Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Pháp luật về hoạt động tái cấp vốn (luận văn thạc sỹ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (809.25 KB, 51 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÁI CẤP VỐN

Người hướng dẫn khoa học: ThS. Phan Phƣơng Nam
Sinh viên: Nguyễn Thị Thúy An

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2011


LỜI MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài.
Tái cấp vốn là cơng cụ điều hành chính sách tiền tệ có hiệu quả tác động mạnh

mẽ đến nền kinh tế quốc gia, đồng thời tái cấp vốn là nghiệp vụ tín dụng có vai trị rất
quan trọng đối với hệ thống ngân hàng. Ở góc độ vĩ mơ, tái cấp vốn một trong những
cơng cụ điều hành chính sách tiền tệ quốc gia của Ngân hàng Nhà nước. Thông qua cơ
chế tác động của tái cấp vốn đến lãi suất thị trường và tổng lượng tiền lưu thông, Ngân
hàng Nhà nước sẽ thực hiện được các mục tiêu kinh tế trong từng thời kì. Mặt khác,
nghiệp vụ tái cấp vốn cịn có chức năng trợ giúp cho tổ chức tín dụng thốt khỏi khó
khăn thanh khoản và đảm bảo an tồn cho hệ thống ngân hàng. Để hoạt động tái cấp
vốn đạt được ý nghĩa to lớn đó thì trước hết khung pháp lý điều chỉnh hoạt động này
phải được hoàn thiện.
Hoạt động tái cấp vốn ở Việt Nam xuất hiện cùng với sự hình thành hệ thống
ngân hàng hai cấp, được đánh dấu bằng Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước 1990. Tuy
nhiên lúc này, hoạt động tái cấp vốn mới chỉ được xác định là hoạt động cho vay trợ
giúp thanh khoản. Trải qua quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam và
những biến đổi không ngừng của nền kinh tế, nhận thức về vai trò của hoạt động tái


cấp vốn cũng có nhiều thay đổi, trên cơ sở đó khung pháp lý điều chỉnh hoạt động này
cũng được hoàn thiện. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật tái cấp vốn vẫn tồn tại một số
điểm bất cập, hạn chế gây ra nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Thực
trạng này đã và đang cản trở hoạt động tái cấp vốn phát huy hiệu quả tác động vốn có
của nó.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay, nền kinh tế trên thế giới chịu sự ảnh
hưởng lẫn nhau một cách mạnh mẽ và diễn biến khá phức tạp. Hiện tượng này gây ra
nhiều khó khăn, thách thức cho hoạt động ngân hàng và quản lý kinh tế. Thêm vào đó,
xu hướng điều hành chính sách tiền tệ hiện nay là các công cụ trực tiếp phải áp dụng ở
mức hạn chế nhất và dần bị thay thế bởi các cơng cụ gián tiếp, trong đó có cơng cụ tái
cấp vốn. Chính vì vậy, Ngân hàng Nhà nước phải sử dụng công cụ tái cấp vốn một
cách linh hoạt, hiệu quả hơn nhằm phát huy chức năng trợ giúp thanh khoản cho tổ
chức tín dụng và chức năng điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.
Xuất phát từ ý nghĩa to lớn của hoạt động tái cấp vốn và thực trạng của pháp
luật tái cấp vốn hiện nay, yêu cầu hoàn thiện pháp luật tái cấp vốn là yêu cầu khách
1


quan và hết sức cấp bách. Cũng vì lý do đó mà tác giả chọn đề tài “Pháp luật về hoạt
động tái cấp vốn” làm khóa luận tốt nghiệp. Tác giả hi vọng những đóng góp của khóa
luận này sẽ giúp cho q trình hồn thiện pháp luật tái cấp vốn được thực hiện nhanh
chóng và tồn diện hơn.
2.

Tình hình nghiên cứu.
Qua tìm hiểu các nguồn tư liệu và thơng tin cho thấy, hiện nay ở Việt Nam chưa

có một cơng trình nghiên cứu khoa học nào cũng như luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ
và khóa luận tốt nghiệp cử nhân nghiên cứu về hoạt động tái cấp vốn. Liên quan đến
hoạt động này có một số tư liệu như sau:

-

Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật “Vai trò quản lý nhà nước của Ngân hàng

Nhà nước đối với các ngân hàng thương mại” của tác giả Trương Thị Ngọc Tuyết
(2000), Trường Đại học Luật TP.HCM.
- Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật “Chế độ pháp lý về hoạt động của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt
động ngân hàng” của tác giả Đỗ Lê Thị Thúy Hằng (2003), Trường Đại học Luật
TP.HCM.
- Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật “Vai trò quản lý nhà nước của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng” của tác giả Trần
Thị Hà (2003), Trường Đại học Luật TP.HCM.
- Luận án tiến sĩ “Giải pháp cho việc vận hành các công cụ điều hành chính
sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước” của tác giả Nguyễn Duy Hinh (2004), Học viện
Ngân hàng.
Những tư liệu này đã có đề cập tới hoạt động tái cấp vốn nhưng chỉ mới nhìn
nhận nó trên khía cạnh quản lý nhà nước mà chưa có sự tiếp cận chi tiết dưới góc độ
pháp luật. Việc tiếp cận hoạt động tái cấp vốn dưới góc độ pháp luật địi hỏi phải nhìn
nhận chức năng thực hiện quản lý nhà nước của hoạt động này đồng thời phân tích nó
với vị trí là một giao dịch tín dụng giữa Ngân hàng Nhà nước với các tổ chức tín dụng.
Mục đích nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của khố luận là làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản về hoạt
động tái cấp vốn; Phân tích những nội dung chủ yếu của pháp luật về hoạt động tái cấp
vốn; Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật tái cấp vốn và tham khảo kinh nghiệm của
một số quốc gia trên thế giới về vai trò điều hành CSTTQG của ngân hàng trung ương;
cuối cùng tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt
3.

2



động tái cấp vốn để công cụ này thực hiện tốt chức năng trợ giúp thanh khoản đồng
thời phát huy vai trị của một cơng cụ điều hành CSTTQG.
4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu chính của khoá luận là các vấn đề pháp lý về hoạt động

tái cấp vốn. Bên cạnh đó, đối tượng nghiên cứu của khố luận cịn có các vấn đề lý
luận cơ bản về tái cấp vốn nhằm xây dựng nền tảng lý luận cho hệ thống pháp luật thực
định và thực tiễn hoạt động tái cấp vốn tại Việt Nam nhằm đánh giá cả tính thực tế của
pháp luật tái cấp vốn. Khoá luận giới hạn phạm vi nghiên cứu ở các vấn đề pháp lý về
hoạt động tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Phƣơng pháp nghiên cứu.
Khoá luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch
sử trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác–Lênin. Đồng thời đề tài cũng sử dụng phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động tái cấp
vốn ở các văn bản pháp luật khác nhau và các thông tin, dữ liệu khác. Những thông tin,
dữ liệu đề cập trong khóa luận này được thu thập theo phương pháp phân tích, tổng
hợp từ các giáo trình, sách chun khảo, báo chí, internet đồng thời có quan sát, tìm
hiểu từ thực tiễn hoạt động ngân hàng tại Việt Nam.
5.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Là cơng trình nghiên cứu đầu tiên một cách có hệ thống, tồn diện và sâu sắc
khía cạnh pháp lý của hoạt động tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước, khố luận có
những đóng góp sau: Thứ nhất, đưa ra nền tảng lý luận cho hoạt động điều hành chính
6.


sách tái cấp vốn; Thứ hai, góp phần hoàn thiện pháp luật tái cấp vốn từ cơ sở lý luận và
thực tiễn áp dụng; Thứ ba, góp phần hệ thống hóa pháp luật tái cấp vốn nhằm đảm bảo
tính thống nhất và đồng bộ; Thứ tư, giúp các bên tham gia hiểu rõ bản chất, chức năng,
vai trò của tái cấp vốn, nắm vững cơ chế điều chỉnh của pháp luật từ đó tạo điều kiện
thuận lợi cho các bên tham gia hoạt động tái vốn.
7.

Cơ cấu khố luận.
- Lời mở đầu.
- Nội dung khóa luận gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về tái cấp vốn.
Chương 2: Một số nội dung cơ bản của pháp luật tái cấp vốn.
Chương 3: Áp dụng pháp luật tái cấp vốn - một số vướng mắc và đề xuất hoàn

thiện.
-

Kết luận.
3


-

Danh mục tài liệu tham khảo.

-

Các phụ lục.

CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÁI CẤP VỐN

1.1.

Khái niệm tái cấp vốn.

.1.1.

Định nghĩa.
Trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, hoạt động tái cấp vốn với ý

nghĩa là sự trợ giúp về vốn của Ngân hàng Trung ương cho các TCTD đã tồn tại rất lâu
khi hệ thống ngân hàng hai cấp ra đời. Tuy nhiên, định nghĩa chính thức về TCV trong
khoa học kinh tế và pháp luật ngân hàng ra đời khá muộn so với thực tiễn áp dụng. Một
số tài liệu kinh tế gọi tái cấp vốn là “tái tài trợ1”, về mặt ngữ nghĩa, có thể hiểu “tái tài
trợ” là khoản hỗ trợ về vốn dựa trên một khoản tài trợ trước đó. Cách hiểu này không
đúng với bản chất hoạt động TCV mà Ngân hàng nhà nước Việt Nam (gọi tắt là
NHNN) quy định trong pháp luật ngân hàng. Tuy nhiên thuật ngữ “tái cấp vốn” khi
NHNN dịch sang tiếng Anh là “refinancing2”, giải nghĩa tại từ điển Wikipedia thì
“refinacing” là sự thay thế nghĩa vụ nợ này bằng một nghĩa vụ nợ khác dưới các điều
khoản khác biệt3. Chính vì vậy, các nhà kinh tế cho rằng thuật ngữ “tái cấp vốn” của
NHNN gây ra một số hiểu lầm về ngữ nghĩa dẫn đến hiểu lầm về hành vi của NHNN
đối với TCTD.
Từ điển bách khoa toàn thư định nghĩa TCV là một trong các hình thức tín dụng
của NHNN, theo đó NHNN cấp vốn cho nền kinh tế để thực hiện CSTTQG 4. Định
nghĩa này phản ánh được đặc điểm cơ bản của TCV là một hình thức cấp tín dụng của
NHNN và tác động của TCV đối với CSTTQG, tuy nhiên lại chưa đề cập được đối
tượng áp dụng và chức năng trợ giúp thanh khoản của công cụ TCV. Các nhà kinh tế
thì định nghĩa TCV trên cơ sở nhấn mạnh cơ chế dẫn truyền của công cụ này đối với lãi
suất thị trường và lượng cung tiền cho nền kinh tế, theo đó “Tái cấp vốn của NHNN
1


Dương Hữu Hạnh (2010), Ngân hàng trung ương-các vai trò và các nghiệp vụ, NXB Lao động, TP.HCM,
tr.559.
2
Refinancing trong cụm từ Refinancing rate (lãi suất tái cấp vốn)
/>09_42AjXwtLY28DU_2CbEdFALw1rAE!/, truy cập lúc 16h38’ ngày 27 tháng 6 năm 2011.
3
truy cập lúc 13h00’ ngày 27 tháng 6 năm 2011.
4

/>ZrZXl3b3JkPXQlYzMlYWRuK2QlZTElYmIlYTVuZw%3d%3d&page=1, truy cập lúc 13h 25’ ngày 27 tháng 6
năm 2011.

4


thực chất là hành động “tiếp vốn” cho các NHTM, các TCTD để mở rộng việc cho vay
đối với nền kinh tế, trong giới hạn được xác định trong từng thời kì 5”. Định nghĩa này
mặc dù phần nào làm rõ được hệ quả áp dụng công cụ TCV đối với nền kinh tế nhưng
nghiên cứu hoạt động TCV dưới góc độ pháp lý địi hỏi phải làm rõ được bản chất và
chức năng cơ bản của nó.
Dưới góc độ pháp lý, thuật ngữ “tái cấp vốn” được sử dụng lần đầu tiên tại Quy
định về TCV của NHNN đối với các TCTD ban hành kèm theo Quyết định 285/QĐNH14 do Thống đốc NHNN ban hành ngày 10 tháng 11 năm 1994 (gọi tắt là QĐ
285/1994), mặc dù cơ sở pháp lý cho hoạt động này đã có khi Pháp lệnh NHNN 1990
có hiệu lực. Giai đoạn từ năm 1951 đến trước ngày 01 tháng 10 năm 1990, hệ thống
ngân hàng Việt Nam được tổ chức theo mơ hình ngân hàng một cấp. Theo đó, NHNN
vừa có chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, chức năng của ngân hàng
trung ương và chức năng kinh doanh (tức chức năng của ngân hàng trung gian). Do đó,
giai đoạn này NHNN khơng có hoạt động tái cấp vốn. Sau khi Pháp lệnh NHNN 1990
và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và cơng ty tài chính 1990 ra đời, hệ thống
ngân hàng được tổ chức theo mô hình hai cấp, chức năng kinh doanh của NHNN lúc

này được chuyển cho các ngân hàng chuyên doanh. Điều 41 Pháp lệnh NHNN 1990
quy định “Ngân hàng Nhà nước có thể cho vay và mua, bán, chiết khấu, tái chiết khấu
giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng”. Theo các nhà kinh tế, hoạt động cho vay, chiết
khấu, tái chiết khấu của NHNN lúc này chính là hoạt động TCV6. Lúc này, Pháp lệnh
NHNN 1990 chỉ coi đây là một hoạt động cho vay đơn thuần mà chưa nhận thức được
đầy đủ bản chất và chức năng của nó, do đó chỉ gọi là hoạt động cho vay. Trong giai
đoạn này, NHNN chủ yếu sử dụng các công cụ trực tiếp để điều hành CSTTQG. Như
vậy, QĐ 285/1994 là văn bản pháp lý đầu tiên sử dụng thuật ngữ “tái cấp vốn” nhưng
lại khơng định nghĩa TCV là gì.
Sau QĐ 285/1994, các văn bản pháp luật ngân hàng đã có quy định định nghĩa
hoạt động TCV. Khái niệm này có sự thay đổi nhất định theo các văn bản pháp luật
trong từng thời kì. Theo Luật NHNN 1997 được sửa đổi, bổ sung năm 2003 (sau đây
gọi là Luật NHNN 1997) thì “Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có bảo đảm của
Ngân hàng Nhà nước nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các

5

Trường Đại học Kinh tế TP.HCM (2009), Lý thuyết tài chính tiền tệ, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM,
TP.HCM, tr.283.
6
Ngơ Quốc Kì (1995), Một số vấn đề pháp lý cơ bản hoạt động của ngân hàng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr.15.

5


ngân hàng7”. Định nghĩa TCV có sự thay đổi khi Luật NHNN 2010 được ban hành,
theo đó “Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Nhà nước nhằm cung
ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh tốn cho tổ chức tín dụng 8”. Sự thay đổi của
khái niệm sau so với khái niệm trước đó nằm ở việc xác định tính chất bắt buộc của

biện pháp bảo đảm cho hoạt động TCV và đối tượng áp dụng. Có thể nói, khái niệm
TCV theo Luật NHNN 2010 phản ánh xu hướng tăng thẩm quyền cho NHNN và mềm
dẻo hơn khi thực hiện nghiệp vụ TCV.
Mặc dù có sự khác nhau nhất định trong các định nghĩa về hoạt động TCV
nhưng nhìn chung các định nghĩa trên vẫn có những đặc trưng về nội dung hoạt động,
chủ thể và chức năng của TCV. Theo đó về nội dung hoạt động, TCV là một hình thức
cấp tín dụng, chủ thể cấp tín dụng là NHNN, chủ thể được cấp tín dụng là TCTD, chức
năng của TCV là nhằm trợ giúp thanh khoản cho TCTD đồng thời là một công cụ thực
hiện CSTTQG. Khóa luận này phân tích hoạt động TCV dưới góc độ pháp lý với định
nghĩa TCV theo pháp luật hiện hành, tức Luật NHNN 2010.
.1.2.

Đặc điểm.

Thứ nhất, tái cấp vốn là hoạt động cấp tín dụng của NHNN cho các TCTD.
Hoạt động cấp tín dụng được hiểu là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một
khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo ngun tắc có hồn
trả9. Như vậy các đặc điểm cơ bản của hoạt động cấp tín dụng là: Tính chuyển nhượng
tạm thời một khoản tiền, tính thời hạn và tính hồn trả10. Trên cơ sở đó, đối chiếu với
các đặc điểm của TCV là: NHNN chuyển giao cho TCTD một khoản tiền, thời hạn
TCV được xác định và do NHNN quyết định, TCTD phải hoàn trả khoản vay cho
NHNN. Như vậy, TCV mang đầy đủ các đặc trưng của một hoạt động cấp tín dụng.
Thuật ngữ “tín dụng” mang ý nghĩa của sự tín nhiệm, tin tưởng, nói cách khác quan hệ
cấp tín dụng được xây dựng trên cơ sở có sự tín nhiệm. Quan hệ TCV cũng vậy, sự tín
nhiệm trong quan hệ này khơng có nghĩa gì khác là sự đánh giá khả năng hồn trả
khoản vay cho NHNN. Mặc dù tiêu chí tín nhiệm có tính định tính cao nhưng trên thực
tế, NHNN có các quy định hết sức chặt chẽ nhằm lượng hóa sự tín nhiệm này. Đó là
các quy định về dư nợ quá hạn, tỷ lệ bảo đảm của GTCG đối với khoản vay… Khác
với Luật NHNN 2010, Luật NHNN 1997 định nghĩa hoạt động TCV là hoạt động cấp
7


Khoản 10 Điều 9 Luật NHNN 1997.
Khoản 1 Điều 11 Luật NHNN 2010.
9
Xem: khoản 14 Điều 4 Luật các TCTD 2010.
10
Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội,
tr.98.
8

6


tín dụng có bảo đảm11, do đó khi tham gia giao dịch, TCTD phải có tài sản bảo đảm
cho khoản vay. Mặc dù Luật NHNN 2010 không quy định rằng TCV là hoạt động cấp
tín dụng có bảo đảm nữa nhưng nếu nhìn nhận từ góc độ mục tiêu của biện pháp bảo
đảm thì tỷ lệ rủi ro hồn trả xảy ra cho khoản vay TCV là rất thấp, thậm chí bằng
khơng vì NHNN ln có khả năng thu hồi khoản vay trên cơ sở GTCG mà mình cầm
giữ (các GTCG này chủ yếu là Trái phiếu Chính phủ).
Thứ hai, chủ thể của quan hệ tái cấp vốn bao gồm NHNN và các TCTD.
Mặc dù với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, NHNN có trách
nhiệm đảm bảo an tồn cho cả thị trường tiền tệ, nơi có sự tham gia của nhiều chủ thể
khác ngồi TCTD. Tuy nhiên, NHNN khơng TCV cho tất cả các chủ thể đó mà chỉ
TCV cho TCTD. Điều này xuất phát từ tính chất đặc biệt của hoạt động tín dụng và
tính rủi ro cao của hoạt động này12. Khi NHNN cấp tín dụng cho các TCTD, NHNN
thực hiện được vai trò là ngân hàng của các ngân hàng đồng thời đảm bảo an toàn cho
hệ thống ngân hàng và cả nền kinh tế. Do đó, chủ thể được TCV chỉ có thể là TCTD.
Có thể nói chủ thể trong quan hệ TCV là chủ thể cố định, một bên luôn là NHNN và
bên kia luôn là TCTD. Tuy nhiên, các quy định về TCTD trong quan hệ này đã thay
đổi theo quá trình lịch sử. Cụ thể theo Luật NHNN 1997 thì chỉ TCTD là ngân hàng

được TCV nhưng Luật NHNN 2010 đã mở rộng phạm vi TCTD được TCV cho cả
TCTD phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mơ và quỹ tín dụng nhân dân. Việc mở rộng
phạm vi đối tượng TCV xuất phát từ một số thay đổi trong hoạt động nghiệp vụ của
các TCTD này và nhận thức của NHNN.
Thứ ba, đối tƣợng của hoạt động tái cấp vốn là vốn tiền tệ. Chức năng của
hoạt động tín dụng nói chung là cung ứng vốn cho nền kinh tế, đối với công cụ TCV,
chức năng cơ bản của nó là cung ứng vốn tạm thời cho TCTD, hay nói cách khác là
chức năng trợ giúp thanh khoản cho TCTD. Khi TCTD rơi vào tình trạng thiếu vốn
ngắn hạn và phương tiện thanh tốn mà khơng thể vay từ chủ thể nào khác thì TCTD sẽ
tìm tới NHNN để được trợ giúp. Tình trạng này thường xảy ra khi có quá nhiều khách
hàng yêu cầu rút tiền mặt, điều đó có nghĩa là TCTD phải được trợ giúp bằng vốn tiền

11

Xem: khoản 10 Điều 9 Luật NHNN 1997.
TCTD là trung gian tài chính trong nền kinh tế, nghiệp vụ chủ yếu của nó là nhận tiền gửi từ chủ thể này để
cho vay đối với chủ thể khác. Do đó, rủi ro trong hoạt động của nó xuất phát từ chính bản thân TCTD và cả
khách hàng vay tiền. Nếu rủi ro xảy ra, khơng những TCTD chịu thiệt hại mà cịn gây thiệt hại cho cả khách hàng
gửi tiền. Hơn nữa hoạt động ngân hàng mang tính hệ thống nên sẽ kéo theo sự sụp đổ hàng loạt các định chế tài
chính khác và cả nền kinh tế.
12

7


tệ13. NHNN sẽ cho TCTD đó vay dưới hình thức TCV. Như vậy, đối tượng của TCV
đương nhiên phải là vốn tiền tệ để giúp TCTD đáp ứng nhu cầu thanh khoản.
Thứ tƣ, thời hạn tái cấp vốn là ngắn hạn. Khác với hình thức cấp tín dụng của
TCTD14, hình thức TCV có thời hạn khơng q 12 tháng. Đặc điểm này xuất phát từ
chức năng cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh tốn của TCV. Tính chất cấp

bách của khoản vay không chỉ thể hiện ở điều kiện được TCV mà cịn thể hiện thơng
qua thời hạn TCV. Vì đây là khoản vay nhằm trợ giúp cho TCTD chi trả yêu cầu rút
tiền mặt hoặc thanh toán tại một thời điểm nhất định nên NHNN chỉ TCV cho các
TCTD chứng minh được nó đang ở trong tình trạng thiếu hụt thanh khoản chứ không
phải mất khả năng chi trả. Đặc điểm này biểu hiện chủ yếu ở điều kiện về thời hạn còn
lại của GTCG. Dựa trên cơ sở các tài sản đảm bảo cho khoản vay và các tài sản có
khác của TCTD, NHNN quyết định thời hạn TCV mà NHNN cho là đủ để TCTD vượt
qua tình trạng thiếu hụt thanh khoản. Nếu đến hạn hồn trả khoản vay mà TCTD khơng
thanh tốn cho NHNN thì NHNN sẽ áp dụng các biện pháp bắt buộc để thu hồi khoản
vay như trích tài khoản tiền gửi của TCTD tại NHNN hoặc bán GTCG trên thị trường
tiền tệ. Các biện pháp bắt buộc này đồng thời cũng là biện pháp đảm bảo nguyên tắc
thời hạn TCV là ngắn hạn.
Thứ năm, hình thức pháp lý của tái cấp vốn là hợp đồng tái cấp vốn. TCV
là một nghiệp vụ cấp tín dụng của NHNN, do đó hợp đồng TCV là hợp đồng cấp tín
dụng. Hợp đồng này được kí kết giữa bên cho vay là NHNN và bên vay là TCTD.
Cũng như các hợp đồng cấp tín dụng khác, hình thức hợp đồng TCV là bằng văn bản.
Nội dung hợp đồng gồm các điều khoản về giá trị khoản vay, lãi suất, thời hạn vay,
phương thức trả nợ vay, quyền và nghĩa vụ của các bên và một số điều khoản khác15.
Một trong các vấn đề cần lưu ý của hợp đồng TCV là thẩm quyền kí kết của bên vay.
TCTD phải đăng kí với NHNN các chức danh tham gia giao dịch TCV, chỉ khi được
NHNN cấp quyền giao dịch, cấp mã khóa truy cập và mã chữ kí điện tử thì TCTD mới
được tham gia giao dịch TCV. Trên văn bản đề nghị TCV, văn bản xác nhận thông báo
chấp thuận TCV của NHNN, hợp đồng TCV…phải có chữ kí của người được cấp
quyền giao dịch, chữ kí của những người khác sẽ khơng có giá trị.
1.2.

Bản chất của tái cấp vốn.

13


Đối tượng của hoạt động cấp tín dụng có thể là tiền hoặc hiện vật, tuy nhiên trong nghiệp vụ tín dụng của
NHNN nói chung và TCV nói riêng, đối tượng của hoạt động cấp tín dụng chỉ có thể là tiền.
14
TCTD có thể cấp tín dụng với thời gian ngắn hạn (khơng q 12 tháng), trung hạn (trên 12 tháng đến 60 tháng)
và dài hạn (trên 60 tháng).
15
Xem: Phụ lục 3.

8


1.2.1. Bản chất kinh tế.
Xét dưới góc độ kinh tế thì TCV là một nghiệp vụ tín dụng của NHNN nhằm
thực hiện CSTTQG. Theo Khoản 1 Điều 3 Luật NHNN 2010“Chính sách tiền tệ quốc
gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát,
quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra”. Với chức
năng là cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ, NHNN có nhiệm vụ tổ chức thực hiện
CSTTQG. Cơ chế thực hiện CSTTQG của NHNN là sử dụng các công cụ của
CSTTQG để chi phối, điều tiết hoạt động bơm, rút tiền nhằm tác động vào q trình
lưu thơng tiền tệ và khối lượng tiền trong lưu thông 16. Hiện nay, các công cụ của
CSTTQG mà NHNN sử dụng bao gồm TCV, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc
và nghiệp vụ thị trường mở. Mỗi công cụ đều có ưu và nhược điểm riêng, để khắc phục
những nhược điểm này, hiện nay hầu hết các Ngân hàng Trung ương trên thế giới đều
sử dụng kết hợp nhiều công cụ để thực hiện CSTTQG.
TCV là một nghiệp vụ cấp tín dụng bởi vì nó mang những đặc trưng của hoạt
động cấp tín dụng (xem mục 1.1.2), hoạt động này được tiến hành bởi NHNN. Thơng
qua điều hành chính sách TCV, NHNN tác động đến tổng lượng tiền lưu thông trong
nền kinh tế dựa trên chức năng điều chỉnh lãi suất và lượng cung tiền của công cụ này.
Các nhà kinh tế xem TCV là một hình thức phát hành tiền lành mạnh vì nó có khả năng

tự thanh toán, do chỗ GTCG mà NHNN cầm giữ tượng trưng cho một món nợ về
thương mại xuất phát từ việc lưu thông phân phối và nhờ lưu thông phân phối công
cuộc sản xuất trở nên thuận lợi17. Thật vậy, khi NHNN tạo điều kiện thuận lợi cho các
TCTD tham gia giao dịch TCV nghĩa là NHNN đang có ý định làm tăng khối lượng
tiền tệ, kích thích cho vay đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, khi NHNN đưa ra
các điều kiện TCV khó khăn hơn nghĩa là tín hiệu NHNN muốn hạn chế cung ứng tiền
vào lưu thơng, thậm chí cịn gián tiếp rút bớt lượng tiền lưu thông bằng cách tác động
vào tiền dự trữ của TCTD. Nếu TCTD nhận thấy khó nhận được vốn hỗ trợ thanh
khoản từ NHNN hoặc chi phí TCV quá cao thì tất yếu phải hạn chế cho khách hàng
vay bằng biện pháp tăng lãi suất cho vay và cất giữ thêm lượng tiền dự trữ cho rủi ro
thanh khoản.

16

Trường Đại học Luật TP.HCM (2010), Giáo trình Luật ngân hàng, NXB Đại học quốc gia TP.HCM, TP.HCM,
tr.85-86.
17
Lê Văn Tư (1997), Các nghiệp vụ ngân hàng thương mại, NXB Thống kê, Hà Nội, tr.42.

9


Như vậy, việc sử dụng công cụ TCV tỏ ra khá hiệu quả trong việc bơm, rút tiền
trong lưu thông. Mặc dù cịn có một số hạn chế18 nhưng TCV vẫn là một trong những
cơng cụ có tác động mạnh mẽ đến CSTTQG. Việc điều hành chính sách TCV hiệu quả
sẽ giúp cho NHNN đạt được mục tiêu của CSTTQG.
1.2.2. Bản chất pháp lý.
Xét dưới góc độ pháp lý, TCV là một giao dịch hợp đồng giữa NHNN và
TCTD. Bản chất hợp đồng trong hoạt động TCV địi hỏi tính thỏa thuận giữa bên vay
và bên cho vay trong giao dịch, bởi vì hợp đồng tín dụng là sự thỏa thuận bằng văn bản

giữa bên vay và bên cho vay nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ nhất định của các bên
trong quá trình vay tiền, sử dụng và thanh toán tiền vay19. Trong giao dịch này, mặc dù
NHNN đơn phương quy định lãi suất TCV và các điều kiện về đối tượng được TCV,
loại GTCG được sử dụng…nhưng NHNN không thể bắt TCTD đi vay. TCTD sẽ cân
nhắc sao cho lãi cho vay thu được vẫn lớn hơn chi phí cho vay và chi phí vay lại từ
NHNN để có lợi nhuận. Mặc dù có một niềm tin đạo đức rằng TCTD chỉ tìm đến
NHNN khi rơi vào tình trạng thiếu hụt thanh khoản nhưng thực tế lãi suất TCV là một
trong các cơ sở để TCTD quyết định cho vay. Nếu việc vay vốn từ NHNN thuận lợi
với lãi suất thấp thì TCTD sẽ chấp nhận rủi ro cao hơn. Để tối đa hóa lợi nhuận, TCTD
sẽ cho vay phần lớn khối lượng tiền gửi và chỉ giữ lại lượng tiền rất nhỏ để dự phòng
rủi ro thanh khoản. Nếu không thể đáp ứng nhu cầu rút tiền mặt tại một thời điểm nào
đó, TCTD sẽ gửi đề nghị TCV tới NHNN. Đề nghị TCV này được coi như sự chấp
nhận đối với các điều kiện TCV, lãi suất TCV mà NHNN ấn định. Nếu NHNN chấp
nhận đề nghị TCV thì có thể nói TCTD và NHNN đã đạt được một thỏa thuận về giao
dịch này. Sau khi hồn thành các thủ tục thơng báo và chuyển giao GTCG…thì NHNN
và TCTD sẽ kí hợp đồng TCV.
Như vậy, TCV là một giao dịch hợp đồng. Sự chấp nhận các yêu cầu TCV mà
NHNN đặt ra được coi như sự đạt được một thỏa thuận TCV giữa bên vay là TCTD và
bên cho vay là NHNN. Hợp đồng TCV là một hợp đồng cấp tín dụng, trong đó có các
điều khoản cơ bản về các bên tham gia, số tiền TCV, lãi suất, thời hạn, phương thức
thanh toán khoản vay, quyền và nghĩa vụ các bên20. Căn cứ vào các hình thức TCV,

18

NHNN khơng thể tự do kiểm sốt khối lượng vay TCV bởi NHNN chỉ có thể quy định các điều kiện TCV, lãi
suất TCV… nhưng không thể bắt TCTD đi vay. Mặt khác TCV cịn có một số hạn chế về kĩ thuật khiến các nhà
kinh tế cho rằng công cụ này không được mềm dẻo lắm.
19
Trường Đại học Luật TP.HCM (2010), Giáo trình Luật ngân hàng, tlđd, tr.235.
20

Xem: Phụ lục 3.

10


hợp đồng TCV có thể chia thành hợp đồng chiết khấu GTCG, hợp đồng cho vay cầm
cố…
Việc xác định bản chất hợp đồng của giao dịch TCV có ý nghĩa lớn trong điều
hành chính sách TCV. Về phía TCTD, quyết định tham gia giao dich TCV được đưa ra
trên cơ sở cân nhắc các yêu cầu tham gia giao dịch mà NHNN đưa ra. Nếu tham gia
giao dịch TCV có thể giúp TCTD đạt được lợi ích mong muốn thì TCTD mới kí kết
hợp đồng TCV và ngược lại. Tham gia một giao dịch hợp đồng nghĩa là hai bên đều
đạt được một lợi ích nào đó, như vậy NHNN phải đưa ra các yêu cầu TCV sao cho
thống nhất giữa mục đích điều hành và các điều khoản hợp đồng. Giả sử NHNN muốn
tăng lượng tiền cung ứng vào lưu thông nhưng lại đưa ra lãi suất TCV cao hay loại
GTCG được tham gia giao dịch rất hạn chế thì TCTD sẽ khơng đi vay của NHNN, như
vậy hoạt động TCV sẽ khơng đạt được mục đích làm tăng lượng tiền cung ứng mà
NHNN đặt ra. Do đó, việc khuyến khích hay hạn chế TCTD tham gia giao dịch TCV
phụ thuộc vào việc NHNN điều hành chính sách TCV thuận lợi hay khó khăn cho
TCTD.
1.3. Chức năng của tái cấp vốn.
1.3.1. Chức năng trợ giúp thanh khoản cho các tổ chức tín dụng.
Đối với các TCTD, hoạt động kinh doanh cơ bản là nhận tiền gửi và cho vay
phần lớn tiền gửi đó. Các TCTD phải cho vay ở mức tối đa mà NHNN cho phép nhằm
thu được lợi nhuận lớn nhất. Để hoạt động kinh doanh tín dụng được thuận lợi, TCTD
phải cân đối được lượng tiền gửi và lượng tiền cho vay, bao gồm cả yếu tố kì hạn. Tuy
nhiên, có trường hợp người gửi tiền đến rút tiền quá nhiều trong khi lượng tiền cho vay
chưa thể thu hồi được. Hiện tượng rút tiền ồ ạt này có thể do chu kì kinh tế, ví dụ như
vào đầu mùa vụ ở các vùng trọng điểm nông nghiệp hay vào các dịp lễ, tết khiến nhu
cầu chi tiêu của người dân tăng cao…Mặc dù các ngân hàng có quỹ dự phịng cho rủi

ro kinh doanh nhưng cũng khó thốt khỏi tình trạng thiếu khả năng chi trả, nếu khơng
vượt qua tình trạng này thì TCTD đó có khả năng bị phá sản. Chính vào lúc này,
NHNN thực hiện vai trị của nó là “người cho vay cuối cùng”. NHNN sẽ cấp cho
TCTD một khoản tín dụng để trợ giúp chi trả khoản tiền gửi được yêu cầu rút ra. Hoạt
động trợ giúp thanh khoản này chính là TCV. Xét dưới góc độ kinh tế, hoạt động TCV
cũng là một nghiệp vụ tín dụng nhưng lúc này, nó không nhằm mục tiêu lợi nhuận như
các hoạt động kinh doanh tín dụng khác. Khi NHNN TCV, nó được coi là vị cứu tinh

11


của các ngân hàng trung gian21. Bởi vì TCTD rất dễ rơi vào tình trạng thiếu hụt khả
năng chi trả mà không thể vay tạm thời từ các chủ thể kinh tế khác, lúc này nếu khơng
có nguồn vốn từ NHNN thì TCTD sẽ nhanh chóng rơi vào tình trạng mất khả năng chi
trả dẫn đến phá sản.
Chức năng trợ giúp thanh khoản là chức năng chủ yếu của TCV. Mặc dù hoạt
động này đem lại mối lợi lớn là ngăn ngừa được tình trạng hoảng loạn ngân hàng và
hoảng loạn tài chính nhưng NHNN cũng phải trả giá cho nó. Nếu một TCTD tính tốn
rằng NHNN sẽ cung cấp cho nó một khoản vay khi nó rơi vào tình trạng khó khăn thì
TCTD đó sẵn sàng chấp nhận rủi ro cao hơn vì biết NHNN sẽ cho vay để trợ giúp nó.
Lúc này TCV trở thành cơng cụ kiếm lời cho TCTD. Đây được coi là vấn đề suy giảm
đạo đức kinh doanh, việc TCTD chấp nhận rủi ro cao hơn có thể gây ra nhiều tổn thất
cho người gửi tiền và cơng ty bảo hiểm tiền gửi22. Tình trạng này thường xảy ra ở các
TCTD lớn vì họ cho rằng vai trò của họ trong hệ thống ngân hàng là đủ lớn để NHNN
khơng thể để mình gặp khó khăn, bởi vì nếu họ rơi vào khủng hoảng thì sẽ kéo theo sự
khủng hoảng của cả hệ thống ngân hàng. Do đó, NHNN phải đặt ra các quy định chặt
chẽ để ngăn chặn động cơ vụ lợi của TCTD. Các quy định này thơng thường mang tính
chất chế tài như áp dụng lãi suất đặc biệt đối với các TCTD đến cửa sổ TCV quá
thường xuyên. Bên cạnh đó, cán bộ NHNN phải được nâng cao trình độ chuyên môn
và khả năng đánh giá để loại trừ khả năng trục lợi của TCTD khi tham gia giao dịch

TCV.
1.3.2. Chức năng điều chỉnh lãi suất và lượng cung tiền cho nền kinh tế.
NHNN sử dụng công cụ TCV để điều tiết CSTTQG dựa trên chức năng điều
chỉnh lãi suất và lượng tiền cung ứng của hoạt động này. Đối tượng tác động căn bản
của CSTTQG là tổng lượng tiền lưu thơng, nó có quan hệ trực tiếp với lạm phát-chỉ
tiêu chủ yếu để thực hiện CSTTQG. Do đó, việc điều tiết lượng cung tiền trong nền
kinh tế là cơ sở để đạt được mục tiêu của chính sách tiền tệ. Lượng tiền này có thể
được điều tiết bằng chính sách TCV, bởi vì chức năng điều chỉnh lãi suất của TCV sẽ
tạo tiền đề cho việc điều tiết lượng cung tiền. Chức năng điều chỉnh lãi suất của TCV
thể hiện ở mối quan hệ giữa lãi suất TCV với lãi suất kinh doanh của TCTD, đây là
mối quan hệ cùng chiều. Mặc dù NHNN cố gắng đặt ra các quy định để TCTD không
thể lợi dụng giao dịch TCV nhằm trục lợi dựa trên chênh lệch giữa lãi suất cho vay và
21

Lê Văn Tư (1997), Các nghiệp vụ ngân hàng thương mại, tlđd, tr.42.
Nguyễn Văn Ngọc (2009), Lý thuyết chung về thị trường tài chính, ngân hàng và chính sách tiền tệ, NXB Đại
học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, tr.455.
22

12


lãi suất đi vay lại của NHNN. Tuy nhiên trên thực tế, khi đưa ra một quyết định kinh
doanh, TCTD phải dự phịng các rủi ro có thể xảy ra và đưa ra phương án xử lý trong
trường hợp xấu nhất, trong đó có rủi ro thanh khoản. Do đó, TCTD sẽ tính tốn cả chi
phí vay lại từ NHNN trong khoản cho vay của mình.
Việc cân nhắc lãi suất TCV của NHNN có ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh
của TCTD bởi giá cả TCV là một phần chi phí khi TCTD tính tốn lợi nhuận cho vay.
Khi NHNN tăng lãi suất TCV nghĩa là làm tăng chi phí đi vay của TCTD, do đó TCTD
sẽ hạn chế vay vốn từ NHNN đồng thời tăng tiền dự trữ để phịng ngừa rủi ro thanh

khoản. Điều đó cũng có nghĩa là TCTD phải hạn chế cho khách hàng vay và tăng lãi
suất cho vay để có lợi nhuận. Biện pháp tăng lãi suất TCV làm tăng lãi suất cho vay
của TCTD đồng thời cũng làm giảm lượng cung tiền cho nền kinh tế. Qua đó, NHNN
thực hiện được CSTT thắt chặt23, kìm hãm lạm phát. Ngược lại, để thực hiện CSTT mở
rộng, NHNN giảm lãi suất TCV, tạo điều kiện thuận lợi cho TCTD vay từ NHNN, do
đó TCTD sẽ tăng lượng tiền cho vay và giảm lãi suất. Bằng cách này NHNN đã làm
tăng lượng cung tiền cho nền kinh tế và hạn chế giảm phát.
Có thể nói lãi suất TCV tỷ lệ thuận với lãi suất cho vay của TCTD và tỷ lệ
nghịch với lượng cung tiền cho nền kinh tế. Cơ chế truyền dẫn của lãi suất TCV trong
việc điều hành lãi suất thị trường tỏ ra rất có hiệu quả trong thời gian gần đây. Dựa trên
mối quan hệ này, NHNN có thể thực hiện việc điều hành CSTTQG để đạt được mục
tiêu trong từng thời kì.
1.3.3. Chức năng định hướng tín dụng.
Chức năng định hướng tín dụng của TCV thể hiện thơng qua việc NHNN quyết
định các lĩnh vực ưu tiên TCV và một số điều kiện đối với GTCG. Căn cứ vào định
hướng phát triển kinh tế-xã hội của Chính phủ và mục tiêu của CSTTQG trong từng
thời kì, Thống đốc NHNN sẽ quyết định lĩnh vực ưu tiên TCV cho TCTD. Việc quy
định loại GTCG được sử dụng trong giao dịch với NHNN và tỷ lệ bảo đảm cho khoản
vay của từng loại GTCG cũng có tác dụng định hướng tín dụng. Nếu NHNN muốn
kích thích đầu tư cho lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng thì sẽ ưu tiên chiết khấu hoặc
cầm cố các loại GTCG xây dựng cơng trình hoặc quy định điều kiện thuận lợi hơn về
thời hạn, tỷ lệ giá trị của GTCG so với khoản vay…Mặt khác NHNN có thể quy định
mục đích TCV cụ thể để thể hiện sự ưu đãi tín dụng trong các lĩnh vực cụ thể. Ví dụ
23

CSTT gồm hai loại: CSTT thắt chặt và CSTT mở rộng. CSTT thắt chặt là chính sách làm giảm lượng cung ứng
tiền tệ, kìm hãm sự gia tăng quá mức của tổng cầu. CSTT mở rộng là chính sách làm tăng nguồn cung ứng tiền
tệ, kích thích gia tăng tổng cầu.

13



TCV để giúp TCTD thực hiện tín tín dụng từng mùa, nhất là ở các vùng trọng điểm
nông nghiệp, qua đó thể hiện định hướng tín dụng ưu đãi đối với lĩnh vực nơng nghiệp.
Nếu muốn khuyến khích TCTD cho vay dài hạn để đầu tư vào các lĩnh vực có chu kì
kinh tế dài thì NHNN quy định ưu tiên TCV cho các TCTD thiếu hụt thanh khoản vì
các nghiệp vụ cho vay dài hạn. Chức năng định hướng tín dụng cũng góp phần quan
trọng trong việc thực hiện mục tiêu của CSTTQG, đặc biệt là mục tiêu về phân phối
thu nhập và phát triển cơ cấu ngành.
Phân loại tái cấp vốn.
Tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu để chúng ta phân loại TCV thành các hình
thức khác nhau. Quá trình phân loại được thực hiện dựa trên các tiêu chí nhất định.
1.4.

Căn cứ vào chủ thể được TCV, TCV được chia thành ba hình thức:
 TCV cho TCTD là ngân hàng.
 TCV cho TCTD phi ngân hàng.
 TCV cho các TCTD khác.
Phân loại theo tiêu chí chủ thể được TCV có ý nghĩa trong việc xác định bên
được TCV trong quan hệ TCV cụ thể là loại TCTD nào, trên cơ sở đó xác định các
điều kiện TCV theo từng loại chủ thể. Ví dụ như hoạt động TCV đối với TCTD phi
ngân hàng đòi hỏi phải được sự cho phép của Thủ tướng Chính phủ cịn TCV đối với
TCTD là ngân hàng thì khơng có điều kiện này.
Căn cứ vào phương thức thực hiện TCV, TCV được chia thành hai hình thức.
 TCV trực tiếp. TCV trực tiếp là hình thức TCV mà TCTD giao dịch trực
tiếp tại NHNN.
 TCV gián tiếp. TCV gián tiếp là hình thức TCV mà TCTD giao dịch thông
qua hệ thống kết nối mạng vi tính với NHNN.
Phân loại TCV theo tiêu chí phương thức thực hiện sẽ tạo điều kiện dễ dàng cho
các chủ thể tham gia giao dịch TCV thực hiện quy trình TCV phù hợp. Bên cạnh đó,

việc xác định các yêu cầu của từng phương thức TCV cũng giúp cho TCTD có những
bước chuẩn bị phù hợp trước khi tham gia giao dịch TCV.
Căn cứ vào nội dung hoạt động TCV, TCV được chia thành:
 Chiết khấu GTCG.
 Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố GTCG (gọi tắt là cho vay cầm cố).
 Các hình thức TCV khác.
Đây là cách phân loại mà nhà làm luật lựa chọn khi ban hành văn bản pháp luật
hướng dẫn hoạt động TCV. Dựa trên tiêu chí nội dung hoạt động TCV, nhà làm luật
14


quy định các điều kiện đặc trưng cho từng hình thức, ví dụ điều kiện về cam kết mua
lại GTCG chỉ có trong hình thức chiết khấu GTCG. Qua đó NHNN và TCTD có thể dễ
dàng xác định quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ TCV.
Hoạt động phân loại TCV nói trên chỉ mang tính tương đối. Mỗi cách phân loại
có ưu điểm và nhược điểm riêng. Tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu và cách tiếp cận
mà người nghiên cứu sử dụng tiêu chí phân loại phù hợp. Khóa luận này tiếp cận TCV
dưới góc độ pháp lý nhằm làm rõ các quy định pháp luật trong q trình thực hiện hoạt
động TCV của NHNN, do đó tác giả sử dụng tiêu chí nội dung hoạt động TCV để phân
tích các quy định pháp luật liên quan đối với các hình thức TCV cụ thể, đồng thời kết
hợp với phương pháp tổng hợp để đề cập các quy định chung đối với các hình thức
TCV.
Tóm lại, hoạt động TCV cần được nhìn nhận đầy đủ trên cả hai phương diện:
Thứ nhất, TCV là một nghiệp vụ cấp tín dụng; Thứ hai, TCV là một cơng cụ của
CSTTQG. Trên cơ sở đó đánh giá đúng vai trị của TCV để xây dựng các quy phạm
pháp luật điều chỉnh phù hợp. Hoạt động TCV có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế nói
chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Đối với các TCTD, nguồn vốn vay từ hoạt
động TCV có ý nghĩa đảm bảo an tồn cho hoạt động kinh doanh và là cơ sở để tính
tốn lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay. Đối với NHNN, TCV có ý nghĩa bảo
đảm an tồn cho hệ thống ngân hàng và cả nền kinh tế, mặt khác TCV cịn là cơng cụ

có tác động mạnh mẽ đến CSTTQG. Để công cụ TCV đạt được ý nghĩa vốn có của nó
địi hỏi pháp luật điều chỉnh hoạt động này phải phản ánh được bản chất của TCV, trên
cơ sở đó thực hiện được các chức năng của TCV thơng qua các hình thức TCV phù
hợp.

15


CHƢƠNG 2: MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP
LUẬT TÁI CẤP VỐN
Như đã phân tích ở chương 1, cơ sở pháp lý cho hoạt động TCV đã được xác
lập tại Pháp lệnh NHNN 1990 mặc dù lúc này Pháp lệnh NHNN 1990 chỉ gọi đây là
hoạt động “cho vay và mua, bán, chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá” giữa NHNN
với TCTD. Để thi hành quy định trên, NHNN ban hành Quyết định số 02-NH/QĐ ngày
08 tháng 1 năm 1991 về Thể lệ tín dụng của NHNN đối với các TCTD và Chỉ thị số 02CT/NH14 ngày 02 tháng 3 năm 1993 về việc cho vay của NHNN đối với các TCTD
trong thời gian trước mắt. Tuy nhiên, các văn bản này chỉ coi đây là hoạt động cho vay
đơn thuần mà chưa thấy hết chức năng của nó trên góc độ quản lý vĩ mơ. Hai văn bản
trên được thay thế bởi Quyết định 285/QĐ-NH14, quyết định này ra đời đánh dấu một
bước tiến quan trọng trong hoạt động TCV, đây là văn bản pháp lý đầu tiên gọi tên
hoạt động này là TCV đồng thời có một số quy định về điều kiện TCV được kế thừa cho
đến ngày nay. Các văn bản pháp luật ngân hàng sau này đã có quy định chi tiết hơn về
hoạt động TCV đồng thời có sự tiếp cận đúng đắn và nhận thức sâu sắc về vai trò to
lớn của hoạt động này. Ở chương 2, tác giả tập trung phân tích pháp luật TCV theo
các văn bản điều chỉnh hoạt động TCV đang có hiệu lực thi hành.
2.1.

Đối tƣợng đƣợc tái cấp vốn.

Khi TCV cho các TCTD, NHNN đóng vai trị là “ngân hàng của các ngân
hàng”. Hoạt động TCV lúc này nhằm thực hiện một trong các nhiệm vụ chính của

NHNN là “bảo đảm an tồn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng 24”.
Hoạt động ngân hàng là họat động mang tính hệ thống và ẩn chứa rủi ro cao, sự cộng
hợp này có thể dẫn tới sụp đổ tồn bộ hệ thống ngân hàng và cả nền kinh tế nếu rủi ro
xảy ra. Do đó, khi thực hiện kinh doanh tín dụng, TCTD rất cần sự hỗ trợ của NHNN,
đặc biệt trong trường hợp rủi ro thanh khoản. Tuy nhiên, hoạt động trợ giúp thanh
khoản dưới hình thức TCV khơng phải là trợ giúp vô điều kiện, NHNN đặt ra các yêu
cầu nhất định đối với TCTD tham gia nghiệp vụ này, trong đó có quy định về đối
tượng được TCV.
Theo quy định tại khoản 1 điều 11 Luật NHNN 2010 thì “Tái cấp vốn là hình
thức cấp tín dụng của Ngân hàng Nhà nước...cho tổ chức tín dụng”. Như vậy, đối
24

Khoản 1 Điều 4 Luật NHNN 2010.

16


tượng được TCV là các TCTD, mà theo khoản 1 Điều 4 Luật các TCTD 2010 thì
TCTD bao gồm: Ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mơ và
quỹ tín dụng nhân dân. Tuy nhiên, trong phần hoạt động cụ thể của TCTD, Luật các
TCTD 2010 lại quy định phạm vi chủ thể được TCV thu hẹp hơn khá nhiều so với Luật
NHNN 2010. Theo đó, trong các TCTD là ngân hàng thì chỉ NHTM được TCV, trong
các TCTD phi ngân hàng thì chỉ có cơng ty tài chính và cơng ty cho th tài chính
được TCV25. Như vậy , Luật các TCTD 2010 đã loại trừ ngân hàng chính sách, ngân
hàng hợp tác xã, các TCTD phi ngân hàng không phải là công ty tài chính và cơng ty
cho th tài chính, tổ chức tài chính vi mơ và quỹ tín dụng nhân dân ra khỏi các đối
tượng được TCV.
Hiện nay, theo Quyết định 898/2003/QĐ-NHNN do NHNN ban hành ngày 13
tháng 8 năm 2003 (gọi tắt là QĐ 898/2003), được sửa đổi bởi Quyết định 12/2008/QĐNHNN do NHNN ban hành ngày 19 tháng 4 năm 2008 (gọi tắt là QĐ 12/2008) thì Quy
chế chiết khấu GTCG ban hành kèm theo quyết định này (gọi tắt là Quy chế chiết khấu

GTCG) chỉ áp dụng đối với các TCTD là ngân hàng 26. Đối với hình thức cho vay cầm
cố thì theo quy định tại Thông tư 03/2009/TT-NHNN do NHNN ban hành ngày 02
tháng 3 năm 2009 (gọi tắt là TT 03/2009), được sửa đổi bởi Thông tư 11/2009/TTNHNN do NHNN ban hành ngày 27 tháng 5 năm 2009 (gọi tắt là TT 11/2009) thì
phạm vi áp dụng bao gồm cả TCTD là ngân hàng và TCTD phi ngân hàng, tuy nhiên
TCTD phi ngân hàng chỉ được TCV dưới hình thức cho vay cầm cố khi được TTCP
cho phép27. Tuy nhiên, đây là các văn bản hướng dẫn Luật NHNN 1997 vẫn còn hiệu
lực cho đến ngày nay. Chính vì sự khác biệt trong việc xác định phạm vi chủ thể được
TCV theo Luật NHNN 2010 so với Luật NHNN 1997 đã gây ra sự thiếu đồng bộ giữa
luật và văn bản hướng dẫn thi hành hoạt động TCV hiện nay.
So sánh với Luật NHNN 1997 thì Luật NHNN 2010 đã mở rộng phạm vi chủ
thể được TCV rất nhiều, bởi vì theo khoản 10 Điều 9 Luật NHNN 1997 thì NHNN chỉ
thực hiện TCV cho các ngân hàng, cịn theo Luật NHNN 2010 thì chủ thể được TCV là
các TCTD. Sự khác biệt này xuất phát từ những thay đổi về hoạt động của các TCTD.
Hiện nay, các TCTD phi ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mơ

25

Xem: Điều 99, điểm c khoản 1 Điều 108, khoản 3 Điều 112 Luật các TCTD 2010.
Xem: khoản 1 Điều 1 Quy chế chiết khấu GTCG.
27
Xem: Điều 1 TT 03/2009.
26

17


đều có thể nhận tiền gửi khơng kì hạn28, điều này đồng nghĩa với việc các hình thức
TCTD đều có khả năng rơi vào tình trạng thiếu hụt vốn tạm thời, do đó các TCTD đều
rất cần nguồn vốn vay từ NHNN dưới hình thức TCV. Trong khi đó theo quy định của
Luật các TCTD 1997 thì chỉ ngân hàng mới được nhận tiền gửi khơng kì hạn, cịn các

TCTD khác khơng được nhận loại tiền gửi này29, do đó các TCTD phi ngân hàng
khơng thể rơi vào tình trạng thiếu hụt vốn tạm thời. Xuất phát từ tư duy đó mà nhà làm
luật quy định chỉ ngân hàng mới được NHNN tái cấp vốn. Tuy nhiên, hiện nay văn bản
hướng dẫn thi hành các hình thức TCV cụ thể là các văn bản hướng dẫn Luật NHNN
1997 còn hiệu lực đến ngày nay, cho nên sự thay đổi phạm vi đối tượng TCV theo Luật
NHNN 2010 chưa thể thực hiện trên thực tế.
Hình thức tái cấp vốn.
Hình thức TCV được quy định tại khoản 2 Điều 11 Luật NHNN 2010.
“Ngân hàng Nhà nước quy định và thực hiện việc tái cấp vốn cho tổ chức tín
dụng theo các hình thức sau:
a) Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá.
b) Chiết khấu giấy tờ có giá.
c) Các hình thức tái cấp vốn khác.”
Đây là một trong những điều luật chứng minh sự mở rộng thẩm quyền và tăng
2.2.

tính độc lập cho NHNN. Bởi vì điểm c quy định ngồi hai hình thức TCV tại điểm a và
điểm b thì NHNN hồn tồn có thể quy định các hình thức TCV khác phù hợp, thẩm
quyền này chứng tỏ NHNN đã có sự độc lập trong việc sử dụng các công cụ điều hành
CSTTQG30. Luật NHNN 1997 chỉ quy định ba hình thức TCV là cho vay có bảo đảm
bằng cầm cố GTCG, chiết khấu GTCG và cho vay lại theo hồ sơ tín dụng31. Trên thực
tế hoạt động TCV của NHNN theo Luật NHNN 1997, hình thức TCV chủ yếu được sử
dụng là cho vay có bảo đảm bằng cầm cố GTCG và chiết khấu GTCG, hình thức cho
vay lại theo hồ sơ tín dụng hầu như không được áp dụng. Luật NHNN 2010 không liệt
kê trực tiếp hình thức cho vay lại theo hồ sơ tín dụng trong số các hình thức TCV, tuy
nhiên điểm c khoản 2 Điều 11 lại quy định theo hướng mở “các hình thức tái cấp vốn

28

Xem :khoản 2 Điều 4, điểm a khoản 1 Điều 108, khoản 1 Điều 112, khoản 1 Điều 118, khoản 1 Điều 119 Luật

NHNN 2010.
29
Xem: khoản 3 Điều 20, khoản 2 Điều 45 Luật các TCTD 1997.
30
Nguyễn Hương Giang (2010), “Sự độc lập của Ngân hàng Trung ương và một số gợi ý chính sách cho Việt
Nam”, Tạp chí ngân hàng, (23), tr.15.
31
Xem: Điều 17 Luật NHNN 1997.

18


khác”, có thể hiểu bao gồm cả hình thức cho vay lại theo hồ sơ tín dụng và nhiều hình
thức khác nữa theo quy định của NHNN.
2.2.1. Chiết khấu giấy tờ có giá.
 Khái niệm.
Hoạt động chiết khấu GTCG của NHNN được quy định tại Quy chế chiết khấu,
tái chiết khấu GTCG của ngân hàng nhà nước đối với các ngân hàng ban hành kèm
theo QĐ 898/2003 và được sửa đổi bởi QĐ 12/2008. Theo đó, hình thức chiết khấu
GTCG được định nghĩa như sau:
“Chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá của các ngân hàng là nghiệp vụ Ngân
hàng Nhà nước mua ngắn hạn các giấy tờ có giá cịn thời hạn thanh tốn, mà các giấy
tờ có giá này đã được các ngân hàng giao dịch trên thị trường sơ cấp hoặc thị trường
thứ cấp32”.
Xét dưới góc độ kinh tế, hoạt động chiết khấu GTCG của NHNN cũng như hoạt
động chiết khấu GTCG của các TCTD, đó là một nghiệp vụ tín dụng. Tuy nhiên, nếu
hoạt động chiết khấu GTCG của TCTD là hoạt động kinh doanh được thực hiện nhằm
mục tiêu lợi nhuận thì “hoạt động chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá của Ngân
hàng Nhà nước đối với các ngân hàng nhằm góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã
hội và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia33”. Chính vì mục tiêu này mà hoạt động

chiết khấu GTCG của NHNN có nhiều điểm khác biệt so với chiết khấu GTCG của
TCTD. Hoạt động chiết khấu GTCG của NHNN được thực hiện theo lĩnh vực ưu tiên
chiết khấu do Thống đốc NHNN quyết định căn cứ vào định hướng phát triển kinh tếxã hội của Chính phủ và mục tiêu của CSTTQG trong từng thời kì.
Hoạt động chiết khấu GTCG có các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, về chủ thể của quan hệ chiết khấu GTCG. Chủ thể chiết khấu là
NHNN, chủ thể được chiết khấu là các ngân hàng. Trong nghiệp vụ chiết khấu GTCG
của các TCTD, bên chiết khấu là TCTD còn bên được chiết khấu là mọi tổ chức, cá
nhân có GTCG đáp ứng yêu cầu chiết khấu, đó có thể là TCTD hoặc khơng phải
TCTD. Khác với hoạt động này, nghiệp vụ chiết khấu của NHNN chỉ do NHNN thực
hiện và chủ thể được chiết khấu chỉ có thể là ngân hàng, hơn nữa hoạt động chiết khấu
của NHNN còn được tiến hành theo lĩnh vực ưu tiên theo quyết định của Thống đốc
32

Khoản 2 Điều 1 QĐ 12/2008/QĐ-NHNN.
Điểm 1 Nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng.
/>s0ZUpHhOvNozube9J25kpJUrEZIfTd2KERsu1DpLspyHtq5xYb, thời gian truy cập 11h32’ ngày 02 tháng 5
năm 2011.
33

19


NHNN. Theo tinh thần của Luật NHNN 2010 thì các TCTD phi ngân hàng, tổ chức tài
chính vi mơ và quỹ tín dụng nhân dân cũng có thể đươc NHNN chiết khấu GTCG, tuy
nhiên đến thời điểm này, các tổ chức vừa nêu vẫn không được tham gia giao dịch này
với NHNN do chưa có văn bản hướng dẫn hoạt động chiết khấu GTCG của NHNN đối
với TCTD phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mơ và quỹ tín dụng nhân dân.
Thứ hai, khách thể của quan hệ chiết khấu GTCG là vốn tiền tệ, vốn tiền tệ này
có được trên cơ sở các GTCG. Đây là một trong các hình thức TCV nên đối với các
ngân hàng, nó là hoạt động nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán.

Đối với NHNN, hoạt động chiết khấu GTCG là một trong những nghiệp vụ để NHNN
thực hiện chức năng là ngân hàng của các ngân hàng. Với lãi suất chiết khấu, NHNN
cũng thu được một khoản tiền mà nghiệp vụ này mang lại, tuy nhiên với vị trí là cơ
quan quản lý nhà nước, lợi ích này không quan trọng bằng tác động của hoạt động
chiết khấu GTCG đối với nền kinh tế quốc gia.
Thứ ba, nội dung của quan hệ chiết khấu GTCG. Đối với NHNN, NHNN có
quyền: Nhận GTCG từ các ngân hàng, quyền khấu trừ khoản lợi tức từ hoạt động chiết
khấu, quyền nhận thanh toán GTCG từ chủ thể mắc nợ theo chứng từ (đối với hình
thức NHNN mua hẳn GTCG)...NHNN có nghĩa vụ: thanh toán số tiền chiết khấu cho
các ngân hàng, chuyển giao lại GTCG cho ngân hàng sau khi ngân hàng thanh toán tiền
mua lại GTCG cho NHNN (đối với hình thức chiết khấu có kì hạn)...Đối với các ngân
hàng, ngân hàng có quyền: Nhận tiền thanh tốn GTCG từ NHNN, nhận chuyển giao
GTCG sau khi hết thời hạn chiết khấu (đối với hình thức chiết khấu có kì hạn)...Ngân
hàng có nghĩa vụ: Chuyển giao GTCG cho NHNN, thanh tốn tiền mua lại GTCG cho
NHNN khi hết thời hạn chiết khấu (đối với hình thức chiết khấu có kì hạn)...
 Các hình thức chiết khấu giấy tờ có giá.
Căn cứ vào thời gian chiết khấu, các ngân hàng có thể được NHNN chiết khấu
GTCG bằng hai hình thức34 là: Chiết khấu tồn bộ thời gian cịn lại của GTCG và chiết
khấu có kì hạn.
Hình thức chiết khấu tồn bộ thời gian cịn lại của GTCG là hình thức mà
NHNN mua hẳn GTCG của các ngân hàng theo giá chiết khấu. Theo đó, NHNN sẽ
thanh tốn tiền mua lại GTCG cho ngân hàng được chiết khấu sau khi trừ đi lợi tức
chiết khấu. Sau khi ngân hàng chuyển giao GTCG cho NHNN thì NHNN xác lập
quyền sở hữu GTCG cho đến hết thời gian còn lại của GTCG. Khi hết thời hạn này,

34

Xem: Điều 4 Quy chế chiết khấu GTCG.

20



NHNN sẽ xuất trình GTCG để địi thanh tốn từ tổ chức có nghĩa vụ thanh tốn trên
GTCG.
Hình thức chiết khấu có kì hạn là hình thức mà NHNN chiết khấu kèm theo yêu
cầu ngân hàng cam kết mua lại tồn bộ GTCG sau một thời gian nhất định. Kì hạn
chiết khấu ln ngắn hơn thời gian cịn lại của GTCG và tối đa là 91 ngày. Kể từ thời
điểm chuyển giao GTCG cho NHNN thì quyền sở hữu GTCG được xác lập cho
NHNN, tuy nhiên đây là quyền sở hữu hạn chế35. Sau khi kết thúc kì hạn chiết khấu,
ngân hàng mua lại GTCG theo cam kết và nhận lại GTCG từ NHNN. Trong trường
hợp kết thúc thời hạn chiết khấu mà ngân hàng không mua lại GTCG theo cam kết
trước đó thì NHNN sẽ trích tiền gửi của ngân hàng tại NHNN để thanh toán. Nếu tài
khoản của ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước khơng đủ thì Ngân hàng Nhà nước sẽ
chuyển số tiền còn thiếu sang nợ quá hạn và ngân hàng đó phải chịu lãi suất quá hạn
bằng 200% lãi suất chiết khấu hoặc bán các GTCG trên thị trường tiền tệ để thanh toán
cho NHNN36. Tuy nhiên, theo hướng dẫn nghiệp vụ chiết khấu của NHNN thì lãi suất
quá hạn sẽ là 150% đồng thời NHNN sẽ xem xét bán các GTCG trên thị trường tiền tệ
để thu hồi số tiền còn thiếu mà không phải tiến hành một trong hai biện pháp chuyển số
tiền còn thiếu sang nợ quá hạn hoặc bán các GTCG như quy định tại Quy chế chiết
khấu GTCG37.
2.2.2. Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá.
 Khái niệm.
Hoạt động cho vay cầm cố GTCG của NHNN được quy định tại Thông tư
03/2009/TT-NHNN do NHNN ban hành ngày 02 tháng 3 năm 2009 (gọi tắt là
TT03/2009) và được sửa đổi bởi Thông tư 11/2009/TT-NHNN do NHNN ban hành
ngày 27 tháng 5 năm 2009 (gọi tắt là TT 11/2009). Theo khoản 1 Điều 2 TT 03/2009
thì:
“Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá là hình thức cho vay của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng trên cơ sở cầm cố giấy tờ có giá
thuộc sở hữu của ngân hàng để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ”.

Theo đó, hình thức cho vay cầm cố có các đặc điểm cơ bản sau:
35

Xem: khoản 2 Điều 462 BLDS 2005 về hợp đồng mua bán tài sản có quy định về chuộc lại tài sản.
Xem: khoản 2 Điều 13 Quy chế chiết khấu GTCG .
37
Xem: mục 11.3 nghiệp vụ chiết khấu GTCG của NHNN đối với các ngân hàng.
/>s0ZUpHhOvNozube9J25kpJUrEZIfTd2KERsu1DpLspyHtq5xYb, thời gian truy cập 11h32’ ngày 02 tháng 5
năm 2011.
36

21


Thứ nhất, chủ thể của quan hệ cho vay cầm cố. Bên cho vay là NHNN, bên đi
vay là ngân hàng hoặc các TCTD phi ngân hàng khi được Thủ tướng Chính phủ cho
phép38. Như vậy, so với hình thức chiết khấu GTCG thì hình thức cho vay cầm cố có
phạm vi áp dụng rộng hơn.
Thứ hai, khách thể của quan hệ cho vay cầm cố là vốn tiền tệ. Đặc điểm này của
quan hệ cho vay cầm cố cũng giống như quan hệ chiết khấu GTCG.
Thứ ba, nội dung của quan hệ cho vay cầm cố. NHNN có quyền: Nhận chuyển
giao GTCG từ TCTD làm tài sản cầm cố, nhận tiền lãi và gốc khi đến hạn thanh toán,
kiểm tra, kiểm soát hoạt động sử dụng khoản vay của TCTD, áp dụng các biện pháp
chế tài theo quy định nếu TCTD vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng tín dụng...NHNN có
nghĩa vụ: Cấp khoản vay cho TCTD, chuyển giao lại GTCG cho TCTD khi TCTD đã
hoàn trả tiền gốc và lãi vay...Ngân hàng, TCTD phi ngân hàng (gọi tắt là bên vay) có
quyền: Nhận tiền vay từ NHNN, nhận chuyển giao lại GTCG từ NHNN khi hết thời
hạn vay...Bên vay có nghĩa vụ: Chuyển giao GTCG làm tài sản cầm cố cho NHNN,
thanh toán tiền vay và lãi cho NHNN đúng thời hạn, chịu sự kiểm tra, kiểm soát của
NHNN trong thời gian vay vốn.

Thứ tư, cho vay cầm cố là hình thức cấp tín dụng có bảo đảm. Biện pháp bảo
đảm là biện pháp cầm cố, theo Điều 326 Bộ luật dân sự 2005 thì đây là biện pháp bảo
đảm mà bên cầm cố (tức TCTD) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên
nhận cầm cố (tức NHNN) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự. Tài sản bảo đảm
trong quan hệ cho vay cầm cố là GTCG, phạm vi bảo đảm là một hoặc nhiều khoản
vay cầm cố của bên vay tại NHNN. NHNN có thể nắm giữ bản gốc của GTCG hoặc
nhận chuyển khoản GTCG vào tài khoản của NHNN mở tại Trung tâm giao dịch
chứng khốn39.
 Các hình thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá.
Căn cứ vào thứ tự ưu tiên của GTCG, hoạt động cho vay cầm cố gồm hai hình
thức là: Cho vay cầm cố GTCG cấp I và cho vay cầm cố GTCG cấp II.
Thứ tự ưu tiên của GTCG có vai trò quyết định giá trị khoản vay dựa trên tỷ lệ
giữa giá trị của GTCG so với giá trị khoản vay do NHNN quy định. Theo đó, đối với
GTCG cấp I, bao gồm: Tín phiếu NHNN, Trái phiếu Chính phủ, Trái phiếu được

38
39

Xem: Điều 1 TT 03/2009.
Xem: Khoản 2 Điều 2 TT 03/2009.

22


Chính phủ bảo lãnh thì giá trị của GTCG tối thiểu bằng 105% số tiền vay; GTCG cấp
II là Trái phiếu chính quyền địa phương có giá trị tối thiểu bằng 120% số tiền vay40.
Ngồi hai hình thức TCV là chiết khấu GTCG và cho vay cầm cố, NHNN có thể
TCV cho TCTD theo các hình thức khác, ví dụ như hình thức cho vay lại theo hồ sơ tín
dụng. Luật NHNN 2010 khơng quy định trực tiếp hình thức TCV cho vay lại theo hồ
sơ tín dụng như Luật NHNN 2003, tuy nhiên theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 11

Luật NHNN 2010, có thể hiểu trong “các hình thức tái cấp vốn khác” khi NHNN tái
cấp vốn thì cho vay lại theo hồ sơ tín dụng vẫn có thể được sử dụng trong trường hợp
cần thiết. Đây là hình thức TCV trên cơ sở các hồ sơ tín dụng mà TCTD đã cho vay đối
với khách hàng. Theo nghiệp vụ này, TCTD phải xuất trình cho NHNN hồ sơ tín dụng
đã được thẩm định và chấp nhận cho khách hàng vay mà chưa tìm được nguồn vốn cần
thiết. Căn cứ vào nhu cầu điều hòa khối cung tiền tệ, chỉ số phát hành tiền bổ sung
trong năm do Chính phủ quyết định và nhu cầu vay vốn của TCTD, NHNN thẩm định
hồ sơ để chấp nhận hoặc từ chối cho vay. Trong trường hợp chấp nhận, NHNN cấp một
khoản tín dụng cho TCTD với nguồn vốn cho vay là vốn dự trữ phát hành, trên cơ sở
đảm bảo các tài sản có của NHTM. Ngồi ra, một hình thức TCV khác được NHNN sử
dụng là hình thức cho vay theo đối tượng điều chỉnh, tức là NHNN sẽ TCV cho TCTD
được Thủ tướng Chính phủ chỉ định41, đây là hình thức TCV chủ yếu trong khoảng thời
gian từ năm 1994 đến trước năm 2004.
2.3. Điều kiện tái cấp vốn.
2.3.1. Điều kiện đối với tổ chức tín dụng.
Điều kiện 1: Tổ chức tín dụng đƣợc phép tái cấp vốn.
NHNN chỉ TCV đối với các TCTD được phép TCV, đây là điều kiện tiên quyết
khi TCTD đề nghị NHNN tái cấp vốn. Trường hợp TCTD rơi vào tình trạng thiếu hụt
thanh khoản nhưng không thuộc các trường hợp được phép TCV thì khơng thể được
NHNN tái cấp vốn.
Măc dù Luật NHNN 2010 quy định các TCTD đều có khả năng được TCV
nhưng theo Luật các TCTD 2010 thì TCTD được TCV chỉ bao gồm TCTD là NHTM
và TCTD phi ngân hàng là cơng ty tài chính và cơng ty cho thuê tài chính. Tuy nhiên,
văn bản hướng dẫn các hình thức TCV cụ thể của NHNN thì phạm vi chủ thể bị thu
hẹp đáng kể. Đây là các văn bản hướng dẫn Luật NHNN 1997 nhưng chưa bị thay thế,
40

Xem: Điều 3 Quyết định 11/2010/QĐ-NHNN do NHNN ban hành ngày 06 ngày 1 năm 2010 về danh mục
GTCG được sử dụng trong các giao dịch của NHNN.
41

Khoản 4.2 Điều 4 QĐ 285/QĐ-NH14.

23


do đó về nguyên tắc hoạt động TCV theo Luật NHNN 2010 vẫn thực hiện theo các văn
bản này. Cụ thể là hình thức chiết khấu GTCG chỉ áp dụng đối với TCTD là ngân
hàng, hình thức cho vay cầm cố GTCG thì các TCTD phi ngân hàng phải được Thủ
tướng Chính phủ cho phép. Theo tác giả khóa luận này thì điều kiện về sự cho phép
của Thủ tướng Chính phủ đã phần nào hạn chế hiệu quả của cơng cụ TCV. Bởi vì tính
chất cấp bách của khoản vay TCV địi hỏi quy trình TCV phải đơn giản, nhanh chóng.
Quy trình TCV hiện nay được thực hiện tại NHNN, mặt khác NHNN là ngân hàng
trung ương, đồng thời lại là cơ quan quản lý trong lĩnh vực tiền tệ nên hồn tồn có thể
quyết định cho phép TCTD vay vốn hay khơng. Theo tác giả thì thủ tục xin phép Thủ
tướng Chính phủ chỉ làm quy trình TCV thêm phức tạp.
Điều kiện 2: Tổ chức tín dụng tạm thời thiếu hụt khả năng thanh khoản.
Đối với các TCTD, nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của nó là nhận tiền gửi và
cho vay phần lớn tiền gửi đó. TCTD phải trả lãi trên khoản tiền gửi của khách hàng
đồng thời thu lãi từ khoản tiền TCTD cho vay. Chênh lệch lãi mà TCTD có được là lợi
nhuận từ hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh không phải lúc nào
cũng thuận lợi, có trường hợp khách hàng đến rút tiền quá nhiều hoặc khi các TCTD
không cân bằng được về kì hạn giữa tài sản có và tài sản nợ, tức dùng quá nhiều tiền
gửi ngắn hạn để cho vay dài hạn…Các nguyên nhân này khiến cho TCTD dễ lâm vào
tình trạng thiếu vốn tạm thời42, trong trường hợp này mặc dù TCTD đang có các khoản
phải thu như GTCG, các khoản cho vay…nhưng nhưng tạm thời chưa thể hốn đổi
thành tiền. Để giải quyết tình trạng trên, TCTD có thể vay vốn từ các TCTD khác hoặc
vay từ NHNN. Cần lưu ý rằng NHNN chỉ cho vay với tư cách “người cho vay cuối
cùng” điều đó có nghĩa là TCTD đã ở trong tình trạng thiếu hụt khả năng thanh khoản,
lúc này TCTD thiếu hụt vốn nhưng không thể vay tạm thời từ các TCTD khác. Điều
kiện trên nhằm khuyến khích các TCTD trợ giúp lẫn nhau thay vì tìm tới nguồn vốn từ

NHNN khi thiếu khả năng chi trả. Xét trên phương diện quản lý, NHNN dùng công cụ
này để thực hiện CSTTQG, trên phương diện nghề nghiệp ngân hàng, khoản vay này là
khoản vay trợ giúp thanh khoản cho các TCTD, lúc này NHNN đóng vai trị là “ngân
hàng của các ngân hàng”, nếu khơng có sự trợ giúp của NHNN, TCTD rất dễ rơi vào
tình trạng mất khả năng chi trả.
Điều kiện 3: Tổ chức tín dụng khơng bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc
biệt.
42

thời gian truy cập
7h12’ ngày 13 tháng 5 năm 2011.

24


×