Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của tòa án nhân dân cấp huyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (739.81 KB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TRƢƠNG VĂN TÙNG

THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT
KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH CỦA
TỊA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TRƢƠNG VĂN TÙNG

THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT
KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH CỦA
TỊA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật hiến pháp và luật hành chính
Mã số: 60380102

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Văn Quang

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính
của Tịa án nhân dân cấp huyện” là cơng trình nghiên cứu độc lập của bản
thân với sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn. Những thông tin, dữ liệu đưa ra
trong luận văn được trích dẫn rõ ràng, đầy đủ về nguồn gốc đảm bảo tính
khách quan trung thực.
Tác giả

Trƣơng Văn Tùng


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CSVN

Cộng sản Việt Nam

HCNN

Hành chính nhà nước

HĐXX

Hội đồng xét xử

HVHC

Hành vi hành chính

KKHC


Khiếu kiện hành chính

Luật TTHC 2010

Luật TTHC 2015

Nghị Quyết số
01/2015/NQ-HĐTP ngày
15/01/2015

Luật tố tụng hành chính (Luật số 64/2010/QH12)
năm 2010, có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/7/2011
Luật tố tụng hành chính (Luật số 93/2015/QH13)
năm 2015, có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/7/2016
Nghị Quyết số 01/2015/NQ-HĐTP ngày 15/01/2015
của Hội đồng thẩm phán TANDTC sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP
ngày 29/7/2011 của Hội đồng thẩm phán TANDTC
hướng dẫn một số quy định của Luật Tố tụng hành
chính

Nghị quyết số
Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP, ngày 29/7/2011
02/2011/NQ - HĐTP ngày
của Hội đồng Thẩm phán TANDTC
29/7/2011
Pháp lệnh TTGQCVAHC Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính

QĐHC

Quyết định hành chính

QPPL

Quy phạm phạm pháp luật

TANDTC

Tịa án nhân dân tối cao

TTHC

Tố tụng hành chính

VAHC

Vụ án hành chính

VKSNDTC

Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT
KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ..................... 7
1.1. Một số khái niệm cơ bản ................................................................... 7

1.1.1. Khiếu kiện hành chính .................................................................. 7
1.1.2. Thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tịa án nhân dân.
............................................................................................................. 10
1.2. Cơ sở xác lập thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của
tịa án nhân dân. ......................................................................................... 17
1.3 Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc thực hiện thẩm quyền giải quyết
khiếu kiện hành chính của Tịa án nhân dân ............................................ 22
1.3.1. Ý thức pháp luật của người tham gia tố tụng hành chính ............ 22
1.3.2. Ý thức pháp luật của người tiến hành tố tụng hành chính. .......... 23
1.3.3. Hệ thống pháp luật về quản lý hành chính nhà nước .................. 25
1.3.4. Hệ thống tổ chức của Tịa án nhân dân nói chung và Tịa án thực
hiện thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính ....................................... 26
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT KHIẾU
KIỆN HÀNH CHÍNH CỦA TỊA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN............ 28
2.1. Khái lƣợc về sự phát triển của các quy định pháp luật về thẩm
quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tòa án nhân dân ở nƣớc ta
hiện nay ....................................................................................................... 28
2.2. Những quy định pháp luật hiện hành về Thẩm quyền giải quyết
khiếu kiện hành chính của Tịa án nhân dân cấp huyện .......................... 32
2.2.1. Thẩm quyền theo loại việc .......................................................... 32
2.2.2. Thẩm quyền theo cấp xét xử và thẩm quyền theo lãnh thổ........... 38
2.2.3. Thẩm quyền của Tòa án trong trường hợp vừa có khiếu nại vừa
khiếu kiện ..................................................................................................... 42
2.2.4. Thẩm quyền của Tòa án trong việc thụ lý vụ án .......................... 44


2.2.5. Về thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ... 49
2.3. Thực tiễn thi hành thẩm quyền giải quyết khiếu kiện của TAND
cấp huyện .................................................................................................... 51

CHƢƠNG 3. NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN
HÀNH CHÍNH CỦA TỊA ÁN CẤP HUYỆN .......................................... 60
3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu kiện hành
chính của Tịa án cấp huyện ...................................................................... 60
3.2. Phƣơng hƣớng nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu kiện hành chính
của Tịa án cấp huyện ................................................................................. 62
3.3. Một số giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu kiện
hành chính của Tịa án cấp huyện ............................................................. 63
3.3.1. Hồn thiện pháp luật tố tụng hành chính .................................... 63
3.3.2. Hồn thiện pháp luật làm cơ sở để Tòa án giải quyết khiếu kiện
hành chính.................................................................................................... 66
3.3.3. Hồn thiện mơ hình tổ chức Tòa án để bảo đảm độc lập xét xử .. 67
3.3.4. Bảo đảm các điều kiện cần thiết để triển khai thực hiện hiệu quả
các quy định của Luật tố tụng hành chính về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện
hành chính của Tịa án nhân dân cấp huyện ................................................. 68
KẾT LUẬN ................................................................................................. 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cải cách tư
pháp trong đó xác định Tịa án có vị trí trung tâm của hoạt động tư pháp và xét
xử trong đó có xét xử hành chính là trọng tâm của hoạt động tư pháp đang là
nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2006 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 đã chỉ rõ: “mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khiếu
kiện hành chính; đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính
tại Tịa án, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, đảm bảo sự
bình đẳng giữa cơng dân và cơ quan cơng quyền trước Tịa án”.

Luật tố tụng hành chính năm 2010 có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/7/2011 có nhiều điểm đổi mới cơ bản so với Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính theo hướng chủ đạo là: bảo đảm quyền khởi kiện; mở
rộng phạm vi thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính (KKHC) của Tịa
án và nâng cao hiệu lực, hiệu quả các phán quyết của Tòa án. Điều này đã góp
phần tạo ra cơ chế hữu hiệu hơn góp phần nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của các cá nhân, tổ chức khi quyền lợi của họ bị xâm phạm bởi các
quyết định hành chính (QĐHC), hành vi hành chính (HVHC) của các cơ quan
cơng quyền.
Tuy nhiên, thực tiễn xét xử hành chính trong những năm qua cho thấy
chất lượng giải quyết KKHC của Tịa án cấp huyện nhìn chung còn thấp, chưa
tạo được sự tin cậy cao đối với người khởi kiện. Đại bộ phận các Thẩm phán
cấp huyện cịn thiếu chun mơn sâu, thường gặp khó khăn trong giải quyết
KKHC do thiếu kiến thức pháp luật về quản lý nhà nước, ảnh hưởng trực tiếp
đến chất lượng giải quyết KKHC. Tính độc lập của Tịa án khi giải quyết
KKHC chưa thực sự được bảo đảm, Thẩm phán làm nhiệm vụ xét xử hành
chính vẫn cịn nhiều e ngại khi thực hiện việc giải quyết khiếu kiện hành chính.
Những hạn chế, bất cập nêu trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác
nhau trong đó có những nguyên nhân xuất phát từ việc xây dựng và thực hiện


2
pháp luật đặc biệt là các quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết KKHC
của các Tịa án nói chung và Tịa án cấp huyện nói riêng. Về mặt lý luận, hiện
nay vẫn cịn ít những cơng trình nghiên cứu chun sâu, tồn diện, có hệ
thống những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về thẩm quyền giải quyết
KKHC của Tịa án nhân dân cấp huyện. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách có
hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan để tìm ra giải pháp hoàn
thiện quy định pháp luật và thực hiện hiệu quả thẩm quyền giải quyết KKHC
của TAND cấp huyện ở nước ta là việc làm cần thiết.

Trên cơ sở nhận định và đánh giá như trên, tác giả đã lựa chọn đề tài
“Thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tịa án nhân dân cấp
huyện” làm đề tài nghiên cứu khoa học cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thẩm quyền giải quyết KKHC của Tịa án nói chung, Tịa án cấp huyện
nói riêng là một trong những khía cạnh quan trọng của tố tụng hành chính nên
đã có nhiều học giả, người làm công tác thực tiễn quan tâm nghiên cứu ở
những phạm vi, mức độ, các khía cạnh khác nhau. Những cơng trình nghiên
cứu này phải kể đến:
Thứ nhất, nhóm các bài viết trong các tạp chí khoa học chuyên ngành
luật, tiêu biểu là:
- Đặng Xuân Đào (2002), “Về quyền hạn của Tịa án khi giải quyết một
vụ án hành chính cụ thể”, Tập san Người bảo vệ công lý (6).
- Vũ Thư (2003), “Một số khía cạnh của việc nâng cao hiệu suất hoạt
động của Tịa Hành chính trong việc giải quyết khiếu kiện hành chính”, Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, (8).
- Trần Kim Liễu (2004), “Một số vấn đề về thẩm quyền xét xử của Toà
án nhân dân”, Tạp chí khoa học pháp lý, (2).
- Nguyễn Cửu Việt, Nguyễn Như Phát, Nguyễn Thị Việt Hương đồng
chủ biên (2010), "Vấn đề đổi mới hệ thống cơ quan tài phán hành chính ở
Việt Nam hiện nay” trong sách "Tài phán hành chính trong bối cảnh xây
dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay", Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.


3
- Nguyễn Cảnh Hợp, Nguyễn Như Phát, Nguyễn Thị Việt Hương đồng
chủ biên (2010), “Thực trạng và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai
trị tài phán hành chính của Tịa án nhân dân” trong sách "Tài phán hành
chính trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế ở

Việt Nam hiện nay", Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Quang (2011), “Luật Tố tụng hành chính 2010 và vấn đề
nâng cao hiệu quả xét xử hành chính ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”, Tạp
chí Nghề luật (4).
- Nguyễn Thắng Lợi (2011), “Bàn về một số đổi mới cơ chế giải quyết
khiếu kiện hành chính tại Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,
số chuyên đề: Luật Tố tụng hành chính.
- Lê Việt Sơn (2012), “Bàn về thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa
án nhân dân theo loại việc bị khiếu kiện”, Tạp chí khoa học pháp lý (6).
Thứ hai, nhóm các sách chuyên khảo, luận văn, luận án, tiêu biểu là:
- Nguyễn Mạnh Hùng (2002), “Thẩm quyền xét xử hành chính của tịa
án nhân dân”, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Nguyễn Thanh Bình (2003), “Thẩm quyền của tịa án nhân dân trong
việc giải quyết các khiếu kiện hành chính”, Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nhà
nước và Pháp luật.
- Hoàng Quốc Hồng (2007), “Đổi mới tổ chức và hoạt động của tịa
hành chính đáp ứng u cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện
nay”, Luận án tiến sĩ luật học,Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Nguyễn Văn Quang (2007), “Nghiên cứu so sánh về hệ thống kiểm
tra, giám sát hoạt động hành chính bằng Tịa án và cơ quan tài phán hành
chính ở Australia và Việt Nam: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”. Luận án
tiến sĩ luật học
- Trần Kim Liễu (2011), “Tịa hành chính trong nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân”, Luận án tiến sĩ luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội.


4
- Nguyễn Mạnh Hùng (2015), “Phân định thẩm quyền giải quyết khiếu
nại hành chính và thẩm quyền xét xử hành chính ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.
Thứ ba, nhóm các giáo trình pháp luật chun ngành trong đó có:
- Trường Đại học Luật Tp HCM (2014), Giáo trình Luật Tố tụng hành
chính Việt Nam, Nxb. Hồng Đức.
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Tố tụng hành
chính Việt Nam, Nxb. Cơng an nhân dân.
Các cơng trình nghiên cứu nêu trên hoặc nghiên cứu các vấn đề chung
về thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án hoặc chỉ đề cập một số nội dung
liên quan đến thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tịa án cấp
huyện mà khơng nghiên cứu tổng thể, có hệ thống lý luận cũng như thực tiễn
về thẩm quyền giải quyết KKHC của Tòa án cấp huyện. Tuy nhiên, tất cả
những bài viết, cơng trình nghiên cứu trên sẽ là nguồn tài liệu quý báu để tác
giả tham khảo khi nghiên cứu, thực hiện đề tài này.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là hệ thống hóa các lý luận về khiếu
kiện hành chính, thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của TAND cấp
huyện, đánh giá quy định pháp luật và thực trạng thực hiện thẩm quyền giải quyết
KKHC của Tòa án cấp huyện, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện các
quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết KKHC của TAND cấp huyện.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn có nhiệm vụ làm sáng tỏ
một số nội dung sau:
- Về mặt lý luận
Nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về thẩm quyền giải quyết
khiếu kiện hành chính của Tòa án cấp huyện, nhằm làm sáng tỏ bản chất, cơ
sở pháp lý của thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tịa án cấp
huyện Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn



5
Nghiên cứu những vấn đề về thực tiễn áp dụng quy định thẩm quyền
giải quyết KKHC của Tòa án cấp huyện trong TTHC để rút ra những nhận
xét, đánh giá thực tiễn áp dụng; chỉ ra những hạn chế, vướng mắc trong nhận
thức và thực tiễn áp dụng pháp luật TTHC. Trên cơ sở kết hợp giữa lý luận,
thực tiễn, sẽ đề xuất giải pháp hoàn thiện thẩm quyền giải quyết KKHC của
Tòa án cấp huyện.
3.3. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vấn đề thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành
chính của Tịa án nhân dân cấp huyện trong tố tụng hành chính Việt Nam hiện
hành; quan điểm của Đảng về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính;
quan điểm lập pháp về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính; các quy
định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính; thực tiễn
thực hiện thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tịa án cấp huyện.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: luận văn nghiên cứu thẩm quyền giải quyết
khiếu kiện hành chính của Tịa án nhân dân cấp huyện trên cơ sở các quy định
của pháp luật tố tụng hành chính, trong đó tập trung chủ yếu vào các quy định
của Luật tố tụng hành chính 2010, có đối chiếu so sánh một số nội dung quy
định của Luật tố tụng hành chính 2015 (có hiệu lực thi hành bắt đầu từ
1/7/2016).
- Phạm vi địa bàn khảo sát: chủ yếu tiến hành khảo sát, thu thập số liệu
thực tế tại các huyện trong tỉnh Vĩnh Long.
- Phạm vi về thời gian: số liệu thu thập sử dụng trong đề tài giới hạn
trong 03 năm, từ năm 2013 đến năm 2015 để đảm bảo mang tính thời sự và
tính thực tiễn cho kết quả nghiên cứu của luận văn.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng,

chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng duy vật. Trên cơ sở phương
pháp luận trên, đề tài này sử dụng các phương pháp nhận thức khoa học cụ
thể như: phương pháp so sánh; phương pháp tổng hợp, thống kê; phương


6
pháp phân tích, đánh giá.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: Bằng việc đưa ra những lý giải tương đối toàn diện
trên phương diện lý luận về giải quyết KKHC đặt trong bối cảnh xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp, Luận văn đã có
những đóng góp nhất định về mặt khoa học, góp phần nghiên cứu toàn diện,
chuyên sâu vấn đề giải quyết KKHC của Tịa án nói chung và Tịa án cấp
huyện nói riêng trong việc giải quyết KKHC. Đặc biệt, các giải pháp mà Luận
văn đưa ra có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận, góp phần nâng cao chất
lượng giải quyết KKHC trong thực tiễn.
- Ý nghĩa ứng dụng: Bằng việc đưa ra những lý luận về giải quyết
KKHC, phân tích thực trạng giải quyết KKHC, Luận văn nhận thấy tính cấp
thiết phải đổi mới, nâng cao hiệu quả giải quyết KKHC ở nước ta hiện nay.
Đồng thời khẳng định giải quyết KKHC bằng con đường Tòa án là phù hợp với
yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN. Luận văn góp phần hồn thiện pháp
luật về giải quyết KKHC, pháp luật về quản lý HCNN; nâng cao chất lượng
của cơng tác giải quyết KKHC tại Tịa án nhân dân cấp huyện ở nước ta.
6. Cơ cấu của Luận văn
Cơ cấu của luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo, phần nội dung được xây dựng thành 03 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành
chính của Tịa án nhân dân.
Chương 2: Quy định pháp luật và thực tiễn thi hành quy định pháp luật về
thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tòa án nhân dân cấp huyện.

Chương 3: Nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu kiện hành chính của Tịa
án nhân dân cấp huyện ở Việt Nam.


7
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT
KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH CỦA TỊA ÁN NHÂN DÂN
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khiếu kiện hành chính
Quản lý hành chính nhà nước là sự tác động của cơ quan HCNN lên đối
tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu mà nhà nước mong muốn. Bản chất
của quản lý HCNN là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước (quyền hành
pháp) để quản lý, điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội theo quy định
của pháp luật. Sự tác động bằng quyền lực mang tính mệnh lệnh đơn phương
để áp đặt ý chí của nhà nước đối với các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Do đó,
nó tiềm ẩn nguy cơ làm xuất hiện sự phản kháng có ý thức của đối tượng quản
lý HCNN trong việc phải phục tùng quyền hành pháp. Sự phản kháng này là
tất nhiên khi việc thực thi quyền hành pháp khơng phù hợp với mong muốn,
quyền và lợi ích của họ. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng
quản lý HCNN, pháp luật quy định những hình thức phản kháng hợp lý đối
với việc thực thi quyền hành pháp. Trong đó, khiếu nại hành chính và khiếu
kiện hành chính là những hình thức phản kháng được pháp luật của hầu hết
các quốc gia trên thế giới quy định, áp dụng và bảo đảm thực hiện trên thực
tế. Theo đó, phương thức giải quyết KKHC được xem là tiến bộ và có nhiều
ưu điểm, bởi nó được xem xét và phán quyết từ cơ quan Tòa án có tính chất
độc lập, thuộc nhánh tư pháp thực hiện. Cịn giải quyết khiếu nại hành chính
được xem xét và giải quyết bởi chính cơ quan HCNN của các cấp thẩm quyền
thuộc nhánh hành pháp.
Có thể thấy KKHC có những đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, KKHC được xác lập trên cơ sở quyền tự vệ và tự định đoạt

của đối tượng quản lý hành chính nhà nước khi có sự xâm hại của việc thực
thi quyền hành pháp. Nhà nước ln mong muốn xác lập, duy trì và bảo vệ
trật tự quản lý phù hợp lợi ích của mình trong q trình quản lý hành chính
nhà nước. Từ đó, kéo theo nhu cầu KKHC để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp


8
pháp của đối tượng quản lý hành chính nhà nước trước sự xâm phạm của việc
thực thi quyền hành pháp.
Thứ hai, nội dung của KKHC là yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xem xét
và phán quyết về việc thực thi quyền hành pháp. Trong quản lý hành chính
nhà nước, chủ thể quản lý hành chính áp đặt ý chí để thực hiện quyền hành
pháp của mình đối với đối tượng quản lý bằng hai hình thức chủ yếu là
QĐHC và HVHC. Do đó, nội dung trọng tâm của giải quyết KKHC là việc
Tòa án xem xét và phán quyết về QĐHC và HVHC bị khiếu kiện.
Thứ ba, KKHC chỉ phát sinh khi có đủ điều kiện pháp lý nhất định. Cụ thể:
Khiếu kiện hành chính phát sinh theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức có
quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm bởi việc thực thi quyền hành pháp.
Yêu cầu khiếu kiện hành chính cần phải được thể hiện bằng văn bản và được
thực hiện theo thủ tục do pháp luật quy định.
Khiếu kiện hành chính phát sinh trong trường hợp và thời hiệu và do
pháp luật quy định.
Khiếu kiện hành chính thuộc phạm vi thẩm quyền giải quyết của Tòa
án theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, KKHC làm phát sinh tranh chấp hành chính giữa chủ thể quản
lý HCNN và đối tượng quản lý HCNN.
Như vậy, KKHC có thể được hiểu như sau: Khiếu kiện hành chính là
vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, phát sinh theo yêu cầu của
cá nhân, tổ chức có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm bởi việc thực thi
quyền hành pháp của các chủ thể có thẩm quyền trong quản lý hành chính

nhà nước.
Khiếu kiện hành chính có vai trị quan trọng với đời sống chính trị, xã
hội. Đó là hình thức thể hiện quyền cá nhân trong việc tự do đánh giá hoạt
động của cơng quyền nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, với
ý nghĩa tích cực này KKHC đã góp phần thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của
quyền lực, đem lại các hiệu quả ích lợi cho xã hội. Tuy nhiên, nếu KKHC
vượt quá mức cho phép hoặc bị lạm dụng, trong xã hội sẽ xuất hiện hiện
tượng thiếu lành mạnh lôi cuốn dư luận và các nguồn lực vào hướng thiếu ổn


9
định, gây ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững.
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, việc xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân như Điều 2
Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định là một trong những nhiệm vụ quan trọng.
Thơng qua các KKHC, có thể phát hiện ra những quy định của pháp luật
khơng cịn phù hợp, nắm được tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân để từ đó có
những sửa đổi, bổ sung hồn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là các quy
định liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ
chức, làm cho pháp luật của Nhà nước thực sự là pháp luật mang tính nhân
văn, nhân đạo, phục vụ con người và vì con người.
Thơng qua KKHC, chúng ta có khả năng phát hiện ra những yếu tố bất
cập của bộ máy hành chính, các yếu kém, tiêu cực của một số cán bộ, công
chức nhà nước để từ đó Đảng có những chỉ đạo chấn chỉnh, xử lý kịp thời
nhằm bảo đảm cho pháp luật của Nhà nước ta được chấp hành nghiêm chỉnh,
tất cả các cơ quan nhà nước, các nhân viên nhà nước đều phải tơn trọng pháp
luật, đặt mình dưới pháp luật.
Cũng chính thông qua KKHC, chúng ta phát hiện các quyền lợi hợp
pháp của các chủ thể bị QĐHC, HVHC xâm phạm, để từ đó có các biện pháp,
hình thức khắc phục nhằm khôi phục các quyền lợi hợp pháp của các chủ thể,

bảo đảm các quyền tự do, lợi ích của công dân phải được không ngừng mở
rộng và được pháp luật bảo hộ.
Với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, từ năm 1986 đến nay Nhà nước ta đã khơng ngừng có các chính
sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát
triển. Tuy nhiên, do cơ chế quản lý kinh tế cũ đã tồn tại suốt một thời gian dài
nên cho dù chúng ta có chuyển đổi sang cơ chế quản lý mới thì các thói quen,
sự ảnh hưởng của cơ chế cũ cũng vẫn còn và tác động không nhỏ đến hoạt
động kinh doanh các doanh nghiệp. Qua việc giải quyết một số khiếu kiện cụ
thể của các doanh nghiệp, chúng ta đã phát hiện được sự không phù hợp trong
các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính, thủ tục hải quan,
áp thuế suất hàng nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh


10
nghiệp, thuế thu nhập cá nhân..., từ đó có những hướng dẫn, giải thích hoặc
quy định điều chỉnh lại cho phù hợp.
1.1.2. Thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tịa án nhân dân
Theo từ điển tiếng Việt, thì “thẩm quyền” là quyền xem xét để kết luận
và định đoạt vấn đề theo pháp luật1. Định nghĩa này đã khái quát một cách
chung nhất về thẩm quyền.
So sánh với một số thuật ngữ nước ngoài tương đương, thuật ngữ thẩm
quyền được sử dụng trong tiếng Việt cũng có những điểm tương đồng và khác
biệt nhất định. Chẳng hạn trong từ điển “Black’s Law Dictionary” 2 người ta
dùng thuật ngữ “authority” hoặc “competence” để chỉ thẩm quyền nói chung,
tức là khả năng cơ bản và tối thiểu để cơ quan cơng quyền (thường là cơ quan
hành chính) xem xét và giải quyết việc gì đó theo pháp luật. Bên cạnh đó,
người ta cũng dùng thuật ngữ “Juridiction” để chỉ thẩm quyền hoặc quyền tài
phán, tức là quyền lắng nghe và phán quyết vụ việc nào đó của Tịa án (cơ
quan tư pháp) trong phạm vi lãnh thổ nhất định.

Trong từ điển pháp luật của Nhật có thuật ngữ “Kengen” cũng dùng để
chỉ thẩm quyền. Trong đó “Ken” là quyền để xem xét, giải quyết vụ việc;
“Gen” là sự giới hạn, có nghĩa là sự giới hạn quyền lực được trao để xem xét,
giải quyết một vụ việc nào đó theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong
luật của Nhật Bản khơng có khái niệm “Juridiction” tức là phán quyền trong
tiếng Anh, mà thay vào đó, thuật ngữ “Saiban ken” được sử dụng để chỉ thẩm
quyền quản lý hành chính3.
Như vậy, thuật ngữ “thẩm quyền” ở Việt Nam, xét về nghĩa, nói chung
giống với nghĩa với tiếng nước ngồi nhưng cách sử dụng thuật ngữ có những
điểm khác nhất định và cách sử dụng này theo cách ghép từ thì gần giống với
cách sử dụng trong tiếng Nhật.
Tuy nhiên, xem xét để đưa ra khái niệm đầy đủ về dưới góc độ pháp lý
ở Việt Nam cho đến nay cũng cịn nhiều ý kiến khác nhau.

1

Viện ngơn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt, Nxb, Đà Nẵng- Trung tâm từ điển học, Hà Nội- Đà Nẵng, tr.922.
Black’s Law Dictionary (1999), Nxb.Oxford, tr. 298.
3
English- Japanese Dictionary and handbook (1995), Nxb. Cassell, tr. 288.
2


11
Có quan điểm cho rằng thẩm quyền bao gồm nhiệm vụ và quyền hạn
xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật.
Nhưng quan điểm khác cho rằng, dưới góc độ pháp luật hành chính,
thẩm quyền là phương tiện để các cơ quan nhà nước, đặc biệt là các cơ quan
công quyền và cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền thực hiện và duy
trì chức trách và nhiệm vụ của mình.

Các quan điểm nói trên tuy tiếp cận vấn đề ở những góc độ khác nhau
nhưng nội dung cơ bản đều nhấn mạnh: Thẩm quyền là khả năng của chủ thể
trong việc xem xét và giải quyết hay định đoạt cơng việc nào đó trên cơ sở
các chuẩn mực của pháp luật có quy định. Nó là quyền hạn mà pháp luật đã
quy định cho cơ quan công quyền và công chức giữ chức vụ nhà nước nhất
định. Người có thẩm quyền là người có quyền uy, có khả năng áp đặt ý chí để
thực thi quyền hạn theo pháp luật. Thẩm quyền có thể được quy định ở các
đạo luật hoặc văn bản dưới luật. Vì thế, thẩm quyền ln ln là phương tiện
đảm bảo thực thi nhiệm vụ và công vụ nhà nước 4. Có thể xem đây là khái
niệm cơ bản và chung nhất về thẩm quyền.
Thẩm quyền gắn liền với quyền và nhiệm vụ mà pháp luật quy định cho
cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan đó để thực thi chức
năng, nhiệm vụ của cơ quan. Thẩm quyền của mỗi cơ quan, mỗi cá nhân được
phân định theo lĩnh vực, ngành, khu vực hành chính, cấp hành chính. Trong
mỗi ngành, thẩm quyền được phân định theo chức năng, nhiệm vụ của ngành
như thẩm quyền của tòa án nhân dân là xét xử.
Thẩm quyền xét xử của Tòa án là quyền xem xét và quyết định trong
hoạt động xét xử của tòa án theo quy định của pháp luật.
Thẩm quyền xét xử của Tòa án được hiểu là quyền chuyên biệt được
giao riêng cho tòa án, khác với thẩm quyền của các cơ quan khác. Theo quy
định tại Điều 102 Hiến pháp năm 2013 “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”.

4

Hoàng Văn Sao (Chủ biên) (2014), Giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb. Cơng an nhân dân,
Hà Nội, tr. 87.


12

Thẩm quyền xét xử của Tòa án được phân theo cấp, theo khu vực hay
theo vụ việc. Nó được phân định theo cơ cấu tổ chức của hệ thống Tòa án:
Thẩm quyền xét xử theo sự việc, theo cấp xét xử như thẩm quyền xét xử sơ
thẩm, xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc thực hiện các thẩm
quyền này đều phải tuân thủ đúng quy định trình tự pháp luật tố tụng. Chẳng
hạn, TAND cấp huyện có quyền sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp
luật tố tụng5.
Vì thế, muốn xác định thẩm quyền của cơ quan, tổ chức thì chúng ta
phải xem xét một cách toàn diện từ địa vị pháp lý, cơ cấu tổ chức đến phạm vi
quyền năng của nó. Trên cơ sở đó, khi chúng ta xem xét thẩm quyền giải
quyết khiếu kiện hành chính của Tịa án (tức là thẩm quyền xét xử), thì phải
xác định khả năng của Tịa án xem xét vụ việc trong phạm vi pháp luật cho
phép. Trong trường hợp cụ thể này, nhiệm vụ cụ thể của Tòa án là xét xử các
tranh chấp hành chính giữa một bên là cơng dân, cơ quan nhà nước hay tổ
chức của họ và bên kia là cơ quan công quyền theo thủ tục TTHC mà pháp
luật tố tụng hành chính đã quy định. Tịa hành chính là một trong những tịa
chun trách thuộc TAND, có đặc thù riêng, khơng giống với các tịa chun
trách khác như tịa hình sự, tịa dân sự…bởi bản chất của quản lý HCNN là tổ
chức thực thi quyền hành pháp để đơn phương áp đặt ý chí của nhà nước đối
với các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Từ đặc trưng của quan hệ quản lý là bất bình đẳng nên những quyết
định của cơ quan nhà nước và cán bộ nhà nước có thẩm quyền có ý nghĩa cực
kỳ quan trọng đối với đời sống chính trị, xã hội của cơng dân. Việc Tịa hành
chính ra đời để xem xét và phán quyết tính hợp pháp của các QĐHC, HVHC
của cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền khi thực
hiện quyền lực cơng là điều kiện quan trọng, tạo điều kiện cho cá nhân, tổ
chức có được sự bình đẳng với Nhà nước.
Hiện nay, có nhiều quan niệm khoa học về thẩm quyền giải quyết
KKHC của Tòa án nhân dân như sau:
Thứ nhất, "Thẩm quyền giải quyết KKHC của Toà án là quyền hạn,

5

Từ điển luật học, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr.701- 702.


13
trách nhiệm, được nhân danh quyền lực nhà nước trong phạm vi chức năng
của mình, Tồ án tiến hành việc xem xét, đánh giá và ra phán quyết về tính
hợp pháp của các QĐHC, HVHC bị khởi kiện theo trình tự, thủ tục (tố tụng)
do pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ
chức; góp phần nâng cao hiệu lực hành pháp"6.
Quan điểm này lột tả đầy đủ khái niệm mang tính khoa học và pháp lý
về thẩm quyền giải quyết KKHC của Tịa án. Đã khẳng định được rằng, chỉ
có Tịa án nhân danh nhà nước sử dụng quyền tư pháp để xem xét tính hợp
pháp của QĐHC và HVHC và đưa ra phán quyết theo quy định của pháp luật
tố tụng, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, của nhà nước
(vì nếu QĐHC, HVHC sai: thì khắc phục, rút kinh nghiệm để lần sau thực
hiện tốt hơn trong quản lý HCNN, tức là nâng cao hiệu lực hành pháp; nếu
đúng: phải phán quyết bác bỏ yêu cầu sai trái để đương sự chấp hành và bảo
vệ lợi ích nhà nước).
Qua đó cũng cho thấy việc giải quyết KKHC chỉ Tịa án mới có quyền
tiến hành tố tụng chứ khơng phải cơ quan HCNN nào khác có thẩm quyền
này. Vì cơ quan HCNN thuộc khối hành pháp chỉ giải quyết khiếu nại hành
hành chính, theo thủ tục hành chính và pháp luật hành chính. Đây là dấu hiệu
cơ bản phân định thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính của cơ quan
HCNN và thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án.
Thứ hai, "Thẩm quyền xét xử hành chính là quyền và nghĩa vụ của Tồ
hành chính trong việc thụ lý giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực
hành chính"7.
Quan điểm này xác định một cách chung nhất rằng: chỉ có Tịa án mới

có thẩm quyền thụ lý và xét xử các vụ án hành chính mà theo đó Tịa án thực
hiện quyền năng và nghĩa vụ pháp lý trong quá trình giải quyết tranh chấp
hành chính do pháp luật về tố tụng hành chính quy định.

6

Nguyễn Thanh Bình (2003), Thẩm quyền của Tồ án nhân dân trong việc giải quyết các khiếu kiện hành
chính, Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, tr. 37.
7
Hoàng Quốc Hồng (2007), Đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà hành chính đáp ứng yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 53.


14
Xét về nội hàm, quan điểm này xác định thẩm quyền giải quyết KKHC
theo nghĩa hẹp, chưa nêu bật được thẩm quyền giải quyết KKHC của Tòa án
cụ thể làm gì, cho nên khi nghiên cứu sẽ làm cho người ta khó tiếp cận. Cụ
thể, khi người khởi kiện muốn tìm hiểu để biết được thẩm quyền xét xử hành
chính của Tịa án là gì, để họ thực hiện quyền khởi kiện, thì khi tiếp cận khái
niệm này họ sẽ thấy rất trừu tượng về thẩm quyền của Tòa án như nêu trên.
Thứ ba, "Thẩm quyền xét xử hành chính (hay còn gọi là thẩm quyền giải
quyết vụ án hành chính, giải quyết khiếu kiện hành chính) được hiểu là việc toà
án (cơ quan tư pháp, cơ quan tài phán) trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của mình nhân danh quyền lực nhà nước tiến hành việc xem xét
đánh giá và ra phán quyết về tính hợp pháp của các quyết định hành chính,
hành vi hành chính bị khởi kiện theo trình tự, thủ tục tố tụng do pháp luật quy
định nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ chức, góp phần
nâng cao hiệu lực hành pháp"8.
Thực ra, quan điểm này về nội hàm cũng tương đồng với quan điểm thứ
nhất, khái niệm mang cả tính khoa học và pháp lý về thẩm quyền giải quyết

khiếu kiện hành chính của Tịa án như phân tích trên.
Tuy nhiên, quan điểm này có diễn giải làm rõ nghĩa hơn về thẩm quyền
xét xử hành chính- thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính- thẩm quyền giải
quyết khiếu kiện hành chính đều là thẩm quyền của Tịa án (cơng việc phải làm
của Tịa án) trong việc thụ lý và giải quyết vụ án hành chính để đưa ra một
phán quyết cụ thể, nhằm giúp cho người nghiên cứu dễ tiếp cận, không trừu
tượng, không nhầm lẫn. Mặt khác, hai thuật ngữ "cơ quan tư pháp, cơ quan tài
phán" xét dưới góc độ khoa học pháp lý thì nội hàm hồn tồn khơng đồng
nhất với nhau. Nhưng xét theo nghĩa hẹp, hai thuật ngữ đều hàm ý việc Tòa
án thực hiện quyền Tư pháp để nhân danh nhà nước xem xét và đưa ra phán
quyết khi giải quyết VAHC.
Thứ tư, "Thẩm quyền xét xử hành chính là phạm vi thực hiện quyền lực
nhà nước của Toà án trong việc giải quyết các tranh chấp hành chính giữa một
8

Trần Mạnh Hùng (2011), "Thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,
(Số chuyên đề về Luật Tố tụng hành chính), tr. 17.


15
bên là công dân, tổ chức và bên kia là cơ quan cơng quyền, theo thủ tục tố
tụng hành chính nhằm bảo đảm và bảo vệ lợi ích của nhà nước, của xã hội,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân"9.
Thứ năm, thẩm quyền xét xử hành chính “là phạm vi thực hiện quyền
tư pháp của toà án, được pháp luật TTHC quy định để giải quyết các tranh
chấp hành chính theo thủ tục TTHC”10.
Thứ sáu, “Thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân là phạm vi
và quyền hạn của Tòa án trong việc thụ lý và giải quyết vụ án hành chính. Hình
thức tồn tại của thẩm quyền là phạm vi các quyền cụ thể được luật tố tụng quy
định đối với Tòa án trong quá trình thụ lý và giải quyết vụ án hành chính”11.

Quan điểm thứ tư, thứ năm và thứ sáu nêu trên, xét về nội hàm thẩm
quyền giải quyết KKHC theo nghĩa hẹp, chưa lột tả đầy đủ khái niệm mang
tính khoa học và pháp lý về thẩm quyền giải quyết KKHC của Tòa án. Cơ bản
chỉ xác định Tòa án thực hiện quyền tư pháp để xét xử các tranh chấp hành
chính theo TTHC để bảo vệ lợi ích của nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân. Chưa nêu cụ thể được thẩm quyền cơ bản nhất của
Tòa án khi giải quyết khiếu kiện hành chính đó là “xem xét tính hợp pháp của
QĐHC, HVHC”. Vì vậy, các khái niệm này sẽ gây khó khăn khi mọi người
nghiên cứu, tiếp cận. Họ sẽ không biết rõ khi xét xử hành chính, Tịa án có
thẩm quyền gì và quyền đó được thực hiện ra sao.
Qua phân tích nêu trên cho thấy, khái niệm về thẩm quyền giải quyết
KKHC của TAND theo quan điểm thứ nhất và quan điểm thứ ba đã xác định đầy
đủ nội hàm về tính khoa học và pháp lý. Nó là cơ sở nghiên cứu khoa học pháp
lý cũng như dễ dàng để mọi người tiếp cận trong đời sống xã hội.
Nói tóm lại, ta có thể hiểu đầy đủ khái niệm này như sau: "Thẩm quyền
giải quyết KKHC của Toà án là: quyền hạn, trách nhiệm của Tòa án trên cơ
sở nhân danh quyền lực nhà nước để tiến hành việc xem xét, đánh giá và ra
9

Hoàng Văn Sao và Nguyễn Phúc Thành (Chủ biên) (2014), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam,
Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 94.
10
Nguyễn Mạnh Hùng (2015), Phân định thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính và thẩm quyền xét xử
hành chính ở Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 57.
11
Dương Hốn (2014), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, Trường Đại học Luật Tp HCM, Nxb.
Hồng Đức, tr. 86.


16

phán quyết về tính hợp pháp của các QĐHC, HVHC bị khởi kiện theo pháp
luật tố tụng hành chính quy định nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
cơng dân, tổ chức. Phán quyết có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các đối
tượng liên quan, góp phần nâng cao hiệu lực hành pháp".
Như vậy, có thể thấy rằng đặc điểm của thẩm quyền giải quyết KKHC
của Tòa án như sau:
Thứ nhất, chủ thể giải quyết KKHC là Tịa án có quyền nhân danh Nhà
nước ra phán quyết buộc người bị kiện trong VAHC là một cơ quan quản lý
hành chính nhà nước, một cá nhân có quyền ra QĐHC, HVHC phải chấp
hành bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp người khởi kiện là bên
thắng kiện.
Thứ hai, thẩm quyền của việc giải quyết KKHC là sự tác động của
quyền tư pháp đối với quyền hành pháp; liên quan đến hoạt động quản lý
hành chính nhà nước, liên quan đến nền hành chính quốc gia. Vì vậy, khi giải
quyết KKHC, Tòa án vừa phải bảo đảm quyền lợi của Nhà nước, ổn định của
nền hành chính, sự hoạt động thông suốt, hiệu lực, hiệu quả của quản lý
HCNN vừa phải bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Thứ ba, thẩm phán giải quyết KKHC phải là người vừa am hiểu pháp
luật và am hiểu về quản lý hành chính nhà nước các lĩnh vực có liên quan đến
khiếu kiện để đưa ra phán quyết đúng pháp luật.
Thứ tư, thẩm quyền giải quyết KKHC mang đặc thù rất riêng biệt đó là
giải quyết tranh chấp hành chính giữa một bên là cơ quan nhà nước, cán bộ,
cơng chức có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước với một bên là
cá nhân, tổ chức trong xã hội. Mặc dù, Luật tố tụng quy định các bên tham gia
tố tụng đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, nhưng trong quan hệ quản lý
hành chính thì người bị kiện lại là chủ thể quản lý, còn người khởi kiện lại là
đối tượng bị quản lý. Theo đó, xét mối tương quan có thể thấy bên bị kiện là
bên có quyền lực hành chính, thường có ưu thế hơn; cịn bên khởi kiện là các
cá nhân, tổ chức thường là yếu thế hơn.



17
Thứ năm, Tịa án có thẩm quyền xem xét tính hợp pháp của QĐHC và
HVHC của cơ quan HCNN và người có thẩm quyền trong cơ quan HCNN
ban hành.
Có thể nói rằng giải quyết khiếu kiện hành chính là một phương thức
kiểm sốt quản lý hành chính nhà nước. Nói theo khoa học quản lý đó là dùng
quyền lực nhà nước để kiểm soát quyền lực nhà nước, nhằm bảo vệ lợi ích
của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xã hội,
đây là cơ chế mở rộng dân chủ. Thật ra cơ chế này các nước phát triển, cụ thể
là các nước theo chủ nghĩa tư bản họ đã thực hiện rất lâu từ khi học thuyết
“Tam quyền phân lập” ra đời.
1.2. Cơ sở xác lập thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của
Tịa án nhân dân
Về cơ sở lý luận, thẩm quyền giải quyết KKHC của Tòa án được xác
lập trên cơ sở phân biệt rõ quyền tư pháp và quyền hành pháp.
Ở nước ta, quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp là ba bộ
phận cấu thành của quyền lực nhà nước. Không phân chia tam quyền phân lập
như các nước tư bản, mà “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng,
phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”12.
Theo đó, quyền lập pháp là xây dựng pháp luật. Quyền hành pháp, bao
gồm quyền thực thi pháp luật và quyền lập quy. Trong việc thực thi pháp luật,
địi hỏi cơ quan cơng quyền và cơng chức vừa phải có nghĩa vụ chấp hành
pháp luật, vừa có quyền điều hành nên khó tránh khỏi hành vi lạm quyền,
lộng quyền hay tùy tiện, vượt quyền.
Khắc phục hạn chế nêu trên, nhà nước cần có cơ chế hoạt động nhằm
kiềm chế, đối trọng để có được hiệu quả trong quản lý nhà nước mang lại lợi
ích cho cơng dân, cho xã hội tất yếu phải có hoạt động xét xử của TAND.
Việc pháp luật quy định thẩm quyền xét xử hành chính thuộc về Tịa án là

biện pháp kiểm soát của cơ quan tư pháp đối với hoạt động thực thi quyền
hành pháp.
12

Điều 2 Hiến pháp năm 2013.


18
Như vậy, giải quyết KKHC là dùng quyền tư pháp để kiểm sốt quyền
hành pháp. Nó là một trong những cơ chế để kiểm soát quyền lực nhà nước
trong nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, đây không phải là giải pháp duy nhất
để có thể giải quyết được cả khiếu nại và khiếu kiện của người dân mà nó chỉ
hạn chế sự độc quyền của cơ quan công quyền và công chức trong thực thi
quyền hành pháp, nhằm đem lại nhiều cơ hội thực hiện quyền chính đáng của
người dân.
Từ thời Cổ đại, Arixtot (384-322 Tr.CN) đã có tư tưởng phân quyền;
đến thời John Locke (1362-1704). Theo quan điểm của Locke về thuyết khế
ước xã hội, nhà nước không cần có q nhiều quyền lực, vì như vậy chỉ khiến
người dân bị đè nén. Ông cũng đã bước đầu nhận thấy những bất ổn trong phân
công quyền lực nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp). Ông đề cập: nếu lạm
dụng đặc quyền này sẽ ảnh hưởng đến sự ổn định và trật tự của quốc gia. Ông
cho rằng “một hệ thống nhà nước cần có quyền xét xử độc lập mà việc ra quyết
định được thực hiện chỉ dựa trên duy nhất hiến pháp của cả quốc gia”.
Montesquieu (1689 - 1755) là một nhà bình luận xã hội và tư tưởng
chính trị Pháp, sống trong thời đại Khai sáng, ông nổi tiếng với lý thuyết “tam
quyền phân lập”. Theo ông, quyền lực của nhà nước hành chính được chia
thành lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các quyền này được phân lập và phụ
thuộc vào nhau để ảnh hưởng sao cho khơng một quyền nào có thể vượt q
hai quyền còn lại và ba quyền này được giao cho ba cơ quan khác nhau nắm
giữ nhằm kiểm soát lẫn nhau. Vì nếu tập trung vào tay một người, một tổ

chức sẽ dẫn đến lạm quyền. Theo đó, quyền xét xử tư pháp là quyền xét xử
đặc biệt và luôn ln tách biệt với các quyền hành chính.
Trong chế độ dân chủ và pháp quyền XHCN thì quyền lực nhà nước
khơng phải là quyền lực tự có của nhà nước mà quyền lực được Nhân dân ủy
quyền, Nhân dân giao quyền. Mặt khác, khi ủy quyền cho nhà nước, quyền
lực nhà nước lại thường vận động theo xu hướng tự phủ định mình, trở thành
đối lập với chính mình lúc ban đầu (từ của Nhân dân là số đông chuyển thành


19
số ít của một nhóm người hoặc của một người). C.Mác gọi hiện tượng này là
“sự tha hóa của quyền lực nhà nước”13.
Quyền lực nhà nước là của Nhân dân giao cho các cơ quan nhà nước
suy cho cùng là giao cho những người cụ thể thực thi. Mà con người thì “ln
ln chịu sự ảnh hưởng của các loại tình cảm và dục vọng đối với các hành
động của con người. Điều cũng khiến cho lý tính đơi khi bị chìm khuất” 14.
Đặc biệt là khi lý tính bị chi phối bởi các dục vọng, thói quen hay tình cảm thì
khả năng sai lầm trong việc thực thi quyền lực nhà nước càng lớn. Với đặc
điểm đó của con người, không thể khẳng định người được ủy quyền luôn ln
làm đúng, làm đủ những gì mà Nhân dân đã ủy quyền. Vì vậy, kiểm sốt
quyền lực nhà nước là một nhu cầu khách quan từ phía người ủy quyền đối
với người được ủy quyền.
Quyền tư pháp là quyền xét xử, được nhân dân giao cho Tòa án và các
cơ quan tư pháp. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc xuyên suốt
và cao nhất trong tổ chức thực hiện quyền này. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức
không được phép can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án. Đây thực chất là
quyền bảo vệ ý chí chung của quốc gia bằng việc xét xử các hành vi vi phạm
Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm pháp chế trong quản lý HCNN, đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của cơng dân tức là duy trì lợi ích của nhà nước, làm cho
cơng dân ủng hộ, bảo vệ và có ý thức duy trì nhà nước.

Nền tài phán hành chính của ta hiện nay tồn tại hai phương thức đó là:
giải quyết khiếu nại do cơ quan HCNN thực hiện; giải quyết KKHC tại Tòa
án theo trình tự tố tụng. Mỗi phương thức đều có những ưu điểm và yêu cầu
riêng. Người dân có quyền lựa chọn phương thức giải quyết thuận tiện nhất
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Đây là cơ chế mở, thể hiện
sự tiến bộ của luật pháp Việt Nam, đảm bảo quyền tự do, dân chủ cho cơng
dân theo Hiến pháp quy định mà khơng ai có quyền ngăn cản. Từ đó cũng
phân định rạch rịi thẩm quyền tài phán, một khi cơng dân đã có sự lựa chọn
phương thức giải quyết hoặc là cơ quan HCNN giải quyết hoặc là Tòa án giải
13
14

C. Mác, Ph. Ăngghen (1984), Tuyển tập, T 6, Nxb Sự thật, HN. tr 263 – 264.
Jon Mills (2005) Luận về tự do, NXB Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, tr 131.


×