Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Quyền hưởng bảo hiểm của người lao động khi doanh nghiệp vi phạm nghĩa vụ thực hiện bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (22.2 MB, 129 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN HỒNG THẮM

QUYỀN HƯỞNG BẢO HIỂM
CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG KHI DOANH NGHIỆP
VI PHẠM NGHĨA VỤ THỰC HIỆN
BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM Y TẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

QUYỀN HƯỞNG BẢO HIỂM
CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG KHI DOANH NGHIỆP
VI PHẠM NGHĨA VỤ THỰC HIỆN
BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM Y TẾ

Chuyên ngành: Luật dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Hoàng Hải
Học viên: Nguyễn Hồng Thắm
Lớp: Cao học Luật Khánh Hịa Khóa 4


TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nội dung và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung
thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Mọi sự giúp đỡ cho việc
thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã
được chỉ rõ nguồn gốc rõ ràng và được phép cơng bố.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày
tháng năm 2018
Học viên thực hiện

Nguyễn Hồng Thắm


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

TỪ, CỤM TỪ ĐƯỢC VIẾT TẮT

TỪ VIẾT TẮT

1

Bảo hiểm thất nghiệp

BHTN

2


Bảo hiểm xã hội

BHXH

3

Bảo hiểm y tế

BHYT

4

Bộ luật Lao động năm 2012

BLLĐ

5

Hợp đồng lao động, Hợp đồng làm việc

HĐLĐ, HĐLV

6
7

8

9

Luật An toàn, vệ sinh lao động số 84/2015/QH13

ngày 25/6/2013
Luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13 ngày 20
tháng 11 năm 2014
Luật Bảo hiểm y tế số 25/2008/QH12 ngày 14 tháng
11 năm 2008; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Bảo hiểm y tế số 46/2014/QH13 ngày 13 tháng
6 năm 2014
Luật Việc làm số 38/2013/QH13 ngày 16 tháng 11
năm 2013

Luật ATVSLĐ
Luật BHXH

Luật BHYT

Luật Việc làm

10

Người lao động

NLĐ

11

Người sử dụng lao động

NSDLĐ

12


Quyết định số 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017 của
Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam về việc ban hành
quy trình thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo Quyết
định
số
hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động – bệnh 595/QĐ-BHXH
nghề nghiệp; quản lý sổ bảo hiểm xã hơi, thẻ bảo
hiểm y tế

13

Tịa án nhân dân

TAND

14

Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

TNLĐ, BNN


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC ................................................... 7
1.1. Nghĩa vụ tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc .............................................. 7
1.2. Điều kiện hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc .............................. 8
1.3. Quyền hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc khi người sử dụng
lao động vi phạm nghĩa vụ thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc .................... 12

CHƯƠNG 2. BẢO HIỂM TAI NẠN LAO ĐỘNG – BỆNH NGHỀ NGHIỆP . 18
2.1. Nghĩa vụ tham gia bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp .......... 18
2.2. Điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.... 19
2.3. Quyền hưởng các chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
khi người sử dụng lao động vi phạm nghĩa vụ thực hiện bảo hiểm xã hội bắt
buộc ...................................................................................................................... 21
CHƯƠNG 3. BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP ......................................................... 26
3.1. Nghĩa vụ tham gia bảo hiểm thất nghiệp ................................................... 26
3.2. Điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp .......................................... 27
3.3. Quyền hưởng bảo hiểm thất nghiệp của người lao động khi người sử
dụng lao động vi phạm nghĩa vụ thực hiện bảo hiểm thất nghiệp ................. 28
CHƯƠNG 4. BẢO HIỂM Y TẾ ............................................................................ 35
4.1. Nghĩa vụ tham gia bảo hiểm y tế tại doanh nghiệp .................................. 35
4.2. Điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm y tế ....................................................... 36
4.3. Quyền hưởng bảo hiểm y tế của người lao động trong trường hợp người
sử dụng lao động vi phạm nghĩa vụ thực hiện bảo hiểm y tế.......................... 37
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 42
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay diện bao phủ BHXH có tăng nhưng mới chỉ đạt 25,8% lực lượng
lao động tham gia BHXH, 22% tham gia BHTN1, còn khoảng cách khá xa so với
mục tiêu mà Nghị quyết số 21-NQ/TƯ của Bộ Chính trị đề ra là đạt 50% lực lượng
lao động tham gia BHXH vào năm 2020. Tính tới ngày 26/12/2017, số người tham
gia BHXH bắt buộc là 13,52 triệu người, BHTN là 11,72 triệu người, BHYT là 87
triệu người; toàn ngành thu được số tiền 289.349 tỷ đồng; số tiền nợ BHXH là

5.737 tỷ đồng, chiếm 3% kế hoạch thu; qua công tác thanh tra phát hiện 42.263 lao
động thuộc đối tượng phải tham gia nhưng chưa tham gia hoặc đóng thiếu thời gian
với số tiền phải truy đóng là 88,2 tỷ đồng, có 50.735 lao động đóng thiếu mức quy
định với số tiền phải truy đóng là 47,3 tỷ đồng2.
Các hành vi vi phạm nghĩa vụ về BHXH, BHYT, BHTN của doanh nghiệp
gồm các hình thức như: trốn đóng, nợ, chiếm dụng, khơng kê khai đăng ký tham gia
BHXH với cơ quan BHXH, không ký hợp đồng, đăng ký tham gia BHXH với mức
lương thấp hơn thực tế, không kê khai khi sự kiện bảo hiểm xảy ra ảnh hưởng tới
quyền hưởng bảo hiểm của NLĐ. Điều đáng nói là trong số nợ BHXH thì có nhiều nợ
khó địi nằm trong các doanh nghiệp giải thể, phá sản hoặc chủ doanh nghiệp bỏ trốn.
Tình trạng doanh nghiệp trốn đóng, nợ BHXH, BHYT, BHTN trong khi khơng
ít doanh nghiệp hàng tháng vẫn đều đặn trừ lương của NLĐ đã tác động xấu đến sự an
toàn, cân đối nguồn quỹ và đảm bảo an sinh xã hội; là biểu hiện sự thiếu kỷ cương
trong một xã hội đang thực hiện pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thượng tôn pháp luật.
Hiện nay, các tranh chấp xảy ra trong việc thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ các
loại bảo hiểm ngày càng gia tăng và đa dạng. Pháp luật vừa có quy định điều chỉnh
về việc khởi kiện địi tiền bảo hiểm nộp chưa đúng, chưa đủ vào quỹ BHXH, quỹ
BHYT; vừa có quy định xử lý về hình sự đối với hành vi vi phạm pháp luật về
BHXH từ ngày 01/01/2018. Tuy nhiên, việc thực thi quyền khởi kiện cịn đang lúng
túng ở chủ thể có quyền khởi kiện, xác định vụ hay việc dân sự, xác định quan hệ
tranh chấp là dân sự, lao động hay hành chính. Tính tới ngày 31/7/2018, cơ quan
1

Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TƯ của Bộ chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012-2020, Ban Kinh tế trung ương – Bảo hiểm xã hội Việt
Nam, Hà Nội, 28/6/2018.
2
Hội nghị thông tin định kỳ về bảo hiểm xã hội. bảo hiểm y tế tháng 12/2017, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Hà
Nội, 26/12/2017.



2
cảnh sát điều tra cũng chưa thể khởi tố vụ án hình sự nào liên quan tới hành vi vi
phạm nghĩa vụ về BHXH.
Trong khi đó, nguyên tắc của chế độ BHXH, BHTN, BHYT là mức hưởng
bảo hiểm được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng và có sự sẻ chia giữa
những người tham gia bảo hiểm. Với thực trạng khó khăn nêu trên, liệu rằng quyền
hưởng các chế độ BHXH, BHTN, BHYT của NLĐ có được đảm bảo khi các lợi ích
từ chế độ ốm đau, thai sản, hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, bảo
hiểm thất nghiệp, khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế là cần thiết, hiện hữu, liên quan
trực tiếp tới sức khỏe, tính mạng, thu nhập của NLĐ. Trong khi đó, thời gian để cơ
quan quản lý nhà nước “truy đòi” được số tiền nợ về bảo hiểm từ NSDLĐ là cả một
thời gian dài, có khi là vô thời hạn khi mà chủ doanh nghiệp bỏ trốn, tài sản doanh
nghiệp khơng cịn.
Điều này địi hỏi việc hồn thiện hệ thống pháp luật lao động nói chung và
pháp luật về BHXH, BHTN, BHYT nói riêng, là một nhu cầu khách quan. Chính vì
vậy, tác giả thấy cần thiết phải nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn của quy
định về quyền hưởng bảo hiểm của NLĐ trong trường hợp doanh nghiệp vi phạm
nghĩa vụ thực hiện BHXH, BHYT. Từ đó đánh giá thực trạng và khó khăn để đề
xuất các giải pháp, kiến nghị cụ thể để đảm bảo trước hết quyền lợi của người lao
động, sau đó là an tồn của Quỹ bảo hiểm xã hội, Quỹ bảo hiểm y tế, Quỹ bảo hiểm
thất nghiệp. Đây là nhu cầu cần thiết, góp phần hồn thiện những quy định của pháp
luật, từ đó nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật một cách đồng bộ và đạt hiệu quả
cao. Đó chính là lý do mà tác giả chọn đề tài “Quyền hưởng bảo hiểm của người
lao động khi doanh nghiệp vi phạm nghĩa vụ thực hiện bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế” làm đề tài nghiên cứu Luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực trạng vi phạm nghĩa vụ về BHXH đang diễn biến phức tạp, gây nhiều hậu
quả xấu đến an toàn quỹ BHXH, quyền hưởng chế độ BHXH của NLĐ. Đây cũng là
vấn đề quan tâm của Đảng, Nhà nước và các cơ quan ban ngành. Chính vì vậy, đã có

nhiều cơng trình nghiên cứu với nhiều quy mơ và góc độ về vấn đề này như:
- Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Pháp luật về các chế độ bảo hiểm xã hội bắt
buộc – Thực trạng và hướng hồn thiện” của tác giả Nguyễn Lâm Bình, trường Đại
học Luật TP. Hồ Chí Minh năm 2011. Ở cơng trình nghiên cứu này, tác giả đã đi
sâu nghiên cứu, phân tích, đánh giá những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật
BHXH bắt buộc theo quy định tại Luật BHXH năm 2006. Vấn đề BHYT, BHTN


3
hoàn toàn chưa được nghiên cứu và các đề xuất hồn thiện mang tính vĩ mơ về
chính sách, chưa có sự nghiên cứu hay đề cập tới quyền hưởng chế độ BHXH của
NLĐ khi NSDLĐ vi phạm nghĩa vụ về BHXH.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Pháp luật về quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở
Việt Nam” của tác giả Phan Thị Tuyết Vi, trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
năm 2012. Ở cơng trình nghiên cứu này, tác giả đã đi sâu nghiên cứu, phân tích, đánh
giá những vấn đề lý luận, thực tiễn về nguồn hình thành, các yếu tố ảnh hưởng, việc
quản lý quỹ BHTN và kiến nghị các giải pháp bảo đảm an toàn quỹ BHTN theo quy
định tại Luật BHXH năm 2006 (hiệu lực của BHTN từ ngày 01/01/2009) và các văn
bản hướng dẫn về BHTN. Các vấn đề về vi phạm nghĩa vụ BHTN, quyền hưởng
BHTN của NLĐ chưa được đề cập trong cơng trình nghiên cứu này.
Bên cạnh đó cịn có một số bài viết nghiên cứu về việc vi phạm nghĩa vụ
BHXH của NSDLĐ như:
- Bài viết “Thách thức trong triển khai luật bảo hiểm xã hội và một số giải
pháp” của tác giả Nguyễn Đăng Doanh đăng trên báo Lao động và Xã hội (cơ quan
thông tin lý luận nghiệp vụ của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội) số 500/2015
(từ 1-15/4/2015). Trong bài viết này, tác giả nêu lên khó khăn, thách thức khi áp dụng
một số quy định của Luật BHXH năm 2014 vào thực tiễn, nhất là quy định về hưởng
chế độ BHXH một lần và kiến nghị các giải pháp để đưa các quy định của Luật
BHXH vào thực tiễn. Bài viết này hồn tồn khơng nhắc tới thực trạng vi phạm pháp
luật BHXH của NSDLĐ và quyền lợi của NLĐ khi rơi vào những NSDLĐ này.

- Bài viết “Cần tiếp tục hồn thiện các chính sách về bảo hiểm xã hội và bảo
hiểm y tế” của tác giả Bùi Sỹ Lợi đăng trên tạp chí Lao động và xã hội số 495/2015.
Ở bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu và đưa ra các giải pháp để hoàn thiện
các quy định của pháp luật về BHXH, BHYT.
- Bài viết “Công đồn có quyền khởi kiện u cầu người sử dụng lao động
nộp tiền bảo hiểm xã hội hay không” của tác giả Vũ Thái và Hán Thị Hạnh Thúy
đăng trên tạp chí Tịa án nhân dân số 9/2017. Ở bài viết này, tác giả tập trung phân
tích các quy định của pháp luật lao động, BHXH, Cơng đồn, Bộ luật tố tụng dân sự
để xác định quyền khởi kiện về BHXH của Cơng đồn.
Những cơng trình nghiên cứu nêu trên chủ yếu đi sâu phân tích quy định của
pháp luật về chính sách BHXH để thấy được những ưu điểm, những khó khăn,
thách thức và đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định tại
các văn bản pháp luật. Các cơng trình nghiên cứu này cũng mang tính tập trung vào


4
một hoặc một số chế độ đơn lẻ của BHXH, BHTN, BHYT mà chưa có cơng trình
nào nghiên cứu một cách tồn diện các quy định của BHXH nói chung cũng như
từng chính sách của chế độ BHXH, BHTN, BHYT nói riêng. Ngồi ra, cũng chưa
có cơng trình nghiên cứu nào đề cập, giải quyết quyền lợi của NLĐ trong trường
hợp NSDLĐ vi phạm nghĩa vụ về BHXH, BHTN, BHYT.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn sẽ nghiên cứu các quy định pháp luật về đối tượng, nghĩa vụ tham
gia và điều kiện hưởng của chế độ BHXH bắt buộc, BHTN, BHYT; đồng thời
nghiên cứu thực tiễn áp dụng về điều kiện hưởng các chế độ bảo hiểm của NLĐ
trong trường hợp NSDLĐ vi phạm nghĩa vụ về BHXH, BHTN, BHYT. Trên cơ sở
các nghiên cứu, tác giả đề xuất những kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp
luật cũng như các kiến nghị nhằm làm giảm tình trạng vi phạm nghĩa vụ về BHXH,
BHTN, BHYT của NSDLĐ nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn khách quan là để
các chính sách về BHXH trở thành trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội.

4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài, phương pháp nghiên cứu
4.1. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của đề tài, tác giả tập trung nghiên cứu về các quy định của
pháp luật và thực tiễn áp dụng về các điều kiện hưởng chế độ BHXH bắt buộc (bao
gồm chế độ ốm đau, chế độ thai sản, chế độ hưu trí, chế độ tử tuất, chế độ tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp), BHTN, BHYT của NLĐ trong trường hợp NSDLĐ vi
phạm nghĩa vụ về BHXH bắt buộc, BHTN, BHYT. Bởi theo quy định pháp luật
hiện hành, NLĐ, NSDLĐ phải đồng thời đóng đầy đủ các loại tiền bảo hiểm vào
quỹ BHXH, quỹ BHTN, quỹ BHYT thì mới có quyền hưởng bảo hiểm.
NSDLĐ được nêu trong Luận văn chỉ giới hạn ở chủ thể là doanh nghiệp.
Đối với các chủ thể sử dụng lao động khác gồm cơ quan nhà nước, đơn vị sự
nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội
khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt
Nam; hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê
mướn, sử dụng lao động theo HĐLĐ; và chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện, tác giả
không đề cập, nghiên cứu trong Luận văn này.
Các nội dung khác như xác định quan hệ tranh chấp, xác định chủ thể tham
gia tố tụng, mức đóng, q trình thi hành án về bảo hiểm, thủ tục chốt sổ bảo hiểm


5
xã hội, quy trình thủ tục hưởng BHTN, BHYT tác giả cũng không đề cập trong
Luận văn này.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu luận văn dựa trên những quy định của pháp luật hiện hành
cũng như tình hình khảo sát thực tế về quyền hưởng các chế độ bảo hiểm của NLĐ
khi NSDLĐ vi phạm nghĩa vụ BHXH, BHTN, BHYT.
Dựa trên kết cấu của luận văn được chia làm bốn chương tương ứng với bốn
nội dung của đề tài là BHXH bắt buộc (chế độ ốm đau, chế độ thai sản, chế độ hưu

trí và chế độ tử tuất); bảo hiểm TNLĐ, BNN; BHTN; BHYT. Từng chương sẽ giải
quyết dứt điểm một vấn đề. Do vậy, ở mỗi chương tác giả sẽ kết hợp nhiều phương
pháp khác nhau, cụ thể:
Sử dụng phương pháp so sánh nhằm làm rõ thực trạng so sánh với những vấn
đề pháp lý trong quá trình giải quyết tranh chấp về các vi phạm của NSDLĐ ảnh
hưởng tới quyền hưởng các chế độ bảo hiểm của NLĐ; phương pháp giải thích luật
nhằm đưa ra những ý kiến đánh giá một cách cụ thể, rõ ràng các quy định trong luật
hiện hành, xem xét trong việc giải quyết các vụ án về yêu cầu giải quyết chế độ
BHXH, bảo hiểm TNLĐ, BNN, BHTN, BHYT; phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp, phương pháp bình luận bản án để giới thiệu các ví dụ cụ thể trong
thực tiễn liên quan đến nội dung đề tài, từ đó có những kiến nghị để hồn thiện pháp
luật về quyền hưởng bảo hiểm của NLĐ trong trường hợp NSDLĐ vi phạm nghĩa
vụ về BHXH, bảo hiểm TNLĐ, BNN, BHTN, BHYT.
5. Dự kiến các kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng kết quả nghiên cứu
Đề tài sẽ là một tài liệu có giá trị cho những người quan tâm và có nhu cầu
nghiên cứu về việc bảo vệ quyền lợi cho NLĐ – người yếu thế trong quan hệ lao
động trong việc hưởng các chế độ BHXH, BHYT, BHTN. Trong cơng trình nghiên
cứu của mình, tác giả cịn phân tích sâu những bất cập, vướng mắc từ thực tiễn áp
dụng pháp luật về BHXH, bảo hiểm TNLĐ, BNN, BHTN, BHYT bằng các bản án
có hiệu lực pháp luật trong các vụ án được Tòa án giải quyết nên đề tài cịn có giá
trị tham khảo trong q trình thực thi pháp luật của các cơ quan tố tụng, người tiến
hành tố tụng. Đồng thời góp phần hồn thiện những quy định của pháp luật về
BHXH, bảo hiểm TNLĐ, BNN, BHTN, BHYT trong thời gian tới khi Chính phủ
đang nghiên cứu, chuẩn bị cho việc sửa đổi, bổ sung Nghị định quy định về quản lý
thu nợ BHXH, BHYT, BHTN và đảm bảo quyền lợi của NLĐ; Nghị định quy định


6
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, BHXH, đưa người Việt
Nam đi lao động ở nước ngoài theo HĐLĐ và đặc biệt là sửa đổi Bộ luật lao động.

6. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo thì Luận
văn được chia thành 04 (bốn) chương chi tiết như sau:
Chương 1. Bảo hiểm xã hội bắt buộc
Chương 2. Bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp
Chương 3. Bảo hiểm thất nghiệp
Chương 4. Bảo hiểm y tế


7
CHƯƠNG 1. BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
BHXH tại Việt Nam hiện nay được xây dựng theo hai loại hình: BHXH bắt
buộc và BHXH tự nguyện. Quỹ BHXH bắt buộc được hình thành trên cơ sở sự đóng
góp của hai chủ thể là: NLĐ, NSDLĐ và có sự hỗ trợ của ngân sách Nhà nước. Việc
quản lý Quỹ BHXH là do Nhà nước đảm nhiệm và giao cho cơ quan BHXH các cấp
thực hiện. Các chế độ nằm trong hệ thống BHXH bắt buộc bao gồm: trợ cấp ốm đau,
trợ cấp thai sản, trợ cấp hưu trí và trợ cấp tử tuất. Mục đích của việc tham gia BHXH
bắt buộc là cung cấp sự bảo vệ cần thiết cho mọi người, đặc biệt là NLĐ và người
thân thích của họ trước việc bị đe dọa mất hoặc giảm thu nhập từ các nguy cơ ốm
đau, tuổi già và các nguy cơ khác. BHXH được thực thi khơng phải vì mục đích
thương mại mà chỉ nhằm phục vụ con người, vì con người và đảm bảo an sinh xã hội.
1.1. Nghĩa vụ tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc
Việc tham gia BHXH bắt buộc là trách nhiệm, là nghĩa vụ của NLĐ, NSDLĐ.
Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc được quy định cụ thể tại Điều 2 Luật BHXH.
Đối với người sử dụng lao động, bao gồm: Cơ quan nhà nước, đơn vị sự
nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội
khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt
Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá
nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo HĐLĐ.

Đối với người lao động là công dân Việt Nam, người nước ngoài làm việc trên
lãnh thổ Việt Nam, bao gồm: Người làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn,
HĐLĐ xác định thời hạn, HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một cơng việc nhất định có
thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả HĐLĐ được ký kết giữa NSDLĐ với
người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao
động; người làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng; cán
bộ, cơng chức, viên chức; cơng nhân quốc phịng, công nhân công an, người làm công
tác khác trong tổ chức cơ yếu; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ
quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân;
người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân; hạ sĩ quan, chiến sĩ
quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; học viên
qn đội, cơng an, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí; người đi làm việc ở
nước ngồi theo hợp đồng quy định tại Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở


8
nước ngoài theo hợp đồng; người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp
tác xã có hưởng tiền lương; người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị
trấn; người hưởng chế độ phu quân, phu nhân tại cơ quan đại diện của Việt Nam ở
nước ngoài; người lao động là cơng dân nước ngồi vào làm việc tại Việt Nam có giấy
phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam cấp. Người lao động là người nước ngồi hoặc người Việt
Nam mà HĐLĐ có thời hạn từ 01 đến 03 tháng thì tham gia BHXH bắt buộc từ ngày
01/01/2018 (khoản 1 Điều 124 Luật BHXH).
Khi tham gia BHXH bắt buộc, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày giao kết
HĐLĐ, HĐLV hoặc tuyển dụng, NSDLĐ nộp hồ sơ bao gồm tờ khai tham gia BHXH
của NSDLĐ kèm theo danh sách NLĐ tham gia BHXH, tờ khai tham gia BHXH của
NLĐ tới cơ quan BHXH (khoản 1 Điều 99, khoản 1 Điều 97 Luật BHXH).
Phương thức tham gia BHXH được thực hiện theo quy định tại Điều 86 Luật
BHXH như sau: “Hàng tháng đóng trên quỹ tiền lương đóng BHXH của NLĐ”

hoặc “hàng tháng đóng trên mức lương cơ sở đối với mỗi NLĐ”. Điều 7, Điều 19
Quyết định số 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017 quy định chi tiết phương thức đóng
BHXH, BHYT: Hàng tháng, chậm nhất là đến ngày cuối cùng của tháng, đơn vị
trích tiền đóng BHXH bắt buộc trên quỹ tiền lương tháng của NLĐ tham gia BHXH
bắt buộc, đồng thời trích từ tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc của từng NLĐ
theo mức quy định, chuyển cùng một lúc vào tài khoản chuyên thu của cơ quan
BHXH mở tại Ngân hàng hoặc Kho bạc nhà nước.
Như vậy, đối tượng tham gia BHXH bắt buộc được quy định cụ thể trong các
văn bản pháp luật, bao gồm NLĐ và NSDLĐ. Tuy nhiên, pháp luật quy định nghĩa
vụ thực hiện hồ sơ tham gia bảo hiểm và nghĩa vụ thực hiện việc đóng BHXH đều
phải thơng qua NSDLĐ. NLĐ khơng tự mình nộp hồ sơ đăng kí tham gia BHXH lần
đầu hay tự mình trích nộp tiền lương hàng tháng để nộp vào quỹ BHXH bắt buộc.
1.2. Điều kiện hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc
Điều kiện chung để NLĐ được hưởng các chế độ BHXH bắt buộc là phải có
tham gia BHXH, thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH đầy đủ và đáp ứng các điều kiện
hưởng từng chế độ cụ thể như sau:
Thứ nhất: Chế độ ốm đau
NLĐ tham gia BHXH là đối tượng áp dụng chế độ bảo hiểm này. Tuy nhiên,
không phải mọi trường hợp bị ốm đau hay tai nạn rủi ro NLĐ đều được hưởng chế độ
mà họ phải đáp ứng những điều kiện cụ thể. Đó là khi NLĐ bị ốm đau, tai nạn rủi ro


9
mà không phải là tai nạn lao động, hay do tự hủy hoại sức khỏe, do say rượu hoặc sử
dụng chất ma túy, tiền chất ma túy theo danh mục; NLĐ phải nghỉ việc để chăm sóc
con dưới 07 tuổi bị ốm đau và có xác nhận của cơ sở khám chữa bệnh có thẩm quyền
theo quy định của Bộ Y tế. Điều này có nghĩa là NLĐ phải thỏa mãn hai điều kiện:
- Do NLĐ ốm đau, tai nạn rủi ro hay do con dưới 07 tuổi bị ốm đau dẫn đến
việc NLĐ phải nghỉ việc để điều trị. Đây dường như là hệ quả thường xảy ra trong
các trường hợp NLĐ bị ốm đau.

- Việc ốm đau và phải nghỉ việc để điều trị phải có xác nhận của cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền theo quy định của Bộ Y tế. Đây là điều kiện về thủ
tục liên quan trực tiếp tới hồ sơ hưởng bảo hiểm ốm đau của NLĐ.
Các điều kiện về việc ốm đau, phải nghỉ việc để điều trị được coi là điều kiện
cần thì điều kiện về sự xác nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền là điều kiện đủ. Việc
có xác nhận của cơ sở y tế là cần thiết vì đây chính là căn cứ pháp lý để chứng minh
sự kiện pháp lý về bảo hiểm ốm đau đã phát sinh và cũng là căn cứ để cơ quan bảo
hiểm thanh toán bảo hiểm đối với đối tượng thụ hưởng.
Thứ hai: Chế độ thai sản
Chế độ này được coi là chế độ bảo hiểm đặc thù vì nó bao gồm các quy định
của Nhà nước nhằm bảo hiểm thu nhập và đảm bảo sức khỏe cho lao động nữ nói
riêng khi mang thai, sinh con và cho NLĐ nói chung khi ni con sơ sinh. Đây là
chính sách vừa tạo điều kiện để lao động nữ thực hiện thiên chức làm mẹ, vừa đảm
bảo cho họ thực hiện tốt công tác xã hội, tạo động lực cho bình đẳng giới.
Căn cứ để được hưởng chế độ này đầu tiên phải là NLĐ (không phân biệt là
LĐ nam hay LĐ nữ) thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc với thời hạn: Đóng
BHXH từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận
nuôi con nuôi. Đối với lao động nữ sinh con nhưng có chỉ định của cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì ngồi u cầu đóng BHXH đủ 12 tháng trở lên
còn phải đáp ứng yêu cầu là phải đóng BHXH từ đủ 03 tháng trở lên trong thời gian
12 tháng trước khi sinh con và thuộc các trường hợp sau:
- Là lao động nữ mang thai, sinh con, người mang thai hộ và người nhờ
mang thai hộ, người nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi, người đặt vòng tránh
thai, triệt sản.
- Là lao động nam đóng BHXH có vợ sinh con
Với quy định thời gian đóng BHXH trước khi hưởng chế độ thai sản thì pháp
luật BHXH thai sản ở nước ta được coi là phù hợp với pháp luật của một số nước


10

trong khu vực. Pháp luật lao động của Thái Lan quy định phải có 07 tháng đóng góp
trong 15 tháng trước khi sinh. Pháp luật lao động của Singapore quy định ít nhất phải
có 06 tháng làm việc. Nhật Bản quy định phải có 12 tháng làm việc trước đó.
Philippin trợ cấp thai sản được thực hiện trong 04 lần sinh, với điều kiện lao động nữ
phải đóng bảo hiểm xã hội 03 tháng trong vòng 12 tháng trước khi sinh3. Luật BHXH
của Việt Nam không giới hạn số lần sinh con được hưởng chế độ bảo hiểm thai sản.
Thứ ba: Chế độ hưu trí
Chế độ hưu trí: Bao gồm chế độ hưu trí hàng tháng và chế độ BHXH một lần.
 Chế độ hưu trí hàng tháng: Được áp dụng đối với NLĐ đã hết tuổi lao
động hoặc bị suy giảm khả năng lao động nhằm trợ cấp về vật chất cho họ khi bị
mất nguồn thu nhập khi khơng cịn tham gia quan hệ lao động. Để được hưởng chế
độ này, NLĐ có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên và thuộc một trong các trường hợp:
- Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi
- Nam từ đủ 55 tuổi, nữ từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi và có đủ 15 năm làm
nghề hoặc cơng việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc
hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Y tế, Bộ Lao động – Thương binh và xã hội
ban hành hoặc có đủ 15 năm làm việc ở nơi có hệ số phụ cấp khu vực từ 0,7 trở lên
- NLĐ từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên mà
trong đó có đủ 15 năm làm việc khai thác than trong hầm lò.
- Người bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp.
- NLĐ có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên bị suy giảm khả năng lao động từ
61% trở lên được hưởng lương hưu với mức thấp hơn nếu thuộc một trong các
trường hợp sau:
+ Từ ngày 01/01/2016, nam đủ 51 tuổi, nữ đủ 46 tuổi. Sau đó mỗi năm tăng
thêm một tuổi cho đến năm 2020 trở đi, nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi.
+ Nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi và bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.
+ Bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên và có đủ 15 năm trở lên làm
nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ
Lao động – Thương binh và xã hội, Bộ Y tế ban hành.
 Chế độ BHXH một lần: Chế độ này được áp dụng cho những NLĐ khơng

đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí hàng tháng. Để được hưởng chế độ này, NLĐ
phải thuộc một trong những điều kiện sau:
3

Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật an sinh xã hội, NXB Tư pháp, tr. 146.


11
- Đủ tuổi hưởng lương hưu nhưng chưa đủ 20 năm đóng BHXH.
- Ra nước ngồi để định cư
- Người đang bị mắc một trong những bệnh nguy hiểm đến tính mạng như
ung thư, bại liệt, xơ gan cổ chướng, phong, lao nặng, nhiễm HIV đã chuyển sang
AIDS và những bệnh khác theo quy định của Bộ Y tế.
Thứ tư: Chế độ tử tuất:
Chế độ này bao gồm trợ cấp mai táng phí và trợ cấp tuất.
 Trợ cấp mai táng: NLĐ thuộc các trường hợp sau đây thì người lo mai
táng sẽ nhận được trợ cấp mai táng:
- Là NLĐ đang đóng BHXH hoặc NLĐ đang bảo lưu thời gian đóng BHXH
mà có thời gian đóng từ đủ 12 tháng trở lên.
- NLĐ chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc chết trong thời gian
điều trị do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
- Người đang hưởng lương hưu, hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghê
nghiệp hàng tháng đã nghỉ việc
- Những người thuộc các trường hợp trên bị Tòa án tuyên bố là mất tích
 Trợ cấp tuất: NLĐ thuộc trường hợp mà nhân thân được hưởng chế độ mai
táng khi có nhân thân4 thuộc các trường hợp sau đây thì được họ được hưởng chế độ
trợ cấp tuất:
- Đã đóng BHXH đủ 15 năm trở lên nhưng chưa hưởng BHXH một lần
- Đang hưởng lương hưu
- Chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

- Đang hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng với
mức suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên
4

Thân nhân của NLĐ nêu trên bao gồm:
- Con chưa đủ 18 tuổi, con từ đủ 18 tuổi trở lên nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; con
được sinh ra khi người bố chết mà người mẹ đang mang thai.
- Vợ từ đủ 55 tuổi trở lên hoặc chồng đủ 60 tuổi trở lên; vợ dưới 55 tuổi, chồng dưới 60 tuổi nếu bị suy
giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.
- Cha đẻ, mẹ đẻ, cha đẻ của vợ hoặc cha đẻ của chồng, mẹ đẻ của vợ hoặc mẹ đẻ của chồng, thành viên
khác trong gia đình mà người tham gia BHXH đang có nghĩa vụ ni dưỡng theo quy định pháp luật về hơn
nhân gia đình nếu từ đủ 60 tuổi trở lên đối với nam, từ đủ 55 tuổi trở lên đối với nữ
- Cha đẻ, mẹ đẻ, cha đẻ của vợ hoặc cha đẻ của chồng, mẹ đẻ của vợ hoặc mẹ đẻ của chồng, thành viên
khác trong gia đình mà người tham gia BHXH đang có nghĩa vụ ni dưỡng theo quy định của pháp luật về
hơn nhân gia đình nếu dưới 60 tuổi đối với nam, dưới 55 tuổi đối với nữ và bị suy giảm khả năng lao động
từ 81% trở lên.
- Những nhân thân là cha, mẹ, thành viên khác nêu trên phải khơng có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng
thấp hơn mức lương cơ sở. Số lượng nhân thân khơng q 04 người, nếu có từ 02 người chết trở lên thì
nhân thân được hưởng 02 lần mức trợ cấp theo quy định.


12
1.3. Quyền hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc khi người sử
dụng lao động vi phạm nghĩa vụ thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc
Theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Luật BHXH về thời gian đóng BHXH: “Là
thời gian được tính từ khi NLĐ bắt đầu đóng BHXH cho đến khi dừng đóng”. Thời
gian này được căn cứ vào thời gian tham gia được ghi nhận tại Sổ BHXH. Theo đó,
việc xác nhận thời gian này phải đảm bảo nguyên tắc được ghi nhận tại mục 2.12
khoản 2 Điều 12 Quyết định số 595/QĐ-BHXH:
- Nội dung ghi trong Sổ BHXH phải đầy đủ theo từng giai đoạn tương ứng

với mức đóng và điều kiện làm việc của người tham gia BHXH (kể cả thời gian
NLĐ không làm việc và không hưởng tiền lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong
tháng như nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau, thai sản; nghỉ việc không hưởng tiền
lương; tạm hoãn HĐLĐ).
- Đối với đơn vị nợ tiền đóng BHXH nếu NLĐ đủ điều kiện hưởng BHXH
hoặc chấm dứt HĐLĐ, HĐLV thì đơn vị có trách nhiệm đóng đủ BHXH bao gồm
cả tiền lãi chậm đóng theo quy định, cơ quan BHXH xác nhận Sổ BHXH để kịp
thời giải quyết chế độ BHXH cho NLĐ.
- Đối với trường hợp đơn vị nợ tiền đóng BHXH mà chưa đóng đủ thì xác
nhận sổ BHXH đến thời điểm đã đóng BHXH. Sau khi thu hồi được số tiền đơn vị
cịn nợ thì xác nhận bổ sung trên Sổ BHXH.
Theo quy định nêu trên, trong trường hợp doanh nghiệp vi phạm nghĩa vụ
BHXH, NLĐ vẫn được hưởng các chế độ BHXH nhưng ngoài các điều kiện hưởng
BHXH theo quy định của Luật BHXH thì cịn phải đáp ứng thêm điều kiện: doanh
nghiệp đóng đủ số tiền BHXH hoặc khi cơ quan BHXH thu hồi đủ số tiền BHXH
vào quỹ BHXH.
Tại bản án số: 01/2017/LĐ-ST về việc “Tranh chấp về thanh tốn tiền
BHXH”5 của TAND thị xã Ninh Hịa, tỉnh Khánh Hòa. Tòa án đã xác định căn cứ
được hưởng chế độ thai sản của NLĐ như sau: “Bà L với Công ty TNHH xây
dựng T do ông T làm Giám đốc có ký HĐLĐ số: 07/2009 ngày 01/10/2009 với
cơng việc được giao tại Cơng ty là kế tốn bán hàng cho đến tháng 12/2012. Từ
tháng 05/2012, bà sinh con nên nghỉ theo chế độ thai sản đến tháng 9 năm 2012.
Tại thời điểm nghỉ chế độ thai sản thì bà có yêu cầu cơ quan BHXH thị xã N chi
trả khoản tiền được hưởng theo quy định nhưng do Công ty TNHH xây dựng T
5

Phụ lục số 1 của Luận văn.


13

cịn nợ tiền BHXH nên BHXH thị xã N khơng chi trả để giải quyết chế độ thai sản
cho bà. Đến quý 4/2015, cơ quan BHXH thị xã N đã thực hiện chi trả tiền trợ cấp
thai sản cho bà L theo phiếu UNC số 431 ngày 30/12/2015 với số tiền 9.600.000đ
cho đơn vị Công ty TNHH xây dựng T để chi trả chế độ BHXH cho bà L”. Như
vậy trong vụ án này, bà L đã đủ điều kiện được hưởng chế độ BHXH thai sản từ
tháng 5 năm 2012 nhưng do Cơng ty T cịn nợ tiền BHXH nên bà L được hưởng
chế độ BHXH thai sản khi có căn cứ Cơng ty T hồn thành nghĩa vụ đóng BHXH
cho NLĐ tại cơ quan BHXH, nên tới tháng 12/2015, cơ quan BHXH mới chi trả
chế độ thai sản cho bà L.
Tại bản án số: 07/2017/LĐ-ST về việc “Tranh chấp bảo hiểm xã hội” của
TAND thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương6. Theo bản án: Ơng T làm việc tại Công ty P từ
tháng 02/2012 đến tháng 09/2016. Công ty chỉ trích nộp tiền BHXH đến tháng
05/2016, cịn thời gian từ tháng 6/2016 đến tháng 8/2016 thì khơng thực hiện tiếp. Đến
tháng 7/2017, Công ty P chưa chốt và trả Sổ BHXH cho ông T. Cơ quan BHXH thị xã
D, tỉnh B xác định: “đến tháng 5/2017, Công ty P còn nợ BHXH thị xã D số tiền
2.235.748.485 đồng. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc truy đóng
BHXH từ tháng 06/2016 đến tháng 08/2016 thì đề nghị Công ty tham gia BHXH cho
NLĐ theo đúng thời gian ký kết trên hợp đồng lao động, bảng lương và quyết định nghỉ
việc của Công ty. Về yêu cầu trả sổ BHXH cho nguyên đơn thì BHXH thị xã D sẽ thực
hiện sau khi Cơng ty thanh tốn số tiền BHXH còn nợ và làm hồ sơ bảo lưu BHXH và
gửi đến BHXH thị xã D theo đúng quy định”. Bản án tuyên xử buộc Công ty P có trách
nhiệm đóng BHXH cho ơng T từ tháng 06/2016 đến tháng 08/2016 tại BHXH thị xã D
và trả Sổ BHXH cho ơng T có xác nhận q trình tham gia BHXH theo quy định pháp
luật. Trong trường hợp này, NLĐ muốn được hưởng các chế độ BHXH tại doanh
nghiệp vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH thì ngồi các điều kiện hưởng theo quy định của
pháp luật thì cịn phải chờ doanh nghiệp “thanh tốn số tiền BHXH cịn nợ và làm hồ
sơ bảo lưu BHXH và gửi đến BHXH thị xã D theo đúng quy định”.
Tại bản án số: 04/2017/LĐ-ST về việc “Tranh chấp bảo hiểm xã hội và bảo
hiểm thất nghiệp” của TAND thành phố N, tỉnh Nam Định7. Theo bản án: Anh L là
NLĐ tại Công ty B từ tháng 01/2013 đến tháng 03/2017 nhưng Công ty chỉ đóng

BHXH cho anh từ tháng 08/2013 đến tháng 10/2013. Do đó, anh L u cầu Cơng ty
phải đóng tiếp BHXH, BHTN cho anh từ tháng 11/2013 đến tháng 3/2017. Theo
6
7

Phụ lục số 2 của Luận văn.
Phụ lục số 3 của Luận văn.


14
BHXH thành phố N, tỉnh Nam Định thì: Tại thời điểm tháng 5/2017, Cơng ty B
đang nợ tiền đóng BHXH, BHYT, BHTN tại đơn vị là 3.395.742.664VNĐ. Quan
điểm của BHXH thành phố N “yêu cầu Công ty B phải thanh tốn nợ tiền đóng
BHXH, BHYT, BHTN đối với NLĐ trong đó có anh L tại đơn vị là 3.395.742.664
VNĐ (đã tính cả lãi suất chậm thanh tốn)”. Bản án tun xử: Buộc Công ty B phải
nộp số tiền BHXH của anh L cho BHXH thành phố N từ thời điểm tháng 11/2013
đến tháng 02/2017 là 32.116.000 VNĐ và buộc Công ty phải trả lại Sổ BHXH cho
anh L. Đối với u cầu Cơng ty B phải thanh tốn số tiền 3.395.742.664 VNĐ bản
án khơng giải quyết và nếu có u cầu thì Tịa án sẽ giải quyết ở vụ án khác. Như
vậy, đối với doanh nghiệp vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH, Tịa án xác định doanh
nghiệp phải thanh tốn tiền BHXH còn nợ tại cơ quan BHXH và trả Sổ BHXH của
chính NLĐ đó chứ khơng bắt buộc phải thanh tốn đầy đủ tồn bộ số nợ tiền BHXH
của doanh nghiệp tại cơ quan BHXH.
Tại bản án số: 08/2018/LĐ-PT về việc “Tranh chấp về bảo hiểm xã hội” của
Tòa án nhân dân TP. Hà Nội8. Theo bản án, bà Cẩm làm việc từ tháng 12/1984 cho
đến tháng 7/2014; tháng 8/2014 Cơng ty có Quyết định cho bà ngừng đóng BHXH
và giới thiệu bà Cẩm đi giám định sức khỏe; tháng 11/2014, Cơng ty có Quyết định
cho bà nghỉ việc để hưởng chế độ BHXH. Tuy nhiên, Công ty đã rút lại Quyết định
này và không tiến hành chốt Sổ BHXH, làm các thủ tục để bà được hưởng chế độ
BHXH hưu trí. Lí do Cơng ty đưa ra là do thẩm quyền cho bà Cẩm nghỉ hưu không

phải do Tổng giám đốc quyết định, cổ đơng cơng ty cịn có nhiều khiếu nại cần làm
rõ nên Cơng ty khơng đồng ý làm thủ tục nghỉ hưu cho bà Cẩm. Đáng tiếc tại bản
án này không nêu rõ tỷ lệ suy giảm sức khỏe của bà Cẩm và xác định bà có đủ điều
kiện hưởng chế độ BHXH hưu trí hay không. Tuy nhiên, việc Công ty nại lý do
“không đồng ý làm thủ tục cho bà Cẩm vì hai bên chưa giải quyết xong những
vướng mắc” là khơng có căn cứ theo quy định của Luật BHXH. Vì bà Cẩm đã đủ
điều kiện về số năm tham gia BHXH, nếu bà chưa đủ tuổi nghỉ hưu thì có quyền
bảo lưu chờ tới khi đủ tuổi nghỉ hưu để giải quyết chế độ hưu trí. Trong vụ án này,
quyền hưởng BHXH hưu trí của NLĐ bị vi phạm khơng phải từ việc doanh nghiệp
chậm đóng BHXH mà từ việc doanh nghiệp khơng lập thủ tục gửi tới cơ quan
BHXH. Vì vậy, tác giả đồng ý với quan điểm của bản án sơ thẩm với quyết định
“buộc Công ty cổ phần bê tông xây dựng Hà Nội chốt sổ BHXH và chuyển hồ sơ
8

Phụ lục số 4 của Luận văn.


15
hưởng lương hưu đến BHXH quận Bắc Từ Liêm để giải quyết chế độ hưu trí cho bà
Cẩm từ tháng 11/2014 theo quy định của Luật BHXH kể từ ngày tuyên án”.
Theo quy định của pháp luật và thực tiễn xét xử cho thấy, trong trường hợp
doanh nghiệp vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH, NLĐ muốn được hưởng các chế độ
BHXH ngoài việc đáp ứng các điều kiện hưởng chế độ theo quy định của luật thì
đều phải đáp ứng thêm điều kiện: doanh nghiệp đóng đủ tiền BHXH cịn nợ cho cơ
quan BHXH. Việc yêu cầu doanh nghiệp đóng đủ số tiền nợ BHXH khơng có sự
thống nhất trong thực tiễn xét xử: Có Tịa án buộc doanh nghiệp đóng đầy đủ tồn
bộ tiền nợ BHXH của tất cả NLĐ có trong doanh nghiệp thì mới giải quyết chế độ
BHXH cho NLĐ; có Tịa án chỉ tun buộc doanh nghiệp đóng tiền nợ BHXH của
chính NLĐ khởi kiện để NLĐ được hưởng chế độ BHXH.
Như đã phân tích, việc trích tiền lương của NLĐ hàng tháng và việc nộp tiền

vào quỹ BHXH là nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nghiệp. Tại các vụ án nêu ở
trên, hàng tháng, doanh nghiệp vẫn trích từ tiền lương của NLĐ để nộp tiền vào quỹ
BHXH nhưng thực tế, doanh nghiệp chiếm dụng số tiền này. Từ việc chiếm dụng
này làm cho NLĐ không được hưởng chế độ BHXH theo đúng quyền lợi mà lẽ ra
họ được hưởng. NLĐ đã thực hiện đúng nghĩa vụ của mình nên họ có quyền hưởng
chế độ BHXH theo đúng nguyên tắc quy định tại khoản 1 Điều 3, khoản 5 Điều 5
Luật BHXH. Đối với doanh nghiệp, việc chiếm dụng và chậm nộp tiền BHXH bắt
buộc vào quỹ BHXH là lỗi thuộc về doanh nghiệp. Ngoài các căn cứ hưởng chế độ
theo quy định của pháp luật thì tất cả NLĐ đều phải chờ doanh nghiệp đóng đủ tiền
nợ vào quỹ BHXH. Trong pháp luật đã có quy định rõ về cơ chế bồi thường thiệt
hại9. Thêm vào đó, khoản 2 Điều 116 Luật BHXH đã có quy định: Trường hợp nộp
hồ sơ và giải quyết chế độ BHXH chậm so với thời hạn quy định, gây thiệt hại đến
quyền, lợi ích hợp pháp của người hưởng thì phải bồi thường theo quy định của
pháp luật, trừ trường hợp do lỗi của NLĐ hoặc thân nhân của NLĐ thuộc đối tượng
được hưởng chế độ BHXH. Trong trường hợp doanh nghiệp vi phạm nghĩa vụ về
BHXH, rõ ràng đã có hành vi vi phạm pháp luật về BHXH, có thiệt hại xảy ra cho
NLĐ và có mối quan hệ nhân quả giữa việc vi phạm pháp luật của doanh nghiệp với
hậu quả xảy ra đối với NLĐ nên ngồi việc được hưởng các chế độ, NLĐ cịn được
bồi thường đối với những thiệt hại tương ứng xảy ra.
9

Khoản 1 Điều 584 BLDS năm 2015 có quy định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải
bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan có quy định khác”.


16
Từ những phân tích trên, tác giả đề xuất giải pháp đảm bảo quyền hưởng
BHXH của NLĐ tại các doanh nghiệp vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH như sau:
Một là, Khi NLĐ có các căn cứ để được hưởng chế độ BHXH mà doanh

nghiệp vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH thì NLĐ vẫn được hưởng các chế độ BHXH
đầy đủ, kịp thời; việc hoàn trả các khoản tiền theo chế độ BHXH mà NLĐ đã được
hưởng sẽ do doanh nghiệp thực hiện với cơ quan BHXH theo cơ chế bồi thường
thiệt hại. Khi thực hiện việc hoàn trả các khoản tiền mà NLĐ được hưởng theo chế
độ BHXH khi doanh nghiệp vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH có thuận lợi: Thứ nhất,
đảm bảo NLĐ được hưởng chế độ BHXH đầy đủ, kịp thời theo đúng nguyên tắc
của BHXH: đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi họ bị
giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, hết tuổi lao động hoặc chết; và việc
thực hiện BHXH phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, đảm bảo kịp thời và đầy đủ
quyền lợi của người tham gia BHXH. Thứ hai, cụ thể hóa được trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ thu – nộp BHXH vào quỹ BHXH.
Hai là, đối với các doanh nghiệp vi phạm nghĩa vụ BHXH nhưng chủ doanh
nghiệp bỏ trốn hoặc doanh nghiệp đang trong thời gian kiện đòi BHXH, đang trong
thời gian làm thủ tục giải thể, phá sản thì cần thực hiện đồng bộ các giải pháp: i) Bổ
sung quy định vào Luật Ngân sách hoặc ban hành Nghị định quy định về việc ngân
sách Nhà nước hỗ trợ đối với các doanh nghiệp này, đảm bảo quyền lợi cho NLĐ; ii)
Đối với cơ quan BHXH: khi xảy ra trường hợp này thì cần chủ động liên hệ với những
người trực tiếp phụ trách công tác nhân sự của doanh nghiệp để phối hợp thống kê, rà
sốt hồn tất các thủ tục nhằm kịp thời chốt, trả sổ BHXH, chi trả chế độ BHXH cho
NLĐ; iii) Đối với Cơng đồn các cấp, cơ quan BHXH cần phối kết hợp để trích kinh
phí của Cơng đồn, của Quỹ BHXH đóng BHXH cho NLĐ đặc biệt là các lao động
đang ốm đau, lao động nữ nghỉ thai sản nhằm kịp thời chi trả chế độ BHXH. Đồng
thời, Công đoàn hỗ trợ NLĐ các thủ tục khởi kiện để địi lương và BHXH; hỗ trợ giới
thiệu và tìm việc làm mới cho NLĐ để giảm bớt gánh nặng cho quỹ BHXH đối với chế
độ BHTN. Đây là cách làm thực tiễn đang được áp dụng hiện nay khi tình trạng chủ
doanh nghiệp là người nước ngoài bỏ trốn mà còn nợ lương của NLĐ, nợ tiền BHXH
tại cơ quan BHXH và đạt hiệu quả cao như: Liên đoàn lao động (LĐLĐ) tỉnh Đồng
Nai đối với Công ty Texwell Vina, LĐLĐ TP. Hồ Chí Minh đối với Cơng ty Bum Jin
Vina, LĐLĐ quận Gị Vấp đối với Cơng ty sản xuất, xuất nhập khẩu Hưng Phú10.
10


(truy cập ngày 29/7/2018).


17
Ba là, hiện nay Sổ BHXH đã được giao cho NLĐ giữ. Vì vậy, cần sửa đổi,
bổ sung quy định về việc NLĐ khi xác định mình trong trường hợp được hưởng chế
độ BHXH thì được liên hệ trực tiếp cơ quan BHXH để làm thủ tục mà không cần
văn bản đề nghị của NSDLĐ.
Tác giả tin rằng, với các quy định khá chặt chẽ của pháp luật, cùng với việc
thực hiện các đề xuất nêu trên, việc đảm bảo quyền hưởng BHXH của NLĐ tại các
doanh nghiệp vi phạm nghĩa vụ BHXH bắt buộc là khả thi, đạt hiệu quả cao.


18
CHƯƠNG 2. BẢO HIỂM TAI NẠN LAO ĐỘNG – BỆNH NGHỀ NGHIỆP
Theo Điều 142 BLLĐ, khoản 8 Điều 3 Luật ATVSLĐ thì TNLĐ là tai nạn
gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho
NLĐ, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm
vụ lao động.Theo Điều 143 BLLĐ, khoản 9 Điều 3 Luật ATVSLĐ thì BNN là bệnh
phát sinh do điều kiện lao động có hại của nghề nghiệp tác động đối với NLĐ. Dù
khác nhau về nguyên nhân, tính chất, biểu hiện lâm sàng xong giữa TNLĐ và BNN
lại có điểm chung là đều làm suy giảm khả năng lao động của NLĐ hoặc gây tử
vong, từ đó làm giảm hoặc mất thu nhập từ lao động của NLĐ. Chính vì thế, NLĐ
bị TNLĐ hay BNN đều là đối tượng áp dụng chung một chế độ BHXH.
2.1. Nghĩa vụ tham gia bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN là một trong những chế độ BHXH bắt buộc
được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 4 Luật BHXH. Do đó, đối tượng tham gia
BHXH bắt buộc chính là đối tượng phải tham gia BHTN, BNN và đối tượng này
được quy định tại Điều 43 Luật ATVSLĐ; điểm a, b, c, d, đ, e và h khoản 1, khoản

3 Điều 2 Luật BHXH bao gồm NSDLĐ và NLĐ, cụ thể:
NSDLĐ tham gia bảo hiểm TNLĐ, BNN bao gồm: Cơ quan nhà nước, đơn
vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội
khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt
Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá
nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo HĐLĐ.
NLĐ là công dân Việt Nam, người nước ngoài làm việc trên lãnh thổ Việt
Nam thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm TNLĐ, BNN gồm: Người làm việc theo
HĐLĐ không xác định thời hạn, HĐLĐ xác định thời hạn, HĐLĐ theo mùa vụ
hoặc theo một cơng việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể
cả HĐLĐ được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp
luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động; người làm việc
theo HĐLĐ có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng; cán bộ, công chức, viên
chức; công nhân quốc phịng, cơng nhân cơng an, người làm cơng tác khác trong tổ
chức cơ yếu; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ
quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người
làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân; hạ sĩ quan, chiến sĩ quân


19
đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; học viên
quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí; người đi làm
việc ở nước ngồi theo hợp đồng quy định tại Luật người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng; người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều
hành hợp tác xã có hưởng tiền lương; người hoạt động khơng chun trách ở xã,
phường, thị trấn; người hưởng chế độ phu quân, phu nhân tại cơ quan đại diện của
Việt Nam ở nước ngồi; người lao động là cơng dân nước ngồi vào làm việc tại
Việt Nam có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành
nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp. Người lao động là người nước

ngoài hoặc người Việt Nam mà HĐLĐ có thời hạn từ 01 đến 03 tháng thì tham gia
bảo hiểm TNLĐ, BNN từ ngày 01/01/2018 (khoản 1 Điều 124 Luật BHXH).
Khi có đối tượng thuộc trường hợp tham gia bảo hiểm TNLĐ, BNN thì
NSDLĐ lập hồ sơ và gửi tới cơ quan BHXH.
Mức đóng bảo hiểm TNLĐ, BNN được quy định tại Điều 44 Luật ATVSLĐ;
Điều 3 Nghị định số 44/2017/NĐ-CP ngày 14/4/2017 như sau: 0,5% trên quỹ tiền
lương làm căn cứ đóng BHXH của NLĐ trừ trường hợp NLĐ là người giúp việc gia
đình (hoặc trên mức lương cơ sở đối với NLĐ là hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân
dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ cơng an nhân dân phục vụ có thời hạn; học viên quân đội,
công an, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí) làm căn cứ đóng BHXH
của NLĐ.
Phương thức đóng bảo hiểm TNLĐ, BNN được quy định tại khoản 3 Điều 44
Luật ATVSLĐ; Điều 7, Điều 19 Quyết định 595/QĐ-BHXH: Hàng tháng, chậm
nhất là đến ngày cuối cùng của tháng, đơn vị trích tiền đóng BHXH bắt buộc trên
quỹ tiền lương tháng của NLĐ tham gia BHXH bắt buộc, đồng thời trích từ tiền
lương tháng đóng BHXH bắt buộc của từng NLĐ theo mức quy định, chuyển cùng
một lúc vào tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH mở tại Ngân hàng hoặc Kho
bạc nhà nước.
2.2. Điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Điều kiện để NLĐ được hưởng chế độ bảo hiểm được quy định tại Điều 43,
44 Luật BHXH; Điều 45, 46 Luật ATVSLĐ. Cụ thể, NLĐ khi đáp ứng các điều
kiện sau đây thì được hưởng chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN:
- Đối với TNLĐ: NLĐ được hưởng khi có đủ các điều kiện sau: Bị suy giảm
khả năng lao động từ 5% trở lên do tai nạn thuộc một trong các trường hợp: Tại nơi


20
làm việc và trong giờ làm việc; Ngoài nơi làm việc hoặc ngồi giờ làm việc khi thực
hiện cơng việc theo yêu cầu của NSDLĐ.
- Trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc trong khoảng thời gian

và tuyến đường hợp lí.
 Đối với BNN: NLĐ được hưởng khi bị suy giảm khả năng lao động từ 5%
trở lên do bị bệnh thuộc danh mục BNN do Bộ Y tế và Bộ Lao động – Thương binh
và xã hội ban hành11 khi làm việc trong môi trường hoặc nghề có yếu tố độc hại.
 Mức hưởng: Theo quy định tại Điều 46, Điều 47, Điều 49, Điều 50, Điều
51, Điều 52 Luật BHXH; Điều 48, Điều 49, Điều 51, Điều 52, Điều 53, Điều 54,
Điều 55 Luật ATVSLĐ thì tùy thuộc vào mức độ suy giảm khả năng lao động mà
chia ra các mức hưởng:
- Trợ cấp một lần: đối với NLĐ bị suy giảm khả năng lao động từ 5%- 30%
thì được hưởng 05 lần mức lương cơ sở, sau 5% thì mỗi % suy giảm sẽ được hưởng
thêm 0.5 lần mức lương cơ sở. Ngồi ra cịn mức trợ cấp tính theo số năm đóng
BHXH, từ 01 năm trở xuống bằng 0,5 tháng, sau đó mỗi năm tính thêm 0,3 tháng
tiền lương của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị.
- Trợ cấp hàng tháng: đối với NLĐ bị suy giảm khả năng lao động từ 31%
trở lên thì được hưởng bằng 30% mức lương cơ sở, sau đó cứ mỗi % được tính
thêm 2% mức lương cơ sở. Ngồi ra, mức trợ cấp tính theo số năm đóng BHXH
được tính như trường hợp trợ cấp một lần.
- Trợ cấp một lần khi chết do TNLĐ, BNN: Khi NLĐ bị chết do TNLĐ,
BNN hoặc trong lần đầu điều trị TNLĐ, BNN thì thân nhân được hưởng bằng mức
36 lần mức lương cơ sở.
- Trợ cấp phục vụ: được áp dụng đối với NLĐ bị suy giảm khả năng lao động
từ 81% trở lên mà bị liệt cột sống hoặc mù hai mắt hoặc cụt, liệt hai chi hoặc bị
bệnh tâm thần thì ngồi mức trợ cấp hàng tháng cịn được hưởng trợ cấp phục vụ
bằng mức lương cơ sở.
- Ngoài mức hưởng trợ cấp nêu trên, nếu NLĐ sau khi điều trị ổn định
thương tật mà sức khỏe chưa phục hồi thì được hưởng chế độ nghỉ dưỡng sức phục
hồi sức khỏe từ 05-10 ngày, mức hưởng 01 ngày bằng 25% mức lương cơ sở nếu
nghỉ dưỡng tại nhà, bằng 40% mức lương cơ sở nếu nghỉ dưỡng tại cơ sở tập trung.
NLĐ khi trở lại làm việc mà phải đào tạo lại để chuyển đổi nghề nghiệp thì được hỗ
11


Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư số 15/2016/TT-BYT ngày 15/5/2016 của Bộ Y tế quy định về bệnh
nghề nghiệp được hưởng bảo hiểm xã hội.


×