảo sự phân cơng,

kiểm sốt quyền lực, đảm bảo sự độc lập của Tịa án, tính minh bạch của hệ thống
pháp luật. Do đó, trong xây dựng Nhà nước pháp quyền thì cần phải có các yêu cầu,
chuẩn mực đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước
được trao quyền. Đối với quyền lập pháp, các yêu cầu khi tổ chức thực hiện quyền
lập pháp được thể hiện:
Thứ nhất, quyền lập pháp phải thể hiện ý chí của nhân dân
Quyền lực nhân dân thể hiện ở tính thống nhất của quyền lực nhà nước và bắt
nguồn từ sự thống nhất về định hướng và mục tiêu phát triển của đất nước, là sự cụ
thể ý chí và lợi ích chung của nhân dân. Đảm bảo quyền lập pháp thể hiện ý chí của
nhân dân, hay nói cách khách là thực hiện dân chủ trong quyền lập pháp là một yêu
cầu tất yếu của các cơ quan trong quá trình thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình.Nguyên tắc này bắt nguồn từ đòi hỏi phản ánh đúng đắn ý chí của đại đa số
nhân dân, thể hiện chính xác các giá trị mà xã hội có, xã hội cần và xã hội ủng hộ
trong các đạo luật.Đồng thời, dân chủ trong việc thực hiện quyền lập pháp bắt
nguồn từ đòi hỏi luật sau khi được ban hành phải được xã hội tn thủ. Vì thế, phải
thu hút đơng đảo mọi người tham gia vào quá trình xây dựng luật, để một mặt nâng
cao chất lượng của luật, mặt khác chuẩn bị cho nhân dân tuân thủ pháp luật.
Nhận thức dân chủ trong quyền lập pháp có ý nghĩa quan trọng trong việc tổ
chức thực hiện quyền lập pháp đề cao trách nhiệm trước nhân dân, hạn chế sự dựa
dẫm, ỷ lại trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà nhân dân đã ủy quyền. Đó
cũng là cơ sở để khơng có chỗ cho các yếu tố cực đoan, đối lập, thiếu trách nhiệm
trong mối quan hệ giữa các cơ quan trong quá trình thực hiện quyền.Ngược lại, mỗi
cơ quan sẽ có điều kiện phát huy đầy đủ trách nhiệm và thực hiện hiệu quả nhiệm
vụ, quyền hạn, chức năng của mình.Nhận thức quyền lập pháp là của nhân dân cịn
là điều kiện để“hình thành cơ chế kiểm soát, nhận xét, đánh giá chất lượng và hiệu
quả hoạt động của các quyền từ bên trong tổ chức quyền lực nhà nước cũng như từ
bên ngoài là nhân dân”11.

11


ĐinhXuânThảo (2014), “Nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp 2013”, tạp chí Nghiên cứu
lập pháp(10), tr.6.


8

Thứ hai, quyền lập pháp phải đảm bảo tuân thủ chặt chẽ Hiến pháp,
pháp luật
Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa là Nhà nước tổ chức và quản lý xã hội
dựa trên những quy định của Hiến pháp và pháp luật.Thực hiện chức năng của
mình, Nhà nước hiện thực hóa quyền lập pháp thành những nhiệm vụ, quyền hạn,
cách thức hoạt động cụ thể để trao cho các cơ quan nhà nước khác nhau thực
hiện.Việc tổ chức trao quyền và phương thức lập pháp phải được ghi nhận và bảo
đảm thực hiện bởi Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp và pháp luật là cơ sở pháp lý
cho các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình,
đồng thời cũng là văn bản giới hạn phạm vi quyền lực được phân công cho các cơ
quan nhà nước, đảm bảo khả năng ngặn chặn các hành vi lạm quyền, tha hóa quyền
lực từ chủ thể được trao quyền. Theo đó, việc đảm bảo tuân thủ Hiến pháp, pháp
luật trong thực hiện quyền lập pháp được thể hiện:
Một là, tất cả các bước, các giai đoạn của quy trình lập pháp nhất thiết phải
tiến hành theo những thủ tục, trình tự do Hiến pháp, Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan quy định.
Hai là, tất cả các cơ quan tham gia vào thực hiện quyền lập pháp, đặc biệt là
Quốc hội, đều phải đảm bảo tuân thủ các quy định, trình tự đã được đặt ra trong quy
trình lập pháp.
Ba là, sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực
hiện quyền lập pháp phải được tiến hành một cách rõ ràng, hiệu quả, có khoa học.
Thứ ba, quyền lập pháp phải đảm bảo quyền con ngƣời, quyền công dân
Quyền con người, quyền công dân là giá trị căn bản cần được Nhà nước bảo
vệ, là một yếu tố quan trọng của Chủ nghĩa lập hiến và Nhà nước pháp quyền Xã

hội chủ nghĩa. Thực hiện quyền lập pháp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền Xã hội chủ nghĩa cần phải gắn chặt với việc bảo đảm quyền con người,
quyền công dân. Tư tưởng coi trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân
trong thực hiện quyền lập pháp là cơ sở để xây dựng cơ chế phân cơng, phối hợp và
kiểm sốt quyền lực, góp phần chống lại sự tùy tiện của quyền lực đối với quyền
con người, quyền công dân.
Đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong thực hiện quyền lập pháp
thể hiện qua hai khía cạnh: một là, mỗi đạo luật của Quốc hội phải tôn trọng các
quyền cơ bản của con người, công dân được ghi nhận trong Hiến pháp; hai là, các
cơ quan nhà nước đảm bảo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền con người,


9

quyền công dân, đặc biệt là các quyền trên lĩnh vực dân sự, chính trị vì nó trực tiếp
giúp nhân dân kiểm sốt quyền lực nhà nước nói chung, quyền lập pháp nói riêng.
u cầu này chính là cách thức thể hiện sự dân chủ của Nhà nước pháp quyền, nơi
các quyền của con người, công dân được ghi nhận và bảo đảm thực hiện bởi một hệ
thống Hiến pháp, pháp luật khách quan, hiệu quả.
Thứ tƣ, từ những yêu cầu trên mà trong Nhà nƣớc pháp quyền phải có sự
phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền
lập pháp
Trong Nhà nước pháp quyền, để đảm bảo quyền lập pháp thể hiện ý chí của
tồn thể nhân dân, quyền lập pháp đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, quyền lập pháp
đảm bảo quyền con người, quyền cơng dân thì cần thiết phải phân cơng, phối hợp
và kiểm sốt giữa các cơ quan trong thực hiện quyền lập pháp. Đây là cơ chế để các
chuẩn mực đối với quyền lập pháp trong Nhà nước pháp quyền được tn thủ.Vai
trị của phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc bảo đảm các
yêu cầu của quyền lập pháp trong Nhà nước pháp quyền thể hiện qua những khía
cạnh sau:

Một là, Nhà nước pháp quyền là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân ủy quyền, giao quyền cho Nhà
nước thực hiện mà không bị mất quyền, không bị lạm quyền từ phía cơ quan nhà
nước. Để đảm bảo điều này, tất yếu trong tổ chức thực hiện quyền lập pháp cần phải
có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt.Cơ chế này là tất yếu để đảm bảo chủ thể
tối cao của quyền lập pháp là nhân dân, ngăn chặn lạm dụng quyền lập pháp để
phục vụ cho lợi ích của cá nhân, nhóm cá nhân được trao quyền.
Hai là, trong Nhà nước pháp quyền, quyền lực không phải là tự có, bản thân
quyền lập pháp cũng là nhân dân ủy quyền cho cơ quan nhà nước làm thay. Chính
vì ủy quyền cho cơ quan khác làm thay quyền lập pháp cho nên tất yếu nảy sinh địi
hỏi chính đáng là cần phải có cơ chế kiểm tra, kiểm sốt hoạt động lập pháp, đảm
bảo quyền lập pháp luôn nằm trong giới hạn mà nhân dân đã trao quyền thông qua
Hiến pháp và pháp luật. Yêu cầu cần phải có cơ chế phân cơng, phối hợp và kiểm
sốt giữa các cơ quan trong thực hiện quyền lập pháp cũng còn xuất phát từ xu
hướng lạm quyền của các cơ quan nhà nước. Chủ thể của Nhà nước cũng là con
người, mà đã là con người thì ln chịu sự chi phối bởi ham muốn và dục vọng,
trong đó “đam mê quyền lực” là một trong những bản tính cố hữu của con người.
Khi thực hiện quyền lực nhà nước, con người không vượt qua được những cám dỗ
của quyền lực, “lý tính bị chìm khuất” sẽ tiến đến lạm dụng quyền lực nhằm thỏa


10

mãn lợi ích riêng của bản thân. Do đó, phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các
cơ quan là điều kiện để mọi hoạt động trong quy trình lập pháp luôn hợp hiến, hợp
pháp.
Ba là, trong Nhà nước pháp quyền, quyền lập pháp luôn phải được thực thi
một cách hiệu quả.Phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan là tất yếu kĩ
thuật để đảm bảo quyền lập pháp được thực thi một cách hiệu quả, khoa học. Trong
điều kiện hiện nay, phân công lao động để tăng cường tính chun mơn hóa là điều

rất cần thiết, hoạt động lập pháp với tư cách là hoạt động tạo ra quy phạm luật để
điều chỉnh các quan hệ xã hội thì hơn hết cần phải có sự phân cơng lao động rạch
rịi, tăng cường tính chun mơn hóa trong q trình hoạt động. Phân cơng, phối
hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp khơng
những giúp tăng cường tính chun mơn mà còn là điều kiện để sàng lọc, xử lý
những cơ quan, những con người trong bộ máy nhà nước không đủ năng lực thực
hiện quyền lập pháp. Từ đó, góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện quyền lập pháp
đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa.
1.2 Khái niệm, nội dung, vai trò của sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa
các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp
Phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền
lập pháp là nguyên tắc đã được Đảng và Nhà nước ta tiếp thu có chọn lọc từ những
nhân tố hợp lý trong học thuyết phân quyền. Thuyết phân quyền là một học thuyết
về tổ chức quyền lực nhà nước do J.Lock nêu ra và được Montesquieu, nhà xã hội
học người Pháp hoàn thiện. Từ luận đề người có quyền thì có xu hướng lạm quyền,
muốn bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân, chống lạm quyền thì phải sắp xếp
quyền lực sao cho “quyền lực ngăn cản quyền lực”. Từ đó, loại trừ khả năng chuyên
quyền, độc đoán, bảo đảm các quyền và tự do của công dân, thực thi quyền làm chủ
của nhân dân. Thuyết phân quyền chủ trương quyền lực nhà nước không tập trung
vào một cơ quan duy nhất mà phải giao cho nhiều cơ quan, hay ít nhất là các cơ
quan khác nhau, với những chức năng riêng biệt, độc lập, kiềm chế, đối trọng lẫn
nhau. Theo đó, quyền lực nhà nước được phân thành ba quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp.Ba nhánh quyền lực này được trao cho ba cơ quan khác nhau thực
hiện.Trong quá trình thực hiện quyền lực, giữa các cơ quan ln có sự kiềm chế, đối
trọng, kiểm sốt lẫn nhau.
1.2.1 Phân cơng giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp


11


Tiếp thu kế thừa và vận dụng có chọn lọc học thuyết phân quyền có ý nghĩa rất
quan trọng về mặt lý luận, thực tiễn trong việc tổ chức thực hiện phân công quyền
lập pháp. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, quyền lập pháp phải
được lượng hóa, phân định thành các lĩnh vực khác nhau và phân công cho nhiều cơ
quan nhà nước thực hiện, đảm bảo nhân dân giao quyền cho cơ quan nhà nước mà
không bị lạm quyền. Phân công thực hiện quyền lập pháp là điều kiện đảm bảo tính
chun mơn, khoa học trong hoạt động lập pháp, bởi “sự phân công quyền lực càng
rõ ràng thì càng nâng cao hiệu quả hoạt động của từng cơ quan và quan trọng hơn là
nâng cao tính chịu trách nhiệm của các cơ quan đó”.12
Thứ nhất, khái niệm phân công giữa các cơ quan trong việc thực hiện
quyền lập pháp
Theo từ điển Từ và ngữ tiếng Việt: “Phân công là chia công việc theo khả
năng từng người, từng bộ phận, hoặc tùy theo khối lượng và nhu cầu”.13 Viện Ngôn
ngữ cũng đưa ra khái niệm phân công trong từ điển tiếng Việt: “Phân công là giao
cho làm một phần việc nào đó”14.Như vậy, phân cơng chính là giao một phần cơng
việc nhất định nào đó cho các chủ thể khác nhau trong khối công việc lớn, tất cả các
chủ thể được phân công, được giao việc phải cùng nhau thực hiện để hồn thành
một cơng việc chung.Trong lĩnh vực lập pháp, thực hiện quyền lập pháp cũng bao
gồm nhiều hoạt động với sự tham gia của nhiều cơ quan khác nhau.Mỗi hoạt động
lập pháp trong quy trình lập pháp đều địi hỏi phải có sự chun mơn hóa nên phân
cơng giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp càng trở nên cần
thiết.Theo đó, phân công giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp là
việc giao nhiệm vụ, quyền hạn cho các cơ quan, chủ thể khác nhau để thực hiện các
cơng việc cụ thể trong tồn bộ quy trình lập pháp.
Thứ hai, nội dung phân công giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền
lập pháp
Một là,phân công quyền lập pháp là chức năng của Quốc hội.Quyền lập pháp
là một lĩnh vực quyền trong tổng thể quyền lực nhà nước.Trong tổ chức và hoạt
động nhà nước, quyền lập pháp được phân cơng cho Quốc hội.Quyền lập pháp là
quyền riêng có của Quốc hội, các cơ quan hành pháp, tư pháp khơng có quyền lập

12

Đặng Minh Tuấn (2011), “Cải cách Hiến pháp Việt Nam trong xu thế chuyển đổi”, tạp chí Nghiên cứu lập
pháp(22), tr.26.
13
NguyễnLân (2000), Từ điển Từ và ngữ Việt Nam, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh
tr.1431.
14

Viện Ngơn ngữ học,trung tâm Từ điển học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng , Đà Nẵng, tr.771.


12

pháp.Sự phân cơng rạch rịi chức năng lập pháp cho Quốc hội đảm bảo quyền lập
pháp được thực hiện một cách thận trọng, thể hiện được ý chí của tồn thể nhân
dân. Cũng qua sự phân công chức năng lập pháp cho Quốc hội mà Quốc hội buộc
phải tăng cường trách nhiệm của mình trong việc thực hiện quyền lập pháp, các cơ
quan nhà nước khác xác định trách nhiệm của mình trong việc phối hợp, giúp đỡ,
kiểm sốt Quốc hội thực hiện quyền lập pháp.
Hai là,phân cơng vai trị của các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập
pháp.Quyền lập pháp là của Quốc hội, Quốc hội thực hiện quyền lập pháp thơng
qua một quy trình lập pháp với sự tham gia của nhiều cơ quan. Do đó, phân công
giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp đượcthể hiện qua phân công
nhiệm vụ, quyền hạn cho các cơ quan trong quy trình lập pháp. Tùy vào mỗi cơng
đoạn, mỗi cơ quan mà có những nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau trong việc thực
hiện quyền lập pháp. Ví dụ như, với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước, Chính
phủ là cơ quan có nhiệm vụ, quyền hạn quan trong trong việc sáng kiến lập pháp,
lập dự kiến chương trình xây dựng luật, soạn thảo dự án luật. Với vai trị phản biện
các chính sách của Chính phủ, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội là cơ

quan có nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng trong việc thẩm tra dự án luật. Cũng như
thế, các cơ quan nhà nước khác, đại biểu Quốc hội cũng có sự phân cơng những
nhiệm vụ, quyền hạn nhất định trong việc thực hiện quyền lập pháp.Vai trò của mỗi
cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp là điều kiện để đảm bảo cho việc thực
hiện quyền lập pháp được chun mơn hóa, hiệu quả, loại trừ khả năng lạm quyền,
tha hóa quyền lực.
Ba là, phân cơng về phương thức hoạt động giữa các cơ quan trong việc thực
hiện quyền lập pháp.Phương thức hoạt động giữa các cơ quan là hình thức làm việc
và cách thức tương tác lẫn nhau giữa các cơ quan. Phân công về phương thức hoạt
động giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp được thể hiện ở cách bố
trí nhân sự và cách thức chịu trách nhiệm của các cơ quan nhà nướctrong giới hạn
phạm vi quyền hạn được phân công trong việc thực hiện quyền lập pháp.
Thứ ba, vai trị của phân cơng giữa các cơ quan trong việc thực hiện
quyền lập pháp
Thực hiện quyền lập pháp với một chuỗi hoạt động và sự tham gia của nhiều
cơ quan khác nhau nên phân cơng, phân nhiệm rạch rịi là điều kiện đảm bảo cho
các cơ quan hoạt động phù hợp với khả năng, chun mơn nghiệp vụ của mình,
tránh chồng chéo, mâu thuẫn, lẫn lộn nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan nhà
nước. “Chính ngun tắc phân cơng lao động (chứ không phân chia) quyền lực


13

trong Nhà nước pháp quyền sẽ tạo nên sự cân bằng quyền lực giữa các cơ quan
công quyền thuộc các nhánh quyền lực nhà nước bằng cơ chế kiểm tra và cân
bằng”15.
Sự phân công giữa các cơ quan cũng là cách để đề cao trách nhiệm của từng
cơ quan, tạo cơ chế tự kiểm tra việc thực hiện quyền lập pháp giữa các cơ quan nhà
nước được trao quyền, chống lại những hiện tượng chuyên quyền, lạm quyền. Thế
nhưng, mặt trái của phân công quyền lập pháp là làm cho quyền lực dần mất đi tính

thống nhất, tập trung vốn có, tạo ra nguy cơ về sự “manh mún quyền lực”.Điều đó
địi hỏi, cần có cơ chế để khắc phục tình trạng manh mún quyền lực, đảm bảo cho
quyền lực luôn phải thống nhất và tập trung vào nhân dân.
1.2.2 Phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp
Thứ nhất, khái niệm phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện
quyền lập pháp
Theo từ điển Từ và ngữ tiếng Việt: “Phối hợp là sắp xếp nhiều yếu tố để cùng
tiến hành theo một mục đích chung”16. Viện Ngôn ngữ cũng đưa ra khái niệm phối
hợp: “Phối hợp là cùng hành động hoặc hoạt động hỗ trợ lẫn nhau”17. Hoạt động xã
hội nào cũng trải qua nhiều khâu, nhiều trình tự nên hợp tác lẫn nhau giữa các chủ
thể trong quá trình thực hiện là tất yếu.Cơ chế phối hợp đảm bảo cho kết quả của
hoạt động bao giờ cũng có sự đóng góp trí tuệ, sức lực của nhiều chủ thể, phối hợp
đảm bảo cho cơng việc ln mang tính thống nhất, hiều quả.Để đảm bảo tính thống
nhất, hiệu quả trong việc thực hiện quyền lập pháp mà các cơ quan trong quá trình
thực hiện quyền lập pháp cần phải phối hợp với nhau. Theo đó, phối hợp giữa các
cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp chính là lề lối, cách thức làm việc, hỗ
trợ lẫn nhau giữa các cơ quan nhằm đảm bảo cho việc thực hiện quyền lập pháp
luôn được thống nhất, hiệu quả.
Thứ hai, nội dung phối hợp giữa các cơ quan trong việc thức hiện quyền
lập pháp
Một là, trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập
pháp.Phân công là cơ sở để tổ chức phối hợp thực hiện quyền lập pháp, nhưng
không phải hoạt động lập pháp nào cũng phải phối hợp, “phân công phải hợp lý
15

LêVănCảm (2012), Một số vấn đề cấp bách của khoa học pháp lý Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà
nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.62.
16
NguyễnLân (2000), Từ điển Từ và ngữ Việt Nam, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh,
tr.1456.

17

Viện Ngơn ngữ họctrung tâm Từ điển học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng,Đà Nẵng, tr.786.


14

nhưng phối hợp phải đảm bảo được tính độc lập, trách nhiệm của các cơ quan tham
gia, không xuôi chiều, “số đơng”, mà phải mang tính phản biện chế ước”18.Dựa vào
sự phân công quyền hạn, nhiệm vụ cho các cơ quan nhà nước trong thực hiện quyền
lập pháp mà các cơ quan biết mình khi nào cần phải phối hợp với các cơ quan khác;
nếu cần phối hợp thì đó là cơ quan nào; nội dung phối hợp; quyền và trách nhiệm
của các bên phối hợp; trong quá trình phối hợp thì các cơ quan kiểm sốt lẫn nhau
như thế nào.
Hai là, thực hiện đúng và đủ chức năng, nhiệm vụ của mình cũng là cách thức
để các cơ quan phối hợp với nhau trong thực hiện quyền lập pháp.Quy trình lập
pháp là một chuỗi hoạt động nối tiếp nhau, công việc ở giai đoạn trước là tiền đề để
thực hiện cơng việc ở giai đoạn sau. Do đó, các cơ quan không làm đúng, làm đủ và
kịp thời nhiệm vụ, quyền hạn của mình thì khơng có khả năng và điều kiện phối hợp
với các cơ quan khác để nhằm mục đích hồn thành được các nhiệm vụ, quyền hạn
đã được phân công.Các cơ quan không đảm bảo khả năng thực hiện nhiệm vụ của
mình tức là họ đã làm gián đoạn sự phối hợp giữa các cơ quan, phá vỡ tính thống
nhất của quyền lực dẫn đến ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng của việc thực hiện
quyền lập pháp.
Ba là, phương thức phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập
pháp.Phối hợp chính là lề lối, cách thức làm việc giữa các cơ quan. Sự tương trợ,
giúp đỡ, phối hợp lẫn nhau giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp có
thể được thực hiện bằng nhiều phương thức như: trình sáng kiến lập pháp cho Quốc
hội; gửi dự án luật, thông tin, tài liệu liên quan đến dự án luật cho Quốc hội; phát
biểu, cho ý kiến, xem xét, thảo luận về chính sách, nội dung của dự án luật…

Thứ ba, vai trò của sự phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện
quyền lập pháp
Vai trò của phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp rất
quan trọng.Một khi quyền lập pháp được phân công cho nhiều cơ quan thì tất yếu có
nhu cầu phối hợp giữa các cơ quan với nhau trong thực hiện quyền lập pháp.Phối
hợp đảm bảo cho quyền lập pháp được thực hiện có hiệu lực, hiệu quả, là nhân tố
thúc đẩy mỗi cơ quan cố gắng, nỗ lực thực hiện tốt những nhiệm vụ, quyền hạn mà
cơ quan được phân công.Đồng thời, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong việc
thực hiện quyền lập pháp còn là điều kiện để khắc phục mặt trái của phân cơng đó

18

LêVănHịe (2011), “Sáu vấn đề trong hoàn thiện Hiến pháp Việt Nam hiện nay”, tạp chí Nghiên cứu lập
pháp (22), tr.11.


15

là bảo vệ tính thống nhất, tập trung của quyền lập pháp, tránh tình trạng manh mún
quyền lực.
1.2.3 Kiểm sốt giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp
Thứ nhất, khái niệm kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện
quyền lập pháp
Theo từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý, kiểm soát được hiểu là:
“Việc xem xét để phát hiện ngăn ngừa kịp thời việc làm sai trái với thỏa thuận, với
quy định. Kiểm soát thường do các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền bố trí
việc tiến hành ở các địa điểm dễ có thể xảy ra vi phạm, hoặc ở một khâu trong quá
trình hoạt động của các đối tượng cần kiểm soát”19. Nếu thực hiện quyền lập pháp
chỉ dừng lại ở việc phân cơng, phối hợp thì vẫn cịn một “lỗ hổng” rất lớn có thể dẫn
đến tha hóa quyền lực đó là khơng có cơ chế kiểm sốt sự phân công, phối hợp giữa

các cơ quan trọng việc thực hiện quyền lập pháp. Trong Nhà nước pháp quyền Xã
hội chủ nghĩa, mọi quyền lực nhà nước đều phải có sự kiểm sốt, giám sát để tránh
khả năng lạm quyền, tha hóa quyền lực, do đó trong việc thực hiện quyền lập pháp
tất yếu cần phải có sự kiểm soát.Như vậy, kiểm soát giữa các cơ quan trong việc
thực hiện quyền lập pháp chính là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền để xem xét, ngăn ngừa các việc làm sai trái có thể xảy ra trong mỗi hoạt động
của việc thực hiện quyền lập pháp.
Thứ hai, nội dung kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền
lập pháp
Một là, kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp qua
việc bảo đảm tính độc lập tương đối giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp,
từ đó thực hiện phân cơng rạch rịi nhiệm vụ của các cơ quan trong việc thực hiện
quyền lập pháp. Các cơ quan hành pháp, tư pháp chỉ có thể kiểm sốt quyền lập
pháp của cơ quan lập pháp khi mà nó có vị thế độc lập tương đối so với cơ quan lập
pháp. Chỉ có một sự cần bằng quyền lực tương đối thì các cơ quan mới có thể kiểm
sốt, giám sát hoạt động của nhau hiệu quả.
Hai là, giới hạn phạm viquyền lực được phân công chocác cơ quan trong việc
thực hiện quyền lập pháp.Sẽ khơng có kiểm sốt quyền lập pháp nếu quyền lập
pháp không bị giới hạn và không có sự phân cơng một cách rạch rịi nhiệm vụ,
quyền hạn cho từng cơ quan trong từng quy trình lập pháp.Theo đó, cần nhấn mạnh
19

Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (1999)Từ điển Luật học, Nxb từđiển Bách khoa, Hà Nội, tr.264


16

đến việc giới hạn thẩm quyền của các cơ quan, phân cơng rạch rịi nhiệm vụ, quyền
hạn giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp.Mỗi cơ quan trong quy
trình lập pháp đều phải có sự phân định thẩm quyền một cách rõ ràng, rạch rịi,

khơng có cơ quan nào có khả năng lạm quyền, lấn át quyền lực của cơ quan khác.
Việc kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp vì thế mà
được được đẩy mạnh qua cơ chế giám sát, kiểm soát chặt chẽ lẫn nhau giữa các cơ
quan được trao quyền.
Ba là,phương thức kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập
pháp.Kiểm soát lập pháp đảm bảo hoạt động của các cơ quan luôn nằm trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật. Kiểm soát quyền lập pháp được thể chế hóa thành
những phương thức, quy định mà dựa vào đó có thể ngăn chặn, loại bỏ những hoạt
động sai trái của các cơ quan nhà nước được trao quyền, phát hiện và điều chỉnh
hoạt động lập pháp theo đúng khuôn mẫu đã được định sẵn bởi Hiến pháp, hệ thống
pháp luật.Ở những nước vận dụng học thuyết phân quyền trong việc tổ chức thực
hiện quyền lực thì phương thức kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện
quyền lập pháp được thể hiện như: quyền phủ quyết luật của người đứng đầu hành
pháp, quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo luật do Quốc hội ban hành của cơ
quan tư pháp. Ở Việt Nam, phương thức kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực
hiện quyền lập pháp cũng được thể hiện qua những hoạt động như: quyền tham gia
sáng kiến pháp luật của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, trách nhiệm của Ban
soạn thảo đối với cơ quan chủ trì soạn thảo dự án luật, việc phản biện, xem xét, biểu
quyết thông qua dự án luật…
Thứ ba, vai trị của kiểm sốt giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền
lập pháp
Vai trị của kiểm sốt giữa các cơ quan trong thực hiện quyền lập pháp thể
hiện ở việc làm cho không một cơ quan nào có khả năng lấn át hoặc sử dụng quyền
lực vì mục đích khơng phải vì thực hiện quyền lập pháp. Giống như Thomas
Jefferson đã nhận định: “Để khơng một cơ quan nào có thể vượt qua những giới hạn
về mặt pháp lý mà không bị kiểm tra hay kiềm chế hữu hiệu bởi những có quan
khác”20. Kiểm soát lập pháp là điều kiện để bảo đảm quyền lập pháp được thực thi
đúng mục đích phục vụ nhân dân. Cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan trong việc
thực hiện quyền lập pháp còn là điều kiện để quyền lập pháp được thống nhất, tránh


20

Thomas Jefferson (2002)Notes on the state of Virginia, 1784, Từ điển chính quyền và chính trị Hịa Kì,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.152.


17

tình trạng lạm quyền, tha hóa quyền lực, đảm bảo hoạt động của các cơ quan được
nhịp nhàng, đồng bộ, hiệu quả.
Tóm lạicó thể khẳng định, phân cơng, phối hợp, kiểm soát thực hiện quyền lập
pháp là việc nhà nước tổ chức thực hiện quyền lập pháp thông qua việc quy định
cho các cơ quan nhà nước khác nhau thực hiện những cơng việc nhất định trong
q trình lập pháp. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình, các cơ quan này
còn phải phối hợp với nhau để hỗ trợ, giúp đỡ nhau thực hiện tốt nhiệm vụ, đồng
thời, kiểm sốt, kiểm tra lẫn nhau để tránh tình trạng lạm quyền, vơ trách nhiệm từ
phía các cơ quan nhà nước trong thực hiện quyền lập pháp.
Phân công, phối hợp, kiểm soát là ba mặt của một vấn đề, chúng có mối quan
hệ biện chứng với nhau trong q trình thực hiện quyền lập pháp. Thực hiện phân
cơng rạch rịi là tiền đề để mỗi chủ thể, mỗi cơ quan xác định được nhiệm vụ, quyền
hạn của mình cũng đồng thời xác định giới hạn trách nhiệm rõ ràng của từng cơ
quan trong hoạt động lập pháp. Thực hiện phối hợp ăn ý là điều kiện để đảm bảo
quyền lập pháp không bị phân tán, đảm bảo quyền lập pháp được thực hiện một
cách ăn khớp, hiệu quả. Và trong cơ chế phân cơng, phối hợp thì kiểm sốt là yếu tố
giúp cho mọi công việc trong hoạt động lập pháp được diễn ra theo đúng khuôn khổ
của Hiến pháp và pháp luật. Hay nói cách khác, “nếu khơng có kiểm sốt thì bản
thân sự phân cơng chưa đủ để khắc phục những tha hóa của quyền lực nhà nước,
thậm chí có thể làm nảy sinh những sự tha hóa mới nghiêm trọng hơn trước khi có
phân cơng”21. Do đó, việc phân định thẩm quyền, cách thức phối hợp, cách thức
kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp phải được ghi nhận

trong văn bản có giá trị pháp lý cao nhất đó là Hiến pháp, và phải tiếp tục cụ thể hóa
trong các văn bản về Luật Tổ chức bộ máy nhà nước, Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật…Sự cụ thể, rõ ràng nàylà tiền đề, cơ sở vững chắc cho hoạt động
phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập
pháp. Đảm bảo cho quyền lập pháp đáp ứng được các yêu cầu đối với công cuộc
xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
1.2.4 Ý nghĩa của sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan
trong thực hiện quyền lập pháp
Thứ nhất, đảm bảo xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền của dân, do dân, vì
dân
21

VũAnhTuấn (2012), “Bàn thêm về mối quan hệ giữa phân cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền lực nhà nước
ở Việt Nam hiện nay”, tạp chí Nhà nước và pháp luật (05), tr.30.


18

Trải qua nhiều biến động trong lịch sử nhưng nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam vẫn đứng vững và đang phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Có được điều này là do nhân dân Việt Nam tin vào Nhà nước Xã hội chủ
nghĩa, tin vào bản chất của một Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Yêu cầu đặt ra
đối với Nhà nước là cần phải giữ được bản chất nhân dân trong quá trình thực hiện
quyền lực nhà nước. Cơ chế phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan khi
thực hiện quyền lực nhà nước chính là một trong những phương thức để đảm bảo
xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Nhân dân là chủ thể trao quyền lập pháp cho cơ quan nhà nước thực hiện.Để
thực hiện quyền lập pháp như thế nào cho hiệu quả, nhân dân tổ chức phân công
nhiệm vụ cho các cơ quan nhà nước trên cơ sở có sự phối hợp, kiểm sốt lẫn nhau.

Do đó, thực hiện quyền lập pháp trong sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa
các cơ quan phải luôn được tiến hành dựa trên dân chủ nhà nước. Có như thế, quyền
làm chủ của nhân dân đối với quyền lập pháp mới được bảo đảm, đáp ứng mục tiêu
xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa.Mặt khác, dân chủ trong hoạt
động lập pháp còn được thể hiện ở chất lượng dự luật được ban hành.Sản phẩm của
lập pháp là luật, nó tác động trực tiếp tới toàn xã hội và từng chủ thể trong xã hội.
Một Nhà nước của dân, do dân, vì dân thì luật phải mang ý chí chung của nhân dân,
phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong những quy phạm của luật.
Yêu cầu này là cơ sở để cơ quan nhà nước thực hiện phân công, phối hợp và kiểm
soát lẫn nhau một cách thận trọng, tỉ mỉ trong việc thực hiện quyền lập pháp để quy
phạm luật thể hiện đầy đủ các quyền, lợi ích chính đáng của con người, công dân.
Thứ hai, đảm bảo ngăn chặn tha hóa, lạm dụng quyền lập pháp
Khi quyền lực nhà nước được trao cho con người cụ thể thì quyền lực ấy có
khi lại bị vận động theo xu hướng chủ quan của người sử dụng, trở thành đối lập với
chính mình lúc ban đầu, đó là sự tha hóa của quyền lực. Tha hóa quyền lực biến
quyền lực nhân dân thành quyền lực của cá nhân hay của các nhóm quyền lực, làm
méo mó mục đích tự thân của quyền lực nhà nước là phục vụ nhân dân. Vậy nên,
đảm bảo sự tha hóa quyền lực nhà nước là điều cần thiết mà “bí quyết của giải pháp
là phải kiểm sốt quyền lực khơng phải từ bên ngồi, mà phải từ bên trong làm cho
nhà nước không thể hại người dân”22.
Thực hiện quyền lập pháp với tư cách là một hoạt động thực hiện quyền lực
nhà nước nên các cơ quan trong q trình thực hiện cũng có nguy cơ lạm quyền,
22

NguyễnĐăngDung (2012), “Hiến pháp phải là văn bản kiểm sốt quyền lực nhà nước”, tạp chí Nhà nước
và pháp luật(04), tr.10.


19


dẫn đến tha hóa quyền lực. Thực hiện phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ
quan trong hoạt động lập pháp một mặt đảm bảo mọi hoạt động của từng cơ quan
đều có sự kiểm sốt, giám sát từ các cơ quan khác. Mặt khác, khi quyền lập pháp
được phân công một cách hợp lý, quyền lực không tập trung quá nhiều vào một chủ
thể, việc thực hiện quyền lập pháp diễn ra dựa trên sự phối hợp, kiểm soát của nhiều
chủ thể sẽ đảm bảo hoạt động lập pháp hiệu quả, đảm bảo hạn chế lạm quyền, tha
hóa quyền lực.
Thứ ba, đảm bảo hiệu quả, thống nhất giữa các cơ quan trong thực hiện
quyền lập pháp, quyền lực nhà nƣớc
Quyền lực nhà nước là thống nhất và tập trung vào nhân dân. Hoạt động thực
hiện quyền lực nhà nước là thực hiện những công việc do nhân dân ủy quyền, phục
vụ lợi ích cho nhân dân. Hoạt động của các cơ quan nhà nước trong các lĩnh vực lập
pháp, hành pháp, tư pháp đều đi đến mục đích là thiết lập trật tự xã hội theo đúng ý
chí của nhân dân. Do đó, để thể hiện tốt nhất ý chí của nhân dân thì các cơ quan nhà
nước cần phải thực hiện quyền lực nhà nước sao cho hiệu quả, thống nhất, không
chồng chéo, dẫm chân nhau.
Thực hiện quyền lập pháp trải qua nhiều công đoạn với sự tham gia của nhiều
cơ quan khác nhau nên rất dễ dẫn đến sự chồng chéo, dẫm chân lên nhau.Cơ chế
phân cơng phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan là tiền đề, cơ sở đảm bảo quyền lập
pháp được thực hiện một cách trôi chảy, hiệu quả.Mặt khác, Quốc hội ban hành luật
xuất phát từ nhu cầu quản lý xã hội của hành pháp nên Quốc hội cần có Chính phủ
và các chủ thể khác tham gia, phối hợp vào hoạt động lập pháp. Nói về quan hệ này,
Ts. Nguyễn Sĩ Dũng đã nhận xét:
Thiếu sự tương tác này giữa lập pháp và hành pháp, thì dù quy trình lập pháp
được thiết kế tinh vi đến đâu chăng nữa, nó cũng chỉ là một quy trình nhân tạo. Sản
phẩm tất yếu của một quy trình nhân tạo là các đạo luật nhân tạo.Các đạo luật nhân
tạo không cần cho cuộc sống.Nhà nước vẫn có thể áp đặt nó cho xã hội, tuy nhiên
những cố gắng như vậy khơng sớm thì muộn sẽ làm cho các cơ quan của nhà nước
hụt hơi.Cuộc sống như ao bèo, sẽ phẳng lặng trở lại sau một hồi xao động23.
Thực hiện quyền lập pháp còn là cơ sở để thực hiện quyền lực nhà nước ở hai

lĩnh vực hành pháp, tư pháp. Dựa vào luật do cơ quan lập pháp ban hành, các cơ
quan hành pháp tổ chức quản lý nhà nước, cơ quan tư pháp nhân danh Nhà nước để

23

NguyễnSĩDũng (2003), “Bàn về triết lý của Lập pháp”, tạp chí Nghiên cứu lập pháp (06), tr.7.


×