Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

BÀI tập lớn môn KINH tế CHÍNH TRỊ mác – LÊNIN đề tài sản XUẤT cà PHÊ ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.19 KB, 29 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH

BÀI TẬP LỚN MƠN KINH TẾ - CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
ĐỀ TÀI:
SẢN XUẤT CÀ PHÊ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
LỚP L18--- NHÓM L08 --- HK 202
NGÀY NỘP 11/04/2021
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Trung Hiếu

Sinh viên thực hiện
Trần Thị Thảo Yến
Hoàng Ngọc Ánh
Trần Tấn Lộc
Đậu Thùy Dung
Nguyễn Thành Long
Nguyễn Thị Như Ý

Mã số sinh viên
1916059
1912360
1914037
1910925
1914003
1916065

0


MỤC LỤC
A. Lời mở đầu


B. Nội dung:
1. Yêu cầu về kiến thức
1.1. Khái niệm hàng hố và hai thuộc tính của hàng hố
1.2. Tính hai mặt của lao động SXHH
1.3. Lượng giá trị hàng hoá
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị HH: năng suất lao động và cường độ lao
động
2. Vận dụng
2.1. Thực trạng sản xuất và tiêu thụ cà phê ở nước ta hiện nay
2.2. Vai trò của ngành cà phê trong nền kinh tế nước ta( đóng góp thế nào, đối với thị
trường trong nước và xuất khẩu)
2.3. Thuận lợi và khó khăn của ngành sản xuất cà phê ở nước ta (đưa vào những nhân
tố gây thuận lợi và cản trở)
4. Những chính sách của nhà nước trong định hướng phát triển ngành sản xuất và phê
C. Kết luận
D. Tài liệu tham khảo

1


A. LỜI NÓI ĐẦU
Trong nhiều thập kỷ qua, cà phê là một trong những đóng góp quan trọng nhất cho
doanh thu của ngành nơng nghiệp Việt Nam nói riêng và cho tồn bộ GDP quốc gia
nói chung. Sản xuất cà phê Việt Nam đã phát triển như một ngành công nghiệp định
hướng xuất khẩu, đã tạo ra hơn nửa triệu việc làm trực tiếp và gián tiếp, đồng thời là
sinh kế chính của hàng ngàn hộ gia đình trong các khu vực sản xuất nông nghiệp. Với
vị thế là nhà sản xuất và xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới, các sản phẩm cà phê
của nước ta đã xuất khẩu đến hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm 14,2% thị phần
xuất khẩu cà phê nhân toàn cầu tạo ra nhiều cơ hội và triển vọng cho ngành cà phê
Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào thị trường quốc tế.

Tuy nhiên, cà phê Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng
cả khách quan lẫn chủ quan, như: biến đổi khí hậu; cạnh tranh từ các loại cây trồng
khác; cần tái canh những cây cà phê già cỗi; chi phí sản xuất đang tăng cao hơn trong
khi giá cà phê thế giới đang ở mức rất thấp.
Do cạnh tranh khốc liệt, chính sách sản xuất cà phê của Việt Nam đã chuyển sang
một kỷ nguyên mới với hai mục tiêu: thứ nhất là duy trì vị thế là nhà sản xuất và xuất
khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới; thứ hai, để tăng gấp đôi giá trị gia tăng trong sản xuất
cà phê bằng cách tăng năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng.

2


B. NỘI DUNG
1. Yêu cầu về kiến thức
1.1. Khái niệm hàng hố và hai thuộc tính của hàng hóa
1.1.1. Khái niệm hàng hóa:
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của
con người thông qua trao đổi, mua bán.
Sản phẩm của lao động là hàng hóa khi nhằm đưa ra trao đổi, mua bán trên
thị trường. Hàng hóa có thể ở dạng vật thể (sắt, thép, lương thực, thực
phẩm...) hoặc phi vật thể (dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ của giáo
viên, bác sĩ và nghệ sĩ.).
1.1.2. Thuộc tính của hàng hóa:
Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị.
* Giá trị sử dụng của hàng hóa:
Giá trị sử dụng của hàng hóa là cơng dụng của sản phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào
đó của con người.
Ví dụ: Giá trị sử dụng của cơm là để ăn, của áo là để mặc, của máy móc, thiết bị,
nguyên nhiên vật liệu là để sản xuất...
Nhu cầu đó có thể là nhu cầu vật chất hoặc nhu cầu tinh thần; có thể là nhu cầu cho

tiêu dùng cá nhân, có thể là nhu cầu cho sản xuất.
Cơ sở của giá trị sử dụng của hàng hóa là do những thuộc tính tự nhiên (lý, hố học)
của thực thể hàng hóa đó quyết định. Do đó, giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn vì nó
tồn tại trong mọi phương thức hay kiểu tổ chức sản xuất.
Giá trị sử dụng chỉ được thực hiện trong việc sử dụng hay tiêu dùng. Nền sản xuất
càng phát triển, khoa học, công nghệ càng hiện đại, càng giúp cho con người phát hiện
ra nhiều và phong phú hơn các giá trị sử dụng của sản phẩm.


Ví dụ: Than đá ngày xưa chỉ được dùng làm chất đốt (đun, sưởi ấm), khi khoa học kỹ thuật phát triển hon nó cịn được dùng làm ngun liệu cho một số ngành cơng
nghệ hố chất.
Gạo có thể dùng nấu com, nhưng gạo cũng có thể dùng làm nguyên liệu trong
ngành rượu, bia hay chế biến cồn y tế..
Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng nhằm đáp ứng yêu cầu của người mua.
Cho nên, nếu là người sản xuất, phải chú ý hoàn thiện giá trị sử dụng của hàng hóa do
mình sản xuất ra sao cho ngày càng đáp ứng nhu cầu khắt khe và tinh tế hon của người
mua.
* Giá trị của hàng hóa
Để nhận biết được thuộc tính giá trị, xét trong quan hệ trao đổi.
Thí dụ, có một quan hệ trao đổi như sau: xA = yB
Ở đây, số lượng x đon vị hàng hóa A, được trao đổi lấy số lượng y đon vị hàng hóa B.
Tỷ lệ trao đổi giữa các giá trị sử dụng khác nhau lại trao đổi được với nhau, với những
tỷ lệ nhất định?
Sỡ dĩ các hàng hóa trao đổi được với nhau là vì giữa chúng có một điểm chung. Điểm
chung đó khơng phải là giá trị sử dụng mặc dù giá trị sử dụng là yếu tố cần thiết để
quan hệ trao đổi được diễn ra. Điểm chung đó phải nằm ở trong cả hai hàng hóa.
Nếu gạt giá trị sử dụng hay tính có ích của các sản phẩm sang một bên thì giữa chúng
có điểm chung duy nhất: đều là sản phẩm của lao động; một lượng lao động bằng nhau
đã hao phí để tạo ra số lượng các giá trị sử dụng trong quan hệ trao đổi đó.
Trong trường hợp quan hệ trao đổi đang xét, lượng lao động đã hao phí để tạo ra x đon

vị hàng hóa A đúng bằng lượng lao động đã hao phí để tạo ra y đon vị hàng hóa B. Đó
là co sở để các hàng hóa có giá trị hàng hóa sử dụng khác nhau trao đổi được với nhau
theo tỷ lệ nhất định; một thực tế chung giống nhau là lao động xã hội đã hao phí để sản
xuất ra các hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau. Lao động xã hội đã hao phí để tạo
ra hàng hóa là giá trị hàng hóa.


Ví dụ: Giả sử một con gà có thể được đổi lấy 10kg táo. Có nghĩa là gà và táo là vật
mang giá trị trao đổi.
Cụ thể trong ví dụ này, hao phí lao động của người ni gà sẽ bằng với hao phí lao
động của người trồng táo. Hay nói cách khác thời gian lao động xã hội cần thiết để
nuôi một con gà sẽ bằng với thời gian lao động xã hội cần thiết để trồng được 10kg táo
=> 1 con gà có giá trị bằng 10kg táo.
Giá trị là lao động xã hội của con người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
Giá trị hàng hóa biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất, trao đổi
hàng hóa và là phạm trù có tính lịch sử. Khi nào có sản xuất và trao đổi hàng hóa, khi
đó có phạm trù giá trị hàng hóa. Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của
giá trị; giá trị là nội dung, là cơ sở của trao đổi. Khi trao đổi người ta ngầm so sánh lao
động đã hao phí ẩn dấu trong hàng hóa với nhau.
Trong thực hiện sản xuất hàng hóa, để thu được hao phí lao động đã kết tinh người sản
xuất phải chú ý hoàn thiện giá trị sử dụng để được thi trường chấp nhận. Hàng hóa
phải được bán đi.
* Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa:
- Mặt thống nhất: Hai thuộc tính này tồn tại đồng thời trong một sản phẩm, hàng hóa.
Phải có đủ hai thuộc tính này sản phẩm, vật phẩm đó mới được gọi là hàng hóa. Nếu
thiếu một trong hai thuộc tính, thì sản phẩm, vật phẩm khơng được coi là hàng hóa.
- Mặt mâu thuẫn: Người sản xuất làm ra hàng hóa để bán, mục đích của họ là mặt giá
trị (tức là lợi nhuận) chứ không phải là giá trị sử dụng. Trong tay người bán có giá trị
sử dụng, tuy nhiên cái mà họ quan tâm là giá trị hàng hóa. Ngược lại, đối với người
mua, họ lại rất cần giá trị sử dụng. Nhưng để có giá trị sử dụng, trước hết họ cần thực

hiện giá trị hàng hóa sau đó mới có thể chi phối giá trị sử dụng. Vì vậy mâu thuẫn giữa
hai thuộc tính này chính là q trình thực hiện giá trị sử dụng và giá trị hàng hóa là hai
q trình khác nhau về thời gian và khơng gian. Quá trình thực hiện giá trị được thực
hiện trước (trên thị trường), quá trình thực hiện giá trị sử dụng diễn ra sau (trong tiêu


- dùng). Nếu giá trị của hàng hóa khơng được thực hiện thì sẽ dẫn đến
khủng
xuất.

hoảng

sản

Nói tóm lại, giá trị sử dụng và giá trị hàng hóa vừa thống nhất vừa mâu thuẫn
với
nhau.
1.2. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị. Hai thuộc tính đó do tính
chất
hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa quyết định. Chính tính hai mặt của lao động
sản xuất hàng hố quyết định tính hai mặt của bản thần hàng hoá.
C. Mác là người đầu tiên đã phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng
hố. Đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Đây không phải là hai thứ lao động
khác nhau mà chỉ là lao động của người sản xuất hàng hố, nhưng lao động đó mang
tính hai mặt: vừa là lao động cụ thể, vừa là lao động trừu tượng.
-

- Lao động cụ thể:


+ Khái niệm: Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của
những
nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối tượng
riêng, phương tiện riêng, phương pháp riêng, và kết quả riêng.
Ví dụ: lao động cụ thể của người thợ mộc, mục đích là sản xuất cái bàn, cái ghế,
đối
tượng lao động là gỗ, phương pháp của anh ta là các thao tác về cưa, về bào, khoan,
đục; phương tiện được sử dụng là cái cưa, cái đục, cái bào, cái khoan; kết quả lao động
là tạo ra cái bàn, cái ghế.
-

+ Đặc trưng của lao động cụ thể:

* Mỗi lao động cụ thể tạo ra một loại giá trị sử dụng nhất định. Lao động cụ thể càng
nhiều loại thì càng tạo ra nhiều loại giá trị sử dụng khác nhau.
* Các lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội. Cùng với sự
phát triển của khoa học - kỹ thuật, các hình thức lao động cụ thể ngày càng đa dạng,
phong phú, nó phản ánh trình độ phát triển của phân công lao động xã hội.


* Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa. Giá trị sử dụng là phạm trù
vĩnh viễn, vì vậy lao động cụ thể cũng là phạm trù vĩnh viễn tồn tại gắn liền vối vật
phẩm, nó là một điều kiện khơng thể thiếu trong bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào.
* Các hình thức phong phú và đa dạng của lao động cụ thể phụ thuộc vào trình độ
phát triển và sự áp dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất, đồng thời cũng là tấm
gương phản chiếu trình độ phát triển kinh tế và khoa học - công nghệ ở mỗi thời đại.
* Lao động cụ thể không phải là nguồn gốc duy nhất của giá trị sử dụng do nó sản
giờ cũng do hai nhân tố hợp thành: vật chất và lao động. Lao động cụ thể của con
người chỉ thay đổi hình thức tồn tại của các vật chất, làm cho nó thích hợp với nhu cầu
của con người.

-

- Lao động trừu tượng :

+ Khái niệm: Lao động của người sản xuất hàng hố, nếu coi đó là sự hao phí
óc,
sức
thần kinh của sức cơ bắp nói chung của con người, chứ khơng kể đến hình thức cụ thể
của nó như thế nào, thì gọi là lao động trừu tượng.
Ví dụ: lao động của người thợ mộc và lao động của người thợ may, nếu xét về
mặt
lao
động cụ thể thì hồn tồn khác nhau, nhưng nếu gạt bỏ tất cả những sự khác nhau ấy
sang một bên thì chúng chỉ cịn có một cái chung, đều phải hao phí sức óc, sức bắp thịt
và sức thần kinh của con người.
-

+ Đặc trưng của lao động trừu tượng:

* Lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa, làm cơ sở cho sự ngang bằng trao đổi.
* Giá trị của hàng hóa là một phạm trù lịch sử, do đó lao động trừu tượng tạo ra giá
trị hàng hóa cũng là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền sản xuất hàng
-

hóa.

Chú ý: Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có quan hệ với tính
chất

nhân và tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa. Tính chất tư nhân và tính chất

xã hội của lao động sản xuất hàng hóa có mâu thuẫn với nhau, đó là mâu thuẫn cơ bản
của sản xuất hàng hóa giản đơn biểu hiện ở chỗ sản phẩm của người sản xuất hàng hóa


-

riêng biệt có thể khơng ăn khớp hoặc khơng phù hợp với nhu cầu của

hội
hoặc
hao
phí lao động cá biệt của ngưịi sản xuất hàng hố có thể cao hơn hay thấp
hơn
hao
phí
lao động mà xã hội có thể chấp nhận. Chính vì những mâu thuẫn đó mà
sản
xuất
hàng
hố vừa vận động phát triển, lại vừa tiềm ẩn khả năng khủng hoảng “sản
xuất thừa”.

1.3. Lượng giá trị hàng hóa
1.3.1. Lượng giá trị của hàng hóa là gì ?
-

Hàng hố là sản phẩm của lao động , có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của

con
người thơng qua trao đổi , mua bán . Hàng hố có thể ở dạng hữu hình như : sắt , thép ,

lương thực , thực phẩm ... hoặc ở dạng vơ hình như những dịch vụ thương mại , vận tải
hay dịch vụ của giáo viên , bác sĩ và nghệ sĩ ... Hàng hố có hai thuộc tính : giá trị sử
dụng và giá trị .
Muốn hiểu được giá trị của hàng hoá phải đi từ giá trị trao đổi . Giá trị
trao
đổi
là một quan hệ về số lượng , là tỷ lệ theo đó một lượng giá trị sử dụng này đổi được
với một lượng giá trị sử dụng khác .
-

Như vậy , giá trị của hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất hàng

hố
kết tinh trong hàng hố . Cịn giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của
giá trị , giá trị là nội dung , là cơ sở của giá trị trao đổi . Đồng thời , giá trị biểu hiện
mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hố . Chính vì vậy , giá trị là một phạm
trù lịch sử , chỉ tồn tại trong kinh tế hàng hoá .
Vậy lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động tiêu hao để làm ra hàng
hóa
đó quyết định và được đo bằng đơn vị thời gian như : ngày , giờ , tuần , tháng , năm .
Lượng giá trị của hàng hóa khơng phải tính bằng thời gian lao động cá biệt mà tính
bằng thời gian lao động xã hội cần thiết .
-

Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần thiết để sản
xuất
ra
một hàng hóa nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với một
trình độ trang thiết bị trung bình , với một trình độ thành thạo trung bình và một cường
độ lao động trung bình trong xã hội đó .



Thời gian lao động xã hội cần thiết hình thành tự phát trên thị trường do cạnh
tranh
,
thường là do thời gian trung bình của người sản xuất và cung cấp đại bộ phận hàng hóa
cho thị trường .
Chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết , hay thời gian lao động xã hội cần thiết
để
sản
xuất ra một hàng hóa , mới quyết định đại lượng giá trị cá biệt của hàng hóa .
1.3.2. Tính chất :
Về bản chất , thời gian lao động xã hội cần thiết chính là mức hao phí lao động

hội
trung bình ( thời gian lao động xã hội trung bình ) để sản xuất ra hàng hóa . Thơng
thường thời gian lao động xã hội cần thiết gần sát với thời gian lao động cá biệt ( mức
hao phí lao động cá biệt ) của người sản xuất hàng hóa nào cung cấp đại bộ phận hàng
hóa đó trên thị trường
Thời gian lao động xã hội cần thiết là một đại lượng không cố định vì rằng trình
độ
thành thạo trung bình , cường độ lao động trung bình , điều kiện trang bị kỹ thuật trung
bình của xã hội ở mỗi nước khác nhau là khác nhau ( có nước phát triển , có nước
chậm phát triển ) và thay đổi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất . Khi thời gian
lao động xã hội cần thiết thay đổi ( cao hay thấp ) thì lượng giá trị của hàng hóa cũng
sẽ thay đổi .
1.3.3. Ý nghĩa :
Khái niệm này dùng để bổ sung , giải thích cho khái niệm giá trị của hàng hóa .
Theo
đó , giá trị của hàng hóa là do lao động xã hội , lao động trừu tượng của người sản xuất

hàng hóa kết tinh trong hàng hóa . Và lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng lượng
lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa đó và lượng lao động tiêu hao ấy được tính
bằng thời gian lao động .
Như vậy , việc dùng đại lượng thời gian lao động để đo giá trị của sản phẩm ,
hàng
hóa
có thể dẫn đến mâu thuẫn và gây ngộ nhận rằng người sản xuất ra hàng hóa hay người
lao động càng làm biếng hay càng vụng về bao nhiêu thì lượng giá trị hàng hóa của
anh ta lại càng lớn bấy nhiêu , vì anh ta càng phải dùng nhiều thời gian hơn để sản xuất


-

ra hàng hóa đó . Như vậy sẽ dẫn đến trường hợp một người làm việc
chậm
chạp
,


, làm việc mất thời gian thì hàng hóa của anh ta tạo ra sẽ có giá trị lớn .

Chính vì vậy , Các Mác mới đưa ra khái niệm lao động xã hội cần thiết để giải
thích
cụ thể , theo đó lao động tạo thành thực thể của giá trị là thứ lao động giống nhau của
con người và là chi phí của cùng một sức lao động của con người cho nên nó có tính
chất của một sức lao động xã hội trung bình . Do đó , để sản xuất ra một hàng hóa nhất
định , chỉ cần dung một thời gian lao động trung bình lao động cần thiết hoặc “thời
gian lao động xã hội cần thiết”.
-


1.4: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa

Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của hàng
hoá
cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi lượng giá trị của hàng hoá tùy thuộc
vào 3 yếu tố là:


Năng suất lao động



Cường độ lao động



Mức độ phức tạp của lao động

1.4.1. Năng suất lao động:
- + Khái niệm: Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, nó được
tính
bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đon vị thời gian hoặc số lượng thời gian
cần thiết để sản xuất ra một đon vị sản phẩm.
+ Có hai loại năng suất lao động: năng suất lao động cá biệt và năng suất lao
động

hội nhưng chỉ có năng suất lao động xã hội có ảnh hưởng đến giá trị xã hội của hàng
hóa vì trên thị trường, hàng hóa được trao đổi khơng phải theo giá trị cá biệt mà theo
giá trị xã hội.
- + Năng suất lao động lại tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố như: trình độ khéo léo của

người lao động, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật và trình độ ứng dụng tiến bộ kỹ
thuật vào sản xuất, sự kết hợp xã hội của sản xuất, hiệu quả của tư liệu sản xuất và các
điều kiện tự nhiên.


+ Ảnh hưởng của năng suất lao động tới lượng giá trị của hàng hóa: năng suất
lao
động xã hội càng tăng, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá càng
giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít. Ngược lại năng suất lao động xã
hội càng giảm, thì thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá càng
tăng và lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng nhiều. Lượng giá trị của một đơn
vị hàng hoá tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch với năng xuất lao
động xã hội. Như vậy, muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng hố xuống, thì ta phải
tăng năng suất lao lộng xã hội.
-

>> Kết luận:

Sự thay đổi của năng suất lao động tác động theo tỷ lệ nghịch đến lượng giá trị
của
một đơn vị hàng hóa nhưng khơng tác động đến tổng lượng giá trị của tổng số hàng
hóa được sản xuất ra trong cùng một đơn vị thời gian.
-

>> Liên hệ:

Trong kinh tế thị trường, cạnh tranh về giá cả là quan trọng nhất. Để cạnh tranh
về
giá
cả với nhà sản xuất khác thì phải tăng năng suất lao động cá biệt vì nó làm giảm lượng

giá trị cá biệt của một đơn vị hàng hoá xuống thấp hơn lượng giá trị xã hội của nó lớn
hơn giá cả bán hàng hóa có thể rẻ hơn của người khác mà vẫn thu lợi nhuận ngang,
thậm chí cao hơn.
1.4.2. Cường độ lao động:
+ Khái niệm: Cường độ lao động là đại lượng chỉ mức độ hao phí sức lao động
trong
một đơn vị thời gian, nếu cường độ lao động tăng lên thì số lượng hàng hóa sản xuất ra
sẽ tăng lên, đồng thời sức hao phí lao động để sản xuất ra lượng hàng hóa đó cũng tăng
lên, vì vậy mà giá trị của một đơn vị hàng hóa cũng khơng đổi.
+ Bên cạnh đó, tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động đều dẫn đến
lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian lao động tăng lên.
-

Két luận:


Như vậy, sự thay đổi của cường độ lao động khơng tác động đến lượng giá trị
của
một
đơn vị hàng hóa nhưng nó tác động theo tỷ lệ thuận đến tổng lượng giá trị của tổng số
hàng hóa được sản xuất ra trong cùng một đơn vị thời gian.
>> Liên hệ: Một người lao động trong một ngày sản xuất ra 15 sản phẩm có
tổng
giá
trị là 60 USD, như vậy giá trị của 1 sản phẩm là 4 USD. Khi năng suất lao động tăng
lên 2 lần thì giá trị 1 sản phẩm sẽ giảm đi 2 lần, là 2 USD. Đồng thời số lượng sản
phẩm sản xuất ra cũng tăng lên 2 lần, là 30 sản phẩm, nên giá trị tổng sản phẩm làm ra
trong 1 ngày vẫn là 60 USD. Khi cường độ lao động tăng lên 1,5 lần thì giá trị 1 sản
phẩm vẫn giữ nguyên là 4 USD. Đồng thời số lượng sản xuất ra cũng tăng lên 1,5 lần
là 22,5 sản phẩm, nên giá trị tổng sản phẩm làm ra trong 1 ngày là 90 USD

-

^ Trong thực tế sản xuất hàng hoá TBCN, việc các nhà tư bản áp dụng tăng

cường độ lao động đối với người làm thuê (trong khi không trả công tương
xứng) không nhằm làm giảm lượng giá trị của 1 đơn vị hàng hố, khơng tạo ra
khả năng cạnh tranh về giá mà là nhằm tăng mức độ lao động làm thuê.
-

+ Cường độ lao động phụ thuộc theo chiều thuận vào:
1. Thể chất, tinh thần, kỹ năng, tay nghề, ý thức của người lao động.
2. Trình độ tổ chức quản lý.
3. Quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất.

1.4.3. Mức độ phức tạp của lao động:
- Theo đó, ta có thể chia lao động thành hai loại là lao động giản đơn và lao động
phức tạp.
+ Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một người lao động bình thường nào
khơng cần phải trải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được.
+ Cịn lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện
thành
lao
động chuyên môn lành nghề nhất định mới có thể thực hiện được.
+ Trong cùng một thời gian lao động thì lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị
hơn
lao động giản đơn bởi vì thực chất lao động phức tạp là lao động giản đơn được nhân


-


lên. Trong quá trinh trao đổi mua bán, lao động phức tạp được quy
đổi
thành
lao
động
giản đon trung bình một cách tự phát

- >> Ảnh hưởng theo tỷ lệ thuận đến lượng giá trị của một đon vị hàng hóa và
tổng
lượng giá trị của tổng số hàng hóa được sản xuất ra trong cùng 1 đon vị thời gian


2. Vận dụng
-

2.1 Thực trạng sản xuất và tiêu thụ cà phê ở nước ta hiện nay.

Cây cà phê đến nước ta theo côn đường truyền đạo công giáo, xuất hiện đầu tiên
ở hai
tỉnh là Quảng Bình và Quảng Trị và dần lan rộng ra các tỉnh khác. Trải qua hơn 100
năm thăng trầm, cà phê ngày càng khẳng định vị trí và giá trị của mình trong nền nơng
nghiệp Việt Nam.
a. Sản xuất
Nhờ vào điều kiện tự nhiên thuận lợi, khí hậu thích hợp, cà phê ngày càng được
sản
xuất nhiều ở nước ta, trở thành mặt hàng thương mại lớn của đất nước, đem lại nguồn
ngoại tệ lớn cho nền kinh tế. Nước ta cũng trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai
thế giới.
Tổng diện tích bao phủ bởi canh tác cà phê ước tính khoảng 600.000ha, với các
tỉnh

trồng cà phê chính nằm ở Tây Nguyên, bao gồm Đăk Lăk (190.000 ha), Lâm Đồng
(162.000 ha), Đăk Nông (135.000 ha), Gia Lai (82.000 ha) ) và Kon Tum (13.500 ha).
Hiện nay, cả nước có 97 cơ sở chế biến cà phê nhân, 160 cơ sở chế biến cà phê
rang
xay, 8 cơ sở chế biến cà phê hòa tan và 11 cơ sở chế biến cà phê phối trộn. Cụ thể,
gồm có: 97 cơ sở chế biến cà phê nhân - với tổng công suất thiết kế 1,503 triệu tấn,
tổng công suất thực tế đạt 83,6%; 160 cơ sở chế biến cà phê rang xay - tổng công suất
thiết kế 51,7 nghìn tấn sản phẩm/năm; 8 cơ sở chế biến cà phê hịa tan - tổng cơng suất
thiết kế 36,5 nghìn tấn sản phẩm/năm, tổng cơng suất thực tế đạt 97,9%; 11 cơ sở chế
biến cà phê phối trộn - tổng cơng suất thiết kế 139,9 nghìn tấn sản phẩm/năm, tổng
công suất thực tế đạt 81,6%. Cà phê bột của Trung Ngun, cà phê hịa tan của
Vinace,... khơng những chiếm lĩnh được thị trường trong nước mà còn được hoan
nghênh ở nhiều thị trường trong khu vực, đồng thời đã bước đầu xây dựng được
thương hiệu cà phê Việt.
Hiện nay, ngành cà phê Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức
nghiêm
trọng như biến đổi khí hậu; cạnh tranh từ các loại cây trồng khác; cần tái canh những
cây cà phê già cỗi; chi phí sản xuất đang tăng cao hơn trong khi giá cà phê thế giới
đang ở mức rất thấp. Do cạnh tranh khốc liệt, chính sách sản xuất cà phê của Việt Nam

14


đã chuyển sang một kỷ nguyên mới với hai mục tiêu: thứ nhất là duy trì vị thế là
nhà
sản xuất và xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới; thứ hai, để tăng gấp đôi giá trị gia
tăng trong sản xuất cà phê bằng cách tăng năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng.
-

b. Tiêu thụ


Thị trường cà phê Việt Nam được chia thành 2 phân khúc rõ ràng. Cà phê rang
xay (cà
phê phin) chiếm khoảng 2/3 lượng cà phê được tiêu thụ; còn lại là cà phê hòa tan.
Theo nghiên cứu của Học viện Marketing Ứng dụng I.A.M về thói quen sử dụng cà
phê, 65% người tiêu dùng có sử dụng cà phê Việt Nam uống cà phê 7 lần/tuần,
nghiêng về nam giới (59%). Riêng cà phê hịa tan có 21% người tiêu dùng sử dụng cà
phê hòa tan từ 3 đến 4 lần trong tuần, nghiêng về nhóm người tiêu dùng là nữ (52%).
Sức tiêu thụ cà phê Việt Nam còn khá thấp Việt Nam sử dụng chừng 5% cà phê thô để
chế biến, trong khi đó tỷ lệ này của Brazil là 50%. Việt Nam có 5 nhãn hiệu cà phê hịa
tan, Brazil có 20 nhãn hiệu. Về cà phê rang xay, thì Việt Nam có 20 nhãn hiệu, trong
khi đó số lượng của Brazil là 3.000 nhãn hiệu.
Điều này cho thấy Việt Nam vẫn đang là một nước với mức tiêu thụ cà phê rất
thấp so
với lượng sản xuất ra.
2.2 Vai trò của ngành cà phê trong nền kinh tế nước ta
-

Đối với nền kinh tế, xã hội và môi trường.

- Xuất khẩu cà phê mỗi năm đem về cho nền kinh tế chúng ta một lượng ngoại tệ lớn,
khoảng 500 triệu USD. Xuất khẩu cà phê góp phần khơng nhỏ vào việc thực hiện mục
tiêu của chiến lược xuất nhập khẩu nói riêng và mục tiêu phát triển chiến lược kinh tế
xã hội nói chung của đất nước. Mặt khác xuất khẩu cà phê cịn góp phần giúp tạo vốn
cho đầu tư máy móc trang thiết bị cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nền
kinh tế.
- Là một ngành sử dụng nhiều lao động, xuất khẩu cà phê góp phần tạo ra nhiều công
ăn việc làm, giúp giải quyết vấn đề thất nghiệp cho nền kinh tế. Theo Hiệp hội cà phê
ca cao Việt Nam (Vicofa) thì mỗi năm ngành cà phê thu hút khoảng 600.000 700.000 lao động, thậm chí trong ba tháng thu hoạch số lao động có thể lên tới
800.000 lao động. Lao động làm việc trong ngành cà phê chiếm khoảng 2,93% tổng số


1
5


- lao động trong ngành nông nghiệp và chiếm 1,83% tổng số lao động trên
toàn nền kinh
tế quốc dân.

- Mặt khác khi xác định cà phê là mặt hàng xuất khẩu chủ lực thì sẽ giúp Nhà nước
hoạch định các chính sách như đầu tư, quy hoạch vùng một cách có trọng điểm, hợp
lý, tiết kiệm và có hiệu quả cao trong phát triển kinh tế.
- Cà phê không chỉ là cây có giá trị kinh tế cao, mà trồng cà phê còn giúp thực hiện
phủ xanh đất trống đồi núi trọc, bảo vệ mơi trường sinh thái. Vì cây cà phê thích hợp
với những vùng đất đồi, đặc biệt là cây cà phê Robusta.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất, chế biến xuất khẩu cà phê
- Xuất khẩu cà phê giúp các doanh nghiệp có thêm lợi nhuận, thu được ngoại tệ để
đầu
tư mua máy móc thiết bị mở rộng và nâng cao sản xuất từ đó tăng lợi nhuận và hiệu
quả trong hoạt động của mình.
- Tham gia kinh doanh xuất khẩu cà phê giúp các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp chuyên doanh về cà phê nâng cao được uy tín hình ảnh của đơn vị trong con
mắt các bạn hàng và trên thị trường thế giới từ đó tạo ra cho doanh nghiệp lợi thế cạnh
tranh để nâng cao hiệu quả hoạt động mở rộng thị trường tăng thị phần và lợi nhuận.
- Với những doanh nghiệp kinh doanh tổng hợp, việc kinh doanh xuất khẩu cà phê
giúp doanh nghiệp có thêm mặt hàng để lựa chọn trong kinh doanh, từ đó lựa chọn
được mặt hàng kinh doanh có hiệu quả tăng lợi nhuận uy tín.
Với người sản xuất cà phê
- Cà phê là sản phẩm trong nước có nhu cầu khơng cao do thói quen tiêu dùng của
người Châu Á nói chung và người Việt Nam nói riêng thích uống trà hơn cà phê. Vì

vậy xuất khẩu cà phê sẽ tìm được đầu ra cho sản phẩm của người nông dân trồng cà
phê, giúp họ tiêu thụ được sản phẩm của mình và có thu nhập.
- Cà phê là một cây trồng rất thích hợp với điều kiện thời tiết và thổ nhưỡng của Việt
Nam, đặc biệt là vùng Tây Nguyên và vùng Đông Nam Bộ. Cà phê là một loại cây có
giá trị kinh tế cao nên việc xuất khẩu cà phê sẽ giúp người nơng dân trồng cà phê làm
giàu trên chính mảnh đất của mình.

1
6


- Ngoài ra việc trồng cà phê xuất khẩu giúp họ giải tạo ra việc làm cho người
nhà
trong thời buổi nơng nhàn. Bên cạnh đó việc xuất khẩu cà phê cịn giúp cho người
nơng dân trồng cà phê được Nhà nước cũng như doanh nghiệp đầu tư vật tư, giống và
kỹ thuật chăm sóc sẽ làm cho họ nâng cao năng xuất lao động, cây trồng và chất lượng
sản phẩm qua đó tăng thu nhập cho chính họ.

1
7


2.3. Thuận lợi và khó khăn trong sản xuất café
2.3.1. Thuận lợi:
Hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam phụ thuộc vào nhiều yếu tố như :
nguồn
cung cà phê, thị trường, cầu cà phê thế giới.
Ngành cà phê Việt Nam đã có nhiều bước tiến đáng kể. Năm 1991 chỉ đạt 1%
thị
phần

thế giới thì đến niên vụ 2015 - 2016 đã tăng lên trên 19%. Hiện nay, Việt Nam
là nơi đang cung cấp tới trên 40% lượng cà phê trên thế giới.
- Khi gia nhập WTO Việt Nam có nhiều cơ hội phát triển. Được hưởng sự bình
đẳng như các nước xuất khẩu khác, các rào cản xuất khẩu được gỡ bỏ, cơ hội thị
trường mở rộng, có điều kiện tiếp nhận các công nghệ sản xuất mới.
- Người dân đã nhanh nhạy trong việc nắm bắt thị trường, khá am hiểu quy luật
cung cầu của thị trường thế giới để chủ động lượng cà phê bán ra nhằm hạn chế rủi ro.
cà phê vẫn được coi là một trong những cây trồng chiến lược trong quá trình phát triển
nền nơng nghiệp hàng hố ở Việt Nam, xố đói giảm nghèo và làm giàu cho người
nông dân.
- Điều kiện khí hậu ở Việt Nam rất thích hợp cho sự phá triển của cây cà phê, tạo
cho cà phê của chúng ta một hương vị rất riêng. Bên cạnh đó, đất đỏ bazan là điều kiện
quan trọng để cây cà phê phát triển tốt. Trong đó phổ biến ở Tây Ngun và Đơng
Nam Bộ với diện tích hàng ngàn hecta.
2.3.2. Khó khăn:
- Cũng như nhiều loại cây trồng khác thì việc sản xuất cà phê cũng phụ thuộc lớn
vào điều kiện thời tiết, gặp năm thời tiết không thuận lợi thì khơng thể đảm bảo đủ
lượng cà phê xuất khẩu, khó duy trì mức sản lượng xuất khẩu ổn định. Tuy nhiên năm
được mùa thì cà phê xuất khẩu lại phải đối mặt với một thực trạng là giá cà phê xuống
thấp do cung lớn hơn cầu.


-

Diện tích cà phê già cỗi ngày càng tăng

-

Chất lượng cà phê nhân cịn thấp. các cơng ty cà phê chưa chứng nhận hoặc có


nhu cầu mở rộng chứng nhận, diện tích trồng cà phê, nơng dân trồng cà phê chưa
chứng nhận vẫn còn nhiều.
-

Sử dụng nước tưới chưa hợp lý
Tác động của biến đổi khí hậu
Thị trường khơng ổn định, giá cà phê thấp đã tác động nhiều đến sản xuất cà
phê bền vững.
Nông dân nhỏ lẻ, phân tán hoặc không đồng nhất
Cung cầu chưa cân đối
Một vấn đề khác mà ngành cà phê đang phải đối mặt là sự cạnh tranh từ các cây

trồng khác có giá trị cao hơn. Nhiều cây trồng có giá trị cao hơn, như hồ tiêu, sầu
riêng, bơ, chanh dây, ... đang lấn đất cà phê, nhất là sau khi Chính phủ đã lệnh đóng
cửa rừng. Trong đó, hồ tiêu là nguy cơ lớn nhất đối với cà phê hiện nay. Ngành hồ tiêu
theo quy hoạch đến năm 2020 sẽ đạt diện tích là 50.000 ha, nhưng đến nay đã tăng lên
100.000 ha.
-

Hiện nay, các mục tiêu đề ra đối với ngành cà phê Việt Nam trong những năm

tới chưa được đặt chung trong bối cảnh phát triển chung của ngành nông nghiệp cũng
như ngành kinh tế Việt Nam. Các chính sách do các cơ quan chức năng ban hành cịn
thiếu tính linh hoạt.
- • Báo Dân kinh tế cho rằng:
“- Hệ thống kiểm tra, giám sát tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm cịn yếu kém và
lạc
hậu. Các nước có mức tiêu thụ cà phê lớn coi trọng vấn đề kiểm tra và giám sát chất
lượng, xuất xứ và thương hiệu của hàng hoá, trong khi ở Việt Nam hoạt động này chưa
được chú trọng đối với ngành cà phê từ sản xuất đến xuất khẩu. Hiện tượng bán hàng

giả dưới tên các thương hiệu cà phê nổi tiếng có xu hướng tăng lên trong thời gian gần
đây. Điều này tạo nên những bất lợi đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp nhỏ do chi phí để bảo vệ thương hiệu hàng hoá vượt quá sức của họ.


- Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chỉ thực sự thực hiện các giao dịch kinh tế quốc
tế trong khoảng hon 10 năm trở lại đây. Do đó, nhiều chủ doanh nghiệp thiếu những
kỹ năng co bản khai thác, xử lý tin tức và đàm phán thưong mại. Hon nữa, sự phát
triển rầm rộ của các doanh nghiệp tham gia chế biến và xuất khẩu cà phê chủ yếu trong
giai đoạn giá cà phê thế giới cao nên những kỹ năng này chưa được chú trọng đúng
mức.
- Gia nhập WTO sự cạnh tranh đang diễn ra rất gay gắt. Các doanh nghiệp nước ngồi
có ưu thế lớn về vốn và công nghệ, nên đầu tư xây dựng những khu chế biến cà phê
nhân xuất khẩu chất lượng cao rất hoàn chỉnh và đồng bộ. Trong thời gian tới, tỷ trọng
này sẽ tăng lên nhanh do họ có ưu thế vượt trội về vốn, trình độ năng lực quản lý, kinh
nghiệm, thị trường và mạng lưới khách hàng. Lúc đó, các doanh nghiệp làm ăn không
hiệu quả, không cạnh tranh được sẽ bị giải thể phá sản hay trở thành đại lý thu mua,
gom hàng cho các doanh nghiệp nước ngồi.
- Uy tín của cà phê Việt Nam đang bị giảm sút nghiêm trọng. Chất lượng cà phê Việt
Nam chưa đảm bảo yêu cầu chất lượng, Việt Nam chưa có tên trong số 25 nước đang
tự nguyện ghi lên chứng chỉ xuất xứ về chất lượng cà phê xuất khẩu của mình. Hiện
nay, phần lớn DN chế biến trong nước vẫn xuất khẩu chủ yếu cà phê được phân loại
theo tiêu chuẩn cũ (TCVN 4193-93), với các chỉ tiêu so đẳng là phần trăm lượng ẩm,
tỷ lệ hạt vỡ và tạp chất. Tiêu chuẩn mới (TCVN 4193:2005) đã được ICO coi là văn
bản chuẩn để phân loại cà phê lại chưa được áp dụng.
- Phát triển diện tích cà phê ồ ạt, không theo qui hoạch, kế hoạch này đã nằm ngồi
tầm kiểm sốt của các cấp chính quyền, các co quan chức năng. Đặc biệt, nghiêm
trọng hon, phần lớn diện tích cà phê mới phát triển sau này đều được trồng ở những
vùng khơng có, hoặc thiếu nguồn nước tưới, đất trồng cà phê không đủ tiêu chuẩn
(nghèo dinh dưỡng, tầng đất mỏng, đất dốc). Vi phạm các qui trình kỹ thuật trồng,

chăm sóc ngay từ khâu khai hoang, làm đất, cây trồng xen che phủ.. .Việc tăng nhanh
diện tích cà phê này khơng những khơng mang lại hiệu quả kinh tế mà còn ảnh hưởng
xấu đến tài nguyên môi trường.”


2.4. Các giải pháp tổng thể để thúc đẩy phát triển sản xuất cà phê Việt Nam
-

Tổng quan một số chính sách quan trọng của ngành hàng cà phê Việt Nam

- Chính sách định hướng chung, nhằm định hướng cho ngành hàng cà phê Việt
Nam tăng khả năng cạnh tranh, phát triển bền vững theo hướng nâng cao giá trị
gia
tăng. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phê duyệt Quy hoạch phát triển
ngành hàng cà phê Việt Nam đến 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, Đề án Nâng cao
GTGT hàng NLTS trong CB và giảm tổn thất sau thu hoạch (13/5/2014); Đề án phát
triển cà phê bền vững đến 2020 - Bộ NN&PTNT (1/8/2014); Đề án tái canh cà phê
Tây Nguyên 2014-2020 - Bộ NN&PTNT (21/10/2014). Chính phủ cũng đã phê duyệt
Đề án Tái cơ cấu ngành nơng nghiệp ngày 10/6/2013, trong đó cà phê là mặt hàng
chiến lược cần đẩy mạnh trong các hoạt động tái cơ cấu.
Đề án phát triển cà phê bền vững đến 2020: Diện tích khoảng 600 ngàn ha (80%
diện
tích bền vững), Năng suất đạt 2,7 tấn/ha, sản lượng 1,6 triệu tấn/năm; Giá trị sản
lượng/1 ha trung bình khoảng 120 triệu đồng, tỷ lệ cà phê chế biến ướt đạt 30%, tỷ lệ
hòa tan, rang xay chiếm 25% sản lượng và kim ngạch xuất khẩu đạt 3,8 - 4,2 tỷ
USD/năm
Quy hoạch phát triển ngành hàng cà phê Việt Nam đến 2020 và tầm nhìn đến
năm
2030: Diện tích 2020 là khoảng 500 ngàn ha, đến năm 2030 là 477 ngàn ha, sản lượng
2020 là 1,1 triệu tấn, Công suất chế biến đến 2020 là 125.000 tấn, và năm 2030 là

135.000 tấn, kim ngạch xuất khẩu 2020 đạt 2,1-2,2 tỷ USD và 2030 sẽ trên 2,2 tỷ
USD.
- về chính sách hỗ trợ sản xuất, chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ hoạt
động sản xuất cà phê, cụ thể là hoạt động tái canh cà phê trong 2 năm gần đây như:
quy trình tái canh cà phê vối theo Quyết định số 273/QĐ-TT-CCN ngày 03/7/2013, Bộ
NN và PTNT đã phê duyệt định mức kinh tế kỹ thuật trồng tái canh cà phê vối (Quyết
định 340/QĐ-BNN-TT ngày 23 tháng 02 năm 2013), NHNN dành sẵn gói tín dụng
12.000 tỷ đồng hỗ trợ cho 5 tỉnh Tây Nguyên phục vụ chương trình tái canh cà phê;
Bộ nông nghiệp chỉ đạo thành lập ban chỉ đạo tái canh cà phê (Quyết định số
2927/QĐ-BNN-TCCB ngày 11/12/2013). Ban hành đề án tái canh cà phê các tỉnh


-

vùng Tây Nguyên giai đoạn 2014-2020. Thủ tướng Chính phủ tại văn

bản

số

1685/VPCP-KTTH ngày 12/3/2015 của Văn phịng Chính phủ về việc cho vay
tái
canh và phê tại các tỉnh khu vực Tây Nguyên. Mới đây, Thống đốc Ngân
hàng

Nhà

nước (NHNN) Việt Nam vừa ban hành Công văn số 3227/NHNN-TD hướng
dẫn


Ngân

hàng Nông nghiệp và Phát triển nơng thơn Việt Nam triển khai chính sách
cho

vay

tái

canh cà phê tại các tỉnh khu vực Tây Nguyên giai đoạn 2014 - 2020 và
Công

văn

số

3228/NHNN-TD về việc triển khai chính sách cho vay tái canh cà phê tại các
tỉnh

khu

vực Tây Nguyên giai đoạn 2014 - 2020.

-

- Bên cạnh các chính sách hỗ trợ tái cơ cấu, chính phủ cũng đưa ra nhiều chính
sách hỗ trợ đầu vào (thủy lợi phí, giống, phân bón...) như: Nghị quyết số
55/2010/QH12 miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp (SDĐNN), kèm theo Nghị
định số 20/2011/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Nghị quyết số
55/2010/QH12; Nghị định số 67/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị

định số 143/2003/NĐ-CP có đề cập đến miễn thủy lợi phí cho các hộ gia đình, cá nhân
có đất, mặt nước dùng vào sản xuất nông nghiệp; Thông tư số 41/2013/TT-BTC hướng
dẫn thi hành môt số điều của Nghị định số 67/2012/NĐ-CP ngày 10/9/2012 sửa đổi, bổ
sung môt số điều của Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003.
Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 hướng dẫn thi hành một số
điều
của
Luật Thuế GTGT, Thông tư số 219/2013/TT- BTC hướng dẫn thi hành nghị định
nhằm giảm thuế giá trị gia tăng đối với các đầu vào then chốt cho sản xuất nơng
nghiệp như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, chất kích thích tăng trưởng, thức ăn chăn
ni và thủy sản xuống 5%; Thông tư số 02/VBHN-BCT ngày 23/01/2014 của Bô
Công thương thay thế cho Thông tư số 07/2004/TT-BTM ngày 26/08/2004 của Bộ
Thương mại miễn thuế nhập khẩu đối với các loại nguyên liệu sản xuất, vật tư nhập
khẩu phục vụ nuôi trồng nông, lâm, thủy sản, làm muối, sản xuất giống nhân tạo,
giống cây trồng và giống vật nuôi mới nhập khẩu.
Nhằm hướng đến nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh

phê
gắn với phát triển bền vững, Nhà nước cũng đưa ra nhiều hỗ trợ cho việc sản xuất theo
tiêu chuẩn VGAP, GAP như Sản xuất theo tiêu chuẩn như UTZ, 4C, GAP... theo
(Thông tư 75/2009/TT-BNNPTNT quy chuẩn ATVSTP trong sản xuất nông sản,


-

Quyết định 86/2007/QĐ-BNN, tiêu chuẩn quốc gia TCVN 4193:2005
trong
kiểm
tra
chất lượng cà phê nhân xuất khẩu. Thông tư 03/2010/TT-BNNPTNT tiêu

chuẩn
kỹ
thuật quốc gia TCVN 4193:2005 đối với cà phê nhân. Quyết định 1415/QĐBKHCN,
ngày 12/6/2014 về TCVN 4193:2014 cà phê nhân. Quyết định 01/2012/QĐTTg
về
chính sách hỗ trợ việc áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp
tốt
trong
nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản do Thủ tướng Chính phủ ban hành,
Chỉ
thị
1311/CT-BNN-TT năm 2012 đẩy mạnh ứng dụng Thực hành nông nghiệp tốt
(GAP)
trong sản xuất trồng trọt do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban
hành,
Thông
tư 54/2014/TT-BNNPTNT, Thông tư liên tịch 42/2013/TTLT-BNNPTNT-BTCBKHĐT, Thông tư 53/2012/TT-BNNPTNT liên quan tới sản xuất theo GAP
trong
nơng nghiệp).

Chính sách đổi mới thể chế là một trong những ưu tiên của Chính phủ trong
những
năm vừa qua và cũng đã góp phần rất lớn cho sự phát triển bền vững của ngành cà phê.
Một số công việc đã làm được như: (1) Thành lập Ban điều phối ngành hàng cà phê
Việt Nam (Quyết định 1729/QĐ-BNN-TCCB ngày 30/7/2013); (2) Thành lập Chi hội
người SX cà phê các tỉnh; (3) Cơ cấu lại DN nhà nước, nâng cao năng lực cạnh tranh
DN trong nước; (4) Tư vấn xây dựng mới, củng cố mơ hình HTX cà phê Tây Ngun
(Quyết định 710/QĐ-BNN-KTHT, ngày 10/4/2014 và 1443/QĐ-BNN 27/6/2014); (5)
Thí điểm PPP trong sản xuất giống, thủy lợi, chế biến; (6) Nghiên cứu chọn tạo, ứng
dụng giống, hệ thống tưới tiết kiệm, Nghiên cứu bản đồ hiện trạng và nguyên nhân gây

chết trong tái canh, Nghiên cứu xây dựng quy trình tái canh, quy trình thâm canh theo
GAP (Quyết định 986/QĐ-BNN-KHCN, ngày 09/05/2014 về thúc đẩy nghiên cứu và
ứng dụng KHCN cho Tái cơ cấu nông nghiệp).
Về mục tiêu giảm tốn thất sau thu hoạch và gia tăng giá trị , Chính phủ cũng ra
đã
các
chính sách như Quyết định 68/2013/QĐ-TTg 14/11/2013,Thông tư 13/2014/TTNHNN, Thông tư 08/2014/TT-BNNPTNT hỗ trợ giảm tổn thất NN, Đề án nâng cao
GTGT hàng NLTS trong CB và giảm tổn thất sau thu hoạch (13/5/2014). Hỗ trợ nhằm
giảm tổn thất sau thu hoạch theo (Quyết định 497/2009/QĐ-TTg và 2213/2009/QĐTTg, Thông tư 09/2009/TT-NHNN, Thông tư 02/2010/TT-NHNN, Quyết định
329/2010/QĐ-NHNN về hỗ trợ lãi suất mua máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất.


-

Thông tư 188/2012/TT-BTC, Thông tư 89/2014/TT-BTC hỗ trợ lãi suất
vay
vốn
thực
hiện chính sách giảm tổn thất sau thu hoạch).

-

Về chính sách thương mại, hoạt động chế biến thương mại trong những năm
qua
cũng đang rất được quan tâm. Nhiều chính sách hỗ trợ như: hỗ trợ 3 tỷ/dự án
cho
các
dự án chế biến để xây dựng CSHT giao thông, điện, nước, nhà xưởng, xử lý chất thải,
mua thiết bị; Gia hạn thời gian vay vốn lên tối đa 36 tháng cho xuất khẩu cà phê; Hỗ
trợ cho vay mua máy móc, thiết bị giảm tổn thất sau thu hoạch tối đa 100% giá trị,

100% lãi suất 2 năm đầu và 50% năm thứ 3; Bỏ thuế VAT 5% đối với một số mặt
hàng trong đó có cà phê; Quản lý hệ thống thu mua; Nâng cao công nghệ sơ chế; Xây
dựng hệ thống tiêu thụ cà phê hiện đại (sàn giao dịch cà phê), phát triển thị trường
trong nước; Đẩy mạnh thông tin, dự báo ngành hàng, XTTMMột số chính sách điển
hình như Nghị định 210/2013/NĐ-CP về Khuyến khích DN đầu tư vào nông nghiệp
nông thôn, Nghị định 209/2013/NĐ-CP quy định, hướng dẫn thi hành 1 số điều của
luật thuế GTGT, Nghị định 133/2013/NĐ-CP về sửa đổi NĐ 54/2013/NĐ-CP về đầu
tư và tín dụng XK, Quyết định 57/2010/QĐ-TTg miễn thuế thuê đất với dự án xây
dựng kho tạm trữ nông sản (cà phê), Quyết định 3848/2010/QĐ-BCT cung cấp thông
tin thị trường phục vụ tiêu thụ nông sản, Đề án phát triển cà phê bền vững đến 2020.
Về xúc tiến thương mại, ngày 30/9/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết
định 1684/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược Hội nhập kinh tế Quốc tế ngành Nông
nghiệp và PTNT”, tập trung vào các ngành hàng nông sản lớn gồm lúa gạo, rau quả,
thủy sản, cà phê, chè, cao su, điều, hồ tiêu, gỗ và các sản phẩm từ gỗ, chăn ni...
trong đó có đề cập đến các giải pháp chung và cụ thể thúc đẩy phát triển thị trường
chính của các ngành hàng này.
- Về chính sách về liên kết sản xuất, để tăng cường mối liên kết giữa doanh
nghiệp
và nơng dân, tháng 10/2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
62/2013/QĐ-TTg về chính sách phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ
nông sản, xây dựng cánh đồng lớn. Quyết định này quy định một số chính sách ưu đãi


×